Giải Việt Văn Đường Trường Quy Nhơn 2016

GIẢIVIẾT VĂN ĐƯỜNG TRƯỜNG 2016 – Giáo phận Quy Nhơn

NĂM THÁNH NĂM LÒNG THƯƠNG XÓT

Bùi Công Thuấn

Quy Nhơn 2015

 

Được đọc 55 truyện ngắn của Giải Viết văn đường trường 2016, tôi xin ghi lại đây những ngẫm nghĩ của mình ở góc nhìn phê bình văn học và mong được chia sẻ với các tác giả. Hy vọng gợi mở được đôi điều về con đường sáng tạo, tuy rất khó nhưng đang rộng mở phía trước.

1.Các tác phẩm dự Giải Viết Văn Đường Trường 2016 viết về nhiều chủ đề, nhưng nội dung hướng về Năm Thánh Lòng Thương Xót thấm trong tư tưởng của nhiều truyện.

Đức Thánh Cha Francis dạy rằng: “Để có thể sống lòng xót thương, trước tiên chúng ta cần biết lắng nghe Lời Thiên Chúa, sống Năm Thánh dưới ánh sáng Lời Chúa: Chúa Giêsu dạy: “Hãy thương xót như Cha các con là Đấng đầy lòng thương xót” (Lc 6,36); Người giải thích: “Dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha chính là Đức Kitô Giêsu.” Đức Thánh Cha nói đến những hành động cụ thể của lòng thương xót là: “Đừng xét đoán để các con khỏi bị xét đoán; đừng lên án để các con khỏi bị lên án; hãy tha thứ thì các con sẽ được tha thứ; hãy cho thì các con sẽ được lãnh nhận: chiếc đấu đong đầy, đã dằn, đã lắc sẽ được đổ vào vạt áo các con; vì các con đong bằng đấu nào, cũng sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,37-38). Người đặc biệt nói đến sự tha thứ: Tóm lại, chúng ta được kêu gọi để sống lòng thương xót, vì lòng thương xót đã được ban cho chúng ta trước. Việc tha thứ những xúc phạm là một thể hiện rõ ràng nhất của tình yêu thương xót, và đối với các Kitô hữu chúng ta, đây là một mệnh lệnh không thể bỏ qua. Có những lúc dường như thật khó để thứ tha.” (Tông sắc Dung mạo lòng thương xót – Misericordiae Vultus)

Các truyện ngắn viết về chủ đề Lòng Thương Xót ít nhiều tiếp cận được lời dạy của Đức Thanh cha. Phía hai con đường miêu tả Lòng Thương Xót của Chúa đã hóa giải mâu thuẫn bạn bè, làm cho họ trở nên nhóm bạn tốt, tích cực trong việc tông đồ. Bác sĩ Ly trong truyện Ánh sao đêm nghĩ đến Lòng Chúa Thương Xót mà giúp đỡ cho một bệnh nhân phải phẫu thuật. Cô từ chối phong bì bệnh nhân bồi dưỡng. Co còn đóng viện phí cho bệnh nhân. Một đời tạ ơn là câu chuyện của ông Ba Khỏe. Một chứng nhân của Lòng Thương Xót. Đời ông được Chúa ban cho bao nhiêu là ân lộc. 17 tuổi, ông đi bộ đội, Chúa cứu ông khỏi bịnh sốt xuất huyết. Trở về gia đình, ông theo đạo và lấy vợ. Người vợ đầu của ông vô tình trúng mìn chết. Người vợ thứ hai sinh cho ông 10 đứa con: năm trai, năm gái, trong đó có 4 đứa bị câm điếc do di chứng chất độc của chiến tranh. Người ta đàm tiếu nhưng ông luôn vững tin vào Chúa. Ông nhận ra rằng, “Ông càng quảng đại với mọi người thì Chúa càng hậu đãi ông”. và Ông xác tín: “Nếu mình luôn sống gắn bó với Chúa, thì Chúa sẽ luôn phù trợ mọi nơi mọi lúc.”

Hai truyện viết sâu sắc về Lòng Thương XótDẫu có muộn màngTâm nguyện cuối cùng. Dẫu có muộn màng kể truyện đời sống hôn nhân của anh chị Thành-Hiền. Họ có 5 đứa con và sống rất hạnh phúc. Họ nhiệt tình tham gia phong trào tôn sùng Lòng Chúa Thương Xót. “Chị càng vững tin vào Lòng Chúa Thương Xót thì mọi việc chị làm ngày càng thành công, nhất là việc đi khuyên giải các gia đình bất hòa, ly tán”… Rồi Cha Xứ lập thêm ba cứ điểm truyền giáo, anh chị Thành-Hiền không còn thời gian cho mình nữa. Anh vắng nhà thường xuyên hơn, có khi mỗi tháng đi một tuần hay mười ngày. Thời gian sau Anh bị ung thư phổi giai đoạn cuối. Chị xuống tận Cà Mau bốc thuốc cho anh Ngày đêm chị khấn xin Lòng Chúa Thương Xót cứu chữa cho anh. Bất ngờ, qua tin nhắn, chị phát hiện anh Thành có vợ con ở Ban Mê thuột. Họ đã sống với nhau 6 năm. Chị chỉ còn biết khóc và khóc. Không thể nào tha thứ được cho anh, dù anh đã quỳ dưới chân chị mà xin lỗi. Chị im lặng, lòng đầy uất hận. Chị đi xưng tội, nhưng lại bỏ lễ về khi đọc đến Kinh Lạy Cha, vì chị không thể tha thứ. Rồi chị đến tĩnh tâm ở một Nữ Đan Viện. Cha ở Đan viện nói với chị: “Thân phận con người rất yếu đuối, dễ sa ngã. Nếu không có ơn Chúa giúp chúng ta chẳng làm được gì cả. Chị hãy đến với Lòng Chúa Thương Xót, chính Người sẽ dạy cho chị biết phải làm sao”. Chị ngộ ra. “Quỳ trước ảnh Lòng Chúa Thương Xót, nước mắt chị tuôn tràn…”

Tâm nguyện cuối cùng là câu truyện về Lòng Chúa thương xót làm hồi tâm kẻ hận đời. Nhân vật “Anh” hận đời vì người mẹ ruột của anh giết chết cha anh, chiếm tài sản, rồi đi theo người khác, bỏ rơi hai anh em của anh. Anh phải bươn trải kiếm sống, nuôi em, và bị mọi người nghi oan là kẻ cắp. Anh mất lòng tin vào Chúa. Đã ba năm anh không tới nhà thờ, không đón nhận các bí tích. Anh muốn trả thù đời, nhưng lời trối của ba anh luôn ám ảnh anh. Cả trong giấc mơ, ba anh cũng hiện về nhắc nhở anh thực hiện tâm nguyện của ông:“đừng trả thù, hãy tha thứ, hãy lo cho em thay…b..a”. Ngày giỗ ba anh lần thứ ba đúng vào ngày khai mạc Năm Thánh Lòng Thương Xót, đứa em rủ anh đi lễ. Anh chần chừ. Đêm qua ba anh lại hiện về, nhắc nhở anh trong giấc mơ, nếu anh không tha thứ thì ông vẫn không được giải thoát. Nghĩ đến Lòng Thương Xót của Chúa, Anh hứa với ba. Có tiếng chuông nhà thờ, anh gọi em dậy đi lễ…

Cả hai truyện: Dẫu có muộn màngTâm nguyện cuối cùng đều viết vế những tình cảnh thật khó tha thứ, khi sự tổn thương là quá lớn. Chúng ta thấm thía lời dạy của Đức Thánh Cha trong Năm Thánh Lòng Thương Xót: “…Chúng ta được kêu gọi để sống lòng thương xót, vì lòng thương xót đã được ban cho chúng ta trước. Việc tha thứ những xúc phạm là một thể hiện rõ ràng nhất của tình yêu thương xót, và đối với các Kitô hữu chúng ta, đây là một mệnh lệnh không thể bỏ qua. Có những lúc dường như thật khó để thứ tha.”(đd)

2.Chọn lựa đời tu là một ơn gọi nhiều thử thách.

Chủ đề về ơn gọi đời tu, có những truyện mang chất ký. Người trong cuộc thuật lại những gì mình đã trải qua, vì thế nhiều truyện có giá trị thuyết phục.

Truyện Chọn lựa là nỗi trăn trở của một tu sinh, để rồi nhân vật Anh rời mái trường Đại Chủng viện. “Cha giám đốc lặng buồn vì mất đi một ơn gọi, nhưng cha lại thầm vui vì sự chọn lựa trưởng thành”. Chọn lựa đời tu là ơn gọi, nhưng tác giả đã có những nhận định hết sức sai lệch. Tác giả viết:”…vì sợ tiếng đời nên biết bao ứng sinh muốn về nhưng họ không dám về. Họ không dám đối mặt với sự thật, họ sợ người đời chê trách. Anh cũng nhớ lại lời các ông cụ, bà cụ ở làng thường nói mỗi khi gặp anh: “Cố gắng mà đi tu cho sướng con ạ! Ở đời chi cho cực…”. “Có lẽ đó là câu ‘điệp khúc’ quen thuộc mà những ai đi tu ít nhiều cũng đã được nghe. Phải chăng cũng vì nghe điệp khúc ấy, nhiều người cứ dấn thân đại vào đời tu rồi ‘nhắm mắt qua cầu’, tiến chức linh mục. Vui vẻ, hạnh phúc, hồ hởi được vài ngày đầu mới làm linh mục… Nhưng đằng sau những ngày sung sướng ấy là những chuỗi ngày dài lê thê, chán nản, rầu rĩ, buông xuôi. Để rồi từ đó họ cảm thấy hối hận và không thích sống đời linh mục nữa. Chính vì lẽ đó, họ buông thả trong lối sống, hững hờ trong việc đạo đức và quên múc lấy căn tính cội nguồn nơi Đức Giêsu Kitô…Đó là những nguyên nhân khiến họ sa ngã và làm hoen ố giới giáo sĩ“. Tôi nghĩ, một người đã rời bỏ đời tu, không nên có những lời xúc phạm trầm trọng đến những đấng bậc đang dâng mình cho Chúa. Thật đáng tiếc!

Truyện Cành nho của Chúa là một trò chơi thử thách trình độ giáo lý và đức tin của quý thầy. Vâng Phục là một thử thách huyền nhiệm giữa một bên là những hứa hẹn tốt đẹp của cuộc đời, một bên là ước vọng sống đời dâng hiến. Khi tìm giấy tờ để làm hồ sơ xuất ngoại, Hoan nhớ lại việc anh vào tu ở dòng Tên. Trong thời gian thử thách, Anh thuộc top 3 người giỏi, đạo đức. Thế nhưng, sau tháng tĩnh tâm, anh bị cha Giám tỉnh cho về. Quá bất ngời, Hoan hoang mang và căm giận Chúa. Anh bỏ tất cả. Anh xin đi làm cho một công ty nước ngoài và được đi Mỹ. Chính lúc sắp lên đường thì cha Giám tỉnh tìm đến báo cho anh biết: Anh đã hoàn thành thời gian thử thách, mời anh trở lại nhà dòng. Anh nhận ra rằng “mọi điều bất ngờ sẽ luôn đến với anh nhưng anh vẫn phó thác và trông cậy nơi Chúa.

Điểm hẹn Giêsu Tìm con đường là hai truyện nhận ra điều này: Ơn gọi là một huyền nhiệm thông qua sự tác động của tha nhân.

Điểm hẹn Giêsu kể về ơn gọi của Tâm. Tâm rất ghét ba nó vì ông say xỉn. Nó không hề bận tâm về cha. Một lần ba nó ngã xuống ruộng, thằng Huy đưa về, tắm rửa. Nó dửng dung nhìn. Một lần khác, lúc nó và thằng Tâm đang nói chuyện thì chú Thắng báo tin cha nó phải nhập viện cấp cứu. Nó từng mong cho cha chết, giờ lại sợ. Nó đã tiếp máu cho cha, nhờ đó ông qua được cơ nguy kịch. Nó nói với Huy, giờ nó biết thương cha. “nó nhận ra rằng khi một người vấp ngã rất cần đến sự giúp đỡ của người thân. Họ cần có một người hướng dẫn để có thể vượt qua khó khăn và cần có một người bạn đồng hành đáng tin cậy để không còn cô đơn”. Bây giờ nó là ứng sinh. Điểm hẹn của nó là Giêsu. Quả thật, chính Huy là mồi lửa đốt cháy lên ơn gọi của Tâm.

Tìm một con đường là ơn gọi từ sâu thẳm qua một tấm gương sống đạo. Như là cô gái một trong một gia đình khá giả. Học xong Đại học, Như làm việc cho 1 công ty. Nhận ra đời chỉ là phù vân, Như nghĩ đến ơn gọi đời tu. Rồi Như bị tai nạn xe bất tỉnh. Người cứu Như là Tâm, một tu sinh. Một thời gian sau, khi Như cùng ba đi lễ khấn sinh, tình cờ nhận ra người khấn là Tâm, Như tự nhủ: “Phải rồi, mình sẽ đi tu. Mình muốn được dâng mình cho Chúa. Chẳng phải chính Thiên Chúa đã cứu mình khỏi tử thần sao. Chính Ngài đã cho Như cơ hội để gặp gỡ Ngài giữa nghịch cảnh của cuộc đời.” Như nói ý định của mình cho cha mẹ biết. Dù ông bà giận, Như vẫn đi theo ơn gọi vì cô đã tìm thấy một con đường đến hạnh phúc thật, hạnh phúc Nước Trời”. Như vậy, chính trong lúc Như còn phân vân thì Chúa sai Tâm đến. Tâm như một chứng nhân về ơn gọi đã thắp sáng ngọn lửa cháy âm thầm trong lòng Như.

Trong thực tế, chọn lựa đời tu đã khó, nhưng sống đời tu còn khó hơn.

Trong tuyện Thầy Lê Vi, một nữ tu đã phải xưng tội về sự vô cảm của mình khi bỏ rơi một người bị tai nạn bên đường. Đặc biệt trong truyện Con đường ấy, một nữ tu đã rất “thành đạt” trong đời tu lại phải đối mặt với nghịch cảnh, Chị không biết phải làm gì. Tốt nghiệp bác sĩ y khoa, Chị trở thành một nữ tu truyền giáo ở Phi Châu. Sau 12 năm đi khắp đó đây để nói về về Lòng Thương Xót của Chúa, Chị gặt hái một mùa bội thu. Trong khi đó, ở nhà, người cha của chị bỏ nhà đi theo một người phụ nữ khác. Mẹ bịnh nặng, em gái phải bán thân nuôi mẹ. Khi về thăm nhà, chị quay quắt trong ý nghĩ: “Chúa ơi, tại sao con dấn thân cho Chúa. Con hết lòng với giáo Hội, con đâu có làm gì sai mà Chúa lại để cho gia đình con như thế?…Con phải làm gì? Con không thể tiếp tục đời tu, tiếp tục an phận trong nhà Chúa trong khi gia đình con, em gái con phải chịu …”. Rồi chị chạy đến với Chúa. Quỳ trước nhà tạm, chị đã nói với Chúa và nghe tiếng Chúa nói với chị: “Chúa ơi! Con đường Chúa đã đi là con đường đau thương, con đường của tủi nhục và Chúa đã dùng con đường ấy để Cứu Độ nhân loại ư?” – “Đúng vậy con à, và con chỉ có thể tiếp tục con đường ấy bằng tình yêu”. Rất tiếc, truyện Con đường ấy đã có những nhận thức rất sai lạc khi so sánh cô em gái bán thân nuôi mẹ là của lễ đẹp nhất mà em đã dành cho mẹ và chị mình. Cũng như Chúa Giêsu đã dùng chính mạng sống mình làm hiến lễ cho Cha và nhân loại.. Sao có thể so sánh sự hy sinh cứu độ nhân loại của đức Giêsu với hành động làm điếm của một cô gái để có tiền lo cho mẹ?!

3. Linh Mục là hiện thân Lòng Thương Xót

 Có 11 truyện viết về đời Linh mục ở nhiều miền đất sống và trong nhiều hoàn cảnh.  Bão biển là nỗi đau xót và bất lực của cha xứ trước cơn bão tiền đang tàn phá xứ đạo. Người ta còn muốn mua cả nhà thờ để làm resort du lịch. Con sói rừng kể về cuộc đời cha Trần Cao Nguyên. 30 năm ngài sống với dân làng Churu. 20 năm làm Linh mục, ngài đi khắp buôn làng gieo hạt giống đức tin, giúp dân canh tác, chữa bịnh cho dân. Người bị bọn lâm tặc sát hại. Truyện Linh mục điên là hình ảnh một Mục tử hết lòng lo cho con dân. Sau khi tiến chức Linh mục, Cha Hoàng về coi xứ. Ngài làm nhà tình thương cho người nghèo, góp tiền cứu người bịnh. Cách làm của ngài bị giáo dân phản đối, cô lập và hành hung. Tòa Giám Mục phải đón cha về và giúp cha giải quyết những vấn đề giáo dân khúc mắc. Người ta bảo ngài bị điên. Người ta đã không hiểu tình yêu sâu thẳm trong trái tim ngài dành cho giáo dân.

Các truyện trên đều tập trung làm rõ nét chân dung Linh mục là hiện thân của Đức Giêsu, và sức mạnh cảm hóa của Linh mục là sức mạnh Lòng Thương Xót của Chúa. Các tác giả đã đi sâu vào nhiều cảnh đời bi kịch, ngang trái, đau thương, từ đó làm sáng lên vẻ đẹp người Mục tử vì đàn chiên. Những tên trộm, cướp là những kẻ nguy hiểm. Đã có lúc Linh mục phải đối mặt với chúng. Bằng Lòng Thương Xót của Chúa, Linh mục đã thuần phục được chúng và đưa chúng trở về với đoàn chiên (Tết thương xót, Linh mục và tên cướp). Linh mục cũng là người chia sẻ được tiếng lòng của phận đời gái điếmtrai bao và đưa họ về bến bình yên trong trái tim giàu Lòng Thương Xót của Chúa (Hoa nở giữa đêm, Khóc). Ở một lĩnh vực khác, đời Mục vụ không dễ dàng chút nào khi Linh mục phải coi sóc trong những giáo xứ có những gia đình rối. Người giáo dân khủng hoảng đức tin, bỏ đạo, căm thù cả người Công giáo (Tìm chiên lạc). Thật xúc động khi vị Linh mục quỳ xuống với Lòng Thương Xót mà xin lỗi người giáo dân (dù rằng lỗi đó không phải do ngài gây ra), nhờ đó, Lòng Thương Xót của Chúa thấm vào linh hồn họ, làm dịu mát những cơn lửa cháy thù hận, đưa họ về với Chúa. Có thể nhận thấy chính nhờ Lòng Thương Xót của Chuá cùng với sự kiên trì và đức khôn ngoan mà những Mục tử của Chúa đã giúp giáo dân củng cố đức tin. Họ nhìn thấy Chúa ở ngay trong đời sống, nhất là trong những tình cảnh trái ngang, không dễ tha thứ.

