TRẦN QUANG QUÝ-MỘT HÀNH TRÌNH THƠ

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK: buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

VĨNH BIỆT NHÀ THƠ TRẦN QUANG QUÝ (10/9/2022)

***

TRẦN QUANG QUÝ-MỘT HÀNH TRÌNH THƠ

Bùi Công Thuấn

***

Nhà thơ Trần Quang Quý sinh ngày 02 tháng 01 năm 1955, tại xã Xuân Lộc, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Ông tham gia quân đội tháng 12/1971. Sau khi ra quân, học Đại học văn hóa Hà Nội, Đại học Ngoại ngữ Hà Nội và làm báo. Ông đã xuất bản 14 tập thơ, truyện ngắn, tiểu luận, bút ký… Được 11 giải thưởng văn học, trong đó có 3 giải thưởng Hội Nhà văn VN, năm 2004 (Giấc mơ hình chiếc thớt) và 2012 (Màu tự do của đất; năm 2019 (Nguồn) [1]. Tôi chưa có điều kiện đọc tất cả các tập thơ của ông nên chưa thể phác họa một chân dung văn học về ông. Tôi đọc 4 tập thơ: Siêu thị mặt (2006), Màu tự do của đất (2012), Ga sáng (2016) và Namkau (2016) và thử hình dung hành trình 10 năm sáng tạo thơ của Trần Quang Quý, trong hành trình của 10 năm thơ Việt.

SIÊU THỊ MẶT, THƠ CỦA NGƯỜI “CẢ NGHĨ” VÀ “CƠN MƠ GIEO HẠT”

Tác giả ghi nhận ở New York hai chuyện nhỏ, thứ nhất: “có một nền văn hóa “tip”/ bạn chớ quên khi rời taxi hay tiệm nhậu/ xin vui lòng để lại thêm mười phần trăm “, thứ hai: “vô tình đụng trên đường thật khó tránh/ nhưng tất cả cùng lời: Xin lỗi!”. Từ hai ghi nhận, tác giả bộc bạch nghĩ suy:

“Hai chuyện nhỏ làm tôi một đêm cả nghĩ/… Có phải thành phố này lên cao từ những điều rất nhỏ: sự rạch ròi, sòng phẳng tiền boa/ cả lịch lãm một lời xin lỗi?” (Hai chuyện nhỏ ghi ở New York).
Tập thơ Siêu thị mặt là những nghĩ suy như vậy. Nhà thơ ghi nhận những hiện tượng xã hội, qua đó tra hỏi về bản chất của sự việc, đâu là chân lý, đâu là đúng – sai, phải – trái. Con mắt và trái tim nhà thơ hướng về cuộc sống xung quanh mình: Một chiều cafe ở Hồ Tây (Giọt chiều), chú bé đánh giày ở vỉa hè (Giai điệu vỉa hè). “Hai người mẹ, hai số phận có cùng tên Nỗi đau” (Khác biệt và không khác biệt). Một em gái “rời làng ra phố bán hoa/…những tưởng em ra phố để đổi đời/ phố cũng chỉ là một cánh đồng khác” (Sắc hoa). Buổi sáng nghe tiếng “chim khướu hót từ chiếc lồng nhà hàng xóm” (Tiếng của loài chim), gặp “… cả một siêu thị mặt/ nhỏ to, ngắn dài, tròn méo, buồn vui, cáu giận hay lạnh tanh chảy thành dòng/ trên phố…” (Siêu thị mặt). Rồi quan sát những đồ vật trong nhà: một cái chăn, một ngọn đèn dầu, một chiếc xe đạp thời khó nghèo. Nghĩ về Huyền thoại bên máng lợn, về nước mắt đàn bà (Nước mắt). Ở Tam Đảo, mây sà xuống cửa sổ: “Tôi lùa tay vớt cõi phù vân bên khung cửa sổ nhà nghỉ…” (Một mây Tam Đảo). Buổi trưa ở Mũi Đao, “… gọi em để mua một đôi ngàn đồng sim”. Trong quán nhậu ở Củ Chi, lai rai với món bò luộc, mắm nêm, và Những bản tin hàng ngày “… về cuộc đọ súng ở Trung Đông, Bắc Phi, Nam Á/ những phụ nữ đánh bom liều chết… những cuộc đấu trên sân khấu chính trị và người dân nghèo chết mòn trong bạo bệnh/… bệnh viện chật cứng bởi đột quỵ và tim mạch…”.

Ghi nhận như vậy để thấy trái tim nhà thơ hướng về môi trường sống đương đại, nghĩ suy về những vấn đề của hôm nay (những năm đầu thế kỷ XXI), phản ứng với tâm thức của người trong cuộc hôm nay, không dựa vào quá khứ để tụng ca sử thi, không “Ăn mày quá khứ” để tự gắn huy chương cho cái Ta, cũng không tự huyễn hoặc như “Cái thời lãng mạn”.

Nhà thơ cũng tự soi vào lòng mình để thấy những nỗi buồn. “Có năm tháng nào lòng ta buồn hơn/ nỗi buồn khắc vào mặt thế hệ hình thập ác” (Khác biệt và không khác biệt). “… Có thể một người lẫn trong bao người khác/ anh vẫn một cánh đồng ngày xưa gieo hạt/ hạt khổ đau” (Những ngày xưa). Đó là nỗi buồn của mọi kiếp người (Câu hỏi), về những bi kịch của đời (Không đề), và nhà thơ “Không biết chôn nỗi buồn vào đâu” (Cảm). Trong hành trình “đi tìm mê lộ bờ cong, mê lộ hoàng hôn/ chợt mắt xưa ngơ ngác cổng thế hệ…”, nhà thơ tự thú nhận “… tôi chỉ là người bại trận” (Cuộc cờ), và ý thức về sự bé nhỏ của kiếp người với thời gian vô tận: “Ngày như chiếc bóng lẻ ta/ ta như chiếc bóng của ngày/ vô tận” (Ngày).

Nhà thơ không dừng ở sự quan sát hiện tượng mà soi vào bản thể con người để thấy rõ những gì là thật – giả, những gì là vĩnh cửu và hư không, cả những niềm tin vẫn còn. “sự thật có thể không mang gương mặt thật/ ảo ảnh tự ru mình/ hư danh thường ầm ĩ” (Lập ngôn). Và đây là Lẽ thường: “Người khi vui rồi lại khi buồn/ khi dửng dưng mặt lạnh như đá/ lúc giận hờn cũng tạnh như không/ Có cuộc đời thoáng như mây khói/ thế gian nhỏ bé và mong manh/ có người khắc vào ký ức ta vết khắc không tàn/ cuộc đời mà/ là thế!”. Nhà thơ nhìn đời bằng con mắt thứ ba: “cõi đời, nhìn con mắt mở/ cõi người, nhìn con mắt nhắm/ Từ mẫn cảm về thời, từ tiếng gọi những vết bầm ký ức/ tôi học nhìn bằng con mắt thứ ba” (Học). Con mắt thứ ba, còn gọi là Huệ nhãn, là khả năng thấu thị những gì không nhìn thấy bằng mắt thường (nhục nhãn). Nhờ thế nhà thơ đã nhìn thấy giữa một thế giới của đối trọng và nghịch lý, vẫn còn hy vọng: “em bé đánh giày rửa đức tin bằng uy tín màu xi/ chị hàng rong đi rao cơn mơ số phận/… những bàn tay cùng chìa trong bão lũ/ mái phố rêu phong gục vào chiều cổ thụ / mong đức tin nảy mầm…”.

Trong tập thơ, Trần Quang Quý không vươn lên hướng thơ tư tưởng, mà cháy lên cảm hứng thế sự với diễn ngôn có ý phê phán thực tại xã hội. Cảm hứng xót xa ẩn trong sự miêu tả những cảnh đời, những phận người “dưới đáy”, những tương phản gương mặt và lối sống nhầy nhụa. Nhưng ngòi bút Trần Quang Quý đủ tỉnh táo để không đụng chạm đến những vấn đề “nhạy cảm”, không miêu tả cụ thể những mặt tiêu cực của xã hội, không ám chỉ bất cứ loại người nào trong cuộc cờ. Câu thơ được cắt gọt hết ngoại hình ngoại cảnh, để chỉ còn lại cái lõi của vấn đề, và vấn đề ấy những người thiện tâm đều có thể chia sẻ, cho nên dù nhà thơ có lên tiếng mạnh mẽ, quyết liệt thì thơ vẫn vượt lên trên bờ bến hiện thực.

Những cái mặt mày râu nhẵn nhụi
những cặp môi mỏng quẹt và cái mồm ống thổi lụng bụng lưỡi
chúng thường hát đồng ca phản trắc và sống nhạt
(Cuộc cờ)
Trên sân khấu người ta vừa quét dọn
có hình những chiếc mặt còn in bóng lộn mặt sàn
chúng đã diễn quá lâu…

… hãy lột chiếc mặt nạ tự phỉnh mình
hãy lộn túi những mớ chữ mị dân
(Quen)
Với tư cách người làm thơ, Trần Quang Quý không thôi trăn trở về sự trì trệ, về lối mòn, sự lặp lại và cả sự “gục ngã” trên đường sáng tạo:
Để gieo được một hạt ý tưởng
có thể phải ngã gục trên cánh đồng cày ải tư duy
… Tôi đã mang cơn mơ gieo hạt
từ chiếc thúng cảm thức đựng nỗi buồn mùa lép
ám ảnh lối mòn tri thức
như vẫn gặp những con bò nằm nhai lại rơm khô

Không gì đến dễ dàng, tôi biết.
(Tự giải)
“… Chiếc ghế nhẵn một chỗ ngồi, ngày buồn nhão một gương mặt
có gì mòn mỏi hơn bằng giam cầm trong nhàm cũ
có gì mê muội hơn bằng ngủ sâu trong cái bóng chính mình?…”
(Ngày nhạt)
Có lẽ nhờ Tự giải những “Ngày nhạt”, để thực hiện “cơn mơ gieo hạt”, Trần

Quang Quý đã tự làm mới thơ mình. Trần Quang Quý xuất hiện từ những năm 1990, Siêu thị mặt in năm 2006, giữa cao trào “thơ trẻ khó hiểu” và những nỗ lực ào ạt cách tân thơ Việt, nhưng Trần Quang Quý vẫn giữ được mạch thơ truyền thống và góp phần vào kiểu thi pháp mới khác hẳn thi pháp thơ thời chống Mỹ. Trần Quang Quý hướng về những vấn đề của hôm nay, sử dụng kiểu ngôn ngữ hôm nay, trần trụi, mới lạ, đảo lộn. Tuy vậy, Trần Quang Quý phản đối những thể nghiệm kiểu “thích mân mê chiếc áo vỏ hình thức/ đôi lúc hoắng trò chơi sắp đặt.” (Bờ khác của tư duy).

Thơ Trần Quang Quý là những phát ngôn trực tiếp, là nhận thức có khuynh hướng tư tưởng, nhưng không phải là tư tưởng triết học, mà đó là những kinh nghiệm của bản thân. Đây là những phát ngôn:
Có những điều lớn lao mà không cần lý giải
có những việc tầm thường khoác vỏ đại ngôn…
… sự thật có thể không mang gương mặt thật
ảo ảnh tự ru mình
hư danh thường ầm ĩ”
(Lập ngôn)
Vì thiên về suy nghĩ, thơ Trần Quang Quý cũng thiên về lập tứ. Nhiều bài ý tứ được trình bày theo kiểu tư duy quy nạp. Câu thơ thường ngắn lại để khẳng định.

Bài thơ Vết là một thí dụ:
Cánh rừng xoá vết chém lưỡi rìu bằng thân cây ứa nhựa
con đường xoá dấu chân bằng phế hoang cỏ
Người ta thường nô lệ ký ức
ký ức làm sao xoá?

