MỘT CÁCH TIẾP CẬN THƠ THIỀN

Một cách tiếp cận thơ Thiền

Bùi Công Thuấn

 hinh-nen-thu-phap-cho-dien-thoai-15

                                                                                                   

 

Thơ ca dân tộc có một bộ phận thơ Thiền đặc sắc. Nhiều bài thơ cuả các Thiền sư từ  thời Lý (1010-1225 )-Trần (1225-1400) vẫn còn được truyền tụng  đến ngày nay, bởi vì nó chưá đựng vẻ đẹp tư tưởng và nghệ thuật rất riêng. Ảnh hưởng Thiền khá rõ trong suốt tiến trình thơ ca dân tộc. Ngày nay vẫn có những nhà thơ Việt Nam tiếp tục tiến trình ấy. Nhưng đọc thơ Thiền không dễ, cần một cách tiếp cận khác với cách đọc thơ thế tục. Bài viết này xin thử đề xuất một con đường đến với thơ Thiền, thay cho cách đọc cảm tính lâu nay.

  1. Kệ và Thơ Thiền

              Kệ là một hình thức văn chương nghi lễ cuả Phật giáo, như Kệ dâng hương, Kệ dâng hoa, Kệ vô thường buổi sớm… Các Thiền sư thường làm kệ “thị tịch “ để căn dặn đệ tử trước lúc qua đời. Tiểu truyện về các Thiền sư thường có những bài kệ. Những bài kệ ấy vưà nói về giáo lý Phật vưà chưá đựng chỗ độc đáo chứng ngộ cuả mỗi người. Thiền Uyển Tập Anh nổi tiếng với những bài kệ như Thị Đệ Tử cuả Thiền sư Vạn Hạnh, Cáo tật Thị chúng cuả đại sư Mãn Giác. Khoá Hư Lục cuả Trần Thái Tông (1218 – 1277) có Kệ ngũ giới , Kệ bốn núi …

 Về cơ bản, Kệ dạy giáo lý Phật bằng ngôn ngữ khái niệm. Nhưng khi chuyển thành ngôn ngữ hình tượng, Kệ trở thành thơ Thiền, ý nghiã tư tưởng chuyển hoá thành ý nghiã nghệ thuật.

Chẳng hạn

Bát Nhã chân vô tông

Nhân không, ngã diệc không

Quá, hiện, vị lai Phật

Pháp tính bản lai đồng. (1)

(Lý Thái Tông. 1028-1054)

Dịch:

“Bát Nhã” Thực vô tông

Người không, mình cũng không

Phật trước, nay, sau nữa

Pháp tính vốn tương đồng

(Ngô Tất Tố dịch)

Bài kệ này chỉ diễn đạt giáo lý về Chân Như. Ngôn ngữ kệ là ngôn ngữ khái niệm, không có hình tượng. Kệ cuả sư Vạn Hạnh đã có bước chuyển hoá thơ.

Ngày 15 tháng 5 năm Thuận thiên thứ 9 (1018) sư không bệnh, gọi đệ tử đến đọc bài kệ:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố uý

Thịnh suy như lộ thảo đầu phôi (1)

(Vạn Hạnh Thiền sư)

Sư lại bảo các đệ tử: – Các ngươi muốn đi đâu? Ta không lấy chỗ trụ mà trụ, cũng chẳng dựa chỗ vô trụ mà trụ. Một lát sau sư qua đời.

Lời cuả Thiền sư Mugaku nói với quân Mông cổ sau đây có cả chất kệ và chất thơ. (2)

 Gom toàn thể thế giới

Chẳng vừa một đầu gậy

Vạn pháp vốn là không

Vô thường và vô ngã

Lưỡi gươm bọn hung nô

Lấp loáng cắt xuân phong.

(Thiền sư  Mugaku)                                                                                     

  1. Một Cách tiếp cận thơ Thiền

Thơ Thiền là thơ tư tưởng. Cốt lõi tư tưởng thơ Thiền là giáo lý Phật giáo. Vì thế muốn tiếp cận thơ Thiền, người đọc phải ít nhiều có được căn bản tư tưởng Phật. Không có tri thức này thì không thể cảm thụ thơ Thiền, vì mỗi bài thơ là một chứng ngộ tại thế về Chân Như cuả Thiền sư.

 Căn bản giáo lý Phật Giáo (3) là Tứ Diệu Đế, Mười Hai Nhân Duyên, Bát Chánh Đạo, và thuyết vô ngã. Giáo lý này được Đức Phật giảng dạy ngay sau khi Người thành đạo.

 Tứ Diệu Đế là bốn chân lý cao cả do Phật đã tìm ra. Đó là Khổ (dukkha), Tập (Samudaya), Diệt (Nirodha), Ðạo (Magga). Bản chất cuả cuộc sống là khổbất toàn, vô thường, trống rỗng, giả tạm. Sinh, lão, bệnh, tử, ngũ uẩn là khổ. Nguyên nhân cuả khổ là khát ái, là dục vọng, là ý chí muốn sống, muốn tồn tại, muốn tái sinh, muốn trở thành, muốn tăng trưởng, muốn tích lũy không ngừng. Bao lâu còn khát ái trở thành, thì sinh tử luân hồi vẫn tiếp tục. Muốn tận diệt khổ người ta phải diệt cội gốc chính của khổ là dục vọng, diệt tham, diệt sân, diệt si. Chấm dứt khổ là Niết Bàn. Niết-bàn là Chân lý tuyệt đối hay Thực tại tối hậu. Phật nói: “Đó là xa lánh trọn vẹn và tận diệt chính tâm ái dục ấy. Đó là sự rời bỏ, sự từ khước, sự thoát ly và sự tách rời ra khỏi tâm ái dục.“Niết-bàn có thể thực hiện ngay trong cõi đời này. Để đạt tới Niết bàn con người phải tu tập theo Bát Chánh Đạo. Ấy là Chánh kiến (thấy đúng), Chánh tư duy (nghĩ đúng), Chánh ngữ (nói đúng), Chánh nghiệp (làm đúng), Chánh mạng (sống đúng), Chánh tinh tiến (siêng năng đúng), Chánh niệm (nhớ đúng ), Chánh định (tâm an trụ).

Phật giáo còn nói đến luật nhân quảnghiệp báo. Trên đường tái sanh luân hồi, con người chịu ảnh hưởng của nghiệp. Vô minhÁi dục là nguyên nhân chính tạo ra Nghiệp. Chính Vô MinhÁi Dục là cội rễ của mọi tội ác.  Nghiệp và Quả đều tùy thuộc nơi Tâm. Hành động (Nghiệp) và hậu quả của hành động ấy (Quả) đều do Tâm tạo nên. Mục tiêu tối hậu của người Phật tử là tận diệt Nghiệp.  Trong bộ Samyutta Nikaya, Tạp A Hàm, có những lời dạy: “Hãy gieo giống tốt, Ta sẽ hưởng quả lành.”

Thuyết Vô Ngã (4) cho rằng ý tưởng về một bản thể trường cửu bất diệt, gọi là Tôi, Ngã, cái Ta, hay Linh hồn,  chỉ là một niềm tin sai lạc. Cái mà ta gọi là Tôi hay Ngã chỉ là một kết hợp của các uẩn vật lý và tâm linh, hoạt động tương quan mật thiết lẫn nhau trong một dòng biến chuyển từng sát na, chịu chi phối của luật nhân quả. Tất cả đều vô thường. Phật giáo phủ nhận hiện hữu của Ngã, linh hồn, Thượng đế.  Sự sống đã phát sinh, tồn tại và tiếp diễn là do mười hai nhân duyên:  đó là Vô minh , nghiệp, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão, Tử (5). Nếu đảo ngược công thức lại, ta sẽ đi đến sự chấm dứt của quá trình. Vô minh diệt thì Nghiệp diệt, Nghiệp diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt,..cho đến khi sinh lão, tử, ưu bi khổ não… diệt.

Đọc thơ Thiền, người đọc sẽ nhận ra những tư tưởng căn bản trên nơi sự chứng ngộ cuả các Thiền sư. Vì thế thơ Thiền trước hết là thơ tư tưởng, không phải là thơ kiểu thơ phản ánh hiện thực hay thơ giãi bày tâm trạng

III. Thiền Tông (6)

Thơ Thiền thể hiện tư tưởng Phật giáo nhưng có những đặc sắc riêng cuả Thiền. Thiền là đạo giác ngộ hình thành qua kiến giải Trung Quốc, là cách tu chứng khác với Phật giáo Ấn độ.

Thiền khởi từ Thiền thoại:”Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu”, nghĩa là Phật giơ lên cành hoa, Ca Diếp nhìn cành hoa và mỉm cười. Ca Diếp đốn ngộ tâm truyền, trực tiếp từ hành động cuả Phật, không qua kinh điển. Phật phó chúc Thiền cho Ca Diếp, và từ Ca Diếp tâm ấn Phật được tiếp tục truyền thừa đến tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma, sơ tổ Thiền Trung Hoa. Bồ Đề Đạt Ma (-528) sang Trung Quốc vào năm 520, mang theo một thông điệp, được coi là tôn chỉ cuả Thiền:

Giáo ngoại biệt truyền
Bất lập văn tự
Trực chỉ nhân tâm
Kiến tánh thành Phật
.

(Truyền riêng ngoài giáo / Chẳng lập văn tự /Trỏ thẳng tâm người / Thấy tánh thành Phật )

Thiền đặt nặng lý Giác Ngộ. Tu chứng theo Thiền là nỗ lực tự chứng, nỗ lực tự mình, trong nội tâm mình, để ”Kiến tánh thành Phật”. Phương pháp cuả Thiền là không dùng văn tự, mà tác động trực tiếp vào tâm. Bởi vì ”Tâm tức Phật / Phật tức tâm “. Vô Minh, Nghiệp quả, Ái dục cũng do tâm. Tứ Diệu Đế, Mười Hai Nhân Duyên hoặc giáo lý Vô Ngã chỉ là người hướng đạo trí thức vạch ra con đường thực hiện sinh hoạt Phật giáo. Vì thế Thiền tập trung vào Phát tâm, an trú tâm và hàng phục tâm .

Hai bộ kinh quan trọng cuả Thiền là kinh Lăng Già (Lankavatara-Sutra) và kinh Kim Cang (7)

Kinh Lăng Già có thuyết “Như Lai tạng” ảnh hưởng đến toàn bộ Thiền tông. Như Lai tạng là: Tất cả chúng sinh đều tàng chưá Như Lai, tức là Phật tính. Phật tính bị khách trần che phủ nên phải tu tập bích quán để trừ dứt khách trần cho Phật tính thanh tịnh hiển lộ. Kinh Lăng Già chú trọng ở sự ngộ lý , nội chứng, rời bỏ ngôn thuyết, văn tự, vọng tưởng, nhấn mạnh tự tu, tự ngộ, tự chứng để đạt tới cảnh giới “ tự giác thánh trí

Ý tưởng nền tảng cuả kinh Kim Cang là giáo lý về Tính KHÔNG (8). Tất cả vạn hữu đang hiện hữu, tự tính của nó là Không. Ý niệm Không không phải là hư vô, mà là trạng thái vượt qua nhị nguyên tử – sinh, vượt qua hữu – vô, vuợt qua sắc tướng. Đó là thể tính chân như cuả hiện hữu, là Như Lai. Thực tướng ấy không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, cũng không thể dùng ý niệm để ý niệm, thấy Như Lai là thấy “thực tại vô tướng”.

Người làm thơ Thiền có khi thể hiện cái nhìn cuả kinh Hoa Nghiêm. Dưới mắt người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, con ong, cái kiến cho đến cọng cỏ, bụi gai, không cái gì mà không dễ thương, tất cả đều là Phật, tất cả pháp, kể cả sơn hà đại địa đều nhận lực chi phối của huệ Như Lai, đều là Pháp thân Phật. (9)

III.Thi Pháp thơ Thiền

Thơ Thiền được làm theo những nguyên tắc nhất định, có thể gọi là thi pháp. Thực ra không có hẳn một trường phái thơ Thiền, vì thế cũng không hề có lý luận về thi pháp thơ Thiền. Tuy nhiên, khi đọc thơ Thiền, người đọc có thể nhận ra một vài đặc trưng trong phép làm những bài kệ – thơ Thiền cuả các Thiền sư.

1.Thơ Thiền là kinh nghiệm tu chứng cuả Thiền sư, laø thôøi khaéc saùng loaø cuả tâm thanh tònh, an nhiên, đạt tới thực tại vô tướng, thể tính chơn như cuả hiện hữu. Ánh sáng cuả sự chứng ngộ ấy tạo nên cái đẹp thơ.

  1. Thơ Thiền được viết bằng kiểu ngôn ngữ vô ngôn, xuất phát từ cách sử dụng ngôn ngữ cuả các Thiền sư. Đối với Thiền, ngôn ngữ được xem là lừa dối và sai lạc để thấu hiểu chân lý. Kinh Lăng Già khẩn thiết bảo ta rằng ngôn ngữ là một phương tiện hoàn toàn thiếu thích đáng để diễn đạt và truyền đạt nội thể của Giác Ngộ. Kinh Kim Cang viếtVô pháp khả thuyết thị danh thuyết pháp

(thuyết pháp là:  không có pháp nào có thể thuyết ấy là thuyết pháp) . Thực tại vô tướng, thể tính chơn như không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, hay bằng ý niệm.

Vì thế đọc thơ Thiền, người đọc phải tìm ra cách nói cuả tác giả, nắm lấy diệu lý Thiền, vượt qua ngôn ngữ. Các Thiền sư phải trải qua vô số thử thách ê chề mới đạt tới được tuyệt kỹ này. Cách nói vô ngôn có thể gói trong những thí dụ sau (10): 1. Nói nghịch, 2. Nói vượt qua, 3. Nói chối bỏ, 4. Nói quyết, 5. Nói nhại, 6.Hét, 7. Phép im lặng, 8. Lý luận vòng tròn.

Nói nghịch là cách noí nghịch lý. Phó Đại Sĩ nói:

Tay không: nắm cán mai

Đi bộ: lưng trâu ngồi

Theo cầu qua bến nước

Cầu trôi nước chẳng trôi.

Nói vượt qua là cách nói thoát khỏi nhị nguyên khẳng định và phủ định.

Nói chối bỏ là cùng một người, và cùng một câu hỏi, lúc nói “”, lúc nói “không”.

Nói quyết cách nói lạc đề:

Một ông tăng hỏi Thiền sư Hoa Sơn (?): “Thế nào là Phật”,

Sư đáp: “Tôi biết đánh trống, tum đùng đùng

Nếu hiểu vạn pháp (mọi hiện hữu) đều có Phật Tính, và Phật tính hiện trong vạn pháp, thì dù trả lời lạc đề thế nào, hình ảnh trong câu trả lời vẫn dẫn đến Như lai.