Tuy vậy, từ góc nhìn của giáo dân, các tác giả cũng mong muốn Linh mục thực sự dấn thân vì đoàn chiên. Tác giả của truyện Tiếng lòng Sơn la kể về tình cảnh một người con dân tộc Thái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Nhà nghèo, bố hai đời vợ. Học xong 11 Nó phải bỏ học vào Nghệ Tĩnh làm ăn rồi quen và yêu một người Công giáo. Được 8 tháng thì gia đình bắt về nhà lấy vợ. Gia đình ép nó từ bỏ đức tin mới nhen nhóm. Càng hiểu Đạo, nó càng thấy thương gia đình hơn. Tiếc là gia đình nó hiểu lầm về đạo một cách tai hại! Nó thấy Đức Giêsu biến đổi nó qua từng chặng đường đời Tình Yêu của Ngài là bất diệt! Tác giả kết truyện bằng lời kêu gọi chua chát này: ”Tôi chưa từng thấy bạn trẻ Công giáo nào có niềm tin đơn sơ mà mạnh mẽ như bạn trẻ “ngoại Đạo” này. Tôi cũng thấy hổ thẹn! Lẽ nào các môn đệ Đức Giêsu không dám bước ra khỏi những vỏ ốc thành thị tiện nghi hay những lũy tre xứ Đạo ấm êm ở miền xuôi để trải nghiệm Niềm Vui của Tin Mừng trên những bản làng bao la bát ngát, để nghe tiếng hát cầu mưa của đồng bào Thái vang vọng núi rừng…”

Truyện Linh Mục điên làm người đọc phải suy nghĩ về cách sống đời Mục vụ của Linh mục. Hai Linh mục là bạn cùng học, cùng đi coi xứ. Một người thì đi xe con tiền tỷ, vẻ vang. Một người góp hết tiền và công sức lo cho người nghèo, lại bị coi là điên. Truyện phản ánh nhiều vấn đề của thực tại. Tình trạng Linh mục bị thế tục hóa, và tình trạng mục tử dấn thân vì đoàn chiên lại bị cô lập, phản đối, thậm chí còn bị hành hung. Đọc xong truyện, dư vị rất đắng kết lại trong lòng người đọc. Có cả những nỗi bất an cho Giáo hội.

4.Khác tôn giáo làm trở ngại tình yêu hôn nhân.

 Chủ đề này đã được nói đến nhiều. Có khi là bà nội, là mẹ chồng không bằng lòng, có khi là bố chồng, đơn giản vì con trai, hoặc cháu đích tôn theo đạo thì không có người lo hương hỏa cho ông bà, thành ra bất hiếu (Chiều xuống êm đềm, Người lo hương hỏa, Tình yêu nhờ Mẹ, Sữa đức tin). Cũng có khi vì một ngộ nhận hay ác cảm tôn giáo nào đó, mẹ chồng hay bà nội đã gây ra những bi kịch đau thương trong gia đình. Trong truyện Vợ đạo, người chồng bị bạn khích bác, vợ đạo chi cho khổ, anh ta sinh ra rượu chè và bắt vợ bỏ thai. Nhân vật bà nội trong Bông hoa buôn làng là người sùng đạo Phật, bà có thành kiến đặc biệt về tôn giáo. Hành xử của bà cực kỳ độc đoán và quyết liệt, làm con cháu khổ không sao kể xiết.

Có truyện giải quyết vấn đề bằng hình ảnh người vợ ẩn nhẫn cầu nguyện, sống đức tin, tỏa sáng đức ái mà cảm hóa mẹ chồng (Sữa đức tin, Người lo hương hỏa). Có trường hợp nhờ đến ơn lạ của Đức Mẹ Hằng cứu giúp (Tình yêu nhờ mẹ).

Thực ra ngày nay, người bên lương không còn ngộ nhận về việc bỏ thờ cúng ông bà khi cho con lấy vợ lấy chồng theo đạo Công giáo. Việc phản đối hôn nhân khác đạo xuất phát từ tâm thế người bên lương bị bắt buộc, bị mất thế, khi đạo Công giáo bắt buộc con cháu họ phải theo đạo. Họ cho rằng đó là ý thức thực dân phương Tây đối với các tôn giáo khác ở Việt Nam trước kia. Cũng có một thực tế ngược lại là, họ cho con theo đạo dễ dàng, nhưng ngay sau ngày cưới, người vợ hay người chồng khác tôn giáo ấy đã bỏ đạo mà không ai có thể giúp để nuôi dưỡng đức tin cho họ.

Cả hai trường hợp: cấm đoán hoặc theo đạo cho hợp với luật hôn nhân Công giáo rồi bỏ, đều là những vấn đề rất khó đối với những gia đình khác tôn giáo. Chỉ có cách sống nhân chứng đức tin, tỏa sáng đức ái như trong truyện Sữa đức tin, Người lo hương hỏa thì mới có thể giữ vững hạnh phúc trong những gia đình hôn nhân khác đạo.

  1. Bảo vệ sự sống

 Các truyện viết về bảo vệ sự sống năm nay gây được nhiều ấn tượng trong kỹ thuật viết, đồng thời chủ đề có ý nghĩa cảnh báo mạnh mẽ.

Truyện Người tốt cảnh báo việc chọn lựa giới tính của thai nhi. Các xét nghiệm y khoa không thể bảo đảm chắc chắn sinh mệnh một con người. Lấy chồng được nửa năm thì Thủy có bầu. Đi siêu âm thai tuần thứ 14, bệnh viện kết luận nên “đình chỉ thai”, vì nguy cơ lưu thai cao. Đứa bé khó sống được, hoặc bị dị tật rất nặng nề. Thủy hết sức lo lắng. Cô đến hội chẩn ở Bệnh viện Phụ sản Trung ương, trưởng ban hội chẩn kết luận: “Em bé sinh ra có khả năng dị tật”. Nhưng Thủy quyết giữ đứa con. Và, cháu bé sinh ra kháu khỉnh, chẳng có dị tật gì! Trong khi người bạn ân nghĩa của Thủy là Chi, đã mấy lần bỏ thai vì siêu âm thai nhi là gái. Gia đình chồng Chi nuốn có con trai. Lần này Chi lại bỏ thai, đáng thương thay đó lại là con trai! Chi nằm bẹp suốt một năm. Mỗi lần Thủy đến thăm, cô chỉ khóc. Rồi Chi lại nhờ Thủy mang thai hộ, vì tin chắc sẽ là con trai. Chỗ ân nghĩa, Thủy không thể từ chối. Kết quả, Thủy lại sinh cháu gái. Chị hy vọng đứa con sau này cũng có lòng tốt như mẹ nuôi nó. Hạn chế của truyện là tính tư tưởng mờ nhạt. Tác giả không giúp cho nhân vật Chi ý thức tội ác ghê gớm mình đã gây ra và hậu quả sẽ phải gánh chịu. Ngòi bút chỉ miêu tả ở mặt hiện tượng.

Truyện Nghiệp chướng cũng vi phạm tính tư tưởng như vậy. Bà Thu Nghĩa địa là người chôn cất thai nhi, bà có cô con gái đang học Đại học Y khoa Thái Bình năm thứ 3. Hôm ấy, bà đi thăm con. Ghé thăm nhà thờ Thái Hà, bà được nhóm Bảo vệ sự sống và nhóm Lòng Thương Xót đón tiếp. Đang nói chuyện, có người mang cho cha sở hộp thủy tinh đựng thai nhi và 1 lá thư. Cha nói, đó là cô sinh viên Y khoa Thái Bình, năm 3, bị lừa tình, không muốn giữ cái thai. Bà nhìn lá thư mà khuỵu xuống (vì bà biết cô gái đó là con bà). Đặt nhan đề truyện là Nghiệp chướng, phải chăng tác giả muốn nói rằng, việc con gái bà Thu nạo phá thai là  nghiệp báo bà phải chịu khi bà làm công việc chôn cất thai nhi? Cứ theo thuyết nhân quả nhà Phật, thì bà Thu làm việc tốt, lẽ ra bà phả được nhận quả tốt, sao lại bị trả báo? Trong thực tế, Bà Thu là người Công giáo tốt. “Bà được tuyên dương là giáo dân tiêu biểu trong thực thi bác ái của Giáo hạt và cô con gái sinh viên năm 3, là ơn từ trời xuống, chẳng lẽ tác giả không có giải pháp nào giúp nhân vật giữ được đức tin và đem Tin Mừng đến cho các bạn trẻ cùng trang lứa hay sao? Xin hết sức thận trọng khi viết về những vấn đề tư tưởng và tâm linh. Nhất thiết phải xem xét cặn kẽ ở góc độ xã hội và soi chiếu bằng tư tưởng Nhân văn Công giáo. Không suy diễn, áp đặt thiếu cơ sở và thiếu đức tin như vậy.

Truyện Giấc mơ mặt người là những giấc mơ của một gái điếm đã 4 lần phá thai. Cô gần 30 tuổi, đạo gốc, có nhan sắc, ở Tây nguyên vào Sàigòn, rồi bỏ đạo. 10 năm đánh mất đức tin là 10 năm làm gái. Lần hủy thai thứ 5, cô vào nhà thờ xưng tội, rồi về nhà mẹ. “Cuộc đời nàng đang dần dần an yên hơn trong sự thứ tha. Sự thứ tha mênh mông của Đấng Quan phòng và của mẹ nàng”. Tuy có thấy nhẹ lòng được một chút nhưng lương tâm cô  không thôi day rứt: “Làm sao để xé toạc hết những quá khứ đau buồn một cách dễ dàng như người ta dễ dàng xé vụn từng tờ giấy nháp.Truyện giàu tính văn chương. Tuy vậy, tác giả chưa lý giải con đường sa ngã của nhân vật, cũng như chưa miêu tả sâu sắc ơn tha thứ cô gái nhận được để có thể thấy nhẹ lòng. Khuôn mặt những đứa trẻ bị cô tước đoạt sự sống vẫn hiện ra trong giấc mơ của cô. đó là điềm báo cho sự trả giá về một tội ác khó có được sự dung thứ mà nàng đã gây ra. Phải chăng tác giả mượn thuyết nhân quả của nhà Phật? Nếu tác giả viết sâu sắc hơn về tội ác hủy diệt sự sống, và cảm nhận tâm linh về ơn tha thứ của nhân vật, thì truyện sẽ mang đến những giá trị đặc sắc hơn.

Đường về nhà là truyện thứ hai nhằm quảng bá cho nhóm bảo vệ sự sốngNhà mở Thái Hà. Vợ chết sớm, Ông Chánh Trương ở vậy nuôi con 20 năm. Vậy mà, Sương con gái một, lại hoang thai. Ông Chánh đuổi Sương khỏi nhà. Sương lang thang và gặp nhóm bảo vệ sự sống ở Thái Hà. Sương được vào Nhà Mở sinh con. Sau 2 tháng, Sương xin được việc làm nuôi con. Một hôm đi lễ, Sương gặp lại cha sứ. Sương trở về trong hạnh phúc được ông Chánh tha thứ. Truyện có cái kết vui và thỏa đáng. Nhưng tôi e rằng, các cô gái trẻ khi đọc truyện này thì yên tâm rằng, cứ sống hoang, khi cần thì đã có Nhà mở. Tác giả không chỉ ra lỗi lầm của cô gái và sự ăn năn thống hối của cô để đáng được tha thứ. Bởi sự tha thứ chỉ nhận được khi người con hoang trong dụ ngôn Người cha nhân hậu (Luc 15, 11-32) nhận rõ con đường về nhà Cha là con đường duy nhất nhận được sự tha thứ.

  1. Sống đạo giữa đời thường.

Có 20 truyên viết về nhưững vấn đề sống đạo giữa đời thường. Mặc dù có hướng về Lòng Thương Xót, song tác giả đặt ra những vấn đề người Công giáo đang phải đối mặt hàng ngày

Trước hết là những cảnh báo về tình trạng đức tin, đạo lý, lối sống của Công giáo đang bị đánh phá dữ dội. Trước đây, gia đình Công giáo là thành trì yêu thương bảo vệ con người, nay cái thành trì ấy trở nên chông chênh và đầy dẫy thù hận. Đó là cảnh con đấu tố cha trong Cải cách ruộng đất (Trở về), Con gái đạo gốc đi làm gái (Giấc mơ mặt người), Con gái sa vào ăn chơi rồi phá thai (Đường về). Con gái ông Chánh trương hoang thai (Đường về nhà), con bà Thu, được tuyên dương là giáo dân tiêu biểu trong thực thi bác ái của Giáo hạt, cũng hoang thai và hủy thai (Nghiệp chướng), Mẹ chửa hoang rồi con gái lại chửa hoang (Chỉ cần bắt đầu lại), vợ ngoại tình (Không bao giờ muộn để tha thứ), chồng bỏ vợ con sống với người đàn bà khác dẫn đết tình trạng các con chao đảo đức tin (Cát bụi). Bỏ đạo theo Đảng để thăng tiến (Cửa đợi), được lên chức trưởng phòng thì bỏ nhà thờ (Mưa trái mùa). Có cả trường hợp con xì ke giết cha để cướp tượng Chúa bằng đồng. Nhưng con chưa kịp bán tượng thì vào tù (Lời chuông chiều)…

Có thể thấy các tệ nạn và tội ác xã hội đã tràn vào gia đình Công giáo, nhưng Giáo hội chưa có giải pháp nào ngăn chặn và các tác giả cũng bất lực trong việc bảo vệ nhân vật, ngoài giải pháp kêu gọi sự trở về để được ơn tha thứ!? Cần phải thấy rõ Chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa Duy vật, chủ nghĩa Thực dụng chủ nghĩa Cá nhân vị kỷ như những cơn bão dữ đang tàn phá xã hội Việt Nam, và người Công giáo cũng bị cuốn vào trong đó. Cần phải hành động để bảo vệ gia đình thay vì chỉ nghĩ đến phép lạ (Đường về, Họa sĩ, Một nửa giấc mơ, Chỉ cần bắt đầu lại), và cầu xin Lòng Thương Xót (Không bao giờ muộn để tha thứ, Cửa đợi, Chỉ cần bắt đầu lại…)

Phần sáng của cuộc thi là những truyện ghi nhận sự tỏa sáng Tin Mừng trong đời thường. Truyện Động lực kể về một người làm Ô sin cho một gia đình vợ chồng đã ly dị, nhưng người Ô sin tông đồ ấy đã kéo được cả gia đình nhà chủ về với Chúa. Tim đèn leo lét là câu truyện truyền giáo của một cô giáo ở vùng Gia Lai, xa xôi và khó khăn.

 Bàn tay vô hình kể truyện một thanh niên trong tình cảnh mẹ chết, bố có vợ hai. Bố say xỉn đánh anh, anh bỏ đi bụi. Rồi khi gặp được tình yêu, anh lại bị từ chối vì thân phận bụi đời. Tuyệt vọng vì thất tình, anh đã tự tử. Anh được một người chài có đạo cứu vớt. Ba ngày trên thuyền, sống và làm việc cùng hai vợ chồng người chài, anh quan sát cách sống và đức tin cùa họ. Anh nhận thấy, dù cuộc sống của họ có gian nan, họ vẫn bình an và hạnh phúc là nhờ ở đức tin vững mạnh. Anh cũng mong ước có được cuộc sống như thế. Khi thuyền cập bến, anh nhận được tin nhắn của cô gái người yêu và cha anh, họ vẫn yêu thương và cần anh.

Dấu chân là hành trình lập nghiệp cũng là hành trình sống đạo. Quê anh nghèo, anh đưa chị và 3 con vào Nam lập nghiệp. Nơi anh ở cách rất xa nhà thờ. Cuộc sống khó khăn hết sức. Lâu lắm rồi anh chị không đi lễ, không xưng tội. Có lần anh bị người ta đánh vì nghi ăn cắp gà. Mãi sau anh mới được minh oan. 10 năm xa quê, anh về thăm quê thì cha đã mất. Anh trở về Nam cùng với mọi người làm nhà nguyện sau đó xin thành lập giáo họ và nhận thánh Antôn làm quan thầy bổn mạng. Cuộc sống của anh bây giờ đã thấy ánh sáng.

Các truyện ngắn trên đã khám phá được điều này, trong hoàn cảnh nào, dù khó khăn (làm Ôsin, dạy học, nghề chài lưới, hay lập nghiệp tay trắng), người Công giáo vẫn có thể sống đức tin và phúc âm hóa môi trường xung quanh mình, tạo ra một môi trường sống tốt đẹp, giúp người khác tìm thấy niềm tin yêu. Chắc chắn những gương sống đạo như thế có rất nhiều, và người viết văn Công giáo cần khám phá đời sống chứng nhân của họ.

Tuy vậy, trong những truyện này, cũng có truyện thể hiện một đức tin chưa kiên vững, nếu không nói rằng trong hoàn cảnh đau khổ, nhân vật đã chông chênh trên ngay chỗ đứng đức tin của mình.

Cát bụi là truyện người con kể về tình cảnh gia đình của cha, mẹ. Cha mẹ lấy nhau theo phép đạo và sống hạnh phúc. Khi cha đi làm xa, ông có người đàn khác, có con riêng. Mẹ đã quậy nát gia đình. Nỗi hờn ghen và căm giận khiến bà không thể tha thứ. Trước khi chết, người cha đã nhận lỗi và mong được gặp Linh mục để xưng tội. Ông đã ra đi trong tiếng kinh cầu nguyện của gia đình sau khi được xức dầu. Người mẹ cho đến khi đã già vẫn không thể tha thứ. Tác giả đặt nhiêu câu hỏi hoài nghi: Hoài nghi lúc cầu nguyện: Mẹ giống nội, lần chuỗi cầu nguyện hàng đêm nhưng không biết phải cầu thế nào cho phải? Cầu cho chồng quay về. Còn người phụ nữ kia, đứa bé kia?”. Hoài nghi lòng thương xót của Chúa: Chúa đến thế gian để cứu con người khỏi khổ ải. Nhưng con người khổ ải vì điều gì? Bệnh tật, miếng cơm manh áo, hay những rối ren đau buồn vì chuyện tình cảm tréo ngoe? Rồi Chúa lại bảo nên tha thứ nhưng tha thứ cho ai? Kẻ thù của ta là ai? Là người chống ta, ghét ta, làm điều xấu cho ta hay là người ta thương, ta yêu, từng yêu ta nhưng rồi làm ta đau khổ? Xác định kẻ thù thật không dễ. Sao kẻ thù lại là người ta yêu được?Tôi nghĩ, tác giả nên đọc kỹ Kinh Thánh để tìm câu trả lời cho nhân vật của mình. Nhân vật đặt vấn đề: ”không biết phải cầu thế nào cho phải?”. Câu trả lời là: Chúa Giêsu dạy cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (Mt 6, 9-13), Nhân vật lại trăn trở: ”Chúa lại bảo nên tha thứ nhưng tha thứ cho ai?”. Xin hãy chiêm ngắm, trên Thánh giá, Chúa Giêsu đã cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ đã kết án và đóng đinh Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Nếu nhìn bằng ánh sáng của Lòng Thương Xót, tác giả có thể tránh cho nhân vật những bế tắc, sai lạc.