Anh đã từng khép lại bóng hình em
và trái tim suốt đời đi vá sẹo

Sau khi dẫn ra hai hình ảnh Cánh rừng xóa vết chém và con đường xóa dấu chân, nhà thơ đưa ra hình ảnh thứ ba tương phản: người ta làm sao xóa được ký ức. Từ đó dẫn đến chủ đề: Trái tim anh suốt đời đi vá sẹo. Đó là cách lập tứ quy nạp. Câu thơ cuối thường chứa đựng chủ đề. Hầu hết các bài thơ của Siêu thị mặt được lập tứ như vậy. Xin đọc: Đồ vật, Mặt, Câu hỏi, Không đề, Cuộc cờ, Giọt chiều, Điệp khúc những ngón chân, Tiếng của loài chim, Ngày, Răng và lưỡi, Khác biệt và không khác biệt, Sắc hoa, Tự giải, Quen, Lập ngôn, Mũi tên, Bên sông, Nước mắt, Hai chuyện nhỏ ghi ở New York, Những chiếc cốc mơ lành, Những bản tin.

Nhưng Thơ Trần Quang Quý gây ấn tượng ở kiểu ngôn ngữ “Thơ trẻ”, và những bài hay trong tập thơ là những bài có kiểu ngôn ngữ mới lạ này. Xin đọc Bầy rốn, Giọt chiều, Mắt thu, Khoảnh khắc, Châu thổ, Huyền thoại bên máng lợn, Tự giải, Ngâu Huế, Một mây Tam Đảo, Trong quán nhậu ở Củ Chi,

“Từng nghe tiếng mưu sinh ì oạp lòng máng gỗ
đèn khuya đỏ mắt đêm
sương sớm gột mái đầu thôn nữ
gió hanh mùa, nghe rạn gót quê

Tuổi xuân của em là nối dài những chiếc máng lợn
chiếc máng hầu bao hy vọng
và một ngày những giấc mơ đến thật lạ
em cưỡi trên chiếc máng, bay qua những bờ tre lầm lũi
có một chân trời tít tắp và lấp lánh vẫy gọi
những bến sông chôn đứng con đò
thành phố mọc từ bờ ẩn ức…”
(Huyền thoại bên máng lợn)

Đoạn thơ có những từ được lạ hóa bằng cách đặt vào một trường ngữ khác nghĩa với trường ngữ bình thường (Ì oạp, đỏ mắt đêm, bờ ẩn ức), có những cách diễn đạt mới lạ khác thường do cách sử dụng những ẩn dụ liên tưởng qua nhiều bước, có cả giấc mơ Siêu thực. Giấc mơ “em cưỡi trên chiếc máng, bay qua những bờ tre lầm lũi./ có một chân trời tít tắp và lấp lánh vẫy gọi/ những bến sông chôn đứng con đò/ thành phố mọc từ bờ ẩn ức”. Nghệ thuật ngôn ngữ này khác hoàn toàn với ngôn ngữ thơ truyền thống và ngôn ngữ thơ thời chống Mỹ. Trần Quang Quý đã có những đóng góp vào sự cách tân thơ Việt ở kiểu tư duy nghệ thuật này. Tôi rất thích Giọt chiều, Mắt thu, Ngâu Huế, Một mây Tam Đảo vì ở những bài thơ này, Trần Quang Quý còn bộc lộ chất tài hoa thi ca nữa.

Dù mới lạ, thơ Trần Quang Quý đọng lại rất sâu ở tình cảm yêu thương mãnh liệt những phận người, ở sự thấm thía nỗi buồn thế sự bên dưới những ghi nhận, nghĩ suy và ở sự tài hoa ẩn trong sự bộc trực, gân guốc ngôn từ. Những bài thơ tình hiếm hoi cũng chứa đựng năng lượng cảm xúc có sức bùng nổ.

2. MÀU TỰ DO CỦA ĐẤT – “ÁNH SÁNG CỦA MỘT NGÀY TỰ THỨC”

Trong bài Đồng loại, nhà thơ Trần Quang Quý tự hỏi: “Ta là ai? Câu hỏi đã xưa rồi/ và điều đó chỉ riêng ta biết/ ta là cả muôn loài, duy một điều khác biệt/ ta vẫn phải suốt đời mang gương mặt là ta!”. Đến cuối tập thơ, nhà thơ nói đến ánh sáng “tự thức,/ đánh thức bản nguyên,/ ánh sáng khoan thai trong khung cửa ngộ thức,/ hình như tôi vừa tự mở khóa mình” (Sự sáng). Những dấu chỉ ấy phải chăng là hành trình tự nhận thức cá tính sáng tạo của nhà thơ, cũng là sự thức tỉnh trước thực tại thơ Việt để tự khai mở con đường thi ca của mình. Đâu là con đường Trần Quang Quý tự thức?

Phóng túng gì bằng được giải phóng lời khỏi những mật ngữ
hứng khởi gì bằng bóc vỏ tự do
nghe trái tim cuộn chảy dòng máu nhân sinh
nghe sự thật bong ra khỏi vai diễn
nghe cội rễ tự nhổ khỏi đất cằn những ngày nhạt
(Có những điều giản dị)

Tự thức là “bóc vỏ tự do”, “giải phóng lời” để “trái tim cuộn chảy dòng máu nhân sinh” và “bong ra khỏi vai diễn” để sống thật, thoát khỏi những “ngày nhạt”. Những điều ấy là những điều giản dị, nhưng trong cõi nhân gian này, thì đâu có dễ. Tự do bị bọc vỏ, hay chỉ có vỏ bọc, phải bóc vỏ để tự do trở thành đất của mầm mơ ước/ những chói sáng thăng hoa lại bắt đầu từ những hạt tự do (Bầu trời phi lý thuyết). Khi tự do bị bọc vỏ thì lời cũng bị cầm tù, vì thế phải giải phóng lời, để cả một thời đại đừng nói ngọng nữa (Giọng). Làm sao để “trái tim cuộn chảy dòng máu nhân sinh” khi mà bao nỗi oan khiên dâu bể vẫn bày ra trước mắt mà nhà thơ phải câm lặng!

Ngay trong tập thơ này, có được bao nhiêu bài “tự thức” như thế? Bao nhiêu bài trái tim nhà thơ “cuộn chảy dòng máu nhân sinh”! Gần như những vấn đề “nóng” của ngày hôm nay không có mặt trong tập thơ (?), hoặc nếu có, cũng chỉ là ẩn dụ bóng gió, như thể đó là việc chẳng phải của ai. Xin đọc:

“Sau tất thảy trận mạc, khúc bi thương hay khúc oai hùng
chiếc gươm ngủ giấc hào quang
hay thức mòn trong bi kịch những vết chém?

Bỏ lại phía sau tiếng mài rợn đá
những tiếng mài gọi nhau từ toát lạnh vỉa tầng tử khí
tiếng mài của đớn đau và bi kịch sự mài
tiếng nghiến răng lịch sử
còn khía những vết thương hòa bình

Những giọt máu đã khô trong lạnh lùng ánh thép
chiêm ngưỡng gì thân phận một cây gươm?
trên con dốc thời gian gập bóng những lát cắt số phận
mỗi vết thương lại khai quật nỗi buồn
và nỗi buồn không muốn một thanh gươm
nằm rỉ máu vết thương ký ức
(Chiếc gươm trong bảo tàng – 1/8/2011)

Hãy bỏ những từ ngữ làm hoa mỹ bài thơ, nội dung bài thơ toát lên sự oán ghét chiến tranh, bởi chiến tranh gây ra những điều khủng khiếp: “Những giọt máu đã khô trong lạnh lùng ánh thép/ chiêm ngưỡng gì thân phận một cây gươm?”. Chẳng lẽ lại đi chiêm ngưỡng cây hung khí đã để lại những vết chém trên những số phận, đã gây ra bao nhiều đau buồn, máu chảy đầu rơi? Hỡi người! Có nghe không “tiếng nghiến răng lịch sử”, tiếng oán hờn của bao sinh linh!. Trần Quang Quý nói về thanh gươm trong viện bảo tàng là nói về chiến tranh thời chưa có súng đạn,… Nhưng những số phận, những bi kịch vết chém, những đau đớn do thanh gươm chiến tranh gây ra thì hôm qua, hôm nay hay mai sau đều giống nhau, cho nên dù chỉ là chuyện trong bảo tàng, thì những vết thương hòa bình vẫn rỉ máu, những số phận bi kịch vẫn không thôi đau đớn. Ý thức là vậy, nhưng Trần Quang Quý đã không thể nói cụ thể cuộc chiến nào! Bài thơ chỉ là một ẩn dụ (có lẽ để có sức khái quát), nhưng thanh gươm thật chắc chắn là có lịch sử. Ngôn ngữ thơ Trần Quang Quý có sức mạnh như những nhát gươm, chém vào tâm thức con người hôm nay trước những bi kịch của dân tộc, ai cũng biết nhưng không nói ra, không thể “giải phóng lời”!

Trong tập thơ này, những bài thơ nói được những vấn đề của dân tộc là những bài thơ hay và có sức mạnh lay động thấm thía. Xin đọc: Từ đất, Bài hát tháng Mười, Đàn bò vào phố, Đồng loại, Nỗi buồn hát,…). Màu tự do của đất đau đáu nỗi niềm làm sao một dân tộc thoát khỏi lam lũ đói nghèo, làm sao người nông dân không bị mất đất:

“Liềm hái thèm ngày thôi gặt gió sương
người nông dân thèm tự do được giải phóng mình khỏi nhọc nhằn cơ bắp
và tự do đầu tiên lại là tự do không thoát ly bùn đất
tự do của mồ hôi
tự do neo đời mình vào cánh đồng sương gió”

Để nói những vấn đề của hiện thực, Trần Quang Quý dùng nhiều hình ảnh biểu tượng và cách nói ẩn dụ. Chiếc ghế là biểu tượng quyền lực. Trên ghế là “những gương mặt mộng du quyền lực”, “trên ghế những mặt đời sấp ngửa” (Mặt ghế); “Ngọng” là biểu tượng cho cả một thời đại: “ngọng ở góc làng, ngọng loanh quanh nửa quê nửa phố/ ngọng lên xe hoa/ ngọng nhà không số/ ngọng huyên thuyên vào cả diễn đàn (Giọng). “Chiếc đinh” là hình ảnh tội ác. Nó thi hành mệnh lệnh “Cắm vào nỗi đớn đau kẻ khác từng milimet”, để thực hiện những “đòn thù” một cách “hiểm độc” (Chiếc đinh)… Nhiều bài thơ, trái tim nhà thơ chạm vào được những vấn đề nhân sinh, nhưng không có gì cụ thể. Phải chăng đó là cách nhà thơ “tự mở khóa” để thoát khỏi những phiền toái của bút pháp hiện thực?

Thoát khỏi bút pháp hiện thực, Thơ Trần Quang Quý bay bổng trong thế giới lãng mạn. Những bài thơ này mang được khí chất lãng mạn – tài hoa – phóng túng của Trần Quang Quý. Xin đọc: Sơn Tây, Điệu thức Cao Bằng, Đàn môi, Ngựa đêm, Một chấm nhân gian, Vết của mùa thu, Uống rượu ở Bangkok… Trần Quang Quý thả mình bay bổng, và phóng bút làm rung chuyển mọi cung bậc tưởng tượng và cảm xúc, đặc biệt là sự “giải phóng” những ẩn ức phồn thực (?) (Vết của mùa thu, Đến, Đàn môi, Sự hình dung).
… Tôi cưỡi mây trắng bay điệp điệp sông Hồng
bay phiêu du bằng dân dã hồn làng
có cánh diều làm nghiêng cả một vòm trời lãng mạn
có bầu trời tự do thúc ngựa hí những khát dâng trong ngực
có trái tim già dắt trái tim non đi vấp váp trên con đường nhân bản
nối đời này đời nọ gió lành Sơn Tây…
(Sơn Tây)
Em có biết cơ thể em chứa bóng tối của tôi
chúng mò mẫm bóng đêm dục cảm
qua đôi vú căng thơm bình minh
và toả sáng khát vọng
đôi vú, một bầu trời đang cơn chuyển động
chứa phồn thực mùa hè giấu mùa đông ngún lửa
(Sự hình dung)
Vì bay bổng lãng mạn và sử dụng kiểu ngôn ngữ tượng trưng như thơ Lãng mạn trước 1945, nhiều bài thiếu máu thịt đời sống thực, ngôn ngữ bay bướm muôn sắc màu lơ lửng trên tầng không. Xin đọc: Buổi sáng, Ru cỏ, Lại nhớ tóc dài, Nỗi buồn hát, Chảy, Trong mưa, Đàn môi…
“Trên vai tôi dòng lưu chảy từ cổ xưa lại ào ạt chảy
có giọt vắt ra từ đá lạnh
có giọt tẩm liệm trên những hàng mi ướt lại quay về
những dòng sông lang thang thế gian như quên mình có một nguồn
biển gầm rỗng đại dương, một ngày đọng về mềm oặt cỏ sương”
(Trong mưa)
Câu thơ chỉ là những suy tưởng, những liên tưởng không bấu víu được vào bất cứ mỏm bờ hiện thực nào trong cõi người (?). Những bài thơ không hồn vía, khí sắc, máu thịt đời sống này, làm rỗng tập thơ. Nó có thể là một cách nhà thơ “tự mở khóa”(?) nhưng mở ra con đường dẫn nhà thơ đến đâu?