Nói nhại là nhại lại câu hỏi cuả người hỏi:

Một ông tăng hỏi Trường Sa: “Làm sao chuyển non sông đất nước trở về cái tự kỷ?”

Sư đáp: “Làm sao chuyển cái tự kỷ thành non sông đất nước?”

Đối với các Thiền sư, lời nói, ngôn ngữ  là một thứ tiếng la, tiếng kêu, thoát ra từ sự tự chứng nội tại; nó vô nghĩa, vì thế muốn hiểu Thiền phải tự hiểu chính ta, không phải hiểu nghĩa của ngôn ngữ phản chiếu những ý niệm. Thiền không thể nói được cho những người chưa có tự chứng.

  1. Thơ Thiền sử dụng một số diễn tả đã thành “điển“ cuả Phật giáo, như điển hoá Thiền thoại; diễn tả cái Cócái Không nhị nguyên bằng những chữ như sát (giết chết) và hoạt (cho sống), đoạt (cướp lấy) và dữ (ban cho), xúc (khẳng định) và bối (phủ định), bằng từ vựng Phật giáo như khổ, dục, vô thường, vô ngã, tâm, an nhiên thanh tịnh v.v…

Ta gặp hình ảnh diễn tả tư tưởng Phật quen thuộc như: Tất cả các pháp là hữu vi, đều giống như sao đêm (tinh), như mắt loạn (), như ngọn đèn (đăng), như huyễn thuật (ảo), như sương mai (lộ), như bọt nước(bào), như cơn mộng (mộng), như ánh chớp (điện), như đám mây nổi (vân).

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố uý

Thịnh suy như lộ thảo đầu phôi

(Vạn Hạnh Thiền sư)

Hoặc:

Hết thảy pháp hữu vi
Như chiêm bao, huyễn thuật,
Như bọt nước, ảo ảnh,
Như suơng mai, điện chớp,
Hãy quán chiếu như vậy.

(bài kệ trong kinh Kim Cang )

Những hình ảnh quen thuốc ấy có nghiã riêng cuả giáo lý Phật. Tinh tú biểu tượng cho cái thấy. Mắt bệnh là ví dụ cho tướng của đối tượng.  Ngọn đèn là thức uẩn. Huyễn thuật là cư xứ, chỉ khí thế gian, Sương mai là ví dụ cho thân thể. Bọt nước là thọ dụng. Chiêm bao là thời gian quá khứ. Điện chớp là thời gian hiện tại. Vầng mây là thời gian vị lai.

  1. Một bài thơ Thiền có thể có hai lớp nghiã. Lớp nghiã nghiã tư tưởng, diễn tả sự chứng ngộ cuả tác giả về Chân Như, và lớp nghiã nghệ thuật, do hệ thống hình tượng thơ gợi ra. Lớp nghiã này được hiểu theo cách hiểu cuả cộng đồng, bằng tri thức, văn hoá thẩm mỹ cuả cộng đồng . Hai lớp nghiã này có khi đồng nhất, có khi là riêng biệt, tuỳ theo cách sử dụng kiểu ngôn ngữ cuả Thiền sư. Nếu ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ dạy đệ tử, lời dạy trực tiếp cho người chưa chứng ngộ, đó là kiểu ngôn ngữ đời thường, hai lớp nghiã này thường đồng nhất. Nếu Thiền sư biểu lộ sự chứng ngộ, thì đó là kiều ngôn ngữ vô ngôn, là tiếng kêu vô nghiã. Lúc ấy, nghiã tư tưởng và nghiã nghệ thụật là tách biệt, có khi không có quan hệ gì với nhau. Vì thế những cách đọc bằng phương pháp truyền thống, phân tích nhân vật trữ tình, phương pháp Tiểu Sử, Phân Tâm Học , Phản ánh Luận , Cấu Trúc Luận … thường là bất lực trong việc giải mã thơ Thiền

 IV Thử đọc một vài bài thơ Thiền

1Thiền sư Không Lộ (?-1119 )

 Trạch đắc long xà địa khả cư

Dã tình chung nhật lạc vô dư

Hữu thì trực thướng cô phong đỉnh

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.

                                                      Dịch:

Kiểu đất long xà chọn được nơi

Tình quê lai láng chẳng hề vơi

Có khi xông thẳng lên đầu núi

Một tiếng kêu vang, lạnh cả trời

            (Kiều Thu Hoạch dịch)

Hai câu đầu là trạng thái an lạc cuả Thiền giả. Chọn được đất rồng rắn có thể ở được. Tình quê vui vẻ (lạc) suốt ngày, không gì hơn. An nhiên, không vướng mắc sự đời, đó là trạng thái “Ưng vô sở trú “ . Sự vật (long xà điạ), con người (tác giả), thời gian (chung nhật) cùng hợp nhất. Lời thơ như là kể, là tự nói chuyện với chính mình, vì thế câu thơ không có chủ thể trực tiếp cho hành động “trạch đắc“(chọn được), hành động “”(ở), và trạng thái “lạc vô dư” (an vui không gì hơn ). Nếu tứ thơ tiếp tục phát triển theo hướng miêu tả cuộc sống nhàn nhã thảnh thơi, thì chưa hẳn đã là thơ Thiền, bởi an vi, “vô vi” cũng là cách sống cuả nhà Nho xưa, bài thơ sẽ trở thành thơ Nhàn cuả nhà Nho.

Hai câu sau là phút toả sáng sự chứng ngộ: Có lúc lên thẳng ngọn núi trơ trọi. Kêu một tiếng dài lạnh cả thái hư. Chứng ngộ Thiền là tự chứng, tự nội tâm mình, đơn độc. Người tu Thiền phải chiến đấu quyết liệt với chính mình, như người leo núi đơn độc. Núi ở đây có thể hiểu theo cách Trần Thái Tông nói về “bốn núi “: sinh, lão, bệnh, tử. Núi chính là ngũ uẩn, là vô minh, là nghiệp, là sắc tướng vô thường mà người tu Thiền phải vượt qua để đạt đến Ngã Không, đạt đến tự tánh. Theo Tổ Huệ Năng (11), tu Thiền là nỗ lực“kiến tánh thành Phật “. Chứng ngộ là thấy được tự tánh. Con người, vũ trụ là một, “tất cả tức một, một tức tất cả”. Con người có uy lực cuả vũ trụ.  Bởi vì tự tánh bao hàm toàn thể vũ trụ, tự do tự tại, đầy sinh lực sáng tạo, mà đồng thời cùng tự tri tự giác.Vì thế Không Lộ Thiền sư kêu một tiếng dài làm cả thái hư lạnh lẽo. Đó là cách nói biểu hiện sự chứng ngộ.

Trong thực tế sẽ chẳng có ai lên thẳng đỉnh núi cô độc, ở đó một mình với chính mình, kêu dài một tiếng làm lạnh cả thái hư. Tại sao hai câu đầu là tâm an lạc mà hai câu sau lại là trạng thái cô độc tuyệt đối: đỉnh núi cô độc và con người cô độc trên đỉnh núi? Tại sao con người không ở yên trong an lạc mà lại lên thẳng đỉnh núi cô độc kêu lên một tiếng dài, tiếng kêu tan vào thái hư? Rõ ràng là hai tình huống ngôn ngữ không logic với nhau, thậm chí tương phản nhau. Người đọc nhận ra kiểu ngôn ngữ vô ngôn, trong cách nói quyết. Tứ thơ là những hình ảnh vô nghiã. Nó chỉ là tiếng kêu từ tâm chứng ngộ. Ngôn ngữ không phản ánh hiện thực hay phản ánh con người nhà thơ…

Để hiểu hình ảnh núi, xin đọc bài kệ cuả thiền sư Ranryô (12)

  Thiền định và trì niệm

   Như hai toà núi lớn

   Căn cơ người sai khác

   Phật tánh vốn chung đồng

 

   Kẻ lên được tận đỉnh

  Thấy trăng chiếu muôn nơi

   Thương người thiếu tín tâm

   Mờ mịt giưã dốc ghềnh

Ranry-Ô giúp ta hiểu  “kẻ lên tận đỉnh núi “ cuả Không Lộ Thiền sư là “ đỉnh núi cuả thiền định và trì niệm “, con đường dẫn đến giác ngộ. Đạt tới đỉnh núi là đạt tới chứng ngộ.

Bằng cách đọc theo phản ánh luận, kết hợp với việc phân tích nhân vật trữ tình, và “tán “thơ “, có người hiểu hai câu thơ cuả Không Lộ Thiền Sư thế này: (13)

“Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng

Một tiếng kêu vang lạnh cả trời “

 Hai câu thơ cao khiết mà cô đơn lạ! Cái ý tưởng nào mà chợt đến, chợt đi (có lúc), mà táo bạo (trèo lên thẳng) với tâm thế hết sức cô đơn (đỉnh núi trơ trọi). Tiếng kêu ấy thảng thốt biết bao làm cho cả bầu trời rùng mình, ớn lạnh. Phải chăng đây là khát vọng vươn tới cái cao cả, cái nằm ngoài giới hạn cuả con người? Phải chăng đây cũng là ước mơ cháy bỏng hoà đồng với thiên nhiên, ngang tầm với vũ trụ? Dù sao thì hai câu thơ tự chắp cánh cho mình, một thời đã làm run lạnh cả bầu trời ấy, đến nay vẫn làm chúng ta giật mình ngơ ngác. Vì nó lớn lao quá mà rất đỗi thiết tha. Nó rất “con người”. (Tôi xin không có lời bình về cách hiểu này)

Cái hay cuả bài thơ này là gì? là sự thể hiện tư tưởng Phật  hay ở hình tượng và  nghệ thuật thơ ?

Có thể thấy rằng, cái hay cuả bài thơ thể hiện ở tính độc đáo trong cách diễn tả sự chứng ngộ Phật và ở hình tượng thơ mới lạ. Ở Thiền, sự chứng ngộ cuả mỗi Thiền sư là sự chứng ngô riêng, độc đáo và đột khởi, đốn ngộ. Không Lộ Thiền sư cũng chứng ngộ như thế: lên thẳng đỉnh núi cô độc, kêu dài một tiếng làm lạnh thái hư. Đó là ý nghiã tư tưởng. Ý nghiã nghệ thuật cuả hình tượng thơ lại đem đến cho người đọc những mỹ cảm khác. Đó là vẻ đẹp tâm hồn dung dị cuả nhà thơ hoà mình trong đời sống dân dã, đằm thắm trong cái tình quê suốt ngày vui không gì hơn. Hình ảnh nhà thơ có lúc đã từng lên thẳng đỉnh núi cô độc, kêu một tiếng dài, âm vang làm lạnh thái hư. (Những người ở rừng ở núi thường dùng tiếng kêu dài, hú dài để gọi nhau) Có lẽ nhà thơ đã khám phá ra sức mạnh cuả chính mình trong thiên nhiên và trong thái hư (vũ trụ). Bài thơ gợi ra hình ảnh một Thiền sư ở giưã cuộc sống, giưã thiên nhiên, vưà ung dung giản dị, vưà mạnh mẽ phi thường, vượt lên tất cả, hoà nhập tất cả, “tất cả tức một, một tức tất cả”.

  1. Thiền sư Mugaku (14) là người sáng lập Thiền Tông Nhật Bản. Sư sinh ra và lớn lên ở Trung Quốc, ngộ Thiền từ 12 tuổi. Năm 1275 quân Mông cổ tràn vào Trung Quốc. Mugaku lúc ấy đã xuất gia, di tản khỏi chùa. Một năm sau chiến sự lại tràn đến, sư ở lại chuà. Khi ấy Mugaku đang tĩnh toạ tại chánh điện, quân Mông Cổ tràn vào. Chúng kề gươm vào cổ ngài mà uy hiếp. Ngài điềm nhiên đọc một bài kệ, quân Mông Cổ hạ gươm rồi rút lui. Bài kệ như sau:

Gom toàn thể thế giới

Chẳng vừa một đầu gậy

Vạn pháp vốn là không

Vô thường và vô ngã

Lưỡi gươm bọn hung nô

Lấp loáng cắt xuân phong.

(Thiền sư   Mugaku)

Trước hết bài kệ là cách sư Mugaku trả lời cho sự uy hiếp cuả quân Mông Cổ. Chúng lấy cái chết để đe doạ Thiền sư. Ngài noí: toàn thể thế giới là quá nhỏ, gom toàn thế thế giới chẳng vưà một đầu gậy. Mọi hiện hữu (vạn pháp) đều là Không, vậy sự hiện hữu cuả Ngài là vô ngã, nào có nghiã gì. Nếu lưỡi gươm tàn bạo cuả quân Mông có lấp loáng, cũng chì là cắt vào gió xuân, cắt vào Không. Lời cuả sư chỉ ra rằng, sức mạnh vật chất tàn bạo cuả quân Mông Cổ, dù có chém đầu ngài, cũng chỉ là vô nghiã. Vì chúng là Không, và chúng đối diện với Không. Nội dung tư tưởng cuả bài kệ là triết lý tính Không về bản thể cuả hiện hữu vô thường vô ngã cuả Phật.

Cái hay cuả bài kệ là ở chỗ Thiền sư đã làm hiển lộ sức mạnh, uy lực cuả sự chứng ngộ, con người, vũ trụ là một, tự do, đầy sinh lực sáng tạo. Đối diện với sức mạnh ấy, quân Mông Cổ phải buông gươm.

Nhưng bài kệ còn hay ở hình tượng thơ được nhà sư dụng để thể hiện tư tưởng Phật. Nó vưà tạo ra cái thẩm mỹ, vưà bộc lộ trình độ giác ngộ và uy lực cuả tác giả

Gom toàn thể thế giới

Chẳng vừa một đầu gậy

Cả thế giới gom lại chẳng vưà một đầu gậy, con người này có tầm vóc, uy lực lớn lao mạnh mẽ đến thế nào! Con ngưới ấy có thể gom cả thế giới lại, và cả thế giới là quá bé nhỏ trong tay con người. Một tứ thơ như vậy quả là lạ. Nó chưá đựng sức mạnh Phật.

Lưỡi gươm bọn hung nô

Lấp loáng cắt xuân phong

 Tứ thơ cuối sáng lên một cái đẹp nghệ thuật khác: lưỡi gươm lấp loáng cắt gió xuân. Tất cả sự tàn bạo cuả quân Mông Cổ trở nên vô nghiã vì cắt vào Không, nhưng tứ thơ có sự chuyển nghiã, tất cả sự tàn bạo, đẫm máu, thăng hoa thành cái đẹp “lấp loáng trong gío xuân “. Không còn máu chảy, đầu rơi, tang thương, chết chóc. Sức mạnh tàn bạo cuả sự chết chuyển hoá thành sức mạnh sáng láng cuả sự sống (muà xuân)

Nghiã tư tưởng (Thiền) và nghiã nghệ thuật cuả tứ thơ có sự chuyển hóa đột ngột, mạnh mẽ, mới lạ. Ở bài này sử dụng ngôn ngữ đời thường, lời thơ là lời Thiền sư nói với quân Mông Cổ, vì thế nghiã tư tưởng và nghiã nghệ thuật có thể trùng với nhau.