7.Con đường sáng tạo

 Sự phân biệt giá trị giữa các truyện là ở nghệ thuật dựng truyện. Nhiều tác giả tỏ ra là những cây bút có nghề, và ngược lại, người mới tập viết văn thì không tránh được sự non tay trong xử lý các yếu tố của tác phẩm. Có người biết nhào nặn vốn sống để làm nên những hình tượng tư tưởng-thẩm mỹ. Và đặc biệt là ở những truyện giàu chất văn chương, “chất văn” hiện lên trong từng câu chữ, từng trang văn, lấp lánh những màu sắc thú vị, mê hoặc.

Cuộc chiến bảo vệ Mình Thánh, Phòng răng miễn phí, Bài ca của trái tim và Gã khờ, nhỏ H và câu chuyện rađiô là những câu truyện vui. Truyện Cuộc chiến bảo vệ Mình Thánh là một truyện trinh thám có cái ngây ngô trẻ con. Độc giả trẻ con chắc rất thích câu truyện có tính mạo hiểm này, nhưng với độc giả người lớn, thì những tình huống “giật gân” trong truyện chưa đủ thuyết phục. Gã khờ, nhỏ H và câu chuyện rađiô là truyện mang khẩu vị teen. Tác giả có cách viết tự nhiên và hiện đại. Những cảm xúc tinh tế, ý nhị có sức lắng sâu trong lòng của người đọc. Phòng răng miễn phí lại là một ẩn dụ vui, và Bài ca của trái tim là tâm trạng của ngón thay thứ 6 (ngón thừa trên bàn tay cô gái) được nhân hóa để thể hiện một chủ đề tư tưởng sâu sắc và một cái nhìn nhân ái, cái nhìn hướng về phía tích cực. Truyện giàu chất văn chương và tư tưởng. Ngón tay thứ sáu hay những dị dạng, khuyết tật không phải là xấu, mà đều được Chúa yêu, bởi vì: “Con là kết quả Tình Yêu của Ta. Con độc đáo. Con duy nhất. Con không thể là ai khác cho dù con bắt chước.Ta cần con”.

 Trong 55 truyện dự thi, nhiều truyện còn ở dạng ký, tác giả chỉ mới ghi lại sự việc, theo thứ tự thời gian, không gian như trong một bài tường thuật, tính truyện còn nhạt. Cành nho của Chúa, Thầy Lêvi, Bông hoa buôn làng, Đường về nhà, Tim đèn leo lét, dấu chân…gần như là một ghi chép của người trong cuộc, chưa có bóng dáng của sự sáng tạo. Vì thế, chủ đề, tư tưởng không hiện lên được, truyện ít hấp dẫn.

Cũng có truyện lời kể như văn nghị luận. Ở các truyện Một đời tạ ơn, Tâm nguyện cuối cùng, Những con chiên của Chúa, Lời chuông chiều, Bài ca của trái tim, Điểm hẹn Giêsu, người đọc dễ nhận ra những đoạn Văn nghị luận trong cách kể. Tác giả nêu một nhận định (câu chủ đề) trước rồi sau đó kể truyện chứng minh cho chủ đề ấy. Xin lưu ý rằng, kiểu tư duy nghệ thuật trong văn chương (tư duy hình tựơng) rất khác kiểu tư duy logic trong nghị luận. Và câu văn nghị luận cũng có những đặc điểm riêng.

Cấu trúc truyện theo dòng tâm trạng đã thịnh hành từ thời Nam Cao trước 1945. Trong 55 truyện, nhiểu truyện chỉ là dòng tâm trạng của nhân vật. Thiếu sự vận động của cốt truyện và sự phát triển số phận của nhân vật, truyện trở thành một dòng chảy miên man, đơn điệu. Bão biển là tâm trạng lo lắng của cha sở trước cơn bão tiền đang tàn phá giáo xứ. Cát bụi là nỗi lòng đầy bức xúc của người con trước tình cảnh gia đình bị nhấn chìm trong thù hận của cha mẹ. Khóc là dòng hồi tưởng những sự việc trong cuộc đời của “Hắn”, một gã trai bao. Hy vọng cũng là hồi tưởng của Con Mén về tình cảnh gia đình nó bị bà nội bắt má bỏ đạo, và tâm trạng vui của nó khi được tía nó hứa cho đi học giáo lý bên nhà thờ. Cách viết tập trung miêu tả nội tâm chịu ảnh hưởng của Nam Cao, đặc biệt là trong các truyện Động lực, Điểm hẹn Giêsu.

Cũng có tác giả đã chọn đề tài quá sức mình. Chưa trải nghiệm cũng chưa tích lũy đủ vốn sống của những giai đoạn lịch sử trước kia, tác giả không thể viết được những truyện lịch sử, tư tưởng vừa hấp dẫn, vừa thuyết phục.

Trở về có một phân đoạn dựng lại cảnh con đấu tố cha trong Cải cách ruộng đất ở miền Bắc những năm 1953-1956, cách đây hơn  60 năm. Người con là một “thằng nhóc” đã kể tội cha trước “tòa án nhân dân” như sau: Hàng ngày, ông cấm tôi không được đi chơi trọi chim, ném đá, tắm sông với bọn trẻ con nhà nghèo. Ngày nào ông cũng bắt tôi phải học. Biết bao lần ông dùng roi mây mà đánh tôi, chảy cả máu mông chỉ vì tôi trốn đi chơi. Ông đã hành hạ tôi suốt bấy nhiêu năm trời, ông là tên địa chủ tồi tệ, ông không xứng là cha tôi” sau đó người cha bị xử bắn. Đấu tố địa chủ trong Cải cách ruộng đất không đơn giản như vậy. Hẳn “thằng nhóc” đã không biết được chất “địa chủ” của cha mình dẫn đến việc ông phải nhận cái chết, dù rằng trong Cải cách ruộng đất, nhiều người không tránh được nỗi oan khiên. Tôi nghĩ, tác giả cần nghiên cứu kỹ lịch sử, hoặc tìm hỏi những cụ năm nay trên 70 tuổi, đã sống sót qua những tháng ngày đầy máu và nước mắt ấy, nghe các cụ kể lại, rồi dựng truyện thì mới có thể thuyết phục được người đọc.

Truyện Cửa đợi viết về một vấn đề rất “nhạy cảm” là, người Công giáo bỏ đạo theo Đảng, sau sám hối, trở về. Sự “nhạy cảm” là ở chỗ, tại sao theo Đảng là “có tội” phải sám hối? Có phải điều ấy xuất phát từ những định kiến lịch sử trong mối quan hệ giữa Công giáo và Đảng Cộng sản Việt Nam trước Công đồng Vaticanô II? Hay bởi thực tại lịch sử hàng trăm năm, đạo Công giáo bị coi là thế lực tiếp tay cho Pháp xâm lược Việt Nam, rồi trở thành một thực thể chính trị “chống Cộng”ở miền Nam trước 1975?. Đó là những vấn đề của lịch sử. Ngày nay Giáo hội Công giáo Việt Nam đã “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc”, Nhà Nước đã có Pháp lệnh về tôn giáo (số 21/2004/PL-UBTVQH 11, ngày 18 tháng 6 năm 2004), tôn trọng quyền tự do tôn giáo (điếu 1), tôn trọng những giá trị tôn giáo (điều 5), không phân biệt đối xử với người có tôn giáo tín ngưỡng (điều 8)…

Và trong nhận thức, tôn giáo được coi là một thành tố văn hóa góp phần làm phong phú bản sắc văn hóa dân tộc. Vì thế những nghi ngại về mối quan hệ giữa Nhà Nước và tôn giáo (nói chung), và Công giáo (nói riêng) không còn là những cản trở việc sống đạo của người Công giáo như trước kia. Hãy nhìn ngắm Giáo hội Công giáo ở miền Bắc trước và sau năm 1975, người Công giáo đã sống đạo dù có thể là âm thầm nhưng rất mãnh liệt, dù hoàn cảnh chính trị và chiến tranh rất khốc liệt? Cửa Đợi đã không xử lý vấn đề trong tầm nhìn lịch sử như thế, thành ra, truyện khó được chấp nhận. Đức Giêsu nói với Pilat: “Nước tôi không thuộc về thế gian này.”(Ga 18, 36), cần phải lấy tư tưởng này trong Kinh Thánh để xác lập chủ đề tác phẩm.

8.”Chất văn” của tác phẩm văn chương

 Cuộc thi khởi sắc ở những truyện giàu “chất văn”như: Giấc mơ mặt người, Bàn tay vô hình, Hoa nở giữa đêm, Gã khờ, nhỏ H và câu chuyện rađiô, Ánh sao đêm,…

Chất văn” là gì? Đó là phẩm chất nghệ thuật (tức là sự sáng tạo cái Đẹp) thể hiện trong cấu trúc truyện, trong nội dung, chủ đề, tư tưởng; trong hình tượng nhân vật, trong việc miêu tả bối cảnh bên ngoài và khám phá thế giới tinh thần bên trong của con người trước những tình huống của cuộc sống. Chất văn còn thể hiện ở từng câu chữ, từng trang văn, ở giọng kể và phong cách tác giả…

Có truyện chất văn ánh lên ở mặt này, mặt khác; tuy vậy, chưa truyện nào đạt được sự sáng tạo nghệ thuật trọn vẹn, mẫu mực. Giấc mơ mặt người khá hay ở cấu trúc truyện, ở hình tượng nhưng lại non yếu về tư tưởng. Bàn tay vô hình là một truyện có hậu, một bi kịch vui, nhưng chính cái “có hậu” lại lộ ra sự sắp đặt thiếu tự nhiên của tác giả. Hoa nở giữa đêm viết thật cảm động về tình yêu thương của Linh mục đối với trẻ mồ cô và “gái điếm lương thiện” để sáng lên chủ đề Lòng Thương Xót. Hình ảnh cha sở ở bên quan tài cô gái trong nhà thờ buổi tối trước ngày an táng là chi tiết lãng mạn, nếu giáo dân nhìn bằng con mắt hiện thực, vị Linh mục có thể sẽ bị ngộ nhận. Gã khờ, nhỏ H và câu chuyện rađiô hấp dẫn ở tình tiết câu truyện, ở chất teen trong cách kể và ở những tinh tế thú vị đàng sau câu chữ. Tôi thích ý nghĩ này của nhân vật: “Chỉ cần một suy nghĩ, một ánh mắt, nụ cười, một hành động quan tâm nho nhỏ thôi cũng thay đổi được ai đó và thay đổi cả thế giới, để tôi nhận ra lòng Thương Xót Chúa vẫn hằng luôn ủ ấp những ai biết chạy đến cùng Ngài, như gã.” Tác giả của Ánh sao đêm dựng truyện như một nhà văn chuyên nghiệp. Cách ngắt các phân đọan tạo ra sức gợi. Cảnh sắc thiên nhiên có cái đẹp của tâm trạng. Sử dụng đối thoại vừa phải để kể chuyện. Tuy vậy, chi tiết ông Tuấn nhặt chứng minh thư của em chưa thật sự đủ mạnh để tạo nên những biến đổi trong lòng Bs Ly, nhất là người em ấy đã chết, thì chuyện ân nghĩa chỉ còn là kỷ niệm

 Xét trong tương quan cấu trúc, tư tưởng là yếu tố quan trọng nhất của tác phẩm. Nếu truyện sai lệch về tư tưởng, thì các yếu tố khác, dù có hay, cũng không cứu vớt được. Chọn lựa, Nghiệp chướng, Cửa đợi, Giấc mơ mặt người là những truyện có sự sai lệch về tư tưởng, tạo ra sự tiếc nuối của người đọc khi thưởng thức các tác phẩm này. Nếu sự lý giải của tác giả dựa trên ánh sáng tư tưởng Nhân văn Công giáo chắc chắn truyện sẽ đạt được những giá trị đặc sắc hơn.

             9.Lời thưa

            Tôi đã tham gia đọc các tác phẩm của Giải Viết văn đường trường được một vài năm. Điều làm tôi yêu quý là tâm huyết và nỗ lực của Giáo phận Quy Nhơn và Ban tổ chức trong việc xây dựng một nền văn chương Công giáo. Giải vừa để phát hiện tài năng văn chương Công giáo, vừa để góp phần làm cho Tin Mừng trở thành một thành tố của văn hóa dân tộc. Trong hành trình đi tới của cuộc thi, nhiều tác giả đã khám phá sâu sắc đời sống Công giáo, không ngại đề cập đến những vấn đề xã hội nhạy cảm. Nhiều tác giả đã lên tiếng cảnh báo về thực trạng tha hóa đạo đức ngay trong gia đình Công giáo nhưng nhiều tác giã cũng ghi nhận được những mẫu gương người Công giáo sống và loan báo Lòng Thương Xót của Chúa trong mọi hoàn cảnh. Ở góc nhìn nào, tác phẩm cũng để lại cho chúng ta nhiều điều suy gẫm.

Như vậy, chúng ta đã đặt được một cái nền vững chắc (đội ngũ tác giả, mục đích viết văn, khai thác hiện thực, lựa chọn bút pháp và hình thành phong cách…) chặng đường còn lại của Giải viết văn đường trường là sự khám phá sâu hơn đời sống người Công giáo “sống Phúc âm giữa lòng dân tộc”, là hướng về kỷ niệm 400 năm truyền giáo tại giáo phận. Mỗi tác giả cần có bước đột phá về nghệ thuật viết truyện ngắn, đồng thời cũng ghi lại dấu ấn bằng một phong cách giàu phẩm chất thảm mỹ. Được vậy, chúng ta sẽ có một mùa hoa rất đẹp trong vườn văn học Công giáo, góp phần xây dựng nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống cho thời đại và xã hội hôm nay.

Bùi Công Thuấn

_______________________

THÂN PHẬN PHÊ BÌNH

Phê bình văn học-Diện mạo của một thời 

THÂN PHẬN PHÊ BÌNH

(Thay lời bạt)

Bùi Công Thuấn

 

Thân Phận Phê Bình

 

Phê bình văn học cũng như sáng tác, đều là công việc sáng tạo tốn nhiều công sức và  tâm huyết. Tác phẩm văn học và tác phẩm phê bình cũng có những số phận. Nhưng thân phận nhà phê bình hẩm hiu hơn nhiều so với nhà thơ, nhà văn. Tác phẩm phê bình còn chịu số phận rẻ rúng nhiều hơn nữa. Biết thở than với ai!

MỘT BẢN TIN

http://trannhuong.net/danh-muc-8/bau-ban-gop-co-phan-trang-1.vhtm

 

Ngày Tiêu đề Tác giả Lượt xem
4/5/2017 NGUYỄN TRỌNG TẠO, MỘT CÂY SI VỚI MỘT CÂY BỒ ĐỀ Nguyễn Đức Tùng 133
4/2/2017 THẾ NÀO LÀ “LỖI ĐIỀU HÀNH”? Xuân Dương 303
4/1/2017 MONG LẮM LỜI NÓI THẬT TRONG MỘT “NGÀY NÓI DỐI” Bùi Hoàng Tám 492
3/30/2017 ĐỀ NGHỊ CẤM CÁC ĐỊA PHƯƠNG SÁNG TÁC RA LỊCH SỬ Nhà thơ Trần Nhuận Minh 577
3/30/2017 ĐỘC LẬP: KHÔNG CHỈ ĐUỔI LŨ CƯỚP NƯỚC MÀ CÒN PHẢI ĐUỔI CÁI NÔ LỆ RA KHỎI ĐẦU Cao Huy Thuần 484
3/28/2017 NHÀ THƠ BÙI HOÀNG TÁM VƯỢT THÁI BÌNH DƯƠNG Nông Hồng Diệu 1593
3/27/2017 ĐẾ CỦA TƯỢNG Dạ Ngân 555
3/26/2017 VỀ HỌC VỊ CỦA CỤ NGUYỄN BỈNH KHIÊM Trần Tuấn Phương 558
3/25/2017 HÃY TRUNG THỰC VỚI LỊCH SỬ Kiều Mai Sơn 564
3/23/2017 PHÁT HIỆN MỚI GIẬT MÌNH VỀ HỌC VỊ CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM Ngọc Tô 680
3/23/2017 PHONG TRÀO THI ĐUA “TOÀN DÂN LÀM QUAN”… Bùi Hoàng Tám 711
3/21/2017 CỰU VÀ NGUYÊN Trần Đình Sử 601
3/21/2017 THƠ, NHƯ LỊCH SỬ TÂM HỒN NGƯỜI VIỆT NGOÀI NƯỚC Bùi Vĩnh Phúc 188
3/20/2017 THANH HÓA – CHUYỆN TÌNH Mai Hồng Niên 1229
3/19/2017 ÔI, LẠI…”NHÀ NGOẠI CẢM”! Tạ Hữu Đỉnh 755

 

 

 

 

Ngày Tiêu đề Tác giả Lượt xem
3/18/2017 CUỘC ĐỜI NHƯ MỘT CUỘC ĐUA St/ Theo eMail từ Nguyễn Khôi 908
3/17/2017 ĐỪNG QUÊN KÝ ỨC CỦA TUẦN BÁO “VĂN”! Lại Nguyên Ân 473
3/16/2017 VĂN HỌC VIỆT NAM ĐỐI MẶT VỚI TOÀN CẦU HÓA Gs-TS Huỳnh Như Phương 259
3/15/2017 QUAN CHỨC NGÀY NAY Trần Ngọc Sơn 628
3/15/2017 NAM TƯ: ĐỘC LẬP VÀ THÂN PHẬN MỘT NƯỚC NHỎ. Tô Hoàng 1091
3/13/2017 LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI                (Game theory) Bùi Công Thuấn 98
3/10/2017 KÍ GIẢ ĐỨC TÁN CHUYỆN VỀ GIAO THÔNG HÀ NỘI TS. Nguyễn Sĩ Phương (biên dịch) 763
3/6/2017 HOÀNG TRẦN CƯƠNG, NGÔN NGỮ QUÊ HƯƠNG Nguyễn Đức Tùng 120

http://trannhuong.net/danh-muc-8/bau-ban-gop-co-phan-trang-2.vhtm

 

Bản tin trên trích từ trannhuong.com. Đây là trang web cá nhân của nhà thơ Trần Nhương có uy tín rộng. Hàng ngày có hàng ngàn người Việt trên khắp năm châu vào đọc. Đa số họ là nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, nhà phê bình. Admin điều hành trang khá chuẩn (theo pháp luật Nhà nước) và khá thoáng trong thông tin. Chất nghệ sĩ và tình bạn văn chương là đặc điểm rất quý của nhà thơ Trần Nhương.