Cũng may, cội nguồn thơ Trần Quang Quý là đời sống hầm hập sức nóng “những dấu hỏi ngược về cổ xưa tiền kiếp” (Bài hát tháng Mười), ngày thấp thỏm, đêm chập chờn vì “những con mắt gài quanh bờ giậu” của rắn, của bầy chó đồng loại (Đồng loại), và biết đâu những chiếc đinh sẽ đóng đòn thù sâu vào những thân phận nhỏ nhoi (Chiếc đinh)…; thế nên những phút bay bổng chỉ làm dịu mát một khoảng sân thơ… Những câu thơ về mẹ, về làng quê, những yêu thương và khát vọng, đích thực căn cốt của hồn thơ Trần Quang Quý.

Ta gọi sẻ, gọi những mùa thơm hạt
nhớ mái hiên chiều mẹ ta sàng gạo
dưới tay Người rào rạo mắt thời gian
mẹ sàng cả tiếng chim, lăn líu ríu từng chùm lên mặt đất
cái tiếng chim nhỏ nhoi, ta thương sẻ loài chim không biết hót
cả một đời chiêm chiếp tiếng sẻ thôi
(Gọi sẻ)

3. GA SÁNG – NƠI KÝ ỨC VỌNG VỀ

Ga sáng tiếp tục mạch thơ từ Siêu thị mặt nhưng đã có những bước chuyển. Trần Quang Quý tiếp tục suy tư về lẽ đời bằng sự trải nghiệm, nhưng thế giới nghệ thuật Ga sáng là thế giới của ký ức. Nhà thơ nhớ lại, nghĩ suy về những gì đã qua, để tâm hồn “bay bằng đôi cánh cảm xúc” (Ở Xuân Lũng giờ này), “bay trên đôi cánh lãng mạn” (Sông Đà) và liên tưởng miên man. “Thơ đổi mới” trở về “thơ truyền thống”. Cái Tôi trữ tình là yếu tố trung tâm, thu hút những lát cắt hiện thực vào tâm tưởng và tỏa ra những suy tư, những nhận thức và cả cảm giác trải nghiệm (Bản Concerto số 9).
Có thể đọc Mưa Tiên Điền như một đặc điểm thi pháp thơ của Ga sáng
“Chiều thắp hương xong trên lăng mộ Nguyễn Du
mưa đổ bến Giang Đình, mưa vắt phố
mưa Nghi Xuân níu bờ sang Vinh
mưa như rượu
tưới lòng nhân ái
mưa như chan nước mắt nàng Kiều
hay nước mắt Nguyễn Du cũng không biết nữa
hay nước mắt trời ứa nhân gian?

Nào em nào em xích lại gần hơn
anh sợ tuột em vào cơn mưa lạnh
sợ bàn tay suông
mắt hờ hững
sợ Giang Đình lạc bến gió liêu xiêu

Trong Nguyễn Du đâu chỉ một nàng Kiều
cơn mưa dắt muôn ngả Kiều cộng lại
máu đã rỏ hồn Người trên ngọn bút
mỗi câu thơ chắt cạn nhân gian
chắt tâm sự một tâm hồn lớn
hóa cơn mưa tưới ngọt Tiên Điền?

Anh nắm tay em sợ tuột vào hoang gió
Sợ tuột Kiều
Vào trống vắng thành Vinh”
(Bến Thủy, 2h15 ngày 4/12/2015. Dự lễ kỷ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn Du)

Bài thơ chỉ có một chi tiết hiện thực là Chiều thắp hương xong trên lăng mộ Nguyễn Du thì trời mưa. Nhà thơ lan man suy tưởng về mưa, về nàng Kiều và về Nguyễn Du. Phép so sánh trùng điệp được sử dụng triệt để, diễn đạt những ý tưởng sinh sản. Nhân vật em (tưởng tượng) chen vào bài thơ chút ngọt ngào tình tự nhưng không liên quan gì đến nghĩ suy về Kiều và Nguyễn Du. Thấp thoáng cái nhìn của nhà thơ về đời bể dâu: “mưa như chan nước mắt nàng Kiều/ hay nước mắt Nguyễn Du cũng không biết nữa/ hay nước mắt trời ứa nhân gian?”, “cơn mưa dắt muôn ngả Kiều cộng lại”, “Bao nhiêu cơn mưa đổ xuống cuộc đời/ Bao trú ngụ cuộc đời tốc mái?” (Những cơn mưa). Đâu đó là một nỗi “sợ” mơ hồ về sự vô cảm: Sợ “bàn tay suông/ mắt hờ hững…/ sợ lạc bến/ sợ trống vắng.” Có cả những lúc hoang mang hiu quạnh (Họa mi hót). Vì là thơ tâm trạng, chất hiện thực rất mỏng (được dấu trong ẩn dụ) nên những suy tư chưa đủ sức nặng để lay động, dù nhà thơ có liên tưởng từ nước mắt nàng Kiều đến nước nắt Nguyễn Du để dẫn đến nước mắt trời ứa vì nhân gian, nhưng cái nhân gian hiện thực hôm nay, “những điều trông thấy” hôm nay thì Kiều chưa đủ sức đại diện. Chính Nguyễn Du ngày xưa cũng đã né tránh, ông đã không ghi một dòng nào về lịch sử xã hội Việt Nam trong Kiều. Trần Quang Quý nhắc đến Nguyện Du và Kiều chỉ là nhắc lại quá vãng, gợi một chút gì đó còn trong ký ức.

Nhà thơ có cả một bảo tàng ký ức (Ở Xuân Lũng mùa này), biển ký ức: “… biển đổ ròng ròng ký ức” (Bên biển Phú Quốc), và “những nhớ thương ùa sóng cả…” (Một bờ sông Hậu) trong đó có những tầng ký ức (Về những sợi tóc). Ký ức không rơi rụng: “Đã bao mùa rụng lá, cây bàng không rụng được ký ức… (Café Paris). Ký ức in hằn trong tâm tưởng: “Tôi vẫn nhớ… những vệt lõm dấu chân đã hằn ký ức” (Dấu chân). Và hương ký ức tỏa mãi (Hoàng lan), đến nỗi người thơ ví mình như con dế “bị nhốt trong hộp ký ức” (Trên bức tường rào gạch). Bởi vì, “Làm sao quên chiều sân ga 1972/ Cha tiễn tôi,… (Trở lại sông Thao), làm sao quên “ngõ làng mùa rê thóc/ mẹ đội lễ sang bà ngoại ngày giỗ chạp” (Sông Đà). Làm sao quên “… đêm cà phê Paris/… ngày bạn đi mãi mãi tại nơi này”. Nhớ thuở áo tơi gầy tướp gió (Bóng quê), nhớ: “nơi anh và em cùng ngồi dưới vòm xanh tỏa bóng/ người ta đã đốn cây rồi” (Nơi cũ), giờ “nhìn đâu cũng em, đâu cũng là ngày ấy” (Mưa Sài Gòn), “Ngày ấy, em thiếu nữ 18” (Những giọt sương lãng mạn), Nhớ “mắt em… ngước nhìn anh trong thế giới đang héo hắt lãng mãn” (Bản concerto số 9). Nhớ một lúm đồng tiền ký gửi trong ngân hàng tình cảm (Ngày Vinh), nhớ “bản hòa tấu em chọn cho anh…” (Bản hòa tấu tình yêu). Và nhớ Tôi ngày xưa, “Tôi ngược tết…/ gặp lại tôi… thơ bé/ (Ngược tết), “bầy dế gáy vang chân trời cổ tích (Khởi cỏ)…
Trong thế giới của ký ức, nhà thơ bộc lộc tất cả cung bậc cảm xúc thương yêu của mình. Dù thời gian có làm rơi rụng tất cả thì vòm trời yêu thương vẫn xanh và hạt gốc nhân bản vẫn nảy mầm.
“… tôi bay bằng đôi cánh cảm xúc quanh những gò đồi/ chim sẻ ríu ran gọi mùa về trên vòm cây tháng tư/ hoa xoan vừa thoát tục…” (Ở Xuân Lũng giờ này).
“… Ngày ấy, em thiếu nữ 18, hai bím tóc nhí nhảnh/ mắt em hai giọt sương tinh khiết treo trong mắt anh/ treo 35 năm bây giờ chưa rụng… Ngày ấy, anh lính 23 ngu ngơ trở về khát vọng học trò còn dở dang đèn sách/ chiến tranh đóng cũi bao ước mơ …” (Những giọt sương lãng mạn).
“Bà nội mất, còn day dứt nỗi buồn cháu không kịp về nhìn mặt lần cuối/ may có cô, cháu thấy bà như vẫn đâu kia… Thương cô lưng còng, lại nhớ bà khôn xiết/ Và kỳ lạ, mỗi lần về quê chợt lòng yên tĩnh/ Bóng cô kia hay đó bóng bà thăm thẳm một đời quê” (Bóng quê).
Trong vòm trời xanh của ký ức, Trần Quang Quý thổ lộ: “Cứ mỗi lần ngước lên bầu trời tôi tự hỏi…” đàn sếu bay hình mũi tên trên bầu trời có “mật chỉ” gì?. Nhà thơ tự hỏi Về những sợi tóc rụng, về sự sắc nhọn của những chiếc gai, lắng nghe Bài hát của chiếc giày, nghe một quả rơi tiếng hạt nảy mầm, cảm nhận hương thơm của Hoàng lan, của hoa sen “nhụy vàng mây, thơm nõn gió/ hương sắc thu muôn tinh tú”, chiếc lá bồ đề mang về từ đất Phật, cả chuyện Trong bình rượu bìm bịp: “Bổ gì, rựơu bìm bịp/ khi ta uống là cạn ly xác chết/ ta uống cả tiếng kêu thảm thiết/ vẫn đang còn vỗ cánh ở ngoài kia”.

“… Không phải cái gì mất cũng tìm được
có cái tìm được thì đã mất…”
(Hoàng Lan)
“… mưa như chan nước mắt nàng Kiều/ hay nước mắt Nguyễn Du cũng không biết nữa/ hay nước mắt trời ứa nhân gian?”
(Mưa Tiên Điền)
Tác giả ghi nhận đời sống ở Ấn Độ: “người Ấn thản nhiên trong lam lũ”. Nhà lụp xụp, người thợ xây đội từng bao xi măng, những chiếc xe lôi lầm lũi trong khuya. Đường phố của phân bò, phân chó, phân dê, phân ngựa, nước tiểu và rác thải/ thì cũng chẳng có gì phải vướng bận”. “Tất cả cùng cười/ gương mặt giữ nhau đầy an lành”. Tác giả tra hỏi: “Dường như phía sau những gương mặt cần lao kia/ phía sau những ngôi nhà lầm lũi, tự do bò rống và lợn chạy/ có một Ấn Độ khác, một tinh thần khác/ một tinh thần văn minh lạ kỳ… Tôi bỗng hiểu vì sao… nơi này Phật ngộ” (Có gì lạ phía sau Ấn Độ?)
Từ những vật cụ thể gần gũi, Trần Quang Quý mở rộng suy tư ý nghĩa nhân sinh của Hoàng hạc (Hạc vàng), về Lý Bạch, Nguyễn Du, về dân tộc Ấn Độ…
“Hạc vàng đã bay/ Liệu còn hạc nào in trên bầu trời…/ …Lý Bạch tiên thi trước Thôi Hiệu cũng đành nín bút… một vòm trời biền biệt hư không/ Trường Giang, Trường Giang những ly biệt đời người/ đâu bến thành danh đâu bến vô danh/ còn lại bóng thi nhân… (Hạc vàng).
“Tôi không hy vọng chiếc lá bồ đề mang về phép màu nhiệm nào/ nhưng ít nhất, chiếc lá đang reo trong tôi bài hát của rừng nguyên thủy/ chiếc lá thức trong tôi ngọn nến thắp lòng thiện/ ngay cả chính nơi không có bóng Phật” (Những chiếc lá bồ đề).
“… Tôi gọi hạt tôi… xanh cây che mỏng nỗi người/ ít nhất biết mỉm cười trước rừng lưỡi gièm pha, và buả vây ganh tỵ” (Gieo).
Điều đáng quý ở nhà thơ là một tâm hồn xanh trong. “Tôi gọi hạt tôi… xanh cây che mỏng nỗi người”. Chiếc lá bồ đề “thức trong tôi ngọn nến thắp lòng thiện”. “Tôi ăn ngủ cùng chữ tháp tùng chữ bước vào những số phận”. “Hy vọng từng ngày làm lại tương lai”.