  1. Mãn Giác đại sư (1052-1096)

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân lai bách hoa khai

Sự trục nhân tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Dịch:

Xuân ruổi, trăm hoa rụng   

Xuân tới, trăm hoa cười   

Trước mắt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi       

Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua, sân trước, một cành mai.

(Ngô Tất Tố dịch)

Bốn câu đầu là hình ảnh diễn tả tính chất vô thường, vô vọng, cuả hiện hữu trong không gian, thời gian. Cuộc sống luôn vận động trong nhân duyên, có sinh thì có diệt, luân hồi mãi trong cõi sinh tử. Xuân đến rồi xuân đi, hoa nở rồi hoa rụng. Sự việc cứ trôi đi trước mắt.Tuổi già đến trên đầu. Bản thể cuả hiện hữu là vô thường, chẳng có gì tồn tại. Con người chẳng thể níu kéo được gì, chẳng thể níu kéo tuổi xuân cho mình.

Hai câu cuối là sự chuyển hoá lạ lùng, như được thốt ra từ sự chứng ngộ. Đừng tưởng xuân tàn thì hoa rụng hết. Hoa vẫn nở đấy:  Đêm qua, một cành mai đã nở trước sân. Mãn Giác đại sư đã vượt qua vô thường, vượt qua tử sinh, vượt qua luân hồi.  Đại sư đã nhìn thấy cành mai nở trước sân, như Ca diếp mỉm cười chứng ngộ khi nhìn thấy đức Phật giơ cành hoa lên.  Mãn Giác đại sư cũng đang mỉm cười. Cành mai ấy là cành mai tư tưởng, sáng lên một cách lạ lùng trong bóng tối cuả vô thường đã lùi lại phiá sau. Đó là ý nghiã tư tưởng Thiền cuả bài kệ.

Đọc bài thơ này bằng phương pháp cấu trúc luận, Như Huy có những kiến giải thú vị về ý nghiã bài thơ, nhưng Như Huy chưa phát hiện ra sự chứng ngộ cuả mãn Giác (15)

Ở bài kệ này, ngôn ngữ là lời “thị đệ tử “, là lời dạy bảo trực tiếp, ngôn ngữ đời thường. Nhưng lời dạy ấy được diễn tả bằng hình ảnh, tạo nên tứ thơ, Kệ trở thành thơ. Hình tượng nghệ thuật cuả thơ mang đến một ý nghiã khác. Đó là cái nhìn thanh xuân cuả một người tuổi già đã đến trên đầu. Trong cái nhìn ấy muà xuân tồn tại mãi, sự sống vẫn tươi tắn, cái đẹp vẫn tồn tại, dù tất cả vẫn qua đi như một quy luật không cưỡng lại được. Tứ thơ “Đêm qua, sân trước, một cành mai.” Là một tứ thơ mới lạ cả về nghệ thuật và tư tưởng thẩm mỹ. Nhà thơ chọn trong trăm hoa rụng một cành mai tươi nở. Cái đẹp trong ý thức sáng tạo cuả nhà thơ là cành mai, là muà xuân, là tuổi trẻ, là sự sống và một niềm tin vĩnh cửu. Đối với người Việt Nam, cành mai luôn là hình ảnh gần gũi cuả mọi nhà mỗi khi xuân về, chẳng bao giờ thiếu muà xuân trên đất nước trăm hoa này. Điều này giúp chúng ta hiểu được tại sao bài thơ gắn kết lâu bền trong thi ca dân tộc và trong tâm hồn người Việt như vậy.

  1. Thơ Thiền Bùi Giáng (16)

Thơ Bùi Giáng có tư tưởng Thiền. Bùi Giáng nhận ra “tinh thể đười ươi “ trong thân phận người .

Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.

Trong Thiền Luận, Daisetz Teitaro Suzuki nhắc đến Thiền Thoại sau: Khi Ngưỡng Sơn (804-899) hỏi về Phật tánh. Thiền Sư Hồng Ân giảng như vầy: “Như ngôi nhà có sáu cửa nhốt khỉ đột. Ở ngoài có người hô to “khọt khọt”, khỉ đáp lại “khọt khọt”, cứ thế sáu cửa cùng hô cùng ứng. Ngưỡng Sơn hỏi lại: “Ví như lúc ấy khỉ ngủ thì sao?”. Hồng Ân bước xuống một tay nắm Ngưỡng Sơn, vừa múa vừa nói: “Khỉ ơi khỉ ơi, ta với ngươi cùng đối mặt nhau đây”. Bùi Giáng thay khỉ bằng đười ươi, tạo ấn tượng mạnh hơn vì đười ươi hay cười. Đó cũng là hình ảnh nghệ thuật Bùi Giáng tự vẽ chân dung cuả chính mình

Đoạn thơ trên biểu hiện tâm hồn, tính cách, kiều nói năng rất Thiền cuả Bùi Giáng. Bùi Giáng nhận ra Phật Tánh trong hình hài đười ươi cuả người, cuả tôi. “người cũng là tôi, tôi cũng là người, ấy rằng tinh thể đười ươi “. Vũ trụ, thời gian là nhất thể, tự tại, không sinh diệt: “một cũng là ba, là hai, là một; mai, mốt cũng là hôm nay “. Sự giác ngộ như thế là bước giác ngộ thứ nhất để dẫn đấn đại ngộ. Bùi Giáng không nhìn tha nhân như người khác mà nhìn tha nhân trong cùng một bản thể Phật tính, không nhìn tha nhân như người cuả thế giới khác, vũ trụ khác, mà nhìn tha nhân trong hiện hữu thường hằng, quá khứ- hiện tại – tương lai – không gian – thời gian là một. Trong một tương quan như thế, người đọc thấy Bùi Giáng an nhiên ngay trong cuộc sống thực tại.

Cái hay cuả đoạn thơ ấy là kiểu ngôn ngữ Bùi Giáng. Ngôn ngữ như bông đuà. Nói chuyện tư tưởng thâm sâu cuả sự chứng ngộ mà tếu táo chẳng đâu ra đâu, lẫn lộn lung tung. Thực ra Bùi Giáng cố ý xáo trộn ngôn ngữ, dùng cách nói vòng (kiểu ngôn ngữ cuả các Thiền sư),  tạo ra sự xáo trộn trật tự logic cuả ngôn ngữ đời thường, xáo trộn không gian, thời gian, đạt tới sự diễn tả tư tưởng.

Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.

Để hiểu câu thơ này, cần sắp xếp lại ngôn từ theo logic cuả ngôn ngữ đời thường. một-hai-ba (không gian) -mốt-mai-hôm nay (thời gian), tất cả là một. Vạn pháp là một Phật tính. Phật tính hiển hiện trong vạn pháp. Tuy nhiên đoạn thơ không phải là tâm thế đốn ngộ cuả Bùi Giáng. Bùi Giáng chỉ mượn tư tưởng Thiền để thể hiện cá tính sáng tạo cuả mình, một cá tính tài hoa. Vì thế thơ Bùi Giáng là thơ cuả một nghệ sĩ tài hoa, khác với những bài kệ / thơ Thiền cuả các Thiền sư.

  1. Thơ Thiền Trần Ngọc Tuấn (17)

 

Trần Ngọc Tuấn là một nhà thơ trẻ. Thật đáng ngạc nhiên vì Tập Suối reo cuả anh là một tập thơ Thiền. Trong tình hình người trẻ làm thơ hiện nay, thì sự chọn lựa ấy cuả Trần Ngọc Tuấn là sự chọn lưạ đầy khó khăn. Trần Ngọc Tuấn không phải là một Thiền sư, anh vẫn đang sống lăn lộn giưã đời,  vì thế Suối Reo là thơ của đời ánh lên sắc Thiền, thơ của một con người còn đang “ qua dốc sương mù

Gánh củi qua dốc sương mù

Mồ hôi giọt gịot gió ù ù bay

Nghìn tia nắng dệt trang ngày

Bước chân hoan hỉ, đêm này lửa reo

Sống là gánh lấy bao nhiêu nỗi vất vả như người gánh củi. Ngày đêm phải vượt qua con dốc sương mù và đương đầu với gió ù ù bay. Nếu nhìn nhận cuộc đời như thế, tác giả sẽ chuyển bài thơ thành tâm tình thở than. Thế nhưng Qua Dốc Sương Mù lại rực rỡ ánh sáng của sự thăng hoa. Đó không phải là thứ ánh sáng thiên nhiên của nghìn tia nắng, hay ánh sáng của đêm lửa reo, mà là ánh hào quang của Phật. Nỗi vất vả, thống khổ trở thành con đường hạnh ngộ. Qua dốc sương mù là vượt qua vô minh, vượt qua khổ (Diệu đế I). Người gánh củi kia tỏa ánh hào quang của Phật trong “bước chân hoan hỷ ‘. Bài thơ không miêu tả hiện thực gánh củi mà tả khỏanh khắc chứng ngộ đầy hỷ hoan trong ánh sáng toả ra từ Tâm Bát Nhã. Hiện thực đuợc nhìn bằng Trí Huệ Bát Nhã (Prajna). Đó là ý nghiã tư tưởng cuả bài thơ.

Người ta có thể hiểu bài thơ khác đi qua cách đọc phản ánh hiện thực. Bài thơ là cái nhìn lạc quan, là tấm lòng nhân hậu Trần Ngọc Tuấn đối với người gánh củi. Bài thơ cũng là một bức tranh  tả cảnh gánh củi vất vả,  trên nền thiên nhiên rạng rỡ, trong ánh sáng ấm áp cuả bếp lửa gia đình do củi mang laị, từ đó nói đến một  tiến trình tư tưởng tích cực, suy từ sự  vất vả đến hạnh phúc mà người gánh củi đạt được.

Ở bài thơ này, Trần Ngọc Tuấn chưa đạt đến các nói cuả Thiền sư. Ngôn ngữ thơ không phải là kiểu ngôn ngữ vô ngôn cuả Thiền, vì thế nghiã tư tưởng và nghiã nghệ thuật có thể chồng khít lên nhau, không tinh ý khó có thể nhận ra ý nghiã Thiền cuả bài thơ. Dầu vậy bài thơ cũng có được những tứ thơ hay và ngôn ngữ nghệ thuật tinh ròng. Sự kết hợp Tứ Tuyệt với Lục bát tạo nên màu sắc thẩm mỹ riêng, vưà có cái cô đọng tư tưởng cuả Tứ Tuyệt, vưà có cái mền mại thanh thoát cuả Lục Bát, vưà có sự sang trọng cuả tư tưởng vưà có sự dung dị dân dã cuả hồn thơ.

  1. Thơ Thiền Phạm Thiên Thư

Tôi chưa có dịp nói đến những kinh Phật được Phạm Thiên Thư phổ thơ như  Qua Suối Mây Hồng – Kinh Ngọc (thi hóa Kinh Kim Cương), Hội Hoa Đàm – Kinh Hiền (thi hóa Kinh Hiền Ngu, 12 ngàn câu lục bát), Suối Nguồn Vi Diệu – Kinh Thơ (thi hóa Kinh Pháp Cú)
Chỉ xin thử đọc một đoạn trong bài Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng cuả Phạm Thiên Thư (PTT) xem thơ Thiền cuả Phạm Thiên Thư có thi vị thế nào. Đặc sắc thơ Phạm Thiên Thư là thơ tình có vị Thiền. Điều này lạ. Bởi vì tình là khổ luỵ. Thiền là cắt đứt nghiệp chướng. Phạm Thiên Thư đã tạo nên sự kết hợp này thế nào? xin đọc:

21
Em nằm ngó cội thu xanh
Môi ươm đào lý một nhành đôi mươi
Về em vàng phố mây trời
Tay đơm nụ hạ hoa dời gót xuân

22
Thì thôi tóc ấy phù vân
Thì thôi lệ ấy còn ngần dáng sương
Thì thôi mù phố xe đường
Thôi thì thôi nhé đoạn trường thế thôi

Nội dung đoạn thơ là câu chuyện tình yêu, là những lời yêu Phạm Thiên Thư gửi đến người tình, nhưng những  ý tứ Thiền lại hiển lộ rất rõ trong cái nhìn, trong ngôn ngữ, trong tâm thức nhà thơ: phù vân, sương, mù, đoạn trường. Trong khổ thơ này Phạm Thiên Thư không dụng ý thể hiện tư tưởng Thiền, nhà thơ chỉ mượn từ ngữ, ý tứ để diễn tả tâm trạng yêu. Phạm Thiên Thư nhìn người yêu mà suy gẫm, lúc nằm, lúc về, hình hài ấy, dáng vẻ ấy: môi thanh xuân đào lý đấy, tay đơm muà hè, gót dời hoa xuân. Nhưng mà hiện hữu ấy, tóc ấy chỉ là phù vân; lệ ấy, dáng ấy mong manh như sương. Em tuy đẹp, tuy dào dạt đào lý, dào dạt yêu thương trong mắt lệ, em giưã cội thu xan , giưã vàng phố mây trời,  nhưng chỉ là vô thường, chỉ là khổ (đoạn trường) chỉ là vô minh (mù) , là  hư huyễn( phù vân ). Trái tim nhà thơ thốt lên nỗi buồn thương không sao ngăn được. Nhà thơ kêu lên nhiều lần “thì thôi “, chấp nhận thực tại, để rồi buộc phải nói lời ly tan “thôi thì thôi nhé”. Bản chất cuả hiện hữu là thế, và tình yêu, dù thăng hoa đẹp đẽ thế nào cũng không thoát ra được. Phạm Thiên Thư- người tình, chỉ còn mong

Mai anh chết dưới cội đào
Khóc anh xin nhỏ lệ vào thiên thu

Thiền vị đem đến những giá trị thẩm mỹ gì cho thơ Phạm Thiên Thư?