Nhìn vào một trang thống kê trên, tôi thấy có mặt nhiều tên tuổi phê bình: Nguyễn Đức Tùng, Bùi Vĩnh Phúc, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Huỳnh Như Phương. Nhưng số lượng người đọc bài phê bình thật nhỏ so với các kiểu bài thời sự, chính trị-xã hội khác.

Nguyễn Đức Tùng có 2 bài nhưng con số người đọc chỉ là 133 và 120.

Bài của Bùi Vĩnh Phúc sau hơn 2 tuần cũng chỉ có 188 người đọc.

Bài Lý Thuyêt trò chơi của Bùi Công Thuấn sau gần 1 tháng mới có 98 người đọc.

Bài của GS-TS Trần Đình Sử có số lượng đọc khá hơn (601 người đọc), nhưng bài này viết về chuyện thời sự chính trị: Cựu và Nguyên, đó là chuyện các quan chức Nhà Nước khi về hưu thích được gọi là Nguyên” (giữ nguyên quyền lợi)

Những bài có số lượng ấn tượng người đọc là các bài thời sự chính trị:

NHÀ THƠ BÙI HOÀNG TÁM VƯỢT THÁI BÌNH DƯƠNG– 1593

THANH HÓA-CHUYỆN TÌNH-1228

NAM TƯ: ĐỘC LẬP VÀ THÂN PHẬN MỘT NƯỚC NHỎ – 1091.

CUỘC ĐỜI NHƯ MỘT CUỘC ĐUA-908

KÍ GIẢ ĐỨC TÁN CHUYỆN VỀ GIAO THÔNG HÀ NỘI-763

ÔI, LẠI…”NHÀ NGOẠI CẢM”!-755

PHONG TRÀO THI ĐUA “TOÀN DÂN LÀM QUAN“…711.

 ĐÔI ĐIỀU NGẪM NGHĨ

Nếu nhìn vào số lượng người đọc trên thì người viết phê bình không khỏi chán nản và thất vọng về công việc của mình. Viết là một hành động đòi chia sẻ. Ngoài lượng thông tin người viết đưa đến độc giả, ngoài mục đích diễn ngôn, người viết còn gửi gắm trong đó những điều gan ruột của mình và muốn tìm tiếng nói đồng cảm. Nhưng nếu không có người đọc, người viết chia sẻ với ai? Nhà văn là người cô đơn, nhà phê bình còn cô đơn hơn, vì mấy ai nghe được tiếng đàn như Tử Kỳ nghe Bá Nha đánh đàn, mấy ai có được tình tri kỷ văn chương như hai người này.

Âu là, trong thời của chủ nghĩa thực dụng, của fastfood, của những scandal giựt gân, còn có nhà phê bình, và nhà phê bình còn viết được, thế đã là quý. Phê bình còn người đọc là còn may mắn. Ai thích, ai cần thì đọc. Cuộc sống phong phú là ở chỗ có nhiều hàng hóa phục vụ mọi nhu cầu của con người. Cuộc sống dân chủ là ở chỗ mỗi người có thể chọn cho mình cái để đọc, không bị bắt phải đọc những thứ mình không thích (bị nhồi sọ). Sau những mỏi mệt vật lộn kiếm sống, có lẽ người ta cần cái gì nhẹ nhàng, cái gì làm cho sức sống nóng lên, cái gì làm cho tâm hồn vui vẻ hân hoan, cái gì thỏa mãn những điều thầm kín. Chẳng ai lại đi nhét vào đầu mình những cái nặng nề như lý luận, phê bình. Với vốn thời gian có hạn, người ta chỉ đọc những gì cần thiết và bỏ qua những gì mình không quan tâm. Không thể trách ai được.

Nhà văn, nhà phê bình cũng như mọi người, cũng là một thành phần xã hội, thực hiện chứa năng xã hội. Có gì ghê gớm đâu, có quyền lực gì để bắt mọi người phải đọc văn mình. Nhưng khi nhà văn, nhà phê bình đã được lòng tin của mọi người, anh ta trở thành thần tượng. Lúc ấy anh ta chỉ cần ho khẽ, người ta cũng nghe rầm rầm. Đấy là quyền lực của nhà văn. Thứ quyền lực vô hình nhưng vĩnh cửu. Homere, Shakespear, V.Hugo, Nguyễn Du, Hoài Thanh vẫn được tôn sùng là vì vậy. Điều quan trọng đối với người cầm bút, dù là nhà văn hay nhà phê bình, đó là chất lượng tác phẩm. Điều này còn hạn chế trong trang viết của cả nhà văn và nhà phê bình Việt Nam đương đại, dù chúng ta không thiếu nhà văn, nhà phê bình tài năng và tâm huyết.

VIẾT ĐỂ LÀM GÌ VÀ VIẾT CHO AI

 Tôi luôn trăn trở về trang viết của mình. Viết để làm gì và viết cho ai. Nhiều khi trái tim mất hết lửa. Nhưng rồi lại say mê viết. Trong tâm tưởng, như mơ hồ nói chuyện với ai đó. Và một niềm tin là muốn làm điều gì đó có ích cho mọi người. Với những nhà văn tài năng, thật không dễ hiều. Nhà phê bình đem họ đến với người đọc. Nhà văn viết tác phẩm bao giờ cũng mong được chia sẻ. Nhà phê bình sẽ là tri kỷ. Xã hội cần định giá mọi hoạt động văn hóa văn học, mọi sản phẩm tinh thần, người ta cần đến nhà phê bình (như chuyên gia thực phẩm là người đánh giá thực phẩm là tốt hay có độc). Văn chương mà chứa độc tố thì có hại cho nhiều thế hệ…

Viết, dù là phê bình, cũng là sáng tạo. Sáng tạo luôn đem đến hạnh phúc. Nghĩ vậy, tôi lại tiếp tục viết (dù bài viết của mình sau 1 tháng chỉ có 98 người đọc)

Tháng 06 2017

_____________________

PHỤ LỤC

Phản hồi của các nhà văn nhà thơ

4 Phan trọng thưởng

BCT với PGS-TS Phan Trọng Thưởng 2015

Ngày 5/5/2004

Thư của  PGS-TS Phan Trọng Thưởng

Viện trưởng Viện Văn học

Về cuốn Chút tình tri âm

Kinh gui anh Bui Cong Thuan .

Toi rat han hanh duoc anh cho doc cac bai viet cua anh ve van chuong. Mac du chua doc het nhung toi van nhan thay o anh bau tam huyet van chuong. Toi dac biet quan tam toi nhung bai anh viet ve ly luan va phe binh van hoc. Toi chia se voi nhieu suy nghi cua anh ve thuc trang ly luan va phe binh van chuong cua ta hien nay. Neu trong gioi co nhieu nguoi nhin nhan dung muc nhu anh thi tuong lai van hoc chac chan se tot dep hon. Mong anh cong tac nhieu hon voi cac bao va tap chi o trung uong, trong do co tap chi Nghien cuu van hoc cua chung toi .

Kinh chuc suc khoe anh va gia dinh! Mot lan nua xin cam on nha y cua anh.

 

***

Nhà văn NGUYỄN DANH LAM

“Lam Nguyen Danh” ndanhlam@yahoo.com.vn

Monday, October 25, 2010 3:05 PM

http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=14113

Bct-Nguyễn Danh Lam.jpg

BCT với Nguyễn Danh Lam 2015

(Phản hồi bài viết về tiểu thuyết Giữa dòng chảy lạc của Nguyễn Danh Lam)

Anh Bùi Công Thuấn kính mến   

Em vô cùng cảm động, bất ngờ khi nhận được email và bài viết của anh! Trước giờ, em đọc anh hầu như toàn bộ trên phongdiep.net, đặc biệt là qua loạt bài viết về tiểu thuyết VN. Em không ngờ một ngày được anh quan tâm, đọc giúp tác phẩm, và trên hết là có một bài phê bình rất công phu. Điều đó khiến em vô cùng cảm kích!

  Bài viết của anh đã rất tròn trịa, nhưng trên hết đó là một góc nhìn ngoài tác giả, và như thế càng cần phải để nó nguyên vẹn như những gì anh đã viết ra. Em rất mong, nếu có điều kiện tái bản GDCL và được sự đồng ý của anh, em sẽ đưa bài viết này vào ấn phẩm!

Em quả không biết nói gì hơn ngoài lời cảm ơn anh thật nhiều! Rất mong sẽ có dịp nào đó được gặp anh để hàn huyên thêm, cũng như nếu có điều kiện anh em mình sẽ liên lạc qua email, điện thoại- số của em là 0903650904.

Kính chúc anh cùng gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc, có thêm nhiều bài viết và sáng tác!

Em Nguyễn Danh Lam.

***

Nhà văn ĐỖ TIẾN THỤY

“Đỗ Tiến Thụy” <thuyvnqd@gmail.com>

Sunday, February 13, 2011 3:12 PM

http://vannghequandoi.com.vn/Phe-binh-van-nghe/Sac-mau-nhan-gian-trong-tieu-thuyet-Mau-rung-ruong-4433.html

Do-Tien-Thuy-3

Đỗ Tiến Thụy

(Phản hồi bài viết về tiểu thuyết Màu rừng ruộng của Đỗ Tiến Thụy)

Anh Bùi Công Thuấn kính mến!

Trước tiên tôi xin gửi lời tri ân tới anh, một nhà phê bình công tâm, một độc giả tâm huyết. Tôi không biết nói gì hơn khi n h tôi thấy thực sự xúc động trước những gì anh thể hiện trong bài viết. Anh, một  nhà phê bình tự do không vì một sức ép nào khác ngoài những rung động trước tác phẩm muốn viết ra. Đó là điều đông đảo người làm nghề ghi nhận ở anh qua những bài anh viết. 

Tôi không biết anh gửi bài viết này cho báo nào, nhưng tôi cảm nhận được đầy đủ trách nhiệm của anh trong lao động khoa học và nghệ sĩ, và tôi tin rằng độc giả sẽ công bằng với tất cả.

Một lần nữa xin cám ơn anh, và mong có dịp được diện kiến! 

Nếu có thể được, xin anh cho số điện thoại để tôi có thể liên lạc.

Số của tôi: 0988112560

 Kính thư!

 ***

Nhà thơ LƯU DIỆU VÂN (Canada)

“Vivian Luu” <luutuongvan@gmail.com>Wednesday, May 12, 2010 2:16 AM

http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=12696

Lưu diệu Vân

Lưu Diệu Vân

(Phản hồi bài viết về thơ Lưu Diệu Vân)

Xin cám ơn tác giả/ phê bình gia Bùi Công Thuấn đã viết một bài thật công phu và cân bằng, thật khách quan về những sáng tác của Lưu Diệu Vân…

 Xin cám ơn đã dành cho sáng tác của LDV nhiều cân nhắc và những lời phê bình góp ý thật đáng để LDV chiêm nghiệm học hỏi trong những sáng tác kế tiếp của mình.

 Xin gửi n h tri ân chân thành

Chúc tác giả Bùi Công Thuấn sức khỏe và nhiều an bình

LDV

 ***

 Nhà văn PHONG ĐIỆP

http://buicongthuan.blogspot.com/2010/08/blogger-va-nhung-cach-tan-nghe-thuat.html

phongđiep

— On Tue, 8/24/10, Pham Phong Diep <phamphongdiep@gmail.com> wrote:

Cảm ơn bài viết mới của anh. Các bài viết của anh đều rất công phu, tâm huyết và thẳng thắn. Thời gian này em hay được mọi người hỏi “Bùi Công Thuấn là ai?”

 Rõ ràng các bài của  anh đã được mọi người quan tâm và chờ đón. Cảm ơn anh rất nhiều. Em nghĩ anh có thể tập hợp lại để in sách.

 Chúc anh mọi điều tốt lành

 ***

Nhà văn LÊ ĐĂNG KHÁNG

Dang Khang Le <dangkhangle@yahoo.com- Tuesday, September 27, 2011 8:08 AM

Lê Đăng Kháng

Lê Đăng Kháng

(Phản hồi bài viết về tập truyện ngắn Sương Sớm của Lê Đăng Kháng)

http://nvledangkhang.blogspot.com/2012/12/bui-cong-thuan-oc-suong-som-cua-le-ang.html

Chào Bùi Công Thuấn.

Lạy Chúa lòng lành cũng như Đức Phật từ bi cao cả.

 Ông đã nói hết ruột gan tôi về nội dung và bút pháp của Sương Sớm rồi không còn biết bổ sung chỗ nào nữa. Nói lại lần nữa, tôi rất thích bài này.

 Những lần trước cứ viết xong là tôi không có ý nghĩ phải viết giới thiệu ồn ào (có lẽ tính như thế). Lần này một lần nữa củng cố ý nghĩ là viết xong cũng cần phải giới thiệu, phân tích cho ra để anh em bạn bè để mắt đến tác phẩm của mình.

 Cám ơn nhiều.Chúc mọi sự tốt lành.

Thân.

Lê Đăng Kháng

 

***

Nhà thơ ĐỖ QUYÊN (Canada)

Do Quyen 1

Đỗ Quyên

http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=23527

DoQuyen tvvt <doquyen.tvvt@yahoo.ca>
30 thg 4. 2017

 

(Phản hồi bài viết về tập trường ca Lòng Hải Lý của Đỗ Quyên)

 Nhà phê bình Bùi Công Thuấn thân kính,

 Một ngày thứ 7 sẽ không thể quên trong đời: được đọc bản thảo phê bình thơ mình “trúng hồng tâm” đến vậy (và không ít chỗ trúng cả “trái tim đen” nữa. hihi .  Cảm phục phê bình gia quá xá: hiếm có người đọc xuyên thấu thơ ĐQ từ văn bản tới tác giả như thế!

 Xin nhà phê bình cứ bảo toàn bản thảo.

Rất cảm ơn anh đã tặng món quà quý vô ngần.

 ***

Cũng mạn phép tác giả được cité những câu “trúng tim” hơn cả, như sự ghi nhớ [để mần thơ “ngày càng tiến bộ” J

 …có những đoạn khó hiểu và có những đoạn dễ hiểu… 

…là những dòng suy nghĩ miên man trôi đi…và trôi rất xa nguồn. Khoảng cách những câu thơ là những liên tưởng đứt đoạn, ẩn dụ nối tiếp ẩn dụ “cái biểu đạt” dẫn lối cho “cái biểu đạt” khác… 

…Không có một hiện thực nào được phản ánh để người đọc có thể dùng làm hệ quy chiếu… 

…Từ đó tôi tái cấu trúc và giải cấu trúc tác phẩm, kết nối các liên tưởng, loại bỏ những yếu tố… 

…Câu chuyện này bị xé ra thành những giải, những chi tiết, và ngẫu nhiên quăng vào các đoạn… 

…Hiện thực trong thơ…là hiện thực tư tưởng, hiện thực hư cấu…chuyển hóa thành suy tư, thành nhận thức có phẩm chất triết học…chưa đạt tới phẩm chất thơ tư tưởng, về căn cốt thơ Đỗ Quyên vẫn là thơ trữ tình…  

 …Và suy tư day dứt nhất… là suy tư về thời gian, về nỗi cô đơn hiện sinh. 

thì những vấn đề anh quan tâm sẽ không giống với nhà thơ trong nước. 

không bám vào kỷ niệm, không nhào nặn lại những tứ thơ về làng quê, cánh đồng… sáng tạo một “hiện thực” tư tưởng-thẩm mỹ… 

  nhưng nếu bám vào cái hiện thực ấy để đọc thơ, thì hiện thực lập tức vuột khỏi tay người đọc…Chỉ có duy nhất một chữ “hẹn” làm nhiệm vụ giữ cho đoạn thơ không phân rã. Nhưng nếu vượt qua được ngôn ngữ tường minh của văn bản, người đọc sẽ thấy tư tưởng hiện lên. 

…Tôi hiểu ngược lại, chính cấu trúc lỏng lẻo (như đã nói ở trên) của trường ca Lòng Hải lý là một đặc điểm .

 …tự kềm chế diễn ngôn để tinh thần “giải thiêng” không gây sốc cho người đọc có não trạng quen ”thần tượng hóa”.  

 …Bên dưới cái lạnh lùng như băng, cái lý trí căng như thép, chất trí tuệ khô khan, là con người tình cảm, yêu tha thiết cuộc sống, bi phẫn trước bao nhiêu cảnh đời đau thương, khao khát và tràn đầy một niềm tin lao về ngày mai, Sống và Thơ… 

 … Và điều còn lại là một hồn thơ Việt thuần khiết.

 

***

Nhà văn KHÔI VŨ

7 BCT-khoiVu1

Khôi Vũ và BCT 1998

“Nguyen Thai Hai” <thaihaidn@yahoo.com>

Tuesday, August 10, 2010 11:11 PM

Anh Thuấn thân

Tôi vừa từ Hà Nội về chiều hôm qua. Trong mấy ngày dự Đại hội Nhà văn, tôi tình cờ có dịp trò chuyện với anh Lê Quang Trang, chủ tịch Hội NV TP HCM. Ngày cuối đến văn phòng Hội Nhà văn, vào phòng anh Hữu Thỉnh để từ giã thì lại gặp Lê Quang Trang. Lần này anh Trang có nhắc đến tên anh và hỏi tôi về anh. Sau đó Hữu Thỉnh cũng hỏi về anh, rồi hỏi tôi: “Thuấn có làm đơn vào Hội chưa nhỉ?”. Hai ông CT và PCT tân BCH “giao” nhiệm vụ cho tôi là sắp tới “phải” “dụ” anh viết đơn. Đầu tiên cứ là việc ấy đã. Còn việc kết nạp được hay không là chuyện về sau.

Tôi thông tin đến anh vài dòng như thế để anh biết. Sau này còn giúp tôi “hoàn thành nhiệm vụ”. 