4. NAMKAU – ĐỊNH VỊ MỘT KHUÔN MẶT THƠ

Trong hỗn độn mớ tôi/
tôi đã từng đột phá đi tìm/
bản thể
Sự khám phá có khi thật giản dị/
có người suốt đời đi không tìm được chính mình
(Tìm 2)
Nhà thơ đi tìm bản thể là tìm chính mình, là xác định mình là gì, khác người khác cả về nội dung và nghệ thuật thơ trong hành trình sáng tạo. Tất nhiên một tập Namkau chưa đủ quán xuyến tất cả đặc điểm cá tính sáng tạo của Trần Quang Quý, song nếu một giọt sương đong được cả mặt trời (Giọt sương ban mai), thì Namkau cũng đủ lấp lánh khuôn mặt thơ Trần Quang Quý.
Đã từng đi nát con đường
gỗ hương long mộng chân giường đứng ngây
Đã từng hẹn tuột vỏ cây
Gió ghen vần vũ đám mây tụt quần

Đã yêu yêu cạn mùa xuân… (Bước yêu)

Tôi chọn bài Namkau lục bát dễ đọc để định vị thơ Trần Quang Quý. Trần Quang Quý kế thừa thơ truyền thống bằng linh hồn của lục bát và ca dao tình yêu mang đậm chất phồn thực. Hò hẹn, đứng chờ, ghen tuông, và yêu “long mộng chân giường”; “tụt quần” để “yêu cạn mùa xuân” thấp thoáng trong bài ca dao. Trần Quang Quý bộc lộ khí chất mạnh mẽ trong việc dùng từ, đặc biệt là các động từ “đi nát con đường”, “hẹn tuột vỏ cây”,“đám mây tụt quần”, “yêu cạn mùa xuân”. Điệp từ “đã từng, đã yêu” góp phần tô đậm khí chất nam tính thơ.
Nhưng điều đặc sắc, mới mẻ của thơ Trần Quang Quý là góc nhìn mới và kiểu tư duy ngôn ngữ mới, làm cho bài thơ tình yêu quen thuộc có sức gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc. Dường như chẳng có liên quan gì giữa “con đường” (câu 1) với cái giường bị long mộng và “gỗ hương, đứng ngây” (câu 2). “Hẹn tuột vỏ cây” là một so sánh ngầm hoàn toàn mới lạ, bởi “hẹn hò” và “tuột vỏ cây” nằm ở hai trường ngữ khác nhau. “gỗ hương long mộng chân giường đứng ngây” là một cấu trúc câu lạ. “Gỗ hương” là một vật bất động, không thể làm long mộng chân giường, và đâu là chủ ngữ của “đứng ngây”? Cấu trúc câu tiếng Việt đã bị phá vỡ. Các hình ảnh được xếp chồng lên nhau, mà sự liên tưởng phải qua nhiều bậc mới với tới được. Và hơn thế, đã có sự phá vỡ mọi cấu trúc. Cấu trúc những cuộc hẹn hò, cấu trúc những cuộc yêu, cấu trúc không gian và thời gian và cầu trúc tâm trạng yêu của hay kẻ hẹn hò, muốn yêu long mộng chân giường và muốn sex (tụt quần) bạo liệt. Nếu người đọc không tái cấu trúc thơ, không vượt qua được những khoảng cách đòi hỏi liên tưởng nhiều bậc này, sẽ thấy thơ khó hiểu. Nhưng làm thế nào để kết hợp các cấu trúc đã bị đập vỡ để tạo nên một cấu trúc thơ mới, đó là sáng tạo, và đó là chất riêng Trần Quang Quý.
Xin đọc thêm một bài nữa:

Lâu lâu bạn đến nhà
ta ngâm men tri kỷ
rượu khai xuân chan nhau ngầu khuya

ta vì bạn dốc ta tận đáy
bạn về đáy rỗng lộn ngược ta
(Bạn đến)
Câu thơ đầu tiên gợi ngay đến bài thơ Bạn đến chơi nhà của Nguyễn Khuyến (Đã bấy lâu nay bác tới nhà). Nguyễn Khuyến với bạn là tri kỷ. Tình bạn, cảm hứng về uống rượu là những đề tài rất quen thuộc trong thơ cổ điển. Thơ Trần Quang Quý ướp hương cổ điển, nhưng đọc lại thấy mới lạ. Cái mới lạ của khí chất thơ: mạnh mẽ, táo bạo thấp thoáng phồn thực và “lộn ngược” kiểu ngôn ngữ truyền thống.

Người đọc hình dung ra nhà thơ và bạn uống rượu trong đêm xuân, uống đến khuya, như thể họ ngâm trong rượu. Rượu chưa đầy họ chan thêm. Có bao nhiêu rựơu trong bình, họ dốc hết, dốc đến tận đáy. Sau đó bạn về, còn lại nhà thơ say, cảm giác mọi thứ đều lộn ngược.

Nếu chỉ như thế, cũng đã đạt đến cái ngất ngư “Đất trời nghiêng ngửa” của Vũ Hoàng Chương trong Say đi em. Điều lắng đọng của bài thơ là tình tri kỷ của nhà thơ và bạn, không phải là tình rượu. Nhà thơ đã dốc hết tình tri kỷ với bạn.

Cả bài thơ là cách diễn đạt bằng ngôn ngữ ẩn dụ và bằng sự phá vỡ các cấu trúc, tạo ra các lớp nghĩa chồng lên nhau, bắt người đọc phải tháo gỡ câu thơ ra, tái cấu trúc và liên tưởng nhiều tầng lớp, để lần ra nghĩa thực. Không phải khi bạn đến nhà thì nhà thơ mới đi ngâm men để làm rượu. Cũng không phải rượu của nhà thơ là rượu có vẩn đục (“ngầu”), cũng không phải nhà thơ và bạn trở thành hai gã say làm đục ngầu đêm xuân. Câu thơ: “ta vì bạn dốc ta tận đáy” đọc thế nào cho đúng cấu trúc câu tiếng Việt? “ta vì/ bạn dốc ta tận đáy” hay “ta vì bạn/ dốc ta tận đáy”? Cả hai đều không chuẩn ngữ pháp Việt. Diễn xuôi có thể là, “ta vì bạn [mà ta] dốc tận đáy [những gì] ta [có]”. Câu thơ trở nên lạ. Cũng vậy, câu thơ: “bạn về đáy rỗng lộn ngược ta”. Có ba mệnh đề chồng lên nhau: Bạn về, bình rượu rỗng đến đáy. Ta say, nhìn mọi thứ đều lộn ngược. Các chủ ngữ của “đáy rỗng” và “lộn ngược ta” bị giấu đi, câu thơ trở thành lạ. Và cái thú đọc thơ là sự khám phá những cái “lạ” ấy trong ngôn ngữ thơ Trần Quang Quý.

Nội dung, chủ đề nhiều bài thơ trong Namkau là những điều rất đỗi quen thuộc, nhưng nhờ nghệ thuật “lạ hóa” ngôn ngữ, và truyền vào ngôn ngữ cái khí lực dào dạt của tác giả, thơ Trần Quang Quý trở nên hấp dẫn. Muộn thu, Rêu Tháp Rùa, Tóc yêu, Vườn đêm, Tháng ba quê, Tươi, Dị biến… là những bài thơ rất riêng và hấp dẫn.

Tôi mọc rêu lên tận đỉnh Tháp Rùa
nghe gió mọc ngàn năm hoang cổ
sóng vặn đáy hồ mở sáng huyền ảo

Tháp Rùa cũng mọc rêu sang tôi
bằng ánh thép thanh gươm trả nợ
(Rêu Tháp Rùa)
Những bài thơ đọng lại được, lại là những bài chạm đến những vấn đề nhân sinh vượt ra ngoài những nghĩ suy của nhà thơ, và những bài thơ tình quê đậm hương ca dao. Những bài như thế không có nhiều trong tập Namkau:
Phố vắng tanh như phố bỏ hoang
Chỉ tiếng rao “muối đê” khía đến sót lòng
Muối ướp cứng cả thành phố lạnh

Người bán muối mang ngày thiêng đời mình đi bán lẻ
Hy vọng thu về những mảnh vụn mùa xuân
(Hà Nội sớm mồng 1 tết)

Những bông hoa nở bên hàng rào nhà ta
triền cỏ ven đê mê bước chân chiều
hoa nở tím làm mùa hè chùng lại

Bóng em vừa ngang qua ngõ ấy
bỗng tươi lại hồn làng
(Tươi)

Tôi không bận tâm nhiều về kiểu thơ năm câu mà Trần Quang Quý đề xuất. Những bài thơ ngắn có các cấu tứ như namkau đã có trong tập thơ trước. Khi bị đóng khung vào một cái khuôn, tôi có cảm giác chật chội. Khí chất Trần Quang Quý là phóng túng, khi thì trữ tình – lãng mạn – bay bổng, khi thì mạnh mẽ – quyết liệt – cô đặc. Ngôn ngữ luôn vượt ra ngoài cái “chuẩn” thường ngày, và bị làm cho “lộn ngược”, câu thơ bị phá vỡ cấu trúc tạo ra nhiều lớp nghĩa. Khi ông đóng đinh mình vào khuôn namkau, sự phong phú khoáng đạt của thơ Trần Quang Quý bị ức chế. Mỗi bài namkau chỉ khai thác một chi tiết, một ý tưởng, và nhiều khi, đó chỉ là những suy nghĩ vụn của nhà thơ bất chợt (Ngẩng, chiếc răng khểnh, Đỉnh, nằm, tiếng cá quẫy, Ngón, tiếng chim hót, Giọt sương, Thấy, Dìm, tiếng Violon…). Kiểu lập tứ quy nạp tuy có gây sự kinh ngạc phát hiện, song nhiều bài, câu kết lộ ra những ý tưởng chủ đề cũ và nhạt, nhà thơ phơi trắng ra tất cả, ý tưởng nguyên vẹn là ý tưởng, chưa cất cánh thành thơ.
Bên sen thấy trời rộng
hương sen nâng ngàn dặm mây xa
hồ xanh dịu bằng màu hoa thanh khiết

Bí quyết ư, giản dị
cả vạn năm tu rễ ở bùn
(Sen)
Tôi nghĩ rằng kiểu thơ năm câu chỉ đạt tới giá trị của nó khi thơ trở thành thơ tư tưởng như Tứ tuyệt hay Haiku chẳng hạn. Nếu chỉ là những ý nghĩ vụn như thể: “Ngẩng lên là khoảng rỗng/ nhưng sẽ thấy bầu trời” (Ngẩng), hay “Khai quật đen/ phượng chắt đỏ hè” (Đỏ) thì namkau không thể đứng vững được.