Thơ Phạm Thiên Thư sang trọng, thanh cao là nhờ ở Thiền Vị. Phạm Thiên Thư cũng viết về đoạn trường, chia li, cũng viết về mắt, về môi, về dáng đứng, dáng nằm cuả người con gái, nhưng tuyệt nhiên không nhuốm mùi nhục thể, tuyệt nhiên không rực lưả dục vọng. Cũng là nước mắt, cũng là ly tan, nhưng không có hờn ghen oán trách tình phụ, không bi luỵ tang thương. Thiền vị làm thăng hoa thơ tình Phạm Thiên Thư

Thật khác xa với cái nhìn tang thương bi đát cuả Nguyễn Gia Thiều trong Cung Oán Ngâm Khúc

“…Ngọn tâm hoả đốt dầu nét liễu

Giọt hồng băng thấm ráo làn son…

…Nghĩ thân phù thế mà đau,

Bọt trong bể khổ, bèo dầu bến mê…

…Phong trần cả đến sơn khê

Tang thương đến cả hoa kia cỏ này…”
Sự khác biệt ấy là ở chỗ Phạm Thiên Thư đã “ ngộ” được chân lý Thiền, trong khi Nguyễn Gia Thiều còn đang ngụp lặn ở bến mê.

Thật thú vị nếu tiếp tục đi sâu hơn nưã trong việc xem xét ảnh hưởng cuả Thiền trong thơ ca. Chẳng hạn Nguyễn Du trong bài Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài cho biết ông đã từng đọc hàng ngàn biến kinh Kim Cang .

Ngã độc Kim Cang thiên biến linh
Kỳ trung áo nghĩa đa bất minh
Cập đáo phân kinh thạch đài hạ
Tài tri vô tự thị chân kinh.”

( Ta đọc hơn ngàn biến Kinh Kim Cang, những ý nghĩa sâu kín trong đó phần nhiều ta không rõ. Đến hôm nay tới đài chia kinh này mới biết rằng Vô tự chính là Chân kinh.)

Tuy nhiên điều ấy nằm ngoài phạm vi cuả bài viết này: Một cách tiếp cận thơ Thiền .

Quả là nếu tiếp cận đúng hướng thơ Thiền, người đọc có thể thưởng thức được những giá trị, những khoái cảm thẩm mỹ đặc biệt mà thơ Thiền đem lại. Nhìn trong quá trình phát triển, những bà Kệ thuần tính cách nghi lễ, khi được diễn đạt bằng ngôn ngữ hình tượng biểu cảm, đã chuyển hoá thành  thơ.Thơ Thiền cuả các Thiền sư có sự chuyển hoá ấy. Và khi Thiền thâm nhập được vào trái tim nhà thơ thế tục, Thiền vị tạo nên cái đẹp mới lạ trong những áng thơ, có khi đọc không hiểu, song vẫn có thể cảm nhận được qua hình tượng tư tưởng-thẩm mỹ như thơ Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư. Con đường phát triển ấy còn nhiều hưá hẹn cho thơ ca Việt Nam.

Tháng 10 / 2007

 

Nguồn: Chút tình tri âm-Bùi Công Thuấn, Lý luận phê bình. Nxb Hội Nhà Văn. 2009

________________________________________________________________

(1) Thiền Uyển Tập Anh

(2), (12), (14)101 Giai Thoại Thiền” – Thomas Cleary Nxb Tp Hồ Chí minh 2001. Tr.144

(3) “Đức Phật Đã Dạy Những Gì” – Hòa thượng WALPOLA RAHULA – Thích Nữ Trí Hải dịch -1998

(4), Bài thuyết pháp thứ 2 cuả Đức Phật Anattalakkhana Sutta – Kinh Vô Ngã Tướng.
(5) Thập nhị nhân duyên:  Suốt thời gian bảy ngày đầu tiên sau khi thành đạo, Đức Phật ngồi không lay động    dưới tàng cây Bồ Đề. Trong đêm cuối tuần, Ngài xuất thiền và suy niệm về Thập Nhị Nhân Duyên  (Paticca Samuppada), đó là Vô minh, nghiệp, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão, Tử.

(6),(10), (11)Thiền Luận  –  SUZUKI

(7) “Tìm hiểu về Thiền Tông Phật Giáo Trung Hoa”.-Nguyễn Tuệ Chân – nxb Đà Nẵng 2006.tr34

(8)Giới thiệu và giải thích đề kinh Kim Cương Bát Nhã “-Thích Thái Hòa

(9)Giới thiệu Kinh Hoa Nghiêm” – Hoà Thượng Thích Trí Quảng

(13) “Thơ văn Lý Trần” – Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường- Nxb Giáo dục 1999.Tr.63

(15) Đọc thêm: Như Huy –Thêm hai cách đọc bài thơ / kệ “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền Sư” www.tienv,org

(16) Đọc thêm: Bùi Công Thuấn – “Bùi Giáng, ai người chia sẻ

(17) Đọc thêm: Bùi Công Thuấn – “Một mình ra khơi “ (về tập Suối Reo cuả Trần Ngọc Tuấn , Nxb Hội Nhà  Văn 2006). Bài này đã đăng trên Văn Nghệ Trẻ ngày 28/01/2007

Bài đã đăng trên báo GIÁC NGỘ và nhiều trang mạng khác

http://giacngo.vn/vanhocnghethuat/tho/2008/11/28/5E4458

THƠ LÊ THANH XUÂN-bài viết của Bùi Công Thuấn

THƠ LÊ THANH XUÂN

(Đọc tập Thơ Lê Thanh Xuân. Nxb Đồng Nai 2015)

Bùi Công Thuấn

 

THƠ số 3 2016+

 

Nhà thơ Lê Thanh Xuân (*) đã suy nghiệm điều này khi anh quan sát người đến, kẻ đi ở Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai:

Bao người mò mẫm tìm tên

Bao người có tên đánh mất

Không phải có chữ thành văn

Không phải có văn thành sách

Không phải có sách thành tài

Văn như sông

Thơ như núi…

(Buổi sáng ở Hội Văn Nghệ)

Vâng, cuộc tìm kiếm văn chương khó lắm thay! Và tôi đã đọc một mạch 170 bài thơ trong tập Thơ Lê Thanh Xuân để lý giải điều đó. Thú thực rằng, nếu trong tập không có thơ hay thì chắc chắn tôi đã không đủ sức đi tiếp hành trình khám phá sáng tạo nghệ thuật của Lê Thanh Xuân. Và tôi tin rằng, những giải thưởng thơ anh đã đạt được đủ để khẳng định tài thơ của anh. Tôi muốn chia sẻ với anh về những điều anh nói trong thơ.

  1. “Mai về tôi vẫn gặp tôi với nguồn”

Trong thơ, Lê Thanh Xuân nói Tôi trở về tìm lại chính tôi”, “Tôi tìm tôi, mảnh vải buồm gió xé/ Cột buồm trơ. Thoi thóp dáng con thuyền”, “Ta vẫn một mình ta/ Và nỗi buồn đầy ắp”, thì đó là tiếng nói tự tình hướng nội. Tự tình-hướng nội là đặc điểm bao trùm thơ Lê Thanh Xuân.

Vì là thơ hướng nội nên thơ Lê Thanh Xuân không hướng đến “phản ánh hiện thực”, thơ Lê Thanh Xuân vắng bóng đời sống hiện thực, không có những khuôn mặt thời đại, cũng không có vấn đề nóng bỏng của cuộc sống đang réo gọi, và không có dòng lịch sử đang cuồn cuộn vượt lên phía trước. Trái lại thơ Lê Thanh Xuân là những suy nghiệm về những gì nhà thơ gặp gỡ, hoặc những kỷ niệm ở những nơi đã trải qua, hoặc khám phá ý nghĩa những cái rất đỗi bình thường ở xung quanh. Đó là những suy nghiệm của riêng anh, trong hoàn cảnh của anh, của một người đã nghĩ rằng “Thu cũng sắp cuối mùa/ Đã quên nhiều nhớ ít/ Chân chậm bước gần hơn” vàMuộn màng đã xóa tên mình-Thế gian”.

 Thơ Lê Thanh Xuân là tiếng nói tự tình, thơ viết cho mình, hướng vào thế giới nội tâm, lắng nghe tiếng vọng từ tâm hồn mình dội lên khi va chạm với cảnh sắc thực tại, khác hẳn với thơ thời kháng chiến, thơ là tiếng nói công dân, hướng về quần chúng. Đặc điểm này giúp anh phát huy được phẩm chất tài hoa lãng mạn khi thả hồn mình vào thế giới của cái đẹp và hiển lộ những nhận thức trí tuệ sâu sắc, tinh tế khi đối diện với thực tại.

Phẩm chất trí tuệ giúp anh khám phá rất nhiều tứ thơ mới lạ, thú vị. Có lẽ anh đã vắt cạn sức mình cho việc tìm kiếm khó nhọc này. Mượn tiếng chim gù anh thổ lộ:”Dấn thân một kiếp sa đà/ Thôi đành vắt kiệt giọng ca u hoài”(Tiếng chim gù). Làm thơ khó ở chỗ người làm thơ phải khám phá cho được những tứ thơ mới trong đời sống bình thường. Làm thơ hay càng khó. Người thơ phải vắt óc mình thành những giọt tinh khôi, may ra mới thành những tứ thơ có sức đóng đinh vào tâm khảm người đọc và đóng góp vào thơ ca đương đại. Chỉ điều này thôi mới xác định được phẩm chất thi sĩ của một người làm thơ. Lê Thanh Xuân vượt lên và khẳng định mình bằng rất nhiều tứ thơ phóng khóang, thú vị không ngờ’

Viết về nhà thơ Thu Bồn:

“Chưa có gió tự mình làm nên gió

Bão quất anh. Mượn gió chính đời anh

Con gió thổi buốt đau lòng thi sĩ

Con gió đi cuốn theo cả trời xanh

(Trở lại Thu Lý viên nhớ Thu Bồn)

Ở nơi rừng vắng:

Ta treo ta vào mây núi

Ta thả hồn theo suối về sông

(Nhà sàn)

Nhìn sông nước miền tây

Tím sông lơ lửng lục bình

Giấc mơ bờ bến bỗng thành bể dâu

Đi đâu, rồi sẽ về đâu

Nửa đêm chợt trắng mái đầu chiêm bao

(Không đề II)

Và một buổi trưa bất chợt

Và buổi trưa nay chợt nhặt được

Tiếng chim trời và những đóa hoa tươi

Trong tiếng chim có cánh bay vô tận

Trong hoa tươi có hạt sẽ nảy mầm

Tôi lấy sức và tự tin dấn bước

Từ buổi trưa này đi tiếp vào tháng năm

(Buổi trưa này)

Có gì như rất gần gũi, nhưng tinh tế, phóng khoáng đến nao lòng:

Ta đến. Đò đã sang sông

Chiều kia đang khuất phía đồng xa xa

Ta đến. Núi đã về già

Đá gồng trổ chút nụ hoa nghĩa gì?

Ta đến. Phố đã về khuya

Sợ tay gõ cửa. Người nghe giật mình

Ta đến. Ta thành vô tình

Muộn màng đã xóa tên mình-Thế gian

Đành làm con nhện đa mang

Giăng tơ mà nhớ nắng vàng lối xưa

(Muộn)

 

Phẩm chất tài hoa, lãng mạn của thơ Lê Thanh Xuân xuất phát từ đặc điểm thơ hướng nội. Anh viết cho mình nên ngòi bút thỏa sức bay bổng. Và trong cơn say sáng tạo, anh viết như người như nhập đồng, thơ anh đã kết tụ được những tinh anh còn mãi. Xin đọc: Thuyền độc mộc, Bên mộ nữ sĩ Tương Phố, Cù lao Rùa, Ban mai ngoại thành, Mưa chiều, Chiều đồng bằng, Tiếng xa quay, Nghe tiếng gà gáy trong thành phố, Madagui, Một thoáng Tháp Mười, Ngổ Luông, Phố cổ…Lục bát là thể thơ thể hiện rõ nhất phẩm chất tài hoa của ngòi bút Lê Thanh Xuân. Và xin lưu ý, phải đọc trọn vẹn bài thơ, người đọc mới cảm nhận được cái hạt tinh anh trong thơ Lê Thanh Xuân.(xin trích)

Tiếng xa nhòa trước đậm sau

Tiếng xa buồn chảy, ngàn lau cũng buồn

Đêm qua chớp bể mưa nguồn

Biết bông hoa trắng có còn trên nương?

(Tiếng xa quay)

Mấy trăm năm đã thành quê

Cù lao một chốn đi về của em

Ngủ cùng tiếng sóng đã quen

Ăn cùng gió giật tối đèn chẳng sao

Giấc mơ sông cũng chảy vào

Chiêm bao chợt gặp vì sao cuối ghềnh

Lấy xuồng làm bạn với mình

Lấy cô đơn để làm xanh với trời

Lặng im vạt đất bời bời

Cũng chùa, cũng phố với tôi-một lần

Đường xanh chân bước tần ngần

Ô hay cũng ruộng, cũng dân cấy cày…

Cũng vườn tược nức trái cây

Cũng lam khói bếp cuối ngày chiều hôm

Cũng em xinh đến mê hồn

Mới hay tôi đã nỗi buồn vu vơ…

(Cù lao Rùa)

Cái hay trong thơ Lê Thanh Xuân chính là sự tổng hợp hai phẩm chất trí tuệ và tài hoa trong tứ thơ, trong góc nhìn, trong cách thể hiện và giọng điệu hào sảng thân thiện, dù rằng hai phẩm chất này chỉ lóe sáng bất chợt: “Ta như chút gió bất ngờ/ Chút hoa như thể đợi chờ đường ong”

  1. Những “miền thương

 Lê Thanh Xuân 2

Nhà thơ lê Thanh Xuân

Miền thương” là từ Lê Thanh Xuân gọi tên những miền quê hương, nơi anh đã sống, đã đi qua, đã gắn bó thương yêu và kết đọng thành thơ. Lê Thanh Xuân đã đi hầu khắp miền đất nước, và nơi nào lòng anh cũng đầy cảm xúc, nơi nào tiếng thơ cũng cất lên giọng rất trong lành thiết tha.

Tây Bắc là nơi nhà thơ “có một phần đời gửi lại, nơi quá khứ đẹp như mơ, “Rừng hoa ban vẫn trắng tựa trăng rằm”…(Tây Bắc). Nơi đây đã để lại trong nhà thơ bao nhiêu cảnh sắc, con người, tình thân và những ấn tượng đẹp làm nên những bài thơ rấy hay (Trăng sông Đà, Dọc sông Đà, Thuyền độc mộc, Trên cánh đồng Mường Thanh, Mường Thàng, Tiếng xa quay, Ngổ Luông, Thị xã miền rừng, Dốc Cun, Hoa Pi pôốc, Hoa gạo).

Trăng treo ngược sông Đà

Trăng tuốt da rừng núi

Trăng bóc bưởi tuổi mười bảy

Trăng đốt cháy dịu êm

Thêm vào đời anh một miền trăng núi…

(Trăng sông Đà)

Làng Hoàng Trù, Về thăm nhà Bác, là những bài thơ ghi đậm tình cảm kính yêu của nhà thơ với Bác Hồ.