Thân

Khôi Vũ Nguyễn Thái Hải

 Wednesday, October 20, 2010 8:26 AM

https://buicongthuan.wordpress.com/2016/07/10/truyen-ngan-khoi-vu/

 Anh Thuấn thân mến

Tôi đã đọc bài viết của anh trên… blog Bùi Công Thuấn. Cảm ơn anh đã chịu khó đọc và có ý kiến. Cái ý lấy chuyện đời thường ai cũng biết mà viết thành truyện ngắn do anh nhận xét quả tình không phải là dụng ý của KV khi viết mà nó đến một cách rất tự nhiên. Bây giờ có người hệ thống và chỉ ra, biết mình là như thế lại đâm ra… sợ. Tuy vậy vẫn hy vọng sẽ không bị ảnh hưởng nhiều vì đó đã là cái “chất” mất rồi!

Tôi đang “đóng cửa” để viết một cuốn tiểu thuyết quan trọng, có thể phải qua 2012 mới xong. Nói là “quan trọng’ chứ không phải là “hay” vì nội dung là về cuộc đời của ông bố tôi, có liên quan đến gia tộc là con cháu nhiều đời của bà Nguyễn Thị Lộ. Khi nào viết xong, sẽ gửi để anh đọc trước góp ý (ít lắm cũng phải cuối năm 2011).

Gửi đến anh và gia đình lời chúc sức khỏe và nhiều niềm vui.

***

 

 

 

THƠ HÙYNH VĂN NGHỆ

“LÒNG TA SAY CHIẾN TRẬN ĐÃ THÀNH THƠ”

(Đọc thơ Huỳnh Văn Nghệ)

Bùi Công Thuấn

 HVN 4

Huỳnh Văn Nghệ

 

Thi tướng” Huỳnh Văn Nghệ (1914-1977) đã được tặng Giải thưởng Nhà Nước về văn học-nghệ thuật (2006) và truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2010). Đảng, Nhà nước và nhân dân đã tôn vinh ông như một người con anh hùng và một nhà thơ lớn của đất Đồng Nai và của “Miền Đông gian lao mà anh dũng”. TS Huỳnh Văn Tới còn nhận ra một tầm vóc khác của ông trong bài viết: “Huỳnh Văn Nghệ-Thi tướng của dân gian. Ông khẳng định: “Cái gì còn lại sau khi những cái khác đã mất đi, đó là văn hóa”-điều còn lại của “thi tướng” Huỳnh Văn Nghệ trong dân gian chính là giá trị văn hóa từ dân gian, vì dân gian”.[1]

Nhà nghiên cứu Bùi Quang Huy, nhà thơ Đàm Chu Văn, và các tác giả như Nguyễn Nguyên Phượng, Nguyễn Huy Hùng, Phan Xuân, Hoài Nguyễn, Tân Linh… đã viết khá đầy đủ về cuộc đời và giá trị thơ của Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ [2] các tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến khía cạnh “tướng” (người chiến sĩ Huỳnh Văn Nghệ) để từ đây lý giải nội dung thơ. Đó là cách giải mã thơ có sức thuyết phục.

Tuy nhiên còn nhiều điều chưa được làm rõ về phẩm chất thi sĩ, cá tính sáng tạo của Huỳnh Văn Nghệ. Thơ của Huỳnh Văn Nghệ có vị trí nào trong văn học dân tộc trước và sau 1945 (thơ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ)

NHÀ THƠ- CHIẾN SĨ

Tên gọi “Nhà thơ-chiến sĩ” chỉ xuất hiện từ sau 1945. Hình ảnh này trước hết là hình ảnh nhà thơ lớn Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc, Người vừa đánh giặc vừa làm thơ (Lên Núi, Không Đề, Nhớ Bùi Công…) và thế hệ nhà thơ chống Pháp xuất thân từ người lính như Chính Hữu, Hồng Nguyên, Quang Dũng…Danh xưng này vừa mang đặc điểm nhà thơ kháng chiến, vừa chứa đựng trong nó truyền thống vừa làm thơ vừa đánh giặc của cha ông như Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi… và nối tiếp đến thế hệ nhà thơ chống Mỹ như Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân…

Huỳnh Văn Nghệ nằm trong truyền thống này. Năm 1948, Huỳnh Văn Nghệ viết bài Dòng sông xanh như một tuyên ngôn thơ. Người chiến sĩ và nhà thơ ở Huỳnh Văn Nghệ là một, một người như mọi người, ở giữa mọi người.

Bờ sông xanh hôm nay buộc ngựa
Kiếm gối đầu theo gió thổi hồn cao
Thơ tôi đây cũng hoa bướm muôn màu
Lòng tôi đây, cũng vui sầu như bạn
Tôi cũng biết nhớ thương tơ tưởng
Nào chỉ là võ tướng hay thi nhân
Tôi là người lăn lóc trên đường trần
không phân biệt lúc mài gươm múa bút

Đời chiến sỹ máu hoà lệ mực
Còn yêu thương là chiến đấu không thôi

Cần nhận rõ một trong những đặc điểm của cá tính sáng tạo Huỳnh Văn Nghệ là phẩm chất nhà thơ và người chiến sĩ không tách biệt: Tôi là người lăn lóc trên đường trần / không phân biệt lúc mài gươm múa bút/ Đời chiến sỹ máu hoà lệ mực/ Còn yêu thương là chiến đấu không thôi.

 Điều này giúp ta hiểu tại sao đối tượng, đề tài, cảm hứng và nội dung thơ Huỳnh Văn Nghệ tập trung vào đời sống chiến đấu ở chiến khu Đ thời kháng chiến chống Pháp. TS Huỳnh Văn Tới ghi nhận: “Tác phẩm của Huỳnh Văn Nghệ đã thể hiện rõ nét hiện thực kháng chiến gắn với lịch sử chiến khu Đ hào hùng. Qua những bài thơ nóng hổi hơi thở cuộc sống, người đọc bắt gặp những hình ảnh, nhân vật, sự kiện rất thật của đời thực”[đd].

Nhà thơ Đàm Chu Văn khẳng định: “chính ở Chiến khu Đ, chiến khu của miền Đông gian lao mà anh dũng, Huỳnh Văn Nghệ đã viết được những câu thơ, bài thơ đẹp nhất của đời mình… Ông là người đã viết nên pho lịch sử Chiến khu Đ độc đáo bằng THƠ.”[2c]

 Nguyễn Nguyên Hùng cũng ghi nhận: “Huỳnh Văn Nghệ đánh giặc bằng cả gươm và bút. Đồng đội và nhân dân miền Nam gọi ông là “Thi tướng rừng xanh”. Làm thơ để đánh giặc, động viên những người ra trận, vì thế mà các bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ đều phản ánh hiện thực cuộc chiến đấu gian khổ, oanh liệt ở chiến khu. Một chiều tiêu thổ, một trận công đồn, một trận bão lụt, một chiến sĩ hy sinh… tất cả ùa vào thơ ông, mang nguyên những bụi bặm chiến trường, nhiều khi như một phóng sự, ghi chép sự kiện.[2e]

Huỳnh Văn Nghệ có một vùng sáng tác riêng. Đó là đời sống chiến đấu và núi rừng chiến khu Đ, nơi ông đã góp phần xây dựng, cũng là nơi ông trực tiếp chỉ huy làm nên những chiến công vang dội như trận La Ngà ngày 1.3.1948, đơn vị ông được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tặng thưởng Huân chương Chiến công, riêng Trung đoàn trưởng Huỳnh Văn Nghệ được đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thưởng riêng một áo trấn thủ.…

Nguyễn Nguyên Hùng khẳng định: “Thơ Huỳnh Văn Nghệ dường như chỉ nói về Chiến khu Đ, nếu đem sắp chúng theo trật tự biên niên, ta sẽ có gần đủ một cuốn lịch sử Chiến khu Đ bằng thơ. Qua thơ của ông, người đọc sẽ trả lời được câu hỏi: Chiến khu Đ ra đời trước hay sau ngày Nam Bộ kháng chiến, điều mà rất nhiều người còn thắc mắc: “Chiến khu Đ có từ thuở ấy/ Có một anh đồng chí/ Sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm bốn mươi/ Đưa chi bộ về rừng Đồng Nai/ Lập chiến khu nuôi chí lớn” (Du kích Đồng Nai).[đd]

 Bùi Quang Huy khái quát hơn: “Ngẫm lại, Huỳnh Văn Nghệ như một giấc mơ. Mà đó là giấc mơ đẹp và hình như chỉ đến một lần nên người đời luôn nhớ lại và khát khao…Huỳnh Văn Nghệ đã thỏa mãn “giấc mơ” của những người thợ, của những dân cày ở đất miền Đông trên nhiều phương diện: Hiện thực và lý tưởng, ý chí và tâm hồn, phóng khoáng và dũng mãnh, gan dạ và thông minh,… Từ người “nông dân – tướng cướp” Chín Quỳ đến bậc “trưởng lão” Trần Văn Giàu, người khuyên Huỳnh Văn Nghệ đi lập Chiến khu Đ đều tìm thấy ở ông một phần giấc mơ đã thành sự thật…”

 Cốt lõi cá tính sáng tạo của Huỳnh Văn Nghệ là hồn thơ trong veo, mộc mạc và đậm chất lãng mạn. Nếu đọc Hoàng Văn Bổn, (Miền đất ven sông, Trên mảnh đất này, Lũ chúng tôi…) hiện thực kháng chiến miền Đông Nam bộ hiện lên hết sức khốc liệt, máu và nước mắt, bi thương không sao tả xiết. Ngòi bút sử thi của Hoàng Văn Bổn tập trung miêu tả cái bi thương và cái hào hùng, có cả những cái ngổn ngang xô bồ của một thời.

Trái lại, cũng hiện thực ấy, trong thơ Huỳnh Văn Nghệ lại hiện lên rất đẹp.

Không phải là không có bi thương. Dân phải đốt nhà tiêu thổ kháng chiến (Mẹ buồn: “Thấy mẹ buồn, con hỏi /“Má tiếc gì má ơi! / Nhà mình con đốt rồi /Kẻo mai thành bót giặc”) Biên Hòa đã mất (“Biên Hòa đã mất/ Chiến khu Đ cờ vẫn đỏ ngọn cao. / Du kích Tân Uyên ngày đào đắp chiên hào/ Đêm tập một, hai vang trường Đất Cuốc/ Già, trẻ, gái, trai rộn ràng tập hát / Tiến quân ca.”), Mất Tân Uyên (“Và từ đó dân Tân Uyên anh dung/ Vào chiến khu dựng lại mái lều tranh/ Quyết kháng chiến cho đến ngày toàn thắng/ Bóng cờ son in lại đáy sông xanh.), Bờ sông bị chiếm (“Mất bờ sông là mất một nửa chiến khu/ Mất nước ngọt, bờ tre gió mát./ Thuyền tiếp tế, lúa khoai chìm đáy nước/ Đường giao thông liên lạc đứt đôi bờ./ Nhưng quân thù vẫn sợ lòng chiến khu/ Cờ đỏ vẫn phất cao cành cổ thụ”) với rất nhiều hy sinh: Em bé liên lạc bị giặc bắt chặt đầu (Em bé liên lạc), Đầu năm 1946, ông Nguyễn Văn Xiểng, Nghị sĩ Quốc hội người thiểu số tỉnh Biên Hòa trên đường đi Hà Nội để họp Quốc hội lần đầu tiên, bị giặc bắt giết hại tại Xuân Lộc (Cái chết của anh Xiểng), cái chết của anh công binh (Nấm mộ giữa rừng) và bão lụt tàn phá chiến khu (Chiến khu Đ chống bão.

Huỳnh Văn Nghệ đã nhìn hiện thực bằng một hồn thơ sáng trong. Những bi thương đã thăng hoa thành cái đẹp bình dị và hào hùng. Lời thơ của ông chân thực, một mạc, tự nhiên như ngôn ngữ đời thường, không trau chuốt nhưng “thi tính” vẫn hiện lên lấp lánh, hấp dẫn và rất riêng (xin đọc Mẹ buồn)

Thấy mẹ buồn, con hỏi
“Má tiếc gì má ơi!
Nhà mình con đốt rồi
Kẻo mai thành bót giặc”.

Mẹ nhìn con âu yếm
Vuốt tóc con, mỉm cười
“Thằng này nó coi tôi
Như học trò của nó
Má đẻ ra mày đó
Không nhớ, má nhắc cho.
Nhà má có ra tro
Con càng lo đánh giặc.

Nhưng mà má chỉ tiếc
Cái ống ngoáy trầu thôi”

Tôi nghĩ khó có nhà thơ nào viết được những câu thơ hồn nhiên, trong trẻo như thế về nhân dân. Cái đẹp và phẩm chất anh hùng của nhân dân hiện lên rất đỗi bình dị, có lẽ không thể bình dị hơn. Dân tộc này từ xưa vẫn bình dị như vậy.

Điều làm nên sự bình dị đẹp đẽ và hào hùng của thơ Huỳnh Văn Nghệ là ở Cái Tôi nhà thơ. Đó là một Cái Tôi nhân dân. Nhà thơ suy nghĩ, cảm xúc, và sống như nhân dân, không có chút riêng tư nào vướng bận. Cái Tôi này khác hẳn với Cái Tôi cá nhân chủ nghĩa trong thơ lãng Mạn trước 1945, cũng khác với Cái tôi trữ tình trong thơ kháng chiến (Quang Dũng, Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu). Chính Cái Tôi này làm nên cốt cách thơ Huỳnh Văn Nghệ và là một đặc điểm cá tính sáng tạo.

Trong bài Tình Súng (1952), Huỳnh Văn Nghệ nằm mơ ngày độc lập về quê thăm mẹ. Mẹ hỏi “Hỏi mày giết giặc mấy thằng / Vợ con, sự nghiệp, chiến công những gì?”, nhà thơ kể lại chiến công như nói chuyện đời thường, chuyện nhỏ. Bởi vì, nhà thơ là con của nhân dân, chiến công là của nhân dân. Nhà thơ, chỉ kể lại sơ lược cho mẹ biết để mẹ mừng:

“Thưa mẹ đây báng súng
Còn ghi mấy chiến công,
Chỗ này là trận Bưng Còng
Còn đây Bến Sắn thành công mới rồi
Trảng Bom lửa cháy ngập trời
Là Ngà xe giặc, tơi bời giữa trưa
Còn đây là trận Gò Dưa
Lệnh kèn chưa dứt, giặc thua tan tành.
Máu thù mã tấu còn tanh
Súng còn thơm khói, đôi chân ướt lầy.
Vết thương Mỹ Quới còn đây
Nhăn nheo da ngực khác gì huân chương”. 

(Tình súng)

Trái lại, Cái Tôi trữ tình trong thơ kháng chiến chống Pháp ít nhiều đượm buồn và chưa hoàn toàn thoát khỏi chất lãng mạn của thơ trước 1945:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

  Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

(Đồng chí-Chính Hữu)

 

Tôi đứng bên này sông
Bên kia vùng địch đóng
Làng tôi đấy xạm đen màu tiết đọng
Tre cau buồn tóc rũ ước mơ sương
Màu trắng vôi lờm lợp mấy khung tường
Nếp đình xưa người hỡi đau gì không ?

            (Nhà tôi-Yên Thao)

Em ở thành Sơn chạy giặc về
Tôi từ chinh chiến cũng ra đi
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy núi Ba Vì

            (Đôi mắt người Sơn Tây-Quang Dũng)

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

            Sáng chớm lạnh trong long Hà Nội

            Những phố dài xao xác hơi may

            Người ra đi đầu không ngoảnh lại

            Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

(Đất nước-Nguyễn Đình Thi)

Vì Huỳnh Văn Nghệ là nhà thơ-chiến sĩ, hồn thơ ông là đời sống kháng chiến của nhân dân, nên khi ông ra Bắc và công tác ở những môi trường khác (1953), ông vẫn sống với chiến khu Đ những ngày kháng chiến: Du kích Đồng Nai (1954), Hội nghị bình công (1954), Lịch sử quê hương (1954), Hành quân (1955), Cái chết của anh Xiển (1956).

Năm1960 khi Huỳnh Văn Nghệ ở Hà Nội. Ông viết bài thơ Chiến khu Đ chống bão. Người đọc nếu không đọc năm sáng tác ở cuối bài thơ có thể sẽ nghĩ rằng tác giả là người đang trong cơn bão lũ. Trận bão lụt đã xảy ra 8 năm trước đo: năm Nhâm Thìn 1952. Điều này cho thấy hồn thơ ông sống động với những ký ức về chiến khu Đ như thế nào.

SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT

Phẩm chất thi nhân thể hiện ở sự sáng tạo. Đọc thơ Huỳnh Văn Nghệ, người đọc nghĩ rằng ông ghi lại “nguyên si” chuyện người thật việc thật, không thấy dấu vết của sự trau chuốt hay hư cấu sáng tạo gì. Lời thơ mộc như lời nói hàng ngày đi vào thơ tự nhiên. Thí dụ, Huỳnh Văn Nghệ kể chuyện nhân dân dánh Tây:

Giặc về lấy miễu Bà Cô
Đóng đồn kiểm soát đôi bờ sông xanh.
Bắt dân đắp lũy xây thành
Giết người ngay giữa sân đình sớm trưa.
*
Đồng bào bàn tán xôn xao:
“Bà Cô thiêng lắm, lẽ nào sợ Tây
Quân ta muốn đánh bót này
Xin bà phò hộ trở tay dễ dàng…”

Xóm trên, xóm dưới luận bàn
Trăm mưu, ngàn kế trung đoàn tấn công.
Người thì chỉ cách qua sông
Đường đi nước bước thuộc lòng từng ly.
Người xin mở cửa thép gai
Người thề cướp súng cối xay cạnh đình.
Buồng thờ chúng nhốt tù binh
“Tượng bà, chúng bện bù nhìn gác sông”.
Tình hình nắm vững ngoài, trong
Trung đoàn quyết định tấn công bất ngờ

                  (Nhờ Bà Cô)

Nhưng nếu nghĩ Huỳnh Văn Nghệ chỉ sao chép hiện thực thì người đọc sẽ không nhận ra sự độc đáo sáng tạo của Huỳnh Văn Nghệ, điều làm nên phẩm chất thi nhân của ông.

Ông Huỳnh Văn Nam, con trưởng thi tướng Huỳnh Văn Nghệ cho biết [3], xuất xứ của bài thơ Tiễn bạn về Bắc (Nhớ Bắc) là buổi tiễn bạn tại sân ga Sài Gòn 1940. Hoàn cảnh cụ thể như sau. “Nhân sự kiện quan trọng thông tuyến đường sắt Bắc – Nam, Sở Hỏa xa Sài Gòn được Nhà nước bảo hộ ưu tiên một số vé cho nhân viên đi tham quan Hà Nội bằng xe lửa. Do số lượng ghế ngồi hạn chế nên sở phải tổ chức bốc thăm, người nào bốc trúng vé mới được đi. Huỳnh Văn Nghệ may mắn là người duy nhất của Văn phòng Sở Hỏa xa bốc trúng vé đi tham quan…Nhưng hai ngày trước khi lên đường, ông Nghệ quyết định nhường lại suất vé về Bắc cho người bạn tâm giao.