MỘT HÀNH TRÌNH

Mười năm thơ (2006-2016) là một hành trình sáng tạo. Trần Quang Quý tỏ ra sung sức và dồi dào năng lực sáng tạo. Tôi rất ít thấy Trần Quang Quý lặp lại từ ngữ, cảm xúc hay thi liệu. Dù viết lại một đề tài, ông vẫn có những khám phá mới. Hành trình ấy đã trở thành một con đường, và in rất đậm vóc dáng lực lưỡng nhưng thanh thoát của nhà thơ. Trần Quang Quý kế tục thơ truyền thống ở mạch trữ tình, ở những tình cảm yêu thương, những trăn trở về phận người, cả những cảnh ngộ bất hạnh. Dù ở New York, hay ở sông Hằng Ấn Độ; ở Sơn Tây hay ở Đất Mũi; trên bãi biển, trên những con đường quê hay ở giữa phố thị; dù đối mặt quyết liệt với hiện thực hay bay bổng với lãng mạn tình yêu hổn hển hơi thở phồn thực, nơi nào ông cũng ghi nhận, cũng cảm, cũng nghĩ và viết những dòng thơ đủ sức neo vào lòng người đọc ấn tượng thẩm mỹ, những nghĩ suy của ông hòa trong những nghĩ suy của người đọc.

Con đường thơ của ông là con đường “tự thức” để thực hiện “giấc mơ gieo hạt”. Ông từ chối: “Những cơn bão ngôn từ có lúc muốn lồng lên/ cả tiềm thức cũ mèm hay ngữ nghĩa vừa khoác manh áo mới từ vựng/ những con chữ cởi trần, không câu nệ xiêm y mỹ tự…” (Ngoặc đơn – Màu tự do của đất)). Ông “tháo ngoặc” để con chữ được tự do. Và gần như ông tháo tung tất cả cấu trúc ngữ pháp, cấu trúc thời gian, không gian, cấu trúc câu truyện (xin đọc Bước yêu và Bạn đến ở trên) để tạo những cấu trúc mới. Ông từ bỏ những thi liệu cũ, những đề tài cũ, những cách viết cũ, những góc nhìn cũ mà nhiều nhà thơ cho đến nay vẫn “ăn mày quá khứ”, để dấn thân khai phá những “vỉa tầng” mới của tâm hồn thời đại. Với những nỗ lực ấy, Trần Quang Quý thực sự đóng góp vào sự đổi mới thơ Việt đương đại, sự đổi mới có ngọn nguồn truyền thống. Hướng đi này có nhiều triển vọng, bởi những nỗ lực đổi mới thơ Viết từ những năm 1990 đến nay theo hướng Hậu hiện đại dường như đã chững lại, trong khi Trần Quang Quý vẫn đang tiến về phía trước trong hành trình thực hiện “giấc mơ gieo hạt” của mình.

Kính chúc nhà thơ tiếp tục mở khóa và đi tiếp những bước mạnh mẽ tràn đầy sinh lực, phóng túng bay bổng về phía sự sáng.

Tháng 2. 2018
_______________
[1] Trang thơ tự chọn Trần Quang Quý:
http://vanvn.net/chuyen-van-chuong/trang-tho-tu-chon-cua-nha-tho-tran-quang-quy/845

ĐỌC LẠI “TUỒNG THƯƠNG KHÓ” CỦA J.-B TÒNG

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK: buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

_________________________________________________________________

ĐỌC LẠI TUỒNG THƯƠNG KHÓ CỦA J.B. TÒNG

Bùi Công Thuấn

***

Bài viết “Kể chuyện Tuồng Thương khó diễn ở trường Latinh Sàigòn năm xưa” của nhà nghiên cứu văn học Công giáo Lê Đình Bảng và bài: “Sau 100 năm đọc lại Tuồng Thương khó – kịch bản sân khấu hiện đại đầu tiên của người Việt” của PGS-TS Võ Văn Nhơn là những bài nghiên cứu công phu, cung cấp cho người đọc vốn hiểu biết sâu sắc về Tuồng Thương Khó của ĐGM Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (1868–1949).

Hai công trình này cũng đồng thời đặt ra nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu [[1]]. Bài viết này chỉ xin góp một vài điều ghi nhận được khi tôi đọc lại Tuồng Thương Khó của J.-B.Tòng trong tương quan với hai bài viết của các học giả trên.

VĂN BẢN “TUỒNG THƯƠNG KHÓ” CỦA J. B. TÒNG

1.Trang bìa bản in Tuồng Thương Khó (in lần thứ ba) năm 1923 ghi như sau:

            2.Trong Tiểu dẫn (in lần thứ nhứt), viết “ngày lễ Các Thánh Nam Nữ, mồng 1 Novembre 1912”, J.-B. Tòng ghi:

“…tuồng Thương khó một ngày một ra việc cả thể, trọng tốt lạ lùng, nhứt là tại làng Ober-Ammergau, trong xứ Bavière, thuộc về nước Allemagne.

Số là năm 1632, bổn đạo làng ấy bị thần khí dữ dằn quá lẽ, tưởng chết tuyệt cả làng. Bấy giờ kẻ lớn trong dân hiệp nhau mà khấn hứa, xin Đ. C. T. cho khỏi nạn thì sẽ làm tuồng Thương khó mà tạ ơn Chúa. Khấn hứa đoạn, liền dứt họa tai, chẳng còn một ai phải chết.

Từ ấy đến rày, gần 300 năm, bổn đạo Ober-Ammergau hằng giữ lời khấn ấy luôn: hễ 10 năm thì làm tuồng Thương khó một lần mà nhớ ơn trọng Chúa đã ban cho mình. Làng Ober-Ammergau …nhờ tiền cúng hỉ, góp nhóp lâu năm, thì đã sáng tạo một trường hát trọng tốt, cùng cất một toà nhà đồ sộ phi thường, đủ ghế bàn cho bốn năm ngàn người ngồi coi, khỏi mưa nắng. Tuồng ấy có năm làm đi làm lại bốn năm chục lần, cho mọi người coi được hết thảy, mà mỗi lần mỗi có bốn năm ngàn người. Tứ phương thiên hạ đua nhau tuôn đến: đủ mặt viên quan chức sắc, phần đời phần đạo, cho tới vì vua chúa công hầu, cùng hàng Giám mục, cũng thân chinh ngự đến thú quê, mà xem cuộc lạ lùng thể ấy” (tr.7)…

Năm 1905, bổn đạo thành Nancy bên nước Langsa, cũng noi theo cách thức Ober-Ammergau, mà làm tuồng Thương khó cả thể lắm. Hơn 2000 người coi, đều ngợi khen chẳng xiết. Ai cũng nói: coi một tuồng bằng nghe mười bài giảng rất khoan ngôn ngữ” (tr.8)…

Tôi thấy sẵn dịp rất trọng là Lễ Ngũ Tuần Nhà trường Latinh Sài-gòn sẽ làm năm tới (Avril 1913), sẵn lòng rộng rãi chư vị giáo nhơn phụ giúp, sẵn nhiều quý hữu đồng tâm hiệp lực, nên tôi mới dám ra công mà dọn tuồng nầy”(tr. 9).

Trong phần “Tiểu dẫn” tôi trích ở trên, có mấy điều cần được lưu ý:

  1. Chữ “tuồng Thương khó” viết thường, không viết hoa tất cả 3 chữ, nghĩa là

 “tuồng Thương khó” không phải là tên riêng của một tác phẩm nhất định. Đó chỉ là tên gọi một vở tuồng, diễn lại sự thương khó của Đức Giêsu (do bất kỳ ai soạn). Giống như ngày nay, nhiều xứ đạo, mùa lễ Giáng sinh, đã tổ chức “Diễn nguyện” canh thức Giáng Sinh. Giáo xứ tổ chứ buổi trình diễn “sân khấu hóa” Kinh thánh,  diễn lại lịch sử ơn Cứu Độ. Mỗi xứ, căn cứ vào Kinh thánh, mà tự soạn một kịch bản cho riêng xứ mình. Nội dung “cốt truyện” bảo đảm những gì được tường thuật trong Kinh thánh, còn việc cấu trúc vở diễn, chia hồi, phân cảnh, dựng phông nền, trang phục, dùng nhạc nền, diễn xuất thế nào, thì tùy mỗi nơi “tự sáng tạo”, tự đạo diễn. Nghĩa là không có một “kịch bản” Giáng Sinh có tác giả, được in ấn, được Imprimatur phổ biến rộng rãi để tất cả các giáo xứ cùng diễn như diễn một vở kịch chính thức (thí dụ kịch bản của Shakespear, của Molière..). Kịch bản “tuồng Thương khó” diễn ở nhiều nơi ngày xưa có lẽ cũng thuộc dạng ấy.

Rõ nhất là trong “Tiểu dẫn”, tác giả J.-B Tòng cũng không nói gì đến tác giả kịch bản “tuồng Thương khó”. Ông chỉ viết: “Số là năm 1632, bổn đạo làng ấy bị thần khí dữ dằn quá lẽ, tưởng chết tuyệt cả làng. Bấy giờ kẻ lớn trong dân hiệp nhau mà khấn hứa, xin Đ. C. T. cho khỏi nạn thì sẽ làm tuồng Thương khó mà tạ ơn Chúa. Khấn hứa đoạn, liền dứt họa tai, chẳng còn một ai phải chết”.

 Vì “tuồng Thương khó” của dân làng Ober-ammergau không có tác giả, không có kịch bản, điều này giúp xác định tác giả kịch bản “TUỒNG THƯƠNG KHÓ” chúng ta đang đọc là của J.-B. Tòng dọn năm 1912.

J.-B Tòng ghi “nguồn”của vở tuồng này là:

Đã dọn theo sách Gẫm sự thương khó Đ.C. G. và theo tuồng Thương khó đã làm tại Ober-Ammergau và tại thành Nancy”.

b. Có lẽ nhà nghiên cứu Lê Đình Bảng và những người đi sau ông chỉ tham khảo thông tin trên Nam Kỳ Địa Phận nên đã ghi nguồn như sau:

Theo ghi nhận của Tuần báo Nam Kỳ Địa Phận vào năm 1632 – 1633, đã xảy ra ôn dịch trầm trọng khắp trong ngoài làng Ober-ammergau, nước Đức. Cha sở hiệp cùng bà con khấn xin Chúa ra tay cứu chữa, với lời hứa sẽ trình diễn “Tuồng Thương Khó” để tạ ơn và Chúa đã nhận lời. Ngay năm sau (1634), vở tuồng ra mắt tại sân nhà thờ xứ. Tiếng lành đồn xa. Người khắp nơi tuốn đến xem, đông đến nỗi ban hành giáo phải tranh thủ dựng một nhà rạp – sàn diễn có sức chứa 5000 chỗ ngồi. Từ ấy đến tận năm 1934, nghĩa là xuyên suốt 300 năm, đến hẹn lại lên, sân khấu nhà thờ Oberammegau cứ đỏ đèn đón khách thập phương tựu về, vửa để thông công ơn phước Mùa Chay thánh, vừa được thưởng thức kịch tuồng. Từ một làng quê xa lắc xa lơ của xứ sở Bavaria, “Tuồng Thương Khó” theo bước chân truyền giáo không mệt mỏi của các thừa sai đi đến khắp nơi. Người ta đã chuyển dịch, biên tập, mô phỏng và diễn xuất “tuồng thương khó” bằng nhiều ngôn ngữ, phong cách nghệ thuật đa dạng của các nước Âu Châu, và cuối cùng đã dừng lại, hội nhập vào sân khấu tuồng kịch của miền đạo xa lạ tận Viễn Đông này là Việt Nam” (nguồn: Ở thượng nguồn thi ca công giáo việt Nam/ miền thơ trong kinh nguyện, trang 460 – 468; Nxb Tôn Giáo 2009)

Xin lưu ý: Lê Đình Bảng không cho biết ông căn cứ vào báo Nam Kỳ Địa Phận số mấy, năm nào; và chữ “Tuồng Thương Khó” ông viết hoa cả 3 chữ, nghĩa là, đó là một tác phẩm có văn bản và bản quyền. Theo mạch lập luận, ông cho rằng kịch bản Tuồng Thương Khó ấy của dân làng Ober-ammergau đã hội nhập vào tuồng kịch Việt Nam. Nhưng ông không nói rõ việc hội nhập ấy diễn ra cụ thể thế nào. Việc ông suy diễn “Người ta đã chuyển dịch, biên tập, mô phỏng và diễn xuất “tuồng Thương khó”(của dân làng Ober-ammergau) bằng nhiều ngôn ngữ, phong cách nghệ thuật đa dạng của các nước Âu Châu” là không có cơ sở. Những diễn giải như vậy của Lê Đình Bảng cần được xem lại vì sai lạc so với “Tiểu dẫn” của tác giả kịch bản J.-B Tòng (xin đối chiếu).

c.Tác giả Vinhsơn Vũ Đình Đường cho biết:

Truy nguyên nguồn gốc sự kiện trên, tuần báo Nam Kỳ Ðịa Phận số 1306 cho biết thêm chi tiết, vào năm 1632 và 1633 đã xảy ra nạn ôn dịch trầm trọng rải rác khắp trong ngoài làng Oberammergau nước Ðức. Bấy giờ Cha sở cổ động cùng bà con giáo dân khấn nguyện xin Chúa ra tay cứu chữa, với lời hứa sẽ trình diễn “Tuồng Thương Khó” để tạ ơn và Chúa đã nhận lời. Ngay năm sau 1634, giữ lời hứa, vở tuồng đã ra mắt tại sân nhà thờ. Người tứ phương thiên hạ tuốn đến xem đông đến nỗi Ban Chức việc họ đạo phải mau chóng dựng một nhà rạp quy mô có sức chứa trên 5.000 chỗ ngồi. Từ năm đó đến nay, đến hẹn lại lên, diễn viên đồng loạt về ôn tập nhập vai, dụng cụ trình diễn sửa sang sẵn sàng, sân khấu nhà thờ Oberammergau lại dựng rạp chờ đón khách thập phương tề tựu về. 10 năm một lần tái diễn lại vở tuồng kính nhớ sự thương khó Chúa đã chịu chết để gánh tội cho nhân loại. Mọi tín hữu cùng thông công, lãnh nhận ơn phước trong mùa Chay Thánh”.