Và quê hương, luôn là tiếng gọi thân thương sâu thẳm: ”Quê là bến. Tiếng con tim khẽ gọi/ Ấy là lời tôi cất đầu tiên”. Về quê (Làng tôi), anh đi trên con đường làng mà nhớ bao kỷ niệm tuổi thơ, nhớ những con người quê vất vả, đất quê bao lần bom đạn cày và bao lần đưa tiễn lớp trai trẻ lên đường giữ nước (Đường làng), nhớ con Đường xưa, mắt nhà thơ đẫm lệ. Nhà thơ soi mình xuống sông quê để tìm nụ cười tuổi thơ (Khúc sông quê). Gọi tên quê hương Thọ Nguyên để nghe lòng mình tha thiết. Anh nhớ cánh đồng quê (Cánh đồng tuổi thơ, Cánh đồng mùa thu), thăm nghĩa địa làng để chia sẻ số phận ngàn đời dân quê, nhớ người anh hy sinh vẫn chưa tìm thấy mộ (Anh tôi),  nhớ người cha “Bao đắng cay cha gánh chịu một mình”  (Cha tôi), và dành cho bà, cho mẹ những tình cảm thương yêu nhất (Hoa ngâu, Lửa khói, Cây cau, Chiếc bình vôi, Khúc đầy, Trăng qua nhà)

Nhà thơ cũng đã Đi bộ trên cao nguyên, thấy Cao nguyên dính vào đôi chân mình, nơi nhà thơ ”Đã một thời sống kiếp hồng hoang/ Lửa không có, người chụm tay tìm lửa”; và cảm nhận Đêm cao nguyên:”Gió hoang đêm đến tung bờm/ Cao nguyên ngực hú chập chờn bóng mưa”. Có lúc đã chia sẻ nỗi niềm với cô gái chăn bò trên thảo nguyên:”Chỉ có thảo nguyên xanh và gió/ Nơi tháng ngày em tựa bờ vai/ Phơi mái tóc một thời con gái.”

  Đã có lúc nhà thơ ở Trong hang cổ, cất tiếng gọi người xưa:“Tiền nhân ơi, nghe lạnh tiếng xa vời”, ở trong Cánh rừng cổ đại, nơi ”Làm nên thời gian, ca lên năm tháng”; lên Núi Tiên, nơi “có nàng tiên rất đẹp từ cao vời” để chia sẻ nỗi cô đơn của chính mình? Lại có lúc ra ngoại thành lúc ban mai để tìm lại chính mình, và ngồi uống café ở Cội Nguồn để nhận ra mình ngây thơ (Uống café ở quán Cội Nguồn). Có lúc dừng chân bên Tháp chàm “Mục đích đi tìm mình”. Đến Lâm Đồng, viết Madagui như một bản hùng ca mang âm hưởng sử thi lãng mạn;. Một thoáng Tháp Mười đã để lại những câu thơ tài hoa về sông nước Đồng Tháp. Có lúc đất Mũi đã níu tác giả với “nóng nôi mùi bùn” (Viết ở nơi cuối đất ), nơi đó tác giả lần đầu gặp Chim Cà Mau: “Líu ríu non tơ mùa chim sinh nở/ Bóng dáng ngày mai của quyết liệt can trường”.

Ý thức về thời gian là ý thức thường trực, mọi nơi, mọi lúc đối với nhà thơ. Mỗi thời khắc đều gợi lên những nghĩ suy, những cảm nghiệm, cả những ước mơ, nhớ tiếc và thời gian của một đời người: Xin đọc: Thời khắc, Sầm sập tối, Bảy giờ tối, Vài phút, Buổi trưa này, Mưa chiều, Chiều đồng bằng, Chiều trên bến cảng Muộn, Đêm, Đêm Thành phố, Đêm cao nguyên, Ngày mai, Một ngày, Một năm mười hai tháng, Tháng sáu, tháng Bảy, Cuối năm,.. Bài Tháng sáu, tháng bảy, nhớ nhà thơ Thu Bồn và nhà thơ bế Kiến Quốc thật xúc động.

Tháng sáu mưa

Tháng bảy mưa

Nhặt thưa giọt giọt giữa trưa đầy buồn

Ai rồi cũng sẽ về nguồn

Khi sống là thác, chết hồn ra sao

Lung linh bạn phía trời cao

Đêm đêm tôi ngủ nhớ vào trong mơ…”

 Mảng thơ về Đồng Nai ghi dấu ấn khá đậm trong tập thơ. Đồng Nai “Không là nơi sinh ra, như là nơi ủy thác”, “Tôi neo lại sau nhiều năm phiêu bạt”. Lê Thanh Xuân cũng đã có mặt nhiều nơi trên đất Đồng Nai, và chính nơi ấy nhà thơ khám phá ra mình nhiều hơn bất cứ nơi nào khác. Ở Mộ cổ Hàng Gòn, nhà thơ đặt những câu hỏi ngàn năm: “Nghìn năm qua những gì nhỉ-Hỡi người…/ Ta hát bên bờ thời gian trôi qua mặt trời đỏ/ Nơi ta gửi lại nghìn năm sau một chút yên lòng. Những phút bên suối Lồ Ồ thật lãng mạn. Những tứ thơ đẹp thú vị:

“…Nhà ai bóng khắc lưng đèo

Tiếng chim neo lại mảnh chiều hoang sơ

Đêm nay hẳn lại nằm mơ

Nửa xa biển vỗ, nửa bờ trăng xanh”

 Bên núi đá Ba Chồng, nhà thơ trải lòng:

Ta như chút gió bất ngờ

Chút hoa như thể đợi chờ đường ong

Chút lòng như thể hiểu lòng

Sẻ chia với đá- chiều không là chiều

Ngẫm suy về dòng sông Đồng Nai, nhà thơ nhận ra mình:

“…Trước là sông, sau đời sông vẫn chảy

Trang giấy phù sa ăm ắp hương vườn

Ta như con chim từ năm tháng ấy

Chiều nay bay về một góc quê hương”

(Sông Đồng Nai)

Khi trở lại Vĩnh Cửu, nhà thơ nhận ra “Quê hương đã bao lần khói lửa/ Vẫn đứng lên làm cuộc đời này” và nhà thơ tìm lại sức sống: ”Tôi bám víu vào xanh biếc bao la/ Lấy lại sức từ quê hương vực dậy”. Đêm ngủ lại nguồn Đồng Nai, nhà thơ lại phát hiện: ”Thủy chung trong vắt đây rồi!/ Mai về tôi vẫn gặp tôi với nguồn.”. Cù lao Phố, Cát Tiên, Định Quán, Long Khánh, Bửu Long, Biên Hòa đều để lại dấu ấn trong thơ Lê Thanh Xuân. Bài thơ viết về Huỳnh Văn Nghệ, Lý Văn Sâm hay Thu Bồn là những bài suy gẫm sâu xa về giá trị nhân cách và ý nghĩa văn chương.

Nghìn trang văn lấp lánh giữa trần ai…

Ông không biết. Chỉ con đường mới biết

Phút thăng hoa lại vắng bóng người

Ta là chữ nghĩa muôn đời bất diệt

Đâu màng tiền, chỉ cần sắc hoa tươi

               (Con đường mang tên Lý Văn Sâm)

“…Câu thơ lấp lánh lưng trời

Nào ông đã khuất mà cỏ xanh mời mọc

Người vẫn cùng ta đó thôi!

Đi dưới rặng tre lối xóm

Khua nhẹ mái chèo song nước quê hương

Buồn vui hạt thóc mùa no mùa lép

Lòng dạ thẳng ngay như đại lộ can trường…”

(Bên mộ Huỳnh Văn Nghệ)

Có đến vài chục bài thơ trong tập Thơ Lê Thanh Xuân tôi gọi đó là Tạp thi vì không nằm trong một chủ đề nhất định. Có thể chỉ là ngẫu hứng của thi nhân khi hướng về một đối tượng nào đó. Đa phần là những suy nghiệm. Nhà thơ tìm ý nghĩa nhân sinh khi đời thực chỉ là “khoảng trống” tư tưởng. Tất nhiên nhà thơ không chìm vào bi kịch hư vô mà tìm thấy những ý nghĩa tích cực cho mình. Xin đọc: Khoảng trống, chiếc bàn, Cô bé có tóc bím, Góc nhỏ vươn hoa, Gieo trồng, Bất chợt, Bí mật, Cánh buồm, Cổng nhà, Hồn đá, Lời của đá, Ngụ ngôn về con chim, Những đàn chim di cư, Trong khu vườn xưa, Ngoài kia có một con đường, Sắp đặt, Góc nhỏ, Một chút phố xưa; và những bài thơ tình yêu như: Em, Gửi người bạn gái một thời, Nhớ xa, Không đề I, Một năm 12 tháng, Một ngày, Bến đò, Những mảnh vỡ mùa thu, Lửa, Sao Mai, Dốc Cun. Những điều đi qua, Ba mươi phút trên quốc lộ I,… Tuy không là những khám phá tư tưởng sâu sắc, nhưng lại là những gì làm nhà thơ trăn trở. Những bài thơ tình yêu có những tứ thơ tha thiết nao lòng. Bài Ngẫu hứng là một đối thoại triết lý: “Cõi trần là vô tận/ Nam mô đã dễ gì?”. Bài Ô Cửa sổ là một thoáng hiện sinh khi nhà thơ nhận ra mình là kẻ xa lạ (L’Étranger-A.Camus): “Ô cửa sổ màu sơn đã nhạt/ Tôi trở về tìm lại chính tôi/ Ô cửa sổ màu sơn đã nhạt/ Đứng nhìn tôi như một kẻ không quen”.

Có thể nhận thấy miền thơ của Lê Thanh Xuân khá mênh mông, xanh tốt và đầy hương hoa, thanh sắc. Thơ anh phong phú về thể loại. Tài hoa là những bài thơ Lục bát (trong tập có 22 bài thơ lục bát, 12 bài mang cốt cách tài hoa). Truyền thống là những bài thơ suy nghiệm (Cô bé có tóc bím, Khoảng trống, Ngoài kia có một con đường...). Mùa thu để lại cho anh những bài thơ lãng mạn rất hay (Trong khu vườn xưa, Những mảnh vỡ mùa thu, Bến sông, Lập thu, Mùa thu gửi bạn…) và thật đáng ngạc nhiên, ở tuổi anh vẫn làm được những bài thơ theo kiểu thi pháp của thơ trẻ đương đại (Lão tiều phu, Người đàn bà, Hoàng hôn, Phù sa, Cánh rừng cổ đại,…). Trong tập cũng có kiểu thơ Xã hội chủ nghĩa (Trăng qua nhà), thơ phong trào (Nhịp điệu Long Thành), thơ viết chơi (Viết ở rừng đước), có cả thơ không thơ (những bài thơ không nội dung, không tư tưởng, không tình cảm, nhưng vẫn là thơ do phẩm chất tài hoa của ngòi bút, như bài: Phía ấy). Màu sắc thẩm mỹ của thơ Lê Thanh Xuân cũng khá phong phú. Thấp thoáng có bóng dáng câu thơ Kiều (Nghe tiếng gà gáy trong thành phố), thấp thoáng những tứ thơ tóc trắng, mây trắng, núi cao, sông rộng, bờ lau, con thuyền của thơ cổ điển. Lại có cánh đồng, bờ ao, tiếng cuốc, tiếng gà, con cò, hạt mưa: “Hạt mưa bì bõm đồng sâu, hạt mưa vàng vọt mai cua”, gừng cay muối mặn, lục bình tím sông, con đò sang sông, con nhện đa mang của ca dao. Nhân vật Ta/Tôi đậm chất thơ ca Lãng mạn (1930-1945). Có cả bóng dáng Siêu thực như Buồn xưa của Nguyễn Xuân Sanh (Cánh rừng cổ đại). Ở miền thơ nào anh cũng có những bài hay, có sức gây ấn tượng vào neo được vào lòng người đọc, đúng như nhà thơ tự nghĩ về thơ mình:

“…Ông cày lên từ đất đá cằn khô

Rồi gieo vào đó những hạt con chữ nghĩa

Cây lên xanh qua năm tháng gió sương

Quả thơ chín giữa đời lặng lẽ

Rồi một ngày giữa cánh rừng xanh ấy

Ông thiếp đi trong giấc ngủ nhọc nhằn…”

(Gieo trồng)

  1. “Làm “phu” ghép chữ mới hay mình nhầm”

 Lê Thanh Xuân đã làm thơ mấy chục năm và anh có những thành tựu đã được khẳng định, vậy mà khi thưa chuyện với thầy Phạm Hùng, anh lại cho rằng mình đã “nhầm” đường: ”

Một đời chữ nghĩa khó lường rủi may

Sang sông, em đến bên này

Làm “phu” ghép chữ mới hay mình nhầm

                       (Lời thưa)

Và vì thế thơ anh mênh mông nỗi buồn, Nỗi buồn đong đưa, “Nỗi buốn/ biết gửi vào đâu?”(Không đề IV). Nhiều bài thơ anh viết về đêm, có đêm thức trắng suy tư (Sầm sập tối, Đêm ngủ lại nguồn Đồng Nai. Đêm thành phố, Đêm cao nguyên, Bóng cỏ, Hoa Pi pôốc, ) Trong đêm anh lắng nghe nhiều âm thanh mà suy nghĩ.( Nghe tiếng gà gáy trong thành phố, Nghe tiếng gà gáy ở Định Quán, Tiếng xa quay, Tiếng ru đêm, Tiếng ếch, Tiếng cuốc kêu, Tiếng gió, Tiếng cò đêm, Tiếng đập cánh…).  

 Bây giờ đêm nằm chạm tuổi bảy mươi

Chợt nhớ ngày xưa rất xa, rất sâu…

Thời gian đi qua như một đoàn tàu

Bây giờ chậm chân nhỡ chuyến…còn đâu!

(Không đề III. 173)

Trong nỗi buồn mênh mông ấy, có tâm trạng tha hương: “Trăng nửa tha hương/ Giấu trong sợi tóc/ Trăng nửa quê nhà/ Giấu trong tiếng khóc”(Thu), có nỗi đơn độc vắng bạn; Ta lạc ta mòn đêm/ Sân lầu cô đơn gió/ Trăng cao càng lạnh thêm” (Bóng cỏ) “Tri âm, tri âm quán xá/ Ta vẫn một mình ta/ Và nỗi buồn đầy ắp/ Theo tới cuối tuổi già” (Bạn), có nỗi đau của vết thương tâm còn lại của những cuộc tình chia xa (Những mảnh vỡ mùa thu). Có nỗi buồn đời giông bão, công danh mắc cạn: “Ta thì ta với cuộc đời lênh đênh/ Công danh mắc cạn đầu ghềnh” (Nỗi buồn đong đưa). Sâu xa hơn là nỗi buồn về đời thơ không vượt lên được: “Thời gian trôi mù mờ/ Thông điệp một ngọn gió/ Triết lý một giọt mưa/ Không thể xa hơn nữa/ Cũ như thể ngày xưa”(Bạn già). Và khi đối diện với tuổi già, nhà thơ đối diện với những câu hỏi về hiện sinh, về sự vĩnh cửu. Nhưng không có câu trả lời. Chỉ có khoảng trống.