 Buổi chiều tà luyến lưu tiễn bạn, khi đoàn tàu dần khuất bóng cuối sân ga Sài Gòn, Huỳnh Văn Nghệ đã phóng bút viết” những câu thơ tuyệt bút:

“Ai về Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.”

Ai về xứ Bắc xin thăm hỏi

            Hồn cũ anh hung đất Cổ Loa

            Hoàn Kiếm hồn xưa Linh Quy hỡi

            Bao giờ mang kiếm trả dân ta?

            (Tiễn bạn về Bắc-Huỳnh Văn Nghệ. 1940)

Lư ý rằng, lúc này (1940) Huỳnh Văn Nghệ chưa là người lính, chưa là một vị chỉ huy quân sự tài ba với những chiến công lừng lẫy. Hơn thế ông đang sống trong thời của Thơ Mới với Cái tôi lãng mạn ngự trị trong thơ, nhưng Huỳnh Văn Nghệ đã thể hiện một hình ảnh thật mới lạ so với thơ đương thời, hình ảnh mà sau này ông được gọi là “thi tướng”.

Nếu so sánh cùng đề tài đưa tiễn trong bài thơ Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, bạn đọc sẽ thấy rõ sự khác biệt phong cách thơ của Huỳnh Văn Nghệ

“Đưa người ta không đưa sang song

            Sao có tiếng song ở trong long

            Bóng chiều không thắm không vàng vọt

            Sao đây hoàng hôn trong mắt trong”

(Tống biệt hành-Thâm Tâm. 1940)

Cuộc tiễn đưa của Huỳnh Văn Nghệ có cái khí phách sử thi, trái lại cuộc tiễn đưa của Thâm Tâm trĩu nặng nỗi buồn của “tráng sĩ một đi không trở lại”. Buổi tiễn đưa trên sân ga buồn buổi chiều sao lại có thể gợi những câu thơ, tứ thơ cao rộng trong không gian, thời gian, trong lịch sử dân tộc như vậy? Chỉ có thể giải thích bằng chính tài năng sáng tạo rất riêng của Huỳnh Văn Nghệ.

Bài thơ Tiếng hát giữ rừng Huỳnh Văn Nghệ làm tại chiến khu Đ 1946 là một sáng tạo khác:

Ngựa bỗng dừng chân
Bên quân y viện:
Giật mình nghe tiếng
Quốc ca vang.

Phải chăng giờ chào cờ buổi sáng
Hay hội nghị cơ quan?
Sao chỉ một người cất giọng
Hát đi, rồi hát lại nhiều lần.

Xuống ngựa, buộc cương
Hỏi ra mới biết:
Bác sĩ đang cưa chân
Một chiến sĩ bị thương
Bằng cưa thợ mộc…

Bác sĩ vừa cưa vừa khóc
Chị cứu thương mắt cũng đỏ hoe
Nhìn ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre
Anh chiến sĩ cứ mê mải hát.

Cưa cứ cưa, xương cứ đứt
Máu cứ rơi từng vết đỏ bông.
Hai bàn tay siết chặt đôi hông.
Dồn hết phổi vào trong tiếng hát:
“Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc…”.
Đã hát đi hát lại bao lần
Vẫn chưa đứt xương chân
Vẫn chưa ngừng máu đỏ

Vừa xong băng bó
Anh lịm đi
Hồi hộp cả núi rừng
Tiếng hát mới chịu ngưng.
Ảnh Bác Hồ như rưng rưng nước mắt.

Trở lên yên ngựa đi từng bước
Cúi đầu nén nỗi đau thương
Nhưng lửa căm hờn
Bỗng dựng cao đầu ngựa dậy
Vang trời ngựa hí
Chí phục thù cháy bỏng tay cương.

CKĐ. 1946

Bài thơ kể chuyện anh thương binh phải cưa chân bằng cưa mộc, cách kể gọn, sống động, cố nén đau thương từ đó toát lên vẻ đẹp anh hùng của người chiến sĩ thương binh trong tình thương của Bác Hồ và của đồng đội. Đọc bài thơ, người đọc nghĩ rằng Huỳnh Văn Nghệ chỉ ghi lại sự việc mình chứng kiến mà không có sáng tạo gì. Xin chú ý đến thể thơ, giọng thơ, nhịp kể, cách chọn chi tiết để tả, sự kết hợp rất tài tình giữa kể và tả, giữa phản ánh sự việc và thể hiện vẻ đẹp tâm hồn con người trong một hoàn cảnh cùng cực.

Và xin nghe câu chuyện sau đây [4] để nhận ra phẩm chất thi nhân của Huỳnh Văn Nghệ:

“Một trong những người thương binh đầu tiên của tỉnh Biên Hoà là anh Bùi Xuân Tảo, một thanh niên làm công nhân cao su là dân contrat, ký hợp đồng với bọn mộ phu vào Nam Kỳ tham gia bộ đội và bị thương trong trận tấn công thị xã Biên Hoà vào Tết Dương lịch 1/1/1946. Anh được đưa về quân y viện ở Ðất Cuốc trong chiến khu Ð giải phẫu cánh tay bị thương.

Giám đốc quân y viện Chi đội 10 của tỉnh Biên Hoà là sinh viên y khoa năm chót, Võ Cương nhảy theo kháng chiến. Tuy là sinh viên mới ra trường, Võ Cương nổi tiếng là nhà giải phẫu “mát tay”. Chuyên viên gây mê của quân y viện là chị An (sau là vợ giám đốc binh công xưởng Bùi Cát Vũ) được đào tạo ở Sài Gòn. Bấy giờ chiến khu có một ít thuốc tê và mê do bác sĩ Hồ Văn Huê đưa vô khu từ bệnh xá Sở cao su Lộc Ninh.

Do tiết kiệm thuốc mê nên y sĩ Võ Cương bảo anh Tảo:

– Thuốc mê ít, anh nên hát một bài nào đó để hỗ trợ tinh thần khi tôi bắt đầu giải phẫu.

Anh Tảo chỉ biết có bài Tiến quân ca nên hát Quốc ca. Khi chị An rắc thuốc mê được vài giây thì anh Tảo lịm đi, tiếng hát chìm xuống như máy hát hết dây cót. Anh em y tá cùng ca tiếp với anh. Ðúng vào lúc đó, anh Tám Nghệ cỡi ngựa đi ngang quân y viện. Nghe hát Quốc ca, anh xuống ngựa đứng nghiêm. Nhưng bài Quốc ca cứ hát đi rồi hát lại. Tò mò, anh bước vào thì chứng kiến ca mổ. Anh đứng nhìn khá lâu, xúc động lắm. Sáng hôm sau trong chiến khu có bài thơ mới “ra lò”, bài thơ lấy tên Tiếng hát giữa rừng”.

Năm 1996, Bác sĩ Võ Cương nhận xét về bài thơ Tiếng hát giữa rừng như sau:

 “Bài thơ có nhiều điểm sai “đập vào mắt” mà sao tác giả và các thi hữu không trông thấy.

Thứ nhất, anh Tảo bị thương ở cánh tay. Chính tôi cắt cánh tay đó. Nhà thơ đã đổi cánh tay thành cái chân. Có lẽ cái chân thuận tiện hơn cánh tay trong việc gieo vần. Thôi cũng được. Mình thông qua đi.

Thứ hai, do tác động của thuốc mê, anh Tảo chỉ hát Quốc ca có câu đầu “Ðoàn quân Việt Nam đi…” rồi anh hết hơi, câu thứ hai hạ thấp để rồi tắt hẳn “chung lòng cứu quốc”. Những câu sau là do anh em y tá hát tiếp chớ anh Tảo thì đã mê man rồi. Nhà thơ cứ cho anh Tảo hát đi rồi hát lại là sai luật tự nhiên. Nhưng cũng có thể cho qua vì nhà thơ không phải là y bác sĩ.

Thứ ba, bác sĩ vừa cưa vừa khóc. Ðây là điểm sai căn bản. Cái nghề cưa tay cưa chân, cặp mắt phải thật tinh, bàn tay cũng phải thật chính xác. Vừa cưa, vừa khóc thì làm sao chỉ huy bàn tay giải phẫu chính xác được?

Thứ tư, giải phẫu dứt khoát phải tiến hành nhanh. Làm gì có chuyện “hát đi hát lại bao lần, vẫn chưa đứt xương chân”. Như vậy, anh Tám “chê” thằng cha Võ Cương này kém nghiệp vụ chuyên môn.”[đd]

Đó là cái nhìn của bác sĩ phẫu thuật. Nhà thơ là người sáng tạo, thổi hồn thơ vào sự kiện để khắc họa cái đẹp. Huỳnh Văn Nghệ là nhà thơ của hồn thơ đẹp ở mọi góc nhìn:

Rừng đẹp như một bài thơ cổ
Cành cao vượn hú
Ríu rít tổ chim.
Bờ suối đỏ hoa sim
Thảm cỏ xanh điểm vàng quả bứa.
Đêm trăng một người một ngựa
Lỏng cương cho gió ráo mồ hôi.
Hội nghị giữa trời
Chim, lá cũng góp lời góp ý.
Mắc võng cây này qua cây ấy
Củi khô lửa cháy ấm đêm đông.
Tắm, ăn nước suối một giòng.
Chung cho cả ngựa, người, trên, dưới.
Củ mì luộc chia đôi chấm muối
Mặn bùi tình nghĩa anh em.

            (Rừng đẹp)

TRONG DÒNG CHẢY THƠ DÂN TỘC

Những bài thơ Huỳnh Văn Nghệ làm trước 1945 nằm trong ảnh hưởng của Thơ Mới với bút pháp lãng mạn và hình ảnh tượng trưng, thơ là tâm trạng nhân vật trữ tình. Tuy vậy đã xuất hiện những dấu hiệu rất lạ như bài Tiễn bạn về Bắc: Mộng làm thơ (1937), Đám ma nghèo (1938), Đường về (1938), Trốn học (1939), Thú tội (1939), Sông Đồng Nai (1940), Tết quê người (1942), Bế cũ (1944), Lời chim (1945)

Ôi mong đợi héo tàn bao bóng nến
Nhớ thương anh mòn mỏi cột lều tranh
Có bao giờ tình anh nỡ phụ mình!
Nhưng em hỡi! Chờ thái bình thiên hạ.

Em vẫn rõ anh là thân chiến mã
Nợ kiếm cung oằn oại gánh yên cương.
Tiếng non sông giục bước ra sa trường…”

(Trả lời thư Lan)

Hỡi Thượng đế, Người ban cho đôi cánh,
Con mừng thầm tưởng tránh khỏi trần ai.
Cho ăn trái, tưởng khỏi phiền tranh cạnh
Với lòng tham vô tận của người đời.

Con cứ tưởng: phước trời riêng con hưởng
Khi mới bay chập chững dưới chân đồi.
Con cứ tưởng: khi tập tành hát xướng
Rằng đời chim chỉ để hát ca thôi.

                                     (Lời chim)

Thơ kháng chiến chống Pháp của Huỳnh Văn Nghệ là một cõi riêng. Cõi riêng ấy trước hết là núi rừng, đồng bào, chiến sĩ và cuộc sống chiến đấu ở chiến khu Đ. Điều này không nhà thơ đương thời nào cạnh tranh được. Và xin lưu ý rằng, Nhà thơ kháng chiến chống Pháp định vị thơ mình bằng chính quê hương. Hoàng Cầm có Bên Kia sông Đuống. Yên Thao có Nhà Tôi, Quang Dũng có Tây TiếnĐôi mắt người Sơn Tây. Tố Hữu có Việt Bắc…Huỳnh Văn Nghệ đóng đinh vào thơ ca dân tộc với nhiều bài tuyệt bút như: Tiếng hát giữa rừng, Mẹ buồn, Ngày hội, Rừng đẹp, Một trận chống càn, Mẹ Nam con Bắc, Hành Quân, Chiến khu Đ chống bão…

Nếu thơ chống Pháp của nhiều nhà thơ đương thời là thơ trữ tình (Đồng Chí, Tây Tiến, Bên Kia sông Đuống, Nhà tôi) thỉ thơ Huỳnh Văn Nghệ là thơ kể chuyện.

Nộ dung bài thơ là một câu chuyện cần được kể tỉ mỉ, có khi phải dài dòng, trong khi đặc trưng của thơ là ngôn ngữ hàm xúc, ngôn ngữ biểu cảm. Huỳnh Văn Nghệ đã kết hợp hai đặc điểm thể lọai này trong nhiều bài thơ kể chuyện đặc sắc. Ông kết hợp kể chuyện với tả cận ảnh. Ông chọn được những chi tiết đặc tả có sức khơi gợi. Ngôn ngữ quần chúng, giọng kể tâm tình, đa thanh (có khi là rất nhiều giọng của nhân dân), tốc độ kể nhanh, ngôn ngữ có sức khơi gợi tình cảm thẩm mỹ, và trên hết là một hồn thơ trong veo, ở đó Cái Đẹp hiển trị. Cái Tôi riêng tư tan trong cái chung. Thể loại thơ kể chuyện này có trong thơ Kháng chiến (trong tập Việt Bắc của Tố Hữu), nhưng không tập trung nhiều như thơ Huỳnh Văn Nghệ. Xin đọc: Xuân chiến khu, Tiếng hát giữa rừng, Mẹ buồn, Nhờ Bà Cô, Tình súng, Một trận chống càn, Em bé liên lạc, Giữ bí mật, Mẹ Nam con Bắc, Hội nghị bình công, Lịch sử quê hương, Hành quân, Cái chết của anh Xiển, Cây thông già và anh thợ rừng, Chiến khu Đ chống bão…

Đây là đọan kể sinh động về chiến khu Đ chống bão:

Chèo chống ngày đêm, lênh đênh trên mặt nước.
Vớt của, vớt người.
Thân trần chèo chống dưới mưa.
Tiếng cười vẫn nô đùa sóng gió.
Từng manh chiếu, quả dừa, chiếc bừa, bó đũa.
Vớt lên mang trả lại từng người.
Đồn Rạch Đông nước ngập sắp trôi
Lính ngụy lên nóc đồn kêu cầu cứu:
“Huyện đội Vĩnh Cửu ơi… Vĩnh Cửu,
Cứu chúng em, ơn trả, nghĩa đền”.
Chiến sĩ ta, cười reo lên
Nghe lệnh đồng chí chính trị viên:
“Chèo nhanh lên, cứu chúng nó…”

 Nói đến những dấu hiệu lạ trong thơ Huỳnh Văn Nghệ, tôi vẫn chưa giải thích được.

Trong bài Mộng làm thơ (1937), Huỳnh Văn Nghệ có những câu thơ này:

Chàng chỉ muốn làm thơ bằng máu
Trên mây hồng cho gió rải cùng trời
Để những người đau khổ khắp nơi nơi
Ngừng than thở
Và thương nhau khi trông hàng chữ máu

Trong khi năm 1938, Tố Hữu viết Từ Ấy:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.

 Huỳnh Văn Nghẹ cũng có những bài kể lại giấc mơ như: Cây thông già và anh thợ rừng, Tình súng.  Bài thơ Trở về (1947) là một bài thơ lạ. Giữa chiến khu, ông mơ mình lên Thiên Thai, gặp lại người yêu tiên nữ xưa, nhưng nàng không đoái hoài làm cho lòng thi nhân sụp đổ. Khi nhìn vào gương, nhà thơ thấy mình đã chết. Nhưng biết nợ trần còn nặng, người thơ vung kiếm, trở về:


Dưới tầng mây dày đặc
Đưa lên tận lòng tôi
Lời oán hờn u uất
Tiếng thở than ngàn đời.

Vung kiếm tan lầu ngọc
Vội chắp cánh về trần.
Tôi giật mình tỉnh giấc
Sung sướng giữa ngàn xuân

Giấc mơ như vậy phải cần đến những nhà Phân tâm học giúp giải mã mới có thể hiểu được chút gì về vô thức Huỳnh Văn nghệ. Nhưng đọc theo cảm quan bình thường, người đọc vẫn có thể hiểu Huỳnh Văn Nghệ phủ định sự hưởng thụ hạnh phúc riêng. Hạnh phúc Thiên Thai như người đời hằng mơ chỉ là cõi chết (vì trong cõi Thiên Thai, ông soi gương thấy mình đã chết). Hạnh phúc thật của nhà thơ-chiến sĩ là chính cuộc sống trần gian tươi đẹp: “Tôi giật mình tỉnh giấc/ Sung sướng giữa ngàn xuân”

THAY LỜI KẾT

Thơ Huỳnh Văn Nghệ còn nhiều điều để khám phá. Thơ ông cần được giới thiệu để nhiều người đọc hôm nay nhận ra những giá trị quý báu của thơ ca Đồng Nai. Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ có một hồn thơ đẹp, một cốt cách lạ, vừa mạnh mẽ, vừa hồn hậu, vừa rất riêng và cũng rất chung. Huỳnh Văn Nghệ là nhà thơ của nhân dân, của Chiến khu Đ anh hùng.

Đọc thơ của ông, nhà thơ Đồng Nai hôm nay có thể học được nhiều điều. Thí dụ, việc khai thác chất liệu về hiện thực đất nước, con người Đồng Nai; thí dụ, tự mình tìm ra một cốt cách thơ riêng trong dòng thơ chung của dân tộc, và đặc biệt là, con đường thăng hoa của thơ là con đường gắn bó máu thịt với quê hương đất nước, với cuộc sống chiến đấu của nhân dân, của thời đại và dân tộc (như thơ Huỳnh Văn Nghệ), như Huỳnh Văn Nghệ đã mài gươm và múa bút.