Riêng tại Việt Nam cũng có “Tuồng Thương Khó” của linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (1868-1949), vì vào năm 1911, lúc ấy cha còn đang phụ trách ký lục (thư ký) Tòa Giám mục Sài Gòn, đã khởi sự soạn “Tuồng Thương Khó” dựa vào bản văn ngoại ngữ đã trình diễn ở làng Oberammegau, thêm phần tham khảo tư liệu từ “Sách Gẫm Sự Thương Khó Chúa Giêsu” đã có sẵn…”[[2]]

Xin lưu ý: Tác giả Vinhsơn Vũ Đình Đường ghi rõ J.-B Tòng đã “dựa vào bản văn ngoại ngữ đã trình diễn ở làng Oberammegau”…Tôi e rằng điều này chỉ là võ đoán, vì trên báo Nam Kỳ Địa phận không có thông tin ấy:

Báo Nam Kỳ Địa Phận số 1360, năm 1934, tr. 393, có bài: “Kỷ niệm Tam bách niên diễn Tuồng Thương Khó tại Oberammergau 1634-1934” ghi như sau:

“Vốn bấy lâu làng Oberammergau mà nổi danh lừng lẫy trong hoàn cầu là nhờ diễn tuồng Thương khó Đức Chúa Giêsu.

Nguyên năm 1632 và 1633, tại miền xứ nầy bị bịnh ôn dịch dữ dằn quá đỗi, ai nấy đều hoảng vía kinh hồn, người ta phải bỏ làng nước mà đi nơi khác cho đặng lánh nạn ôn dịch, phần nhiều thì đã ra ngã lòng rũn chí…Bấy giờ những kẻ lớn trong dân và là đầu mục các giáo hữu, bèn nhóp hiệp nhau lại trong nhà thờ mà làm lời hứa trọng thể rằng: Nếu Chúa khấng cứu chữa dân nầy cho qua khỏi cơn ôn dịch thì hằng năm họ sẽ diễn tuồng Thương khó mà cảm tạ đội ơn Chúa. Hẳn đã đặng nhậm lời như lòng dân sở nguyện, vì lúc ấy liền dứt cơn ôn dịch. Cho nên qua năm sau 1634 thì họ khỉ sự diễn tuồng Thương khó lần thứ nhứt, và từ ấy đến nay, nhơn dân làng Oberammergau hằng giữ lòng trung thành một trực lời hứa ấy với Chúa luôn.

Ban đầu thì người ta diễn tuồng trong nhà thờ, song sau thiên hạ đến xem càng ngày càng đông, cho nên họ phải diễn ra ngoài sân. Sau hết người ta đã xây dựng một kịch trường lớn rộng chứa đặng 5000 người…”

Xin ghi nhận: bài báo trên Nam Kỳ Địa Phận không ký tên tác giả. Bài báo viết năm 1934, so với Tiểu dẫn của J.B.Tòng (lần in thứ nhứt năm 1912) không có gì sai lạc.

Tiếc là, cả hai tác giả Lê Đình Bảng và Vinhsơn Vũ Đình Đường đã không bảo đảm tính chân thực khoa học của “nguồn” khi trích dẫn, lại tự suy diễn, thêm thắt vào những chi tiết sai lạc so với “nguồn” là Tiểu dẫn của J.B.Tòng và tuần báo Nam Kỳ Địa phận. Điều này có thể gây lầm lẫn cho những nhà nghiên cứu đi sau, nếu họ không đọc trực tiếp Tiểu dẫn của J.B.Tòng (lần in thứ nhứt 2012) và tuần báo Nam Kỳ Địa phận (số 1360, năm 1934).

NỘI DUNG CỦA “TUỒNG THƯƠNG KHÓ”

Nội dung kịch bản Tuồng Thương Khó của J.-B Tòng gồm 2 phần, chia thành 16 “Thứ”, mỗi Thứ (có thể) chia làm nhiều “Hồi”. Mỗi Thứ, mỗi Hồi đều có nhan đề.

Phần Prélude (khúc dạo đầu) dặn dò khán giả:

“Trước khi giáp tuồng, thì mở đầu, như sau: Thầy giảng nói ít lời về tuồng Thương khó, và khuyên kẻ xem phải có lòng thế nào…- Bề ngoài, xin làm thinh và đừng cười, nhứt là khi nhằm chỗ không nên cười…- Lại tuồng nầy, dầu làm giỏi thế nào cũng không nên vỗ tay mừng ngợi.

Đoạn kéo màn ra. Liền thấy đô hội thiên thần sấp mình kính lạy cây Thánh giá lớn dựng giữa rạp hát; cũng một khi ấy nghe hát kinh…”

***

Ngoài lời thoại, kịch bản còn có “lời dẫn” (để trong ngoặc đơn) hướng dẫn cách diễn (Xin xem Thứ thứ  12, Hồi II; Thứ thứ 15, Hồi thứ nhứt; và Thứ thứ 16).

Chữ viết tắt trong kịch bản: Đ C G là Đức Chúa Giêsu

                                                     PHẦN THỨ NHỨT

                                       Từ khi Đ C G vào thành Giêrusalem

                               cho đến khi Giudà nộp Người trong tay quân dữ

Thứ thứ nhứt: Đ C G vào thành Giêrusalem

Nhân vật: Đ C G, Tông đồ, Kẻ buôn bán, Dân.

Hồi thứ nhứt: Đ C G vào thành Giêrusalem

Hồi thứ hai: Đ C G đuổi kẻ buôn bán trong đền thờ

Thứ thứ hai: Công đồng hội nghị tại nhà Caipha

Hồi thứ nhứt: Caipha, Nathanael, Ephraim, Annat, Misael

Hồi thứ hai: Mấy người trước, Nathanael, kẻ buôn bán

Thứ thứ ba: Đ C G từ giã Đức Mẹ (tại nhà ông Ximong ở làng Bêthania). (Tr. 39)

            Nhân vật: Đ C G, Đức Mẹ, Ximong, Madalenna, Môn đệ, Thánh nữ

Thứ thứ tư: Đ C G đi thành Giêrusalem

Hồi thứ I: Đ C G và 12 tông đồ

Hồi thứ II: Mấy người trước, trừ ra Vêrô và Gioang

Hồi thứ III: Giudà (một mình)

Hồi thứ IV: Giudà và Nathan, là người buôn bán

Hồi thứ V: Mấy người buôn bán vào

Hồi thứ VI: Giudà

Thứ thứ năm: Đ C G lập phép Thánh Thể (tr. 55)

            Đ C G và 12 tông đồ (ngồi bàn)

            (Đ C G rửa chân cho tông đồ)

            (Các tông đồ có ý kiến)

Thứ thứ sáu: Đ C G vào vườn Giếtsêmani (tr. 65)

            Hồi thứ I: D C G và tông đồ: Giacôbê tiền, Vêrô, Tadêu

            Hồi thứ II: Mấy người trước, Thiên thần dâng chén (tr. 72)

            Hồi thứ III: Mấy người trước, Đathan, Giudà, Selpha (đội trưởng), Malcô (kẻ bị chém đứt tai), Pharisiêu và lính: Giudà dẫn lính đến bắt Chúa Giêsu.

                                                     PHẦN THỨ HAI

                                   Từ khi Giudà nộp Đ C G trong tay quân dữ

                                                cho đến khi Đ C G sống lại

Thứ thứ bảy: Đ C G chịu dẫn đến nhà Annat:

        Hồi thứ I: Annas, Esdrast, Misael, (bàn luận lúc chờ giải Chúa đến)

        Hồi thứ II: Mấy người trước, Đ C G, Lính

Thứ thứ tám: Đ C G chịu dẫn đến nhà Cai pha

        Hồi thứ I: Công đồng, Đ C G, Lính

        Hồi thứ II: Mấy người trước, Chứng (Họ tìm cách luận tội Chúa Giêsu)

        Hối thứ III: (Gamaliel và Nicôđêmô bên vực Chúa Giêsu trước mặt Caipha),

        Hồi thứ IV: Gioang, Vêrô, Lính, Gia nô, Nữ tỳ:

               (Họ sưởi lửa. Phê rô chối Chúa).

        Hồi thứ V: (Vêrô một mình, làm thinh một hồi, bộ buồn lắm- Phê rô độc thoại ăn năn).

Thứ thứ chín: Giudà ngã lòng trông cậy trông (tr.96)

        Nhân vật: Công đồng, Giudà, Caipha:

        (Họ kết án tử Chúa Giêsu, Giudà hối hận muốn chuộc lỗi lầm nhưng bị từ chối).

Thứ thứ mười: Đ C G chịu Philatồ tra xét (tr.101).

         Hồi thứ I:

  Nhân vật: Công đồng, Đ C G, Philatồ, Quan quân

             (Philatồ hỏi đức Giêsu phạm tội gì, thấy Ngài không đáng án tử).

         Hồi II: Philatồ, Đ C G, lính (trong dinh):

   (Nội dung: Philatồ hỏi Chúa Giêsu. Ngài nói, nước Ngài thuộc về chân lý: “Min là vua. Min đã sinh ra cùng đã xuống thế, là có ý cho đặng làm chứng sự thật: hễ ai theo lẽ chơn thật, thi nấy nghe lời Min”.(tr.108)

         Hồi thứ III: Mấy người trước, một thể nữ

              (Nội dung: Philatồ từ chối phê án tử Đức Giêsu. Ông ta nói, Đức Giêsu là người Galilê, hãy đem cho vua Hêrode xử, vì Herode là vua xứ Galilê).

Thứ thứ mười một: Đức Mẹ sầu bi (ở nhà Vêrônica) (tr.112)

          Nhân vật: Đức Mẹ, Ximong, Ladarô, Verônica, Mátta, Madalenna, Eliacin, Vêrô, Gioang:

          (Nội dung: bàn bạc, lo lắng việc Chúa bị bắt, Giudà phản bội, Phêrô chối Thầy. Đức Mẹ đi tìm con để cùng chịu chết: “Gioang, con chạy đi coi thì sự thể nào, rồi trở về đem Mẹ đi chịu tử hình cùng Con Mẹ”).

Thứ thứ mười hai: Đ.C.G. chịu đánh đòn cùng chịu đội mũ gai (116)

          Hồi thứ I: Các nhân vật: Công đồng, Philatồ, Quan quân. Kẻ buôn bán. Đ C G mặc áo trắng. (Nội dung: Caipha và đồng bọn cáo tội Chúa Giêsu song Philatô chỉ cho đánh đòn).