Khỏang trống trên đầu tôi

Chẳng xanh về như cũ

Cứ mở dần xa xôi

(Khoảng trống)

Hơn bốn mươi năm lên rừng xuống biển

Tôi tìm gì trong cõi xa xôi?

(Thọ Nguyên)

“Khỏang trống trên đầu tôi” là khoảng trống về tư tưởng trong “Đêm u u nhịp gió độc hành” (Gieo trồng). Và gần như vô vọng: “Giấc mơ bờ bến bỗng thành bể dâu/ Đi đâu, rồi sẽ về đâu/ Nửa đêm chợt trắng mái đầu chiêm bao” (Không đề II). Nói vô vọng là ở chỗ Lê Thanh Xuân không vươn tới một hệ minh triết như nhà thơ xưa để thoát khỏi hệ lụy của đời phù du, không trở về cõi tâm linh với cái Tâm thanh tịnh, tâm rỗng rang của Phật để viết những câu thơ uy lực “Nhất khiếu trường thanh hàn thái hư”(Ngôn hoài-Không Lộ), không ngộ được Đạo để thơ bay trong cõi an nhiên (Độc tọa Kính Đình Sơn-Lý Bạch), cũng không dấn thân cho những giá trị nhân văn (Lời Dâng-Tagore) hay một lý tưởng nhân đạo nào để chia sẻ với tha nhân những vấn đề của kiếp người (như Nguyễn Du), vì thế thơ anh hàm chứa nỗi buồn miên viễn, dù anh có cuộc sống vật chất đầy đủ (Tiếng đập cánh), và anh chọn cuộc sống tại thế: “Niết bàn nơi mây trắng/ Nhập nhòa Phật với tiên/ Đời còn bao duyên nợ/ Tình chưa xua bóng đi/ Cõi trần là vô tận/ Nam mô đã dễ gì?(Ngẫu hứng).

  Nói như thế để thấy thơ Lê Thanh Xuân rất khác với những nhà thơ cổ điển, cũng rất khác với các nhà thơ hôm nay khi họ tìm về suối nguồn thơ cổ điển. Khi Lê Thanh Xuân chọn lựa ở lại cõi trần vì “Cõi trần là vô tận”, thì đó đã là tư tưởng, một sắc thái của tư tưởng Nhân văn. Tư tưởng này chi phối toàn bộ hồn thơ, tứ thơ Lê Thanh Xuân. Trong thơ anh, cảnh sắc thiên nhiên, dù là núi rừng, đồng quê hay sông biển, thì đều rất đẹp. Tình người dù ở nơi đại ngàn, nơi thảo nguyên, hay vùng đồng bằng, nơi miền quê, đất Mũi… cũng rất đẹp, rất thân thương, ấm áp. Và điều đặc biệt là, tư tưởng này giúp anh nhận ra cái đẹp và ý nghĩa của cuộc sống xung quanh, dù đó là cái bàn, là cô bé có bím tóc hay khóm lục bình trôi, một sắc hoa mai mùa xuân ở Nam bộ, mùi bùn ở đất Mũi, chiếc khố rách bươm ở Madagui, tiếng cót két của nhà sàn ở Ngổ Luông. Tập thơ đọng lại những bài rất hay về tình quê, tình bạn, tình đồng đội, gia đình liệt sĩ (Trong ngôi nhà), tình cảm dành cho cha, mẹ, cho Lão tiều phu, người thiếu phụ, Người đàn bà, người mẹ ru con suốt đêm, cho cô gái chăn bò trên thảo nguyên… Vì thế anh sống tuổi già với “xanh làm bầu bạn”.

Cuộc độc hành chưa phải dừng tại đây

Dù con đường phía sau đã dài hơn phía trước

Và buổi trưa nay chợt nhặt được

Tiếng chim trời và những đóa hoa tươi

Trong tiếng chim có cánh bay vô tận

Trong hoa tươi có hạt sẽ nảy mầm

Tôi lấy sức và tự tin dấn bước

(Buổi trưa này)

Tuổi già tôi lấy xanh làm bầu bạn

Lấy hương hoa làm phấn kích niềm vui…

…Rồi đêm đến tôi mơ chân trời cũ

Theo cánh chim mới mẻ những đường bay.

  (Tiềng đập cánh)

  1. Xanh đến tận cùng, mới đến tinh khôi”

 Đã có lúc Lê Thanh Xuân chia sẻ với bạn già ý tưởng này về thơ, tôi nghĩ anh rất thành thật với chính mình:

Thời gian trôi mù mờ

Thông điệp một ngọn gió

Triết lý một giọt mưa

Không thể xa hơn nữa

Cũ như thể ngày xưa

             (Bạn già)

Anh tự nhận ra con đường nghệ thuật không thể đi xa hơn nữa, thơ anh không thể mới hơn mà chỉ là cũ như thể ngày xưa. Những gì anh viết, anh gửi gắm trong thơ (thông điệp) chỉ là ngọn gió, thoáng qua không đọng lại gì, và hiện sinh chỉ là giòng trôi mù mờ.

Thơ trong tập Thơ Lê Thanh Xuân có nhiều bài hay và tài hoa, song cũng có bài phẩm chất nghệ thuật như anh tự nhận định. Thơ Lê Thanh Xuân nằm trong dòng chảy ”thơ truyền thống”. Anh đã có nhiều nỗ lực đổi mới thơ, chẳng hạn, anh phối hợp nhiều kiểu thi pháp kể cả có nhiều bài tiếp cận với thi pháp Hậu Hiện đại.

Dù thế nào, với 170 bài trong tập Thơ lê Thanh Xuân đã quá đủ để khẳng định một tài thơ, một tấm lòng, một nghị lực sống và một tâm hồn đầy ắp xanh. Và điều đáng quý là anh không chỉ lấy xanh làm bầu bạn mà là một thái độ sống, thái độ nghệ thuật quyết liệt, can trường “Xanh đến tận cùng, mới đến tinh khôi”

 Nghìn năm qua những gì nhỉ-Hỡi người…

Ta hát bên bờ thời gian trôi qua mặt trời đỏ

Tơi ta gửi lại nghìn năm sau một chút yên lòng”

 Mùa xuân Bính Thân 2016

 

____________________________________

(*) Nhà thơ Lê Thanh Xuân,

Hội viên Hội Nhà  Văn Việt nam,

hội viên Hội Nhà báo Việt Nam,

hiện là Trưởng Ban Văn học Hội VHNT Đồng Nai

Các giải thưởng:

Giải thưởng cuộc thi bút ký báo Văn Nghệ (Hội Nhà Văn VN) 1986-1987

Giải thưởng cuộc thi thơ báo Văn Nghệ (Hội Nhà Văn VN) 1998-2000

Tặng thưởng thơ hay báo Văn Nghệ (Hội Nhà Văn VN) 2001

Tặng thưởng thơ hay tạp chí Văn nghệ Quân đội 2002

Giải B (không có giải A) Giải Trịnh Hoài Đức (Đồng Nai) lần II (2000-2005) và lần III (2006-2010)

12 giải thưởng văn học các địa phương

 

 

 

 

NGÀY XUÂN ĐỌC THƠ LÊ THÀNH NGHỊ-Bùi Công Thuấn

NGÀY XUÂN ĐỌC THƠ LÊ THÀNH NGHỊ

(Tập thơ Mùa không gió & Mưa trong thành phố. Nxb HNV 2014)

 

Bùi Công Thuấn

 

LLPB-TS Lê Thanh Nghị

Ts Lê Thành Nghị

 

Mùa xuân đang về. Đất trời yên vui, lòng người phơi phới. Thơ giăng mắc đâu đây. Nếu được đọc một câu thơ hay thì thật là hạnh phúc. Và tôi đã gặp được những câu thơ đầy ắp hạnh phúc này trong tập thơ Mùa không gió Mưa trong thành phố của Ts Lê Thành Nghị:

Bát ngát con đường quê cuối chạp

Lòng theo vạt nước chuyển ra giêng

Bốn bề thơm thảo giàn gấc chín

Hoa cải vàng theo đến bến sông

(Chợ huyện)

Tập thơ được Giải thưởng Nhà Nước. Trong tập có in bài viết của Tiến sỹ nhà thơ Nguyễn Sỹ Đại, Ts Lưu Khánh Thơ và nhà phê bình Chu Thị Thơm. Bấy nhiêu đã quá đủ khẳng định giá trị các tập thơ. Hơn nữa nhà thơ Lê Thành Nghị còn là nhà phê bình văn chương, thơ anh thể hiện quan điểm sâu sắc của anh về thơ, vì thế, thật khó có thể chia sẻ được điều gì đó với tác giả và bạn đọc về tập thơ này trong những ngày xuân.

1.Những bài thơ hay và phẩm chất “tài hoa bẩm sinh 

Đánh giá tập thơ, Ts Lưu Khánh Thơ nói đến “tâm hồn đa cảm và điềm tĩnh” của nhà thơ Lê Thành Nghị (tr.209). Còn nhà phê bình Chu Thị Thơm thì nhận ra “Lê Thành Nghị là người lữ hành cô đơn, trầm tĩnh, sâu lắng và luôn trăn trở, lo âu” (tr.112). Ts Nguyễn Sỹ Đại cũng nhận xét tập thơ là của “một tâm hồn đã được thanh lọc và theo thời gian ngày càng đằm thắm”(tr 16).

Tôi tự hỏi, phải chăng những phẩm chất “trầm tĩnh, đa cảm, đằm thắm” của Lê Thành Nghị chính là “cái hay” của thơ ông? Là giá trị của thơ ông không? Và là cá tính sáng tạo của nhà thơ? Câu trả lời là không. Bởi ở ngoài đời, con người xã hội của Lê Thành Nghị vốn đã là người đằm thắm, sâu sắc. Vậy điều gì giúp Lê Thành Nghị viết nên những bài thơ hay, và điều gì làm nên phẩm chất thi sĩ của Lê Thành Nghị?

Tập thơ Mùa không gió Mưa trong thành phố có nhiều bài hay. Nhưng tôi hoài nghi nhận định này của Ts Nguyễn Sỹ Đại: ”Lê Thành Nghị có nhiều câu thơ hay không chỉ vì là người có tài hoa bẩm sinh mà còn là người từng trải, dần dà chín một cảm thức nhân loại” Hoài nghi bởi cho rằng Lê Thành Nghị là “tài hoa bẩm sinh”, càng hoài nghi hơn về nhận định thơ Lê Thành Nghị đạt đến cảm thức nhân loại. Nếu được như vậy, chắc chắn Lê Thành Nghị đã là nhà thơ thiên tài, vượt hơn cả Nguyễn Du!

 Xin thử khám phá cái hay trong tập thơ Mùa không gió Mưa trong thành phố.

Lá rụng ngày đi như gió cuốn

Dế kêu tê dại cỏ trong vườn

Ai về tát cạn ao phiền muộn

Để mẹ thôi buồn, thôi ngóng trông

(Nhớ mẹ)

Tứ thơ có sức gây ấn tượng mạnh mẽ, chuyển tải được cả tâm tình của nhà thơ và tấm lòng người mẹ. So với nhiều bài thơ viết về Mẹ trong chiến tranh của thơ ca Việt Nam đương đại, bài Nhớ mẹ là bài có những tứ thơ độc đáo.

Núi còn lại một vệt mờ xa thẳm

Tháng ngày đi rách nát cả cây buồm

Hình như chim vẫy cánh ngoài vô tận

Còn ta: bờ lau bạc suốt trăm năm.

(Người đi)

Ai đã quen đọc thơ Đường, đặc biệt là Lý Bạch (Độc tọa Kính Đình sơn, Vọng Lư sơn bộc bố, Dạ túc sơn tự…) thích thú với tứ thơ tư tưởng, mới lạ phóng khoáng, khí thơ mạnh mẽ, hẳn phải ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của bài thơ Người đi. Và sẽ không ngạc nhiên khi nhà thơ làm bạn với Lý Bạch:

Ta lạc giữa đám người đơn độc

Ngoài kia trăng như một gã vô hồn

Nghiêng cạn chén: Thi trung càn khôn đại

Cô đơn thay khi Lý Bạch không còn

(Quán rượu trên đường Vương Thủ Tỉnh)

Xin hãy cùng nhà thơ quan sát Hồ Tây về đêm:

“Có vạt nắng pha lê chiều rớt xuống

Vỡ tan trên thềm đá, hóa thành trăng.

 Hoàng hôn hồ, pha lê sóng, mỏng tang

Giấu một cặp mắt huyền trong lá biếc.

 Chừng như gió kéo tiếng chim đi hết

Để làm cây rơi mấy chiếc lá buồn”

(Tây Hồ đêm)

Bài thơ này có thể xếp vào những bài thơ lãng mạn hay nhất của thi ca Việt Nam, bởi không chỉ ở sự khám phá tứ thơ đẹp mà còn ở sự tinh tế tài hoa rất mực của hồn thơ.

Bài thơ Một mình là tâm trạng tác giả về thăm thị xã. Những khổ thơ mở đầu thuật lại sự việc một cách tự nhiên, dung dị. Nhưng khổ thơ kết, tứ thơ bỗng bùng nổ, vừa quen thuộc gần gũi, vừa mới lạ, độc đáo không ngờ.

“Lâu lắm lại về thị xã

Chiều không uống rượu mà say

Chân trần buông trên dặm cỏ

Tên mình ai khắc thân cây

.    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .

Sông như sông rượu đong đầy

Chén nâng một mình sao cạn?

Thương nhớ người đi muôn dặm

Ta với mây bàng hoàng bay”

(Một mình)

Có thể kể ra nhiều bài thơ hay khác như: Không đề I, Hồng Lĩnh, Bến đò Thuận Châu, Trong suốt sông Kỳ Cùng, Ký ức mùa thu Hà Nội ..