Tôi là người lăn lóc trên đường trần
không phân biệt lúc mài gươm múa bút

Đời chiến sỹ máu hoà lệ mực
Còn yêu thương là chiến đấu không thôi

                  (Bên bờ sông xanh)

 

Tháng 6. 2017

_______________

[1] Huỳnh Văn Tới- Huỳnh Văn Nghệ-Thi tướng của dân gian

http://nhavantphcm.com.vn/chan-dung-phong-van/huynh-van-nghe-thi-tuong-cua-dan-gian.html

[2] Xin đọc:

a.Bùi Quang Huy-Huỳnh Văn Nghệ-Như một giấc mơ

http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201402/ky-niem-100-nam-ngay-sinh-va-37-nam-ngay-mat-anh-hung-luc-luong-vu-trang-nhan-dan-nha-tho-huynh-van-nghe-huynh-van-nghe-nhu-mot-giac-mo-2293890/

  1. Bùi Quang Huy-Mùa xuân của thi tướng rừng xanh

http://baodongnai.com.vn/bao-xuan-2014/201401/nhung-mua-xuan-cua-thi-tuong-chien-khu-xanh-2291066/

  1. Đàm Chu Văn-Huỳnh Văn Nghệ – Người chép sử Chiến khu Đ bằng thơ

http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/200612/Chao-mung-ky-niem-60-nam-thanh-lap-chien-khu-d-1946-2006Huynh-Van-Nghe-Nguoi-chep-su-Chien-khu-d-bang-tho-2016784/

  1. Tân Linh-Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ: Còn lại thiên thu một chút tình

http://antg.cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Thi-tuong-Huynh-Van-Nghe-Con-lai-thien-thu-mot-chut-tinh-336201/

  1. e. NguyỄn Huy Hùng-Huỳnh Văn Nghệ: một chiến sĩ – nhà thơ “thi tướng”

http://nxbctqg.org.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=4027:hunh-vn-ngh-mt-chin-s-nha-th-thi-tng&catid=112:tin-van-hoa-tu-tuong&Itemid=488

  1. Phan Xuân- Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Thi Tướng Huỳnh Văn Nghệ

http://www.thuviendongnai.gov.vn/huynhvannghe/default.aspx?Source=&Category=&ItemID=2&Mode=1

  1. Hoài Nguyễn Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ và bài thơ “Nhớ Bắc”

http://ubmttq.hochiminhcity.gov.vn/TinTuc/thongtinkhac/Lists/Posts/Post.aspx?CategoryId=3&ItemID=1248&PublishedDate=2010-04-18T09:40:00Z

[3] An Chi-Chuyện sửa thơ Nhớ Bắc của Huỳnh Văn Nghệ

http://www.nhavantphcm.vn/doc-duong-van-hoc/chuyen-sua-tho-nho-bac-cua-huynh-van-nghe.html

[4] Nguyên Hùng- Nước mắt và nụ cười chung quanh bài thơ “Anh thương binh đầu tiên” của Huỳnh Văn Nghệ

http://dongnai.vncgarden.com/i-see/nuocmatvanucuoichungquanhbaithoanhthuongbinhdautiencuahuynhvannghe

 

 

NHỮNG NHÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC HẢI NGOẠI

Phê bình văn học-Diện mạo của một thời

NHỮNG NHÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC HẢI NGOẠI

Bùi Công Thuấn

PB hải ngoại 2

Tôi ghi lại đây đôi điều suy nghĩ về những nhà phê bình hải ngoại mà tôi đã gặp trên Internet. Theo cảm nhận của tôi, họ là những nhà phê bình chuyên nghiệp, có trình độ chuyên sâu, đã có nhiều công trình về phê bình và về văn học Việt Nam. Họ vừa là nhà nghiên cứu và là nhà phê bình. Họ đa dạng về cách viết nhưng cũng phức tạp về tư tưởng. Bởi vì họ viết trong một môi trường đa văn hóa, đa khác biệt, và không ít khó khăn, nhưng lòng họ hướng về quê mẹ Việt Nam. Tôi chú ý đến những bài phê bình của họ và xem xét những đóng góp của họ đối với văn chương Việt Nam.

BÙI VĨNH PHÚC NHÀ PHÊ BÌNH NGHỆ SĨ

Tôi gọi Bùi Vĩnh Phúc là nhà phê bình nghệ sĩ bởi ông viết phê bình văn học như một nhà văn viết tùy bút. Ông viết phê bình văn học như một người đọc thưởng thức tác phẩm. Ông nói rõ mục đích phê bình: Khi ta cầm bút viết về bất cứ điều gì trong đời, cũng có nghĩa là ta cầm bút và viết về chính ta”.

Đây là đoạn văn thứ hai, mở đầu bài viết về Thanh Tâm Tuyền:

Một buổi chiều, một buổi chiều nào đó, giam mình giữa dòng xe cộ trùng điệp của giờ tan sở, để chiếc xe tự động lăn theo dòng nối tiếp mệt nhoài, tâm tư ta lại nhớ về những buổi chiều cũ ở quê nhà. Những buổi chiều đã ngun ngún bay đi. Bay đi như khói thuốc, như hương khói mùa xưa. Những buổi chiều trời thắp mãi tiếng mưa sầu. Làm thế nào để quên được nhau. Hạt mưa kia long lanh nỗi nhớ niềm từ biệt, hoàng hôn bàng hoàng màu khói nhạt…/ Ta chợt nhớ đến người thi sĩ ấy. Thanh Tâm Tuyền.”[1]

Đoạn văn là tâm trạng của nhân vật trữ tình Ta với tất cả sự mơ mộng lãng mạn. Thơ Thanh Tâm Tuyền chỉ là chất xúc tác, là men say cho tâm hồn nhà phê bình bay lên. Vì thế, viết phê bình văn học,  Bùi Vĩnh Phúc ít quan tâm đến việc khám phá những độc đáo nghệ thuật, những góc cạnh của cá tính sáng tạo; cũng không đánh giá các giá trị văn chương, mà chỉ thể hiện Cái Tôi trữ tình khi tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Xin đọc thêm một đoạn Bùi Vĩnh Phúc viết về Thanh Tâm Tuyền:

Thanh Tâm Tuyền đi vào đời sống với tất cả những say đắm, yêu thương, thơ dại và phẫn nộ chất chứa trong hồn ông. Ông đã được yêu ghét thế nào, chúng ta chắc chẳng cần nhắc lại. Hãy chỉ nhớ là, bây giờ, Thanh Tâm Tuyền vẫn đang ở tại quê nhà, vẫn còn canh giữ cho ta những giấc mộng cũ, và những bài thơ của ông, lang thang ở những xó góc tối tăm nào đó của đời sống, của trí óc ta, lâu lâu vẫn còn khua gõ những bước chân âm thầm trở về. Và ta lại nhìn ra những bóng mưa của thời gian xưa cũ, những dòng sông vẫn chảy lặng lẽ, mưa vẫn rơi, mưa rơi nhỏ nhẹ, mưa rơi ngoài châu thành. Trái tim ta ướt đẫm nước mắt…

Với cách viết phê bình như thế, Bùi Vĩnh Phúc đã gạt bỏ tất cả hoàn cảnh sống của Tâm Tuyền từ những tháng ngày trước 1975 đến những năm trong trại cải tạo và thời gian sống ở Mỹ, tức là không tìm đến bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội làm nên hồn thơ Thanh Tâm Tuyền, và vì thế không lý giải được những giá trị thơ Thanh Tâm Tuyền, càng không hiểu đúng về nhà thơ. Bùi Vĩnh Phúc đã không nhận ra những bước chuyển tiếp trong hành trình sáng tạo của Thanh tâm Tuyền và không định vị được chỗ đứng của Thanh tâm Tuyền trong văn học sử Việt Nam đương đại. (Cũng có thể vì một lý do “nhạy cảm” nào đó đối với cộng đồng người Việt hải ngoại, Bùi Vĩnh Phúc đã im lặng?)

Dù vậy, Bùi Vĩnh Phúc vẫn là một nhà phê bình hải ngoại mà những trang viết của ông có độ khả tín nhất định. Bởi ông nhận thức sâu sắc về văn chương, hiểu rõ bản chất của phê bình và thủ đắc được những phương pháp phê bình có giá trị khoa học để tiếp cận tác phẩm. Viết về ca từ của nhạc Trịnh Công Sơn, ông dùng Thi pháp họcphương pháp xếp chồng văn bản của Charles Mauron để đi sâu vào con người vô thức của Trịnh Công Sơn.[2]

Ông nhận xét rằng: Ca từ của Trịnh Công Sơn đã làm mới ngôn ngữ Việt Nam và đưa ra những hình ảnh đẹp một cách rất bi thiết pha trộn với nét kỳ ảo. Tất cả những điều đó tạo nên một thế giới riêng biệt, một thế giới chưa bị làm mòn đi bởi sự nhàm chán, sự lặp lại. Và điều ấy tạo nên sự thu hút”…” anh dùng những chữ bình dị, thậm chí tầm thường, trong ngôn ngữ của người đời, rồi xếp chúng lại một cách hết sức bất ngờ khiến, qua sự sắp xếp đầy tính bất ngờ ấy, những hình ảnh lạ lùng, thiết tha và thơ mộng hiện ra trước mắt chúng ta. Làm ta sững sờ.“.

Điều đáng tiếc là ông đã không nhận ra chủ nghĩa Ấn tượng trong ngôn ngữ nhiều ca khúc của Trịnh Công Sơn. Những hình ảnh trong ca từ của Trịnh Công Sơn là những ấn tượng bất chợt đến trong dòng chảy tâm trạng của người nhạc sĩ. Đó không phải là hình ảnh hiện thực trong một không gian thời gian nhất định. Vì thế tìm hiểu không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật trong ca từ của Trịnh Công Sơn không giúp phát hiện ra đặc sắc ngôn ngữ của người nhạc sị này.

Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ
Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao
Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ
Đường dài hun hút cho mắt thêm sâu

(Diễm xưa-Trịnh Công Sơn)

Bốn câu trong đọạn ca từ trên vẽ ra nhiều hình ảnh: mưa bay trên tháp cổ, dài tay em, mưa reo trên lá thu và gót nhỏ của em reo trong mưa. Đường dài hun hút. Nhân vật trữ tình, đang hình dung ra, đang lắng nghe, đang dõi theo, đang nhớ (trong tâm tưởng).  Không có một không gian cụ thể, không diễn ra trong một thời gian cụ thể. Chỉ có tâm trạng buồn nhớ người nhạc sĩ là cụ thể. Còn lại, tất cả chỉ là ấn tượng để diễn tả tâm trọng đó. Chính tâm trạng nhân vật trữ tình đã kết nối những sự vật rời rạc tạo ra một thế giới nghệ thuật mang ý nghĩa tư tưởng. Nhạc Trịnh Công Sơn khơi gợi ấn tượng đã có trong lòng người nghe, vì thế nó có sức quyến rũ. Đây không phải là Trịnh Công Sơn “dùng những chữ bình dị, thậm chí tầm thường…, rồi xếp chúng lại một cách hết sức bất ngờ” mà chính là kiểu tư duy nghệ thuật riêng của Trịnh Công Sơn.

Bùi Vĩnh Phúc có những bài viết giá trị về Bùi Giáng, Nguyễn Mộng Giác, Võ Phiến, về Hai mươi năm văn học miền Nam… [3]. Những bài này có thể giúp bạn đọc trẻ có những hiểu biết nhất định về văn học Miền Nam (1954-1975), bởi góc nhìn và thái độ nghiên cứu của nhà phê bình bước đầu đã thóat ra ngoài những thiên kiến chính trị khi nhìn sự vận động văn học. Bùi Vĩnh Phúc nhận định về 20 năm văn học (1954-1975) ở cả hai miền Nam, Bắc như sau:

Văn học miền Bắc, trong bối cảnh và chủ trương riêng của mình, trong hai mươi năm của cuộc chiến, đã có những nét vẽ riêng, những bảng mầu, những cung bậc, tiếng nói riêng, để, phần nào, định dạng và định tính xã hội và con người miền Bắc. Qua đó, cũng cho thấy một khuôn mặt cần được nhìn ngắm của cuộc chiến, của lịch sử Việt Nam.

Văn học miền Nam, cũng trong giai đoạn khó khăn ấy, không hề rời xa truyền thống, bám rễ chắc chắn vào những giá trị bền vững và tốt đẹp của truyền thống, trong hai mươi năm sống và thể hiện sức sống của mình, nó đã tiếp tục phát triển và liên thông, nắm tay với thế giới, với con người trên khắp cõi đất, để bước chân vào thời hiện đại, với tất cả những nét khai phóng và đa sắc, đa dạng của nó, với tất cả những cung bậc, những gamme mầu tuyệt vọng và thăng hoa của nó.”[3a]

Nhìn vào danh mục tác phẩm của Bùi Vĩnh Phúc được giới thiệu trên tienve.org, damau.org, hopluu.net, người đọc có thể nhận thấy ông là một nhà phê bình có sức viết dồi dào, tầm hiểu biết sâu rộng, một tình yêu sâu nặng với văn chương Việt, và văn của ông có sức hấp dẫn. Chỉ tiếc là ông không viết về văn học trong nước từ 1975 đến nay. Có thể mỗi nhà phê bình chỉ quan tâm đến một đối tượng nào đó. Bùi Vĩnh Phúc viết phê bình như một người đọc cảm thụ tác phẩm, vì thế, có thể ông chọn riêng cho mình tác giả, tác phẩm mà ông yêu thích, như ông đã viết về Trịnh Công Sơn chẳng hạn.

THỤY KHUÊ NHÀ BIÊN KHẢO

Thụy Khuê là một nhà biên khảo. Giá trị biên khảo của bà hơn hẳn phê bình văn chương. Gần đây bà mới in cuốn Vua Gia Long & người Pháp (Nxb Hồng Đức-Hà Nội). Thụy Khuê tên thật là Vũ Thị Tuệ, sinh năm 1944 tại Nam Ðịnh, viết tiểu luận văn học từ 1985. Bà có nhiều công trình nhưng tôi chỉ chú ý đến Phê bình văn học thế kỷ XX. Tôi cũng đọc những bài bà viết về văn học Việt Nam để khám phá những đặc sắc riêng ngòi bút phê bình của Thụy Khuê. Là một người sống và làm việc ở Pháp, tiếp cận với nhiều lý thuyết phê bình đương đại, và có điều kiện tiếp xúc với nhiều nhà thơ, nhà văn của cả hai miền Nam – Bắc, lẽ ra bài viết của bà có nhiều phẩm chất học thuật. Nhưng hầu như tất cả bài viết của bà đều bị thiên kiến chính trị làm sai lệch. Bà vẫn sử dụng “phản ánh luận” (phê bình Marxist) để xem xét ý nghĩa xã hội học nhiều hơn khám phá cá tính sáng tạo. Điều này thật đáng tiếc. Bài viết về Thi pháp Nguyễn Tuân là một thí dụ. [4]

Căn cứ vào những bài viết và công trình biên khảo của Thụy Khuê công bố trên trang blog cá nhân (http://thuykhue.free.fr) như các tập sách: Cấu trúc thơ (1995), Sóng từ trường I (1998), II (2002), III (2005), tôi nhận thấy Thụy Khuê đã viết về nhiều thế hệ tác giả trong một giai đoạn khá dài của lịch sử văn học Việt Nam:

Các tác giả trước 1945: Hồ Biểu Chánh, Phan Khôi, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Bích Khê, TTKH, Nguyễn Tuân, Nguyễn Xuân Sanh, Hồ Dếnh, Nguyễn Đình Thi…

Các tác giả miền Nam (1954-1975): Nhóm Sáng Tạo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nhật Tiến, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Bình Nguyên Lộc, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Mai Thảo, Kiệt Tấn, Du Tử Lê, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh và Hai mươi lăm năm văn học Việt Nam hải ngoại 1975-2000

Các tác giả miền Bắc: Nguyễn Huy Tưởng, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Dương Hướng, Võ Thị Hảo, Bùi Hoằng Vị, Nguyễn Huy Thiệp, Bùi Ngọc Tấn, Tạ Duy Anh, Nguyễn Quang lập.

Các tác giả đương đại trong nước: Nguyễn Bình Phương, Vy Thùy Linh, Lynh Bacardi, Nguyễn Ngọc Tư, Ly Hoàng Ly, Đỗ Hoàng Diệu…

Trong việc chọn đề tài, có lẽ do sở thích riêng, hay do góc nhìn, cũng có thể do thiên kiến chính trị, Thụy Khuê đã không viết về các tác giả của văn học cách mạng trong nước thời kháng chiến chống Pháp (Nguyên Ngọc, Chính Hữu, Hồng Nguyên…), kháng chiến chống Mỹ (Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Thi, Anh Đức, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Xuân Quỳnh, Lê Anh Xuân,…). Ngay cả những tác giả trước 1945, như Chế Lan Viên, Nam Cao hay Nguyễn Hồng… hay tác giả miền Nam như Chu Tử, Duyên Anh,… bà cũng không viết về họ.

Thực ra, mỗi nhà phê bình có một vùng văn học riêng mà mình quan tâm. Nỗ lực của Thụy Khuê thật đáng trân trọng. Đó là tiếng nói có ý thức của người đương thời về nền văn học đang diễn ra. Đó cũng là tấm lòng với văn chương Việt Nam. Thụy Khuê là một nhà phê bình chuyện nghiệp đồng thời là một nhà biên khảo vì thế trang viết có nhiều giá trị đối với đồng bào Việt Nam ở hải ngoại. Trang viết của bà là những đường dẫn (link) có ích cho các nhà nghiên cứu về văn chương Việt Nam sau này. Dù vậy, với cách viết cảm tính, chủ quan, bài viết của bà không tránh khỏi những giới hạn.

Trả lời phỏng vấn Du Tử Lê, Thụy Khuê nói: khi đọc một tác phẩm, trước tiên tác phẩm đó phải đi thẳng vào con tim của mình, mình phải cảm nó, thích nó trước, mình tìm thấy được cái hay của nó, mình diễn tả được cái hay cho độc giả. Sau đó mình mới dùng đến lý thuyết văn học.” Nhờ trực giác và kinh nghiệm đọc, Thụy Khuê cũng có những khám phá nhất định về tác giả tác phẩm nào đó.

Xin đọc một đoạn Thụy Khuê “tán” thơ Thanh Tâm Tuyền:

Ở đây tôi là vị hoàng đế đầy đủ

            quyền uy. Bởi vì người vào

            trong đất đai của tôi

            người hoàn toàn tự do.

            để cai trị tôi có những luật lệ

            tinh thần mà người phải thần

            phục nếu người muốn nhập

            lãnh thổ.

            người hoàn toàn tự do

            và có thể ném cuốn sách qua cửa sổ.

(Tôi không còn cô độc, lời mở đầu)

“Tuy nhiên, nếu nhìn sâu hơn, thì không hẳn thế: đây là một tuyên ngôn nói lên tính cách tương phản trong tâm hồn Thanh Tâm Tuyền và cũng là cái tương phản chung của cả một thế hệ, một dân tộc: chưa thật hiểu thế nào là tự do.

Sống trong đất đai của tôi, anh phải thần phục, nếu không, mời anh đi chơi chỗ khác. Tức là cái tự do của anh sẽ mất trong phần đất của tôi. Từ suy nghĩ đó mà miền Bắc chủ trương “giải phóng” miền Nam bằng toàn khối độc tài cộng sản. Và miền Nam chủ trương tiêu diệt cộng sản độc tài, tranh đấu cho “tự do” trong một “Thế giới Tự do” với súng đạn và quân đội Mỹ”…

…Vì thế, mặc dù nó có những sai lầm nghiêm trọng trong việc hiểu hai chữ tự do của tác giả, Tôi không còn cô độc vẫn là một tác phẩm quan trọng, biểu dương sự ấu trĩ tư tưởng của người Việt, dẫn đến cuộc  chiến đẫm máu 20 năm.”