          Hồi thứ II: Các nhân vật: Mấy người trước, trừ ra Philatồ

          (Nội dung: Caipha nói với Annat đi gặp dân, kéo họ đến đây: “Philatồ muốn nghe tiếng dân, thì có sức mà nghe

          Hồi thứ III:

Nhân vật : Đ C G, Lính, Lý hình

          Lời dẫn: tr. 120 (“Hồi nầy là Đ C G chịu đánh đòn và chịu đội mũ gai, không làm chán chường cho người ta thấy. Hoặc thầy giảng nói ít lời, kể lại những sự đau đớn sỉ nhục Đ C G phải chịu trong lúc nầy. Hoặc hát kinh ám hạp cùng sự đánh đòn và đội mũ gai… rồi dở màn qua Thứ sau, thấy Đ C G tan nát cả mình, đầu đội mũ gai, mặt mũi đầy những máu cùng nước miếng, tay cầm gậy nứa, vai choàng một manh áo đỏ”.)

          (Hồi này không có lời thoại).

Thứ thứ mười ba: Đ C G bị án tử

          Nhân vật: Công đồng, Philatồ. Đ C G. Quan quân, Dân

          (Nội dung: Philatồ quyết bênh vực chúa Giêsu, nhưng Caipha xúi dân xin Philatồ phê án tử. Sau cùng ông ta rửa tay tuyên bố không liên can đến việc giết Đức Giêsu).

Thứ thứ mười bốn: Đ C G vác thánh giá lên núi Calavario.(tr.129)

          (Lời dẫn: Quan Cai đi đầu, cầm gậy phép mà cai quản. Kế Quan Cỡi Ngựa cầm cờ nước Rôma. Rồi Đ C G vác thánh giá. Bốn Lý Hình theo giục đi cho mau… Công đồng, Thầy Cả Pharisiêu, Quan quân, Dân sự la lối hỗn hào…—Nửa đàng gặp Ximong Cyrênô)

          Nhân vật: Đức Mẹ, Madalenna, Vêrônica, Thánh Nữ, Giude Arimathia (bởi Bêthania mà đến).

           (Tóm tắt: quan quân giục Đức Giêsu vác thánh giá đi nhanh, nó bắt Ximong vác đỡ. Đức Mẹ và các môn đệ đến gặp Chúa. Vêronica trao khăn. Con cái Giêrusalem khóc thương Giêsu. Đức Mẹ quyết theo Chúa lên núi Calavario).

Thứ thứ mười lăm: Đ C G chịu đóng đinh trên cây thánh giá (tr.137).

          Hồi thứ I:

          Lời dẫn: không đóng đinh cũng không dựng thánh giá chán chường trước mặt người ta. Song sẽ giãng ít lời thống thiết, hay là hát kinh thâm trầm. Rồi dở màn thất Đ C G chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp.

          Nhân vật: Mấy người trước, Trộm lành, Trộm dữ Esdras

          (Nội dung: Annat, thầy cả, Caipha đối thoại về chiến thắng, về việc đổi nội dung bản án đóng trên đầu thánh giá Chúa Giêsu. Chúng chế nhạo Chúa. Lý hình chia áo. Hai tên trộm nói chuyện với Chúa. Chúa nói với Đức Mẹ và Gioan: Ớ bà, này là con bà. Nầy là Mẹ con. Chúa phó linh hồn trong ta Chúa Cha. Trời đất biến đổi, đền thờ rúng động. Tất cả bọn chúng đều sợ hãi. Chúng xin tha tội vì tin thật Đức Giêsu là con Đ C T).

          Hồi thứ II:

          Nhân vật: Mấy người trước (trừ ra dân), Nicôđêmô, Giude Arimathia,

          (Nội dung: Nicôđêmô xin chôn xác Chúa Giêsu, quan sai lính dùng đòng đâm  Đ C G. Madalena và Đức Mẹ đau lòng. Caipha bắt chôn Chúa cùng một huyệt với 2 tên trộm. Hắn còn đòi niêm mồ Chúa để xem sau ba ngày Chúa có sống lại như lời đã nói không)

          Hồi thứ III: Hạ xác

          Nhân vật: Đức Mẹ, Matta, Madalenna, Thánh Nữ, Gioang, Nicodemo, Giude Arimathia

          (Nội dung: Madalena, Gioang an ủi Đức Mẹ. Giude Arimathia, Nicôdêmô và Gioang lo việc hạ xác. Đoạn, Giude ôm xác Đ C G để trong lòng Đức Me. Madalenna đổ thuốc thơm, Giude đem xác Chúa vào vườn táng trong huyệt đá)

Thứ thứ mười sáu: Đ C G sống lại (tr. 153)

          Lời dẫn: Thứ nầy không có lời nói, một thấy những đều sau nầy:

  1. Đ C G sống lại, ra khỏi huyệt, sáng láng tốt lành; quân canh hãi hùng kinh khiếp.
  2. Đ C G thắng trận khởi hoàn; công đồng thẹn thuồng nhuốc hổ.
  3. Đ C G vinh hiển oai nghi, thần thánh hát mừng: Alleluia!…

Thứ nầy là thứ sau hết và trọng tốt hơn hết, thường gọi là Thiên đàng (Apothéose):

(hát)

          CHUNG
               ***

Ở mỗi Hồi, trước phần lời thoại của các nhân vật, có một bài thánh ca (Cantique) bằng tiếng Pháp, gồm một điệp khúc và 5 tiểu khúc. Theo chú thích ở trang 21, các kinh cùng Cantiques (Thánh ca) in trong cuốn tuồng Thương khó này, thì phần nhiều đã rút trong sách Cantiques cha A. Gravier, in tại nhà René Haton, Paris, – và nhà Procure des Frères de St Jean-de-Dieu, Paris. Khi diễn kịch, các học trò trường Latinh hát bằng tiếng Pháp.

 Thí dụ: (xem phụ lục) 

VỀ GIÁ TRỊ “TUỒNG THƯƠNG KHÓ” CỦA J.-B TÒNG

          Bài viết: “Sau 100 năm đọc lại Tuồng Thương khó – kịch bản sân khấu hiện đại đầu tiên của người Việt” của PGS-TS Võ Văn Nhơn và Đinh Phạm Phương Thảo là một bài nghiên cứu, tổng kết, đánh giá toàn diện về Tuồng Thương khó của J.-B.Tòng cả về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật kịch bản (đd). Bài viết trình bày những luận điểm cơ bản, có giá trị nghiên cứu sau đây:

            1.Tuồng Thương khó là một vở kịch có chủ đề tôn giáo, nội dung khai thác từ Kinh Thánh. Các tuyến nhân vật chủ yếu thừa hưởng từ bốn Tin Mừng (của Matthew, Mark, Luke, John).  Sự sáng tạo về nhân vật làm vở kịch trở nên dày dặn và hoành tráng hơn. 

            2. Bao trùm tác phẩm là xung đột giữa Thiên Chúa và thế gian, giữa tình yêu và thù hận. “Đây là xung đột đóng vai trò cốt lõi của vở kịch, đồng thời cũng có ý nghĩa về mặt tư tưởng đối với niềm tin Công giáo, là mâu thuẫn mang ý nghĩa ơn cứu độ”. Trong Tuồng Thương khó, hành động kịch gần như diễn ra liên tục và ở hầu hết các tuyến nhân vật chính.

            3.Tuồng Thương khó là một vở kịch hiện đại trước hết bởi hình thức hoàn toàn văn xuôi. Tác giả vận dụng triệt để ngôn ngữ bình dân Nam Bộ, khán giả từ trí thức đến người bình dân cũng có thể xem, có thể hiểu, sống động như một câu chuyện thường ngày.

            4. Không lựa chọn cấu trúc của lối viết tuồng hát cũ hay kịch nói phương Tây, Nguyễn Bá Tòng lựa chọn một cấu trúc kịch rất riêng: “Dựa trên nguyên tắc của kịch cổ điển Pháp và tuồng cổ truyền thống, JB. Tòng đã hoàn thiện cấu trúc của vở Tuồng Thương khó với yêu cầu đảm bảo được các chức năng giao đãi, thắt nút, cao trào, mở nút của kịch hiện đại

            5. “Từ vở kịch này, chúng tôi muốn đặt ra một giả thuyết mới: Tuồng Thương khó có khả năng là vở kịch hiện đại viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên do người Việt Nam viết. Đây hẳn là một vấn đề đáng được các nhà nghiên cứu văn học và nghệ thuật sân khấu lưu tâm”.

***

            Tất cả những luận điểm trên của PGS-TS Võ Văn Nhơn và Đinh Phạm Phương Thảo dựa trên “mặc định” Tuồng Thương Khó của J.-B Tòng là tác phẩm do Nguyễn Bá Tòng sáng tác. Nếu Tuồng Thương khó chỉ là tác phẩm được J.-B Tòng biên dịch hay phóng tác (như Lê Đình Bảng đã lưu ý) thì những nhận định ấy có còn nguyên giá trị? Điều này cần được xem xét cẩn trọng.

“Tuồng Thương khó” đã được dân làng Oberammergau diễn hơn 300 năm, sau đó lan tỏa nhiều nơi, đã diễn ở thành Nancy (Pháp), hẳn tác giả đã xem vở diễn này khi ông đối chiếu việc dàn dựng: “Bên Tây tập tành dọn dẹp cả năm, cả đời; mà đây có bốn năm tháng mà thôi”(Tiểu dẫn, đd). Jacques Lê Văn Đức trên tờ Nam Kỳ Địa Phận số 1748, ngày 17 Février 1943. (Tr.70) viết rằng: “Tôi có dịp xem “tuồng Thương khó”  nhiều lần, khi thì ở Nancy, khi ở Oberammergau, khi thì ở Paris trước tiền đường nhà thờ Notre Dame….

Như vậy, có thể Nguyễn Bá Tòng đã xem và kế thừa kịch bản cùng cách trình diễn Tuồng Thương khó của dân làng Oberammergau để viết kịch bản này. Bằng chứng rõ ràng nhất là các bài hát mở đầu mỗi Thứ, mỗi Hồi là thánh ca J.-B. Tòng rút trong sách Cantiques cha A. Gravier, in tại nhà René Haton, Paris, – và nhà Procure des Frères de St Jean-de-Dieu, Paris. Trong kịch bản, J.-B.Tòng để nguyên tiếng Pháp, khi công diễn ca đoàn cũng hát tiếng Pháp.

Thế nghĩa là, cấu trúc tác phẩm, những Thứ, những Hồi, hệ thống nhân vật, mâu thuẫn kịch, cách dàn dựng…(có thể) đã có từ kịch bản Tuồng Thương Khó của dân làng Oberammergau. Ta không rõ J.-B.Tòng dịch lại, phóng tác hay sáng tác Tuồng Thương khó của riêng mình năm 1911 (in 1912 và diễn 1913). Ông cho biết: “Đã dọn theo sách Gẫm sư thương khó Đ.C.G và theo tuồng Thương khó đã làm tại Ober-Ammergau và tại thành Nancy”. “Dọn” có thể là soạn lại một tác phẩm đã có, để tác phẩm ấy phù hợp với đối tượng mình hướng đến. Tức là bỏ đi những chỗ không phù hợp (Thí dụ, bỏ đi cảnh bạo lực: Chúa Giêsu bị đánh đập, bị đóng đinh), thêm vào những gì cần thiết, thay đổi những cảnh, những tình huống sao cho gần gũi với người Việt (Việt hóa triệt để mọi yếu tố của kịch). Ông đặt vấn đề: “Xưa nay đất Nam Kỳ chưa thấy cuộc tốt lành thể ấy. Mà như có làm ai dám trông đặng toàn hảo như các Nước Phương Tây? Như vậy tôi thấy sẵn dịp rất trọng là lễ Ngũ Tuần Nhà trường Latinh Sài gòn sẽ làm năm tới (Avril 1913)…nên tôi mới dám ra công mà dọn tuồng này” (Tiểu dẫn-đd). (Có thể hiểu, các nước Phương Tây đã diễn tuồng này hoàn hảo rồi, mình khó mà bằng họ?).