Lướt qua một vài bài thơ như vậy, người đọc cũng có thể nhận ra ngay điều làm nên đặc sắc thơ Lê Thành Nghị là ở tứ thơ. Thơ Lê Thành Nghị không mới lạ về lời về nhạc hay nội dung. Giọng điệu thơ Lê Thành Nghị cũng không gây được ấn tượng riêng. Cả về thể loại, bút pháp, thơ Lê Thành Nghị cũng không có sự cách tân nào, vẫn là thơ “truyền thống”. Nhưng Lê Thành Nghị khám phá được nhiều tứ thơ đẹp và lạ. Ở nhiều bài, cấu tứ cũng tạo nên hiệu quả nghệ thuật và tư tưởng. Tứ thơ của Lê Thành Nghị là kiểu tứ thơ Đường, thiên về cái đẹp trí tuệ và tư tưởng, dù rằng Lê Thành Nghị chưa vươn tới thơ tư tưởng. Tuy nhiên tứ thơ của Lê Thành Nghị có sự pha trộn phẩm chất của nhiều thể loại thơ, vừa là trí tuệ vừa là suy tưởng lãng mạn, vừa là tự tình hướng nội vừa vươn xa vào vô tận, vừa thoát lên thực tại vừa trải nghiệm hiện sinh, vừa dung dị dân dã, vừa sang trọng thanh cao. Dẫu thế nào Thơ Lê Thành Nghị có thể đóng đinh vào tâm tưởng người đọc bằng những tứ thơ của riêng ông. Xét ở góc độ này, không phải nhà thơ đương đại nào cũng thành công.

Hồng Lĩnh

 Dưới xa suối đổ ầm ào

Gió gào vách đá

Dưới xa ràn rạt cát bay trắng xóa

Xôn xao chân trời hoa lau

 

 Hình như càng lên cao

Bốn bề càng yên lặng

Ngôn ngữ của mây là trắng

Ngôn ngữ của trời là xanh

 

Có chàng trai về đến Sóc Sơn

Hóa thân thành im lặng

Có miền đất im lìm đứng lên

Tự mình xây núi lớn

Bài thơ Hồng Lĩnh mang được những đặc điểm thi pháp thơ Lê Thành Nghị cùng với cốt cách thi nhân của ông. Khổ thơ đầu chỉ là tả cảnh, phác những nét dung dị. Khổ thứ hai là nhận thức hướng nội, một cảm nhận ai cũng có khi lên cao. Và khổ thứ ba, tứ thơ thật mới lạ, phóng khoáng mạnh mẽ và đằm thắm thâm trầm. Không còn là hình ảnh mà là tư tưởng. Đó là kiểu tứ thơ Đường, tứ thơ thẩm mỹ-tư tưởng. Đọc bài thơ thật chậm, lắng tâm hồn vào cảnh và để cho tư tưởng tan chảy trong mọi góc nẻo nghĩ suy, người đọc sẽ cảm nhận được cái đẹp, cái hay của cảnh, của thơ và của hồn thơ.

2.Thử định vị tiếng thơ Lê Thành Nghị

 Thơ Lê Thành Nghị là thơ nhận thức-trữ tình- hướng nội. Xin đọc bài Hồng Lĩnh là một thí dụ. Đặc điểm này chi phối cách cấu tứ và là diễn trình tâm trạng-tư tưởng của bài thơ, cũng có thể coi là kiểu tư duy thơ Lê Thành Nghị. Ở đặc điểm này, nhân vật tữ tình Tôi (Ta) là chủ thể của bài thơ. Cảnh vật, khách thể chỉ là đối tượng nhận thức, khám phá. Phản ứng bên trong của cái Tôi mới làm nên phẩm chất thơ. Vì “cái tôi” là chủ thể tìm kiếm, nhận thức cho “tôi” nên thơ hướng nội. Đọc thơ Lê Thành Nghị để tìm hiểu “giá trị phản ánh hiện thực” như thơ “truyền thống” thì người đọc sẽ thất vọng. Lê Thành Nghị làm thơ không phải để “phản ánh hiện thực” như thơ Hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Thơ Lê Thành Nghị vượt lên không gian, thời gian và khác thơ “truyền thống” là ở đặc điểm này.

Xin đọc bài thơ Dưới chân cầu

 Dưới chân cầu mây trắng từ cổ tích

Chiếc cá buồn búng chạm phải hư vô

Vòng sóng đến vô cùng bắt đầu từ một chấm

Ta thực ngàn lần nhìn ta trong mơ

 

Ta thực: đứng trên cầu tóc bạc, gió qua vai

Năm tháng xếp sau lưng, đường dài trước mặt

Bóng gầy guộc đổ về bên ấy dốc

Lòng lặng yên như một mặt hồ đầy

 

Ta mơ: dưới chân cầu cả bóng mây, bóng cây

Cả bông hoa, bóng ta và bóng nước

Nước cứ chảy giữa hai bờ hư thực

Nối âm với dương, nối đêm với ngày!

 

Biển thời gian-nước chảy bao giờ đầy?

Mỗi con người: một tích tắc, tích tắc

Ngày đi như nước xiết

Định đưa ta về đâu đây?

 Bài thơ không có chút bóng dáng nào của hiện thực ngoài dòng tâm trạng-tư tưởng của chủ thể Ta khi đứng nhìn chân cầu mà tự nhận thức về Ta. Ta thựcta mơ. Ta và tất cả chỉ là cái bóng và thời gian không biết sẽ đưa ta về đâu? Câu hỏi gần chạm đến vấn đề triết lý. Gọi bài thơ này là thơ Lãng mạn cũng hoàn toàn đúng, bởi tiếng thơ là tiếng nói nội tâm của chủ thể, trước một khách thể (dưới chân cầu), thoát ra khỏi mọi vấn đề của hiện thực chính trị xã hội. Đứng dưới chân cầu, “Ta thực ngàn lần nhìn ta trong mơ” chứ không nhận thức cuộc sống đang diễn ra dưới chân cầu. Người đọc cũng không rõ là cầu nào, ở đâu, thời gian tác giả đến đó là lúc nào. Nói cách khác, ngoại cảnh đã bị bỏ qua, chỉ còn lại nhận thức và tâm trạng và chủ yếu là nhận thức về Ta.

Những bài thơ có đề tài về đời sống thực trong tập thơ khá nhiều, song nhận thức của cái Ta xóa nhòa mọi đường nét của hiện thực. Xin đọc: Người bán hương trầm năm ngoái, Những người chết trẻ, Bến đò Thuận Châu, Quán rượu trên đường Vương Thủ Tỉnh, Đêm ngoại thành, Trong rạp xiếc, Miền đất quê hương, Tạm biệt Nha Trang, Mùa lá xanh, Bất tử, Sông Nghèn gặp lại,…Nhan đề những bài thơ trên gợi ra chỗ đông người, có thể nơi ấy dồn tụ vấn đề của hiện thực, có thể nơi ấy lộ ra những đợt sóng, và có thể nơi ấy là một mặt cắt khuôn mặt thời đại. Nhưng đọc những bài thơ ấy, người đọc vẫn chỉ bắt gặp nhân vật trữ tình Tôi nhận thức suy nghiệm và nhìn vào lòng mình.

Tại bến đò Thuận Châu, Ta đứng trong xa lắc mịt mù:

Bờ vắng vẻ, chỉ mình ta đứng đợi

Vai mang lời hẹn cũ, sáng nay về

Buồm nhỏ xíu-người đi đâu mãi mãi

Xa lắc bờ, thăm thẳm nước, mịt mù mưa

(Bến đò Thuận Châu)

Tại Quán rượu trên đường Vương Thủ Tỉnh, dù đông người, Ta vẫn cô đơn:

Ta lạc giữa đám người đơn độc

Ngoài kia trăng như một gã vô hồn

Nghiêng cạn chén: Thi trung càn khôn đại

Cô đơn thay khi Lý Bạch không còn

           (Quán rượu trên đường Vương Thủ Tỉnh)

Ở ngoại thành: “Chỉ còn tôi một mình/ Ra ngoại thành với gió nội/ Với hương đồng/ Xa dần phố bụi…/ Lâu lắm rổi lại ngồi ngắm mây cao/ Tôi thầm lặng và hình như đã khóc/ Có thể chẳng bao giờ còn ai hiểu được/ Nỗi cô đơn ngay giữa phố ồn ào”. Ở trong rạp xiếc với rất nhiều trò diễn, nhưng Tôi chỉ nghĩ suy về những trò diễn đó. Miền đất quê hương là bài thơ kể chuyện về quê, nhưng tuyệt nhiên không có bóng người nhà quê, làng quê, đời sống dân quê, với những vấn đề của “Tam nông”, mà chỉ có tự nhận thức tâm trạng của thi nhân: ”Trở về làm cơn mưa sạch, Trở về miền thương nhớ, Miền đất lửa, Miền cỏ biếc, Trở về làm cơn gió mát”…Rượu quê là bài thơ có tứ rất hay, cảm xúc dạt dào chếnh choáng, nhưng vẫn vắng bóng đời sống hôm nay, chỉ có cái nhìn và cảm xúc của thi nhân, một mình, lãng mạn: ”Núi cao say đứng, núi thấp say nằm/ sỏi đá và mặt trời cùng nhòe dưới suối/ vạt lau mùa không gió thổi/ Ngả nghiêng trong trăng!”

 Tập thơ có nhiều bài viết về hoa, cỏ, về chùa chiền, về biển, về đêm, nhưng tất cả chỉ là cớ để nhà thơ nhận thức và suy tư. Và đôi khi tìm ra được một chân lý nào đó của cuộc sống. Xin đọc các bài:  Triết lý của hoa, Hoa cúc rừng Cúc Phương, Hoa Ngọc Hà, Bốn bông hồng bất hạnh, Hoa thuở ban đầu, Hoa đại, Hoa loa kèn, Hoa xương rồng, Mùa hoa soan, Mùa hoa Hoàng Lan, Hoa gạo, Gửi biển, Cỏ, Trúc, Vô thức tiếng chim đêm, Trong cỏ,Yên Tử, Vãng chùa Trấn Quốc, Chiều Hồ Tây, Chùa Hương, Ở chùa Quang Tự,…

 Đây là tự nhận thức của nhà thơ về Hoa ở rừng Cúc Phương: “Trong bóng tối/ Một nhánh lan vàng/ Hương ngập tràn mặt suối!/ Ừ nhỉ/ Hoa đâu chỉ đẹp và thơm/ Chỗ đông bàn chân tới”. Đây là sự khám phá tư tưởng của nhà thơ về cỏ: “Vô hạn những triền sông, ngút ngát những chân đê/ Một nền xanh dưới chân mây…là cỏ/ Em nhớ không dưới nền xanh lặng đó/ Nhân loại ngủ im lìm”(Trong cỏ). Biển gợi ra sự tương quan vũ trụ và con người, để từ đó con người cần có thái độ đúng:“Biển có thể làm tiêu tan những con tàu, nhận chìm những đỉnh núi/ Làm gió cuồng phong, làm mặt trăng mờ/ Biển có thể lấp nghìn mặt trời đang cháy/ Khi chàng Thủy Tinh đến muộn giờ./ Nhưng so với giải Ngân hà/ Trái đất không đáng là hạt bụi/ Biển là gì trong lòng hạt bụi ấy/ mà giận dữ, kiêu sa!”(Gửi biển). Đến chùa Quang Tự, nhà thơ chỉ là kẻ lữ hành lãng mạn, tuyệt nhiên không đến chùa để tìm kiếm Phật: ”Nắng loang trên sân chùa/ Trên vòm xanh cổ thụ/ Mùa thu về từ đó/ Mùa thu từ mái cong…/ Ta là kẻ tha hương/ Mỏi chân bên chùa cổ”. Chùa Yên Tử là nơi linh thiêng, nơi “nến cháy thôi miên cùng kinh kệ/ Lung linh mờ tỏ những nhang đèn”, nhưng lòng trần của nhà thơ lại chưa dễ tắt, thành ra nhà thơ vãn cảnh chùa không phải để tìm sự thanh tịnh siêu thoát, viếng chùa chỉ là sự vô tình của khách lãng du: ”Lòng trải vô biên cùng dương thế/ Bóng chiều chưa dễ tắt ngoài hiên/ Ta về ngẩn ngơ cùng tre trúc/ Kìa lối vào mây đến cửa Thiền”(Yên Tử)

Vì là thơ hướng nội, Lê Thành Nghị viết về chiến tranh cũng khác với các nhà thơ thời chống Mỹ. Thơ chống Mỹ là tiếng nói của tập thể, là thơ kể người kể việc, kể những sự tích anh hùng, kể những nỗi gian lao hùng tráng. Trên khắp mọi chiến trường, thơ là tiếng ca hát cổ vũ, là tiếng gọi đồng chí đồng đội để sẻ chia. Thơ cũng là những hồi kèn xung trận ào ạt (“Tiến lên chiến sĩ đồng bào/ Bắc nam sum họp xuân nào vui hơn”-Hồ Chí Minh). Thơ hướng nội của Lê Thanh Nghị không kể lại đời chiến đấu gian khổ hào hùng, không tụng ca sử thi hay tô đậm sự hy sinh trở thành bất tử. Ngay cả sự bất tử cũng là lặng im.Viếng nghĩa trang Đồng Lộc, nhà thơ nhận thức: ”Bốn bề lặng im lặng im lặng im/ Hình như những gì hóa thành bất tử/ Đều lặng im!”. Chiến tranh được thể hiện qua tấm lòng người mẹ với những đứa con đi xa: “Ôi để hiểu giá của một ngày hòa bình/ Hãy sinh những đứa con trai/ Và như mẹ/ Đêm đêm ngồi chờ từ mặt trận”. Chiến tranh đọng lại những gì sâu sắc nhất, nặng lòng nhất, dù là hùng tráng hay bi thương, dù là hy vọng hay tuyệt vọng, tất cả đều chất đầy nỗi ưu tư trong lòng mẹ; và dù không nghe tiếng súng thì những vết đạn trong tim mẹ vẫn không thôi máu chảy.

Lê Thành Nghị nói chuyện với Chế Lan Viên bằng chính loại thơ suy tưởng chính luận của Chế, cũng với giọng điệu thơ Chế, nhưng là thơ hướng nội, Lê Thành Nghị suy nghiệm về đời thơ và thân phận thi sỹ cho mình. Những suy nghĩ được ẩn dụ hóa trở thành ngôn ngữ ẩn mật để nói những vấn đề của hiện thực. Xin đọc:

Thi sỹ (tặng Chế Lan Viên)

Người ta đẩy quan tài anh về gần ngọn lửa

Càng lúc Chế càng xa nước-mắt-cuộc-đời

Anh đến: đột ngột… như một niềm kinh dị

Anh đi: bang hoàng như trái đất đang rơi!

 

Người vẫn nói về lửa và tro đã nhẹ cánh bay

Hạt bụi bay một vòng trước khi là mãi mãi

Có những câu thơ dù thiêu cũng không thể cháy

Như thể lửa càng to, thảm cỏ mọc càng dầy.

 

Sống cạnh trăng sao chết hóa trăng sao

Cảm ơn cuộc đời đã dâng ta đôi cánh

Đôi khi ngước nhìn trời: một nền lấp lánh

Thi nhân vẫn sáng đèn giữa đêm thâu”

 

  1. Còn ta: bờ lau bạc suốt trăm năm”.

 Cái tôi trữ tình trong thơ (Ta, Tôi) có thể là một yếu tố giúp ta nhận diện thơ. Sự khác biệt giữa thơ cũ và Thơ Mới (1930-145) được Hoài Thanh phân biệt: “Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và thời nay – hay thơ mới – có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi”; “Đời chứng ta đã nằm trong vòng chữ tôi..” “Ta” trong thơ cũ dù có cái khí phách tung hoành nhưng là “cái Ta” đầu đội Thiên Mệnh vai gánh đạo trung hiếu (Cao bá Quát, Nguyễn Công Trứ) và nhuốm màu Lão-Trang. “Cái Tôi” trong Thơ Mới là cái Tôi cá nhân chủ nghĩa phương Tây: “Với tôi tất cả như vô nghĩa/ Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”(Xuân-Chế Lan Viên). Thơ Kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ trở lại với “cái Ta”, nhưng là “cái Ta” quần chúng, cái Ta công dân. Điều này khởi đi từ Tuyên Ngôn Độc Lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến nhân dân ta, đồng bào ta, nòi giống ta, dân tộc ta, nước ta, cuộc khởi nghĩa của ta. Trần Mai Ninh viết Nhớ máu: ”Còn mấy bước tới Nha Trang /- A, gần lắm!/ Ta gần máu,/ Ta gần người / Ta gần quyết liệt.” Nguyễn Đình Thi viết: “Nước chúng ta/ Nước của những người chưa bao giờ khuất…”(Đất Nước). Và Tố Hữu: “Khi ta đứng lên cầm khẩu súng / Ta vì ta, ba chục triệu người/ Cũng vì ba ngàn triệu trên đời!”(Miền Nam)

Và đọc những bài thơ Một mình, Người đi, Vô Thức triếng chim, Dưới chân cầu, Đêm ngoại thành, Mẹ trên cao… người đọc sẽ nhận ra cái riêng của nhân vật trữ tình Tôi/ Ta trong thơ Lê Thành Nghị.

Sông như sông rượu đong đầy

Chén nâng một mình sao cạn?

Thương nhớ người đi muôn dặm

Ta với mây bàng hoàng bay

                 (Một mình)

Núi còn lại một vệt mờ xa thẳm

Tháng ngày đi rách nát cả cây buồm

Hình như chim vẫy cánh ngoài vô tận

Còn ta: bờ lau bạc suốt trăm năm

                (Người đi)

Nhân vật Tôi (Ta) đi nhiều nơi: Ngồi trong Quán rượu trên đường Vương Thủ Tỉnh mà nhớ Lý Bạch hay ở Tử Cấm Thành Bắc Kinh để thấy rõ lẽ hưng phế của lịch sử; trên Hồng trường Matxcơva mùa đông tuyết đang tan, và biết rằng Matxcova không tin vào những giọt nước mắt. Ở rừng Cúc Phương, một nhánh Lan vàng tỏa hương đủ nhận ra một giá trị, lên Yên Tử mà ngẩn ngơ vì cảnh sắc, vãng chùa Trấn Quốc để đắm mình trong cõi sắc không, lá rụng, rêu phong. Hồ Tây chiều và đêm làm say lòng thi nhân với một bồ sương, hoa sữa, “hoàng hôn hồ, pha lê sóng, mỏng tang” và nghe mấy chiếc lá buồn rơi. Nhưng khi thăm Quảng trị, một thoáng mùa hè, nhà thơ cùng với các liệt sĩ, sống những ngày lửa đạn ác liệt hy, nơi Thành cổ ”mỗi lá cỏ một cây buồm, một lời thề, một ngọn nến, một linh hồn từ đất nhô lên…”để cùng với nhà thơ “nhận ra thông điệp của hòa bình”. Ai đã đến Nha Trang thì có thể chia sẻ những tiếc nuối của nhà thơ khi từ biệt Nha Trang không biết bao giờ về, bao giờ về với biển, dù biết chắc sẽ có ngày trở lại. Phong Châu, đền Hùng là nơi linh thiêng của dân tộc, nhà thơ đã đến đây thắp nén hương trải lòng mình cùng non nước. Cái cảm thức lịch sử của mỗi người dân Việt khi qua ải Chi Lăng là niềm tự hào vô biên khi đứng ngay tại nơi kẻ thù bị đánh bại. Nhà thơ thể hiện niềm tự hào ấy khi hình tượng hóa cô hồn Liễu Thăng chỉ còn là cánh dơi bay trong chiều vì đã quên đường về phương bắc. Trở về vùng đất quê bình, thi nhân để lòng mình cháy lên niềm thương nhớ với một miền đất lửa. Gặp lại Sông Nghèn người thơ khẳng định đất nước này trường tồn mãi, dù nghìn năm trước hay nghìn năm tới “sông vẫn thì thầm điềm tĩnh chảy giữa bờ ngô”. Thi nhân có khi đứng đợi ở bến đò, ở dưới chân cầu để tự chiêm ngắm mình, hoặc trở về bờ sông nghe tiếng chim đêm, hoặc nghe tiếng dế đêm hòa nhạc; Có khi ngồi ở ngoại ô, “Tôi thầm lặng và hình như đã khóc/ Có thể chẳng bao giờ còn ai hiểu được/ Nỗi cô đơn ngay giữa phố ồn ào”. Lại có khi người thơ ngắm hoa mà suy gẫm về triết lý của hoa, hoặc ngắm mưa mà nhớ bạn ngã xuống ở Tây Nguyên năm nào ”Giữa mịt mù miên man mưa rừng. Bom dội trong mưa, rừng cháy trong mưa”. Nói chuyện với thi sỹ, với Nam Cao, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, với thi đàn là tiếng nói tri kỷ; nói chuyện với biển, với cát, với mùa thu…là để lòng mình bay lên.

Theo chân nhà thơ trên mọi miền của hiện thực hẳn người đọc đã nhận ra những phẩm chất thẩm mỹ riêng của nhân vật trữ tình Ta/ Tôi trong thơ Lê Thành Nghị. Đó là một “cái Tôi” gắn bó sâu nặng với lịch sử (Qua Chi Lăng gặp Liễu Thăng), với dân tộc (Về Phong Châu), với quê hương (Miền đất quê hương, Rượu quê, Bãi đá quê hương, Chợ huyện), với gia đình, đồng đội (Bất tử, Mưa trong thành phố, Quảng Trị, Bên đài liệt sĩ vô danh), và với cuộc sống xung quanh (Đêm gió lớn, Người bán hương trầm năm ngoái, Những người chết trẻ). Cái Tôi luôn nhận thức, suy tư và không ít trăn trở về nhiều vấn đề. “Bao nhiêu câu hỏi/ Ai trả lời tôi/ Gió thì mại thổi/ Nước thì bận trôi!”(Những câu hỏi thường ngày). Cánh buồm đỏ thắm là một loạt câu hỏi nặng lòng trước sự thật “không thể khóc thêm được nữa, không thể mềm hơn được nữa, không thể xót xa hơn được nữa, bao giờ…bao giờ?. Bài thơ Triết lý của hoa là nghĩ suy về thói hư danh. Bài Hoa xương rồng, Hoa gạo, Trước đài hóa thân hoàn vũ có những tứ thơ nói về lý tưởng sống: ”Đã hóa thân làm lửa/ Cháy hết mình mới thôi/ Dù trong mưa trong gió”, “Xin được cháy cùng một nghìn ngọn nến/ Hóa tro tàn với bạn để lên mây”.. Bài Thi Đàn, Thi sĩ là sự bày tỏ quan điểm về thi ca về người làm thơ:“Nhưng bạn ạ đừng mang theo cái ác/ Sợ đêm dài bóng tối sẽ dài thêm/ Những ồn ào, những hỏa mù phù vân/ Và cái ác sẽ hóa thành tro bụi”, dù vậy,“Cái ác bao giờ cũng ngụy trang rất kỹ/ Và hết sức đê hèn, rút cục: ác chỉ vì ăn”(Discovery). Cũng có những câu hỏi không có câu trả lời: “Biển thời gian-nước chảy bao giờ đầy?/ Mỗi con người: một tích tắc, tích tắc/ Ngày đi như nước xiết/ định đưa ta về đâu đây?”(Dưới chân cầu), “Có phải cõi người hữu hạn/ Ta là một chớp mắt không? (Nắng của ngày đã mất). “Bước chân năm tháng chừng thêm mỏi/ Ta biết về đâu giữa gió mưa”(Mưa qua Truông Vùn).Ta sẽ mắc vào đâu/ Những mắt lưới muộn phiền” (Vô thức tiếng chim đêm), vì nỗi buồn thì vô hạn: ”Khuất sau cành hoa tím/ Trong bình rượi Làng Vân pha lê/ Những câu thơ đầu đời/ Những chùm cúc biển/ Những đồng xu cuối cùng/ Những giọt nước mắt/ Trong vắt buồn(Không đề I). Trong nỗi cô đơn, nhà thơ tự nhận ra: “Ta một mình hóa đá giữa sân mưa”(Mưa trong thành phố), “Tôi là hòn đá bị quên/ Giữa trong ngần suối”(Nhớ suối tận nguồn).

Những suy tư trăn trở ấy ẩn rất sâu dưới một tâm hồn yêu đời (Nắng cùa ngày đã mất), một sự tĩnh lặng đạt tới cõi an nhiên. “Ta thực: đứng trên cầu tóc bạc gió qua vai/ Năm tháng xếp sau lưng, đường dài bày trước nặt/ Bóng gầy guộc đổ về bên ấy dốc/ Lòng lặng yên như một mặt hồ đầy(Dưới chân cầu). Trong tư tưởng của Lê Thành Nghị, không có bóng dáng của Thiên Mệnh, không có bóng dáng của Phật hay Lão, cũng không có ảnh hưởng nào của những tư tưởng triết học phương Tây, vậy điều gì làm nên nền tảng tư tưởng cho thơ Lê Thành Nghị? Ông suy tư về cuộc đời, về lẽ đời, về nhân sinh vũ trụ, về sống và chết, về hữu hạn và vô biên…nhưng không bước vào suy tư triết học. Đó chỉ là suy tư của người nặng lòng với cuộc đời. Điều căn cốt trong tư tưởng-thẩm mỹ của Lê Thành Nghị là Cái Đẹp, là sự trân trọng và nâng niu cái đẹp, hay nói cách khác, đó là tư tưởng nhân văn, thể hiện cả trong thi ca và trong ứng nhân xử thế của ông.

Bài thơ Hoa Ngọc Hà là sự thương tiếc cái đẹp bị tan nát: ”Làng Ngọc Hà năm nay kg còn hoa/ Chỗ máy bay rơi thành khu du lịch/ Sắt thép tan nát trong hồ như một lời giải thích/ Tan nát vì nhằm bắn vào hoa”. Bài Bốn bông hồng bất hạnh cũng là nhận thức và xót thương cho cái đẹp bị lãng quên, bị chôn vùi. Những bông hoa Đại rụng rơi lại gợi ra bóng dáng của tư tưởng, của sự thăng hoa: “Thanh thản và lặng lẽ/ Cuộc ra đi quá đỗi êm đềm/ Của những bông hoa trắng nhỏ”. Nhưng sự ra đi cái đẹp làm cho cuộc sống trở nên thiếu vắng một giá trị (Người bán hương trầm năm ngoái). Tình tri âm tri kỷ cũng là cái đẹp hiếm có ở đời, thiếu nó, trăng dù là nguồn thơ cũng trở nên vô nghĩa: “Ta lạc giữa đám người đơn độc/ Ngoài kia trăng như một gã vô hồn/ Nghiêng cạn chén: Thi trung càn khôn đại/ Cô đơn thay khi Lý Bạch không còn(Quán rượu trên đường Vương Thủ Tỉnh). Cái đẹp, tự nó đã là toàn bích:” -“Nếu bạn định làm một hạt mưa lành qua cơn khát/ Không cần phải màu sắc gì thêm”(Hạt mưa lành không màu). Và cái đẹp không chỉ là cái đẹp khách thể, cần phải là một cái đẹp thấm đẫm ý nghĩa nhân sinh. Tôi thích nét đẹp nhân văn này:

Chiều xúi quẩy sà xuống đám chơi trò chọi dế

Thương quá những chú mèn nâu chuẩn bị thượng đài

Thôi hãy xa đám người đang hò reo ầm ĩ

Kịp về với cỏ tím bờ sông buổi hòa nhạc đêm nay”

(Bờ sông tiếng dế)

Nét đẹp nhân văn trong hình tượng Vọng Phu (Cánh buồm đỏ thắm), sự tiếc thương cái đẹp bị tàn phá (Hoa Ngọc Hà) và nét đẹp giàu phẩm chất dân tộc trong hình ảnh mẹ đợi con về (Nhớ mẹ) khẳng định cốt cách tư tưởng thơ Lê Thành Nghị.

  1. Cốt cách thơ Lê Thành Nghị

Tư tưởng nhân văn trong thơ Lê Thành Nghị còn tạo nên chất tài hoa trong nhiều bài thơ của ông (thí dụ Chợ Huyện). Chất tài hoa rất khác so với Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi hay Phạm Thiên Thư. Đồng thời tư tưởng nhân văn làm thơ ông thăng hoa, nhiều bài trở thành thơ lãng mạn. Bởi Lê Thành Nghị hướng về tìm kiếm và thể hiện cái đẹp của đời sống mà không bận tâm “phản ánh hiện thực”.

 Những bài thơ hay trong tập là những bài thơ khám phá sâu sắc hiện thực, sáng tạo được những tứ thơ độc đáo kiểu thơ Đường, và tỏa sáng được tư tưởng nhân văn. Khi thơ chỉ là những suy nghĩ đời thường quen thuộc, thiếu sức sống của hiện thực, hình ảnh chưa thành tứ, thơ Lê Thành Nghị mất đi vẻ đẹp và sự hấp dẫn (Bố và con và…, Thi đàn, Dự định, Những câu hỏi ngày thường, Trong rạp xiếc, Chuyện nhân thế, Que diêm vi mô cánh rừng vĩ mô và hư vô tro bụi). Những bài thơ tình thuần lý trí, thiếu nhịp đập trái tim và hơi thở cảm xúc cũng không để lại ấn tượng nơi người đọc (Tàu về thảo nguyên, Muộn màng, Cô gái tổng đài).

Tôi rất thích cốt cách này của thơ Lê Thành Nghị

Có chàng trai về đến Sóc Sơn

Hóa thân thành im lặng

Có miền đất im lìm đứng lên

Tự mình xây núi lớn.

____________________________

Tháng 2. 2016