Xét đến cùng, nội dung kịch bản tuồng Thương khó là câu chuyện đã được kể trong 4 Kinh thánh của Mattheu, Luca, Maco và Gioan. Trình tự sự việc xảy ra, không gian, thời gian, nhân vật, cả lời thoại và hành động trong kịch bản cũng đã có sẵn trong Kinh thánh. Nghĩa là những giá trị tư tưởng, nghệ thuật, giá trị tâm linh của kịch bản là giá trị của Kinh thánh. Người viết kịch bản chỉ tái khám phá, tô đậm những giá trị ấy giúp người xem kịch cảm nhận sâu sắc hơn. Dù là dân làng Ober-ammergau hay bất cứ ai khi viết kịch bản diễn lại cuộc thương khó của Đức Giêsu cũng đều phải tuân thủ nghiêm nhặt những điều đã được thuật trong Kinh thánh. Tác giả kịch bản chỉ “sáng tạo” ở những yếu tố khác.

Tôi hiểu sự đắn đo của PGS-TS Võ Văn Nhơn khi viết: “Từ vở kịch này, chúng tôi muốn đặt ra một giả thuyết mới: Tuồng Thương khó có khả năng là vở kịch hiện đại viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên do người Việt Nam viết” (đd). Điều này chỉ là hiện thực khi Tuồng Thương Khó là tác phẩm sáng tạo của riêng Nguyễn Bá Tòng. Nếu trái lại (Tuồng Thương khó chỉ là tác phẩm phóng tác, biên dịch), thì giả thuyết của PGS-TS Võ Văn Nhơn còn cần được nghiên cứu kỹ hơn.

NGÀY NAY ĐỌC LẠI TUỒNG THƯƠNG KHÓ CỦA J.-B TÒNG

          Trên báo Nam Kỳ Địa Phận ngày 15 Mai 1913 có một bài dài của ông Giude cảm nhận khi xem Tuồng Thương khó (J.-B Tòng đăng lại trong Tiểu Tự, in lần thứ hai, kịch bản Tuồng Thương khó). Bài viết phản ánh được khá sinh động không khí náo nức xem tuồng của công chúng, các cảnh diễn và và cảm nhận những lợi ích tâm linh  khi xem tuồng. Xin trích:

            “…Thật tôi lấy làm rất đỗi có phước, vì đã đặng xem tuồng Thương khó, là tuồng dẫn tích Chúa cùng Đức Mẹ đã chịu thương khó vì tội chúng tôi! Tôi bởi phương xa mà đến Sài gòn, nên phải đi tàu, đi xe lửa. Khi xuống tàu, lên xe, đều thấy người ta đông nức không chỗ ngồi; hỏi lại thì rõ là bổn đạo các nơi tuôn đến mà xem tuồng Thương khó…Nhiều họ có cha sở làm đầu đem đi: ai ai đều náo nức ngóng trông cho mau tới mà xem tuồng Thương khó; vì nhựt trình đã rao trước và tiếng thiên hạ đồn rực mấy tháng nay…

            …Số lần người ta xem tuồng mỗi lần độ ba bốn ngàn người…Khi vào trong rạp mà ngồi thì thấy công cuộc trần thiết rất trọng tốt xinh đẹp không cùng. Nghe nói ông Nguyễn Hữu Hào vẽ cái mặt tiền thật rất tốt và đầy những ý cao trọng…Trước mặt tiền thì có chữ đề rằng: SE MORIENS DAT IN PRETIUM: Chúa chịu chết mà chuộc tội ta…

. . . . . .

            Đến lúc Đ C G vác thánh giá, thật tôi chịu không đặng, vì thấy đoàn quân dữ như muông sói vây phủ bấu xé chiên lành. Đ C G bị xô đẩy, kéo lôi, rất tất tưởi. Khi đó tôi nghe thiên hạ khóc. Có người đứng sau lưng tôi lên tiếng rằng: Quân dữ bất nhơn! Trời ôi! Chúa té xuống nữa đó…

Khi Chúa trút linh hồn, có làm chớp tứ giăng kêu ầm ầm như tiếng sấm. Khi đó quân dữ chạy về khóc lóc ăn năn, cùng xưng Đ C G thật là Đấng vô tội, cùng là con Đ C T thật. Khi người lính đâm cạnh nương long mà thấy máu chảy ra, thì có kẻ đau đớn quá mà xỉu đi, vì thấy quân dữ bất nhơn độc ác quá lẽ như vậy!…”

Sau hết, tôi ước ao một đều là chớ chi những Đấng có quờn có thế hiệp nhau mà lập một hội để dẫn những tích thánh cho chúng tôi xem, vì là như bài giảng rất mạnh mẽ, có sức làm cho chúng tôi động lòng ghét tội và kính mến Chúa”.

***

Bài viết phản ánh sự thành công của tuồng diễn năm 1913 ở nhiều mặt, không chỉ ở kịch bản, chẳng hạn về trang trí sân khấu, rạp hát, về các cảnh diễn của diễn viên, về phản ứng sống động của người xem và về tác động tâm linh nơi giáo dân. Bài viết cũng miêu tả được tác động mạnh mẽ của nghệ thuật diễn tuồng (kịch) trong việc loan báo Tin Mừng…

Tuy vậy, cuộc diễn tuồng Thương khó năm 1943, sau 4 đêm diễn chật nich khán giả (và hàng ngàn người không mua được vé), được cả những chức trách trong đạo, ngoài đời giúp đỡ, nhiều lời khen ngợi, đêm diễn cũng không tránh được những lời chê bai. Jacques Lê Văn Đức (người đóng vai Đ C G trong Tuồng Thương khó của J.-B Tòng năm 1913), trong bài viết “Bái biệt tuồng thương khó 1943” trên Nam Kỳ Địa Phận đã viết [[3]]:

“Thậm chí có kẻ nói:’ Thà tôi bỏ tiền đi coi hát cải lương Phụng Hảo còn ngộ hơn’. Một người có đạo mà nói được câu nói đó thì tôi hết còn biết nói làm sao nữa…Có người nói: ‘Hát dở tệ, thua hồi 1924 quá xa’…Có kẻ trách Mr Lượng gạt gẫm người ta trong sự khen các vai tuồng quá thới”…

            Tôi trộm nghĩ, chuyện khen chê một tác phẩm nghệ thuật là lẽ thường. Nếu ngày nay tuồng này được diễn, (chỉ cần điều chỉnh một ít từ ngữ cho phù hợp với cách nghĩ, cách nói năng ứng xử của người hôm nay), thì giá trị của vở tuồng vẫn giữ nguyên.

Bởi vì, tác giả xây dựng được mâu thuẫn kịch căng thẳng từ đầu đến cuối (mỗi Thứ, mỗi Hồi đều có những mâu thuẫn kịch riêng, thống nhất với mâu thuẫn kịch trong toàn vở tuồng). Chất thẩm mỹ thể hiện phong phú ở nhiều Hồi, nhiều cảnh. Nhân vật được xây dựng có góc cạnh, sống động gây ấn tượng (thí dụ: Giudà, Caipha, Philatồ, Herode…); việc trình thuật, tổng hợp, trích dẫn và diễn giải Kinh thánh rất rõ ràng, thuyết phục; và đặc biệt thể hiện tư tưởng về Ơn Cứu Độ rất sâu sắc: Đức Giêsu lên Giêrusalem là để thực hiện thánh ý Chúa Cha. Ngài chịu chết để cứu rỗi nhân lọai. Không gì cản được con đường Ngài đi. Với lòng nhân hậu và xót thương, Ngài lẫm liệt đối mặt với cái ác và sự chết. Người chiến thắng mọi thế lực trần gian: cả Philatô và Herode đều không thể kết tội Ngài, trái lại họ còn được Ngài dạy bảo về chân lý. Đây là lời Philatồ: “ta đã tra hỏi phân minh mà không thấy người mắc tội gì đáng chết. Vua Herode đã tra xét trước mặt phô ông thì vua cũng đoán định như ta…”(Thứ thứ mười hai, Hồi thứ I, tr. 118). Tất cả sự dữ, bóng tối đều phải quỳ phục ăn năn. Kết thúc Tuồng Thương khó là cảnh Đức Giêsu Phục sinh vinh hiển (Thứ thứ mười sáu).

Thực hiện sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội, tuồng Thương khó của J.B-Tòng có giá trị đặc biệt. Đó là sự tổng hợp, trích dẫn, diễn giải Kinh thánh rất rõ ràng, thuyết phục về cuộc thương khó của Đức Giêsu; là việc dựng lại trong đời thực: không gian, thời gian, nhân vật, sự việc công cuộc Cứu Độ của Đức Giêsu; trình bày được khuynh hướng tư tưởng chính trị của thời đại dân Israel dưới triều Philatô, Herode; giúp người xem hiểu con người thực các tông đồ của Đức Giêsu và từ đó có thể rút ra những bài học tâm linh. Tác giả kịch bản, đặc biệt thành công trong cấu trúc kịch, dẫn chuyện mạch lạc, xây dựng tình huống, khai thác mâu thuẫn, viết lời thoại bình dân gần gũi với người Việt và chú ý đến các chi tiết diễn một cách tinh tế (chẳng hạn không diễn cảnh bạo lực; hoặc dùng những bài thánh ca mở đầu để gợi mở nội dung, tư tưởng của mỗi Thứ, mỗi Hồi).

Về mặt nghệ thuật, tôi nhận thấy giả thuyết của PGS-TS Võ Văn Nhơn là có cơ sở: “Tuồng Thương khó là vở kịch hiện đại viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên do người Việt Nam viết”.

Giả như J.-B Tòng có tham khảo tuồng Thương khó của dân Ober-ammergau trước đó, nhưng như tôi đã trình bày ở trên: Cốt truyện, nhân vật, tình huống, ngôn ngữ của tuồng Thương khó đã có trong Kinh thánh và sách Gẫm sự thương khó Đức Chúa Giêsu, nhưng khi viết thành kịch bản để diễn cho công chúng Việt Nam, tác giả J.-B.Tòng phải lao động sáng tạo (phải “dọn”) rất nhiều (thử so sánh với cách viết của Nguyễn Du khi viết Đoạn trường tân thanh, “dọn” từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân).

Tôi nghĩ, các tác giả Công giáo viết “Diễn nguyện” hôm nay có thể học được rất nhiều điều về nghệ thuật biết kịch bản từ Tuồng Thương khó của ĐGM G.B Nguyễn Bá Tòng. Tác phẩm này xứng đáng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Công giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Tháng 9/ 2022

Bạn có thể download Tuồng Thương khó theo link:

https://www.mediafire.com/file/6gs3cv4m10w127n/Tuô_ng_thu_n_g_khó_(3e_éd_%5B…%5DNguyê_n_Jean-Baptiste_bpt6k4227963m.pdf/file


[1] Lê Đình Bảng: “Kể chuyện Tuồng Thương khó diễn ở trường La tinh Sài gòn năm xưa” .

http://giaodantanthaison.com/tin-chinh/tu-lieu-va-van-hoa/ke-chuyen-tuong-thuong-kho-dien-o-truong-la-tinh-sai-gon-nam-xua-le-dinh-bang.html

Võ Văn Nhơn-Đinh Phạm Phương Thảo: “Sau 100 năm đọc lại Tuồng Thương khó – kịch bản sân khấu hiện đại đầu tiên của người Việt”. Tạp chí Xưa và Nay, số tháng 6 năm 2021

[2] Vinhsơn Vũ Đình Đường: “Tuồng Thương Khó” diễn lại cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu”(14/4/2022)

http://www.cgvdt.vn/cong-giao-viet-nam/tuong-thuong-kho-dien-lai-cuoc-kho-nan-cua-chua-giesu_a14530

[3] Jacques Lê Văn Đức: Bái biệt tuồng thương khó 1943”, 3 số báo Nam Kỳ Địa Phận: số 1746 (tr. 44), số 1747(tr. 56), và số 1748 (tr.70).

______________________

PHỤ LỤC

2. Trang bìa Tuồng Thương Khó,  Imprimerie de la Mission, 1923 Quynhơn (hình)

3. “Kỷ niệm Tam bách niên diễn Tuồng Thương Khó tại Oberammergau 1634-1934”. Nam Kỳ Địa Phận số 1360, năm 1934, tr. 393. (hình) 

4.Jacques Lê Văn Đức: bài viết “Bái biệt tuồng thương khó 1943”. Nam Kỳ Địa Phận số 1746 (tr. 44), số 1747(tr. 56), và số 1748 (tr.70). (Hình)

Bài ca mở đầu (bằng tiếng Pháp).
Prélude