Tập thơ Tôi không còn cô độc của Thanh Tâm Tuyền xuất hiện cùng với nhóm Sáng Tạo tháng 10. 1956, lúc ấy làm gì đã có “giải phóng miền nam”, và miền Nam làm gì đã có súng đạn và quân đội Mỹ. “Tán” thơ Thanh Tâm Tuyền như thế, chính là sự xuyên tạc ý nghĩa văn bản. Thụy Khuê còn nâng tầm áp đặt cho cả tập thơ: “Tôi không còn cô độc vẫn là một tác phẩm quan trọng, biểu dương sự ấu trĩ tư tưởng của người Việt, dẫn đến cuộc chiến đẫm máu 20 năm”. Đơn giản, ý nghĩa đoạn thơ chỉ là tuyên ngôn thơ của riêng Thanh Tâm Tuyền mà thôi, không hề có ý nghĩa chính trị như Thụy Khuê bị “ám ảnh”.

Đoạn giảng thơ sau đây, Thụy Khuê tỏ ra không có khả năng đọc hiểu thơ Bùi Giáng:

Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
  Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa
  Gọi tên là một hai ba
  Ðếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm

Bốn câu tự họa trên đây dường như đã gói trọn bản chất thơ ca và tư tưởng Bùi Giáng. Một bản chất đa mang nỗi hiện sinh hoang tưởng trong một “đạo khờ” gắn bó với đoạn trường tái tân thanh (chữ của Bùi Giáng) tiếp nhận Nguyễn Du như một thông đạo, thông thư, thông mệnh văn học.”

Đây không phải là bốn câu thơ Bùi Giáng tự họa, mà là lời Bùi Giáng từ chối nói về mình. Ông dùng cách nói”vô ngôn” của Thiền. Ông không có tên, không có quê (nhại câu thơ Nguyễn Du viết về Mã Giám Sinh), ông hành Thiền bằng cách sống lang thang, ngao du. Xin đừng nghĩ về ông bằng “nghi tâm”(Tâm sai biệt), bằng sự cân đong, đo đếm “một, hai ba”. Hãy nhìn ông bằng cái Tâm Không (Tâm Bát Nhã) thì sẽ hiểu ông. Thụy Khuê đã không nhận ra Thiền tính của Bùi Giáng mà gán cho ông “bản chất đa mang nỗi hiện sinh hoang tưởng”.

Thụy Khuê thú nhận sự bất lực của mình khi đọc thơ Thanh Tâm Tuyền: “Nhưng tất cả chỉ là ảo tưởng về một sự đọc, một sự hiểu; bởi thơ Thanh Tâm Tuyền có nhiều cách đọc, mỗi cách mở ra một cánh cửa, một sáng tác, một khám phá. Phải để cho âm thanh và hình ảnh cuốn đi, đừng tìm hiểu, cứ trôi trong tình trạng loạn thần như người thơ, vào thế giới u uất của người thơ, một thế giới vô thức, chụp lại bằng con mắt điên loạn của ý thức”

Hóa ra trong con mắt Thụy Khuê, Thanh Tâm Tuyền là người thơ trong tình trạng loạn thần, làm thơ bằngý thức điên loạn. Thanh Tâm Tuyền đáng thương quá! Đâu còn là nhà thơ miền Nam đã góp phần cách tân thơ Việt sau Thơ Mới (trước 1945). Thụy Khuê cũng không biết gì về hành trình một đời thơ của Thanh Tâm Tuyền, từ trước 1975 đến những bài thơ ông làm trong thời gian cải tạo và thái độ sống im lặng của Thanh Tâm Tuyền khi sang Mỹ, để từ đó có cái nhìn toàn diện về nhà thơ này.

Viết về Nguyễn Ngọc Tư, Thụy Khuê khám phá ngôn ngữ nam bộ của nhà văn này và cho đó là một ưu điểm. Nhưng khi Nguyễn Ngọc Tư viết Cánh đồng bất tận, Thụy Khuê cho rằng kiểu ngôn ngữ của Nguyễn Ngọc Tư đã khác, đó là điều đáng tiếc:[6] Trong Cánh đồng bất tận Nguyễn Ngọc Tư đã tìm một lối viết khác, như để đoạn tuyệt với lối cũ:

Về mặt bút pháp, trong những trang đầu, chị đã bỏ giọng kể đặc biệt theo lối Nam, đây cũng là một cố gắng khác của chị, nhưng cố gắng này có đôi điều cần bàn lại, vì nó gây thương hại đến nghệ thuật của tác phẩm.”; “Khi Ngọc Tư biến giọng kể của một cô gái miệt vườn thành một giọng lơ lớ thành thị, lơ lớ Bắc, thì chị đã làm nhạt không khí truyện, khiến người đọc bị lạc. Một mất mát đáng tiếc, có thể tránh được”; “Nhưng oái oăm là với cái giọng mới này, Ngọc Tư chinh phục được nhiều độc giả Bắc, phần đông thích đọc giọng chuẩn hơn giọng miền, và đó là lý do khiến cho Cánh đồng bất tận trở thành tác phẩm được đọc, được mến mộ nhất trong năm qua”.

Điều mà Thụy Khuê chê Nguyễn Ngọc Tư và lên tiếng dạy bảo nhà văn này lại làm cho Cánh đồng bất tận trở thành tác phẩm được đọc, được mến mộ nhất trong năm qua”. Đó là điều “oái oăm” mà Thụy Khuê không thể lý giải. Tôi nghĩ rằng Thụy Khuê đã bị mắc kẹt trong những định kiến văn học khi viết phê bình bằng cảm tính mà không khám phá cá tính sang tạo của nhà văn bằng những phương pháp phê bình đương đại.

Vẫn một giọng dạy bảo nhà văn trẻ, Thụy Khuê đã viết về thơ Ly Hoàng Ly như thế này: bài Cắt, trong bài này, Ly mới chỉ thành công một nửa, bởi ý thì rất hay, nhưng chữ chưa thuần thục… hai câu đầu: Cắt đêm ra từng mảnh nhỏ/ Rồi khâu đêm lại bằng tóc. Thử bớt đi những chữ: ra, nhỏ, rồi, lại, câu thơ sẽ bớt rườm hơn và đa nghiã hơn: Cắt đêm từng mảnh/ Khâu đêm bằng tóc”[7]

Tôi đã định viết thêm về những bài phê bình của Thụy Khuê, nhưng nghĩ rằng, hầu hết các tác giả Thụy Khuê viết, đã có nhiều người viết. Hơn nữa phê bình của Thụy Khuê không dựa trên một lý thuyết phê bình nào (tuy đôi khi có thấp thoáng bóng dáng thi pháp học, phân tâm học), lại bị chi phối bởi thiên kiến chính trị, vì thế không đem đến những giá trị học thuật đích thực (như đánh giá về Thanh Tâm Tuyền hay Nguyễn Ngọc Tư ở trên chẳng hạn) [8]. Và tôi đã không khỏi buồn cười, ngán ngẩm cho sự ấu trĩ chính trị của Thụy Khuê khi bà hăng hái in tập “Tiểu thuyết vô đề” của Dương Thu Hương cùng với lời giới thiệu hết sức trịnh trọng [5]. Nhưng Thụy Khuê đã bị Dương Thu Hương đáp trả “bằng một cái tát” thẳng tay trong Tự Bạch. Sau đó Thụy Khuê phải nhận trách nhiệm: Trách nhiệm và thương tổn. Tôi nhận. Nếu tôi có sai lầm trong sự nhiệt tình thì tôi đã được trả giá đúng mức.

NGUYỄN VY KHANH – PHÊ BÌNH VIẾT VĂN HỌC SỬ

NguyỄn Vy Khanh sinh năm 1951 tại Quảng Bình. Tốt nghiệp cử nhân giáo khoa Triết Tây tại đại học Sài Gòn (1973), Cao học Triết Tây (1975), Thủ khoa Sư phạm Việt Hán (1974).  Tốt nghiệp Cao học Quản trị Thư viện tại đại học Montréal năm 1978. Hiện sống và làm việc ở Montréal và Quebec City (Canada). Ông làm việc 8 năm ở thư viện Quốc hội, sau đó ở bộ Giao Thông. Nghề gốc là thủ thư.

Tôi ghi những dòng này về tiểu sử Nguyễn Vy Khanh vì nó có ảnh hưởng đến trang văn của ông. Ông là một tác giả hải ngoại nên không thể hiểu tường tận văn học trong nước. Ông học Triết nên khuynh hướng viết phê bình của ông thiên về tìm hiểu tư tưởng. Nhưng trước hết ông là một nhà biên khảo. Năm 2016 ông in cuốn Văn học miền nam 1954-1975. Theo Trần Văn Nam [9], cuốn sách đồ sộ này có độ dày hơn 1530 trang:

“Đọc trọn vẹn Quyển Thượng của bộ sách biên khảo đồ sộ này, có một điều độc giả dễ nhận ra hơn hết: Tác giả Nguyễn Vy Khanh biết rất nhiều tư liệu và đề cập khá dồi dào về nhóm Hành Trình, nhóm Trình Bầy,nhóm Tinh Việt Văn đoàn, các nhà văn Công Giáo (có vài vị xem như Thiên Tả); và các giáo sư viết sách cho đến nay được coi là học giả về Triết học Hiện Sinh như Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm; các giáo sư Đại học Văn Khoa xuất thân từ các trường đại học ở Âu Tây như Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Nam Châu; Lê Thành Trị, Bùi Xuân Bào, Nguyễn Khắc Hoạch, Thanh Lãng…

 Nói như vậy, nhưng trong sách của Nguyễn Vy Khanh cũng dồi dào phần đề cập đến các nhà văn nhà thơ, các nhà biên khảo, các tập san, một thời nổi tiếng như Tuệ Sỹ, Nhất Hạnh, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh, Tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ của nhà xuất bản An Tiêm; các sách biên khảo của nhà xuất bản Lá Bối. Dồi dào kiến thức phía Công Giáo xem như Thiên Tả trong sách của Nguyễn Vy Khanh, nhiều chi tiết mà trước đây người viết bài này chỉ thoáng biết mơ hồ như Tạp chí Đất Nước, Tạp chí Hành Trình của nhà xuất bản Nam Sơn; hoặc Tạp chí Trình Bầy gồm những ai điều hành và cộng tác. Các sách biên khảo Văn Học Miền Nam khác mà người viết bài này từng đọc qua, thấy không đầy đủ điều cần muốn biết về các Tạp chí thuộc khuynh hướng Dấn Thân. Đây là điều rõ nét riêng trong sách này, còn về những vấn đề thuộc Văn học Miền Nam khác thì dĩ nhiên phải dồi dào trong bộ sách…”

Trần Văn Nam cho biết Nguyễn Vy Khanh “muốn tác phẩm này là một tài liệu tham khảo cần thiết về mọi khía cạnh làm nên Văn học Miền Nam, gồm có đủ mọi ngành có liên hệ đã hình thành một nền Văn học phong phú do nằm lọt vào thời kỳ xảy ra cuộc chiến tranh lớn giữa hai ý thức hệ.”.

Tôi chưa được đọc trực tiếp cuốn sách này nên không thể có ý kiến gì, nhưng có thể ghi nhận nỗ lực rất lớn của Nguyễn Vy Khánh đối với văn học Miền Nam 1954-1975. Như vậy, cùng với bộ Văn Học Miền Nam gồm 7 tập của Võ Phiến, Nguyễn Vy Khanh đã cung cấp cho người đọc một khối tài liệu đồ sộ và đáng tin cậy về văn học Miền Nam từ năm 1954 đến 1975 như ông mong muốn.

Nhìn trong dòng chảy văn chương dân tộc, Văn học miền Nam 1954-1975 là một bộ phận quan trọng trong tiến trình phát triển văn học thế kỷ XX. Ngày nay khi viết về văn học miền Nam trước 1975, nhà nghiên cứu cần đứng trên lập trường dân tộc, với quan điểm lịch sử cụ thể và phương pháp nghiên cứu khoa học thì cái nhìn mới không thiên lệch và kết quả nghiên cứu mới có giá trị. Rất tiếc Trần Vy Khanh vẫn bị thiên kiến chính trị chi phối, dù có lúc ông đã bình tâm hơn. Bài “Tương lai của văn chương Việt Nam” (2010) thể hiện rõ thiên kiến trị khi nhìn nhận vấn đề.[10]

Tôi không viết về các công trình văn học sử của Nguyễn Vy Khanh mà chú ý đến nhà phê bình văn học Nguyễn Vy Khanh. Nguyễn Vy Khanh dám nói thẳng những vấn đề liên quan đến phê bình văn học hải ngoại. Trong bài trả lời phỏng vấn Nguyệt san văn hóa Hồn Quê (2003), ông cho biết:

“…văn học hải ngoại sau hơn 27 năm, tôi thấy ngày càng phong phú, đa dạng, phương tiện in ấn dễ dàng khiến công việc viết và xuất bản cũng dễ hơn, dân chủ hơn. Nhưng tác giả đúng nghĩa thì ngày càng hiếm hơn, tác phẩm lớn thì còn hiếm hơn nữa. Gần đây tôi có hai bài viết sẽ đi trên Hồn Quê, Chủ Đề và Hợp Lưu có ghi lại một số nhận xét này của tôi và về phía thơ thôi. Có thể tôi hơi lý tưởng, nhưng tôi nhận thấy những người làm văn học vì văn học rất ít, ngay cả các tạp chí văn học được xem là tiêu biểu, quí ngài chủ trương hay chủ bút có những thái quá hoặc thiển cận, nhỏ mọn, tính yêu sự thật và tư cách văn hóa cũng khả nghi. Người viết hoặc cộng tác ít được tôn trọng, thường thì trở thành nạn nhân của chính hobby này. Trong không khí đó, không thể có đối thoại, trao đổi dân chủ, thẳng thắn và có văn hóa được. Muốn có bài được đăng nếu không cùng phe thì phải mua báo, tặng quà rồi phải nhắc tên vợ chồng chủ báo, quê hương của họ hay bạn bè họ, hoặc tâng bốc những gì họ viết. Còn nếu nói thật, ngay cả theo lời yêu cầu của chính họ, thì sẽ bị tẩy chay và không bao giờ còn được họ nhắc đến, ngay cả việc bày ra trò chơi thảo luận mới với những người y chang họ (semblables!)!

“…Phê bình đối với một số người trở thành chụp mũ, bôi xấu, thí dụ những vụ xào xáo Văn Bút Hải Ngoại, Nguyễn Ngọc Ngạn, Nhật Tiến, v.v. Riêng cá nhân tôi, có thể tôi xưa hoặc quá nguyên tắc, nhưng đối với tôi, con người văn nghệ sĩ phải có tư cách. Một nhà thơ có thể rượu chè, đời sống không giống ai nhưng tôi khó chấp nhận chung chiếu nhà thơ những kẻ vừa làm thơ ca tụng cuộc đời vừa làm “đặc công” chuyên phá hoại cộng đồng, tập thể, làm ung thối mọi sinh hoạt chung! Cũng vậy, một trí thức (tự xưng) theo thời, hoạt đầu chính trị, không thể là một nhà văn đúng nghĩa, theo ý tôi! v.v..”

“…Đến nay tôi vẫn đã chỉ có những đóng góp rất nhỏ, tôi luôn khởi đi từ nguyên tắc đi tìm chân – thiện – mỹ, đem áp dụng cho việc học, làm việc chuyên môn kiếm sống cũng như cho việc nghiên cứu nghiệp dư, trong thực tế dĩ nhiên tôi đã phải gặp một số phản ứng phần lớn bất ngờ dù khi viết ra đã tiên đoán được phần nào [11]

Đọc những đoạn văn trên, người đọc có thể hiểu khó khăn của nhà phê bình như thế nào, và hơn thế hiểu được tính cách của nhà phê bình Nguyễn Vy Khanh. Trong phê bình văn học, Nguyễn Vy Khanh sử dụng phương pháp làm việc của một nhà nghiên cứu. Ông đi từ những tác phẩm cụ thể, sau đó khái quát về tác giả, so sánh với các tác giả khác đồng thời đối chiếu với tiểu sử tác giả để lý giải, nhờ thế ông có những nhận định sâu sắc và đáng tin cậy, cung cấp cho người đọc lượng thông tin thú vị và bổ ích về đề tài ông viết.

Thí dụ, viết về Dương Nghiễm Mậu, ông đã đọc các tác phẩm: Niềm Đau Nhức Của Khoảng Trống, Bồn Cát Tuổi Thơ, Tiếng Động Trên Da Thú, Làm Thân Con Gái, Gia Tài Người Mẹ (1963) Tuổi Nước Độc (1965), Đêm Tóc Rối (1966) Phấn Đấu (1966) Nhan Sắc (1966) Từ Hải Và Cuộc Phiêu Lưu Của Đời Chàng, Ngày Lạ Mặt (1967), Con Sâu (1971) [12] từ đó đi đến nhận định: “Dương Nghiễm Mậu đã tạo được một thế giới, một không khí riêng: những độc thoại như không ngừng, những sinh lão bệnh tử bất hạnh dồn dập đến, những gia tài cuối cùng chẳng có, những nhận diện khó khăn và đưa đến thất vọng khác, ý dục có mà vật dục cũng đày dẫy”, và ông kết luận: “Dương Nghiễm Mậu thuộc những nhà văn hậu chiến ở miền Nam cổ võ một nền “văn nghệ mới”, nhưng với một triết lý hiện sinh đen, bi-đát thời thượng, hoang mang mất niềm tin ở một di sản hơn là mất tin tưởng ở một chế độ, mất niềm tin ở con người nói chung hơn là con người ở vùng đất mới” ”[12 đd].

Chỉ tiếc rằng Nguyễn Vy Khanh đã không phân tích sâu tư tưởng hiện sinh trong truyện Dương Nghiễm Mậu (để so sánh với J.P.Sartre, A. Camus…), và không đọc được cách miêu tả Hiện tượng luận trong những trang văn đầy ám ảnh của Dương Nghiễm Mậu. Vì thế, Nguyễn Vy Khanh đã không nhìn ra những đóng góp tư tưởng và nghệ thuật của Dương Nghiễm Mậu với văn chương Việt Nam đương đại. Những truyện hiện sinh của Nguyễn Huy Thiệp sau này còn đi sau rất xa so với Dương Nghiễm Mậu. Có lẽ, không phải tình cờ, trong nước cho in lại các tập truyện của nhà văn họ Dương.

Tôi đã đọc các bài phê bình của Nguyễn Vy khanh viết về Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Nguyễn Huy Thiệp, Thơ hôm nay, Tương lai của văn chương Việt Nam [13]…Nguyễn Vy Khanh hiện lên như một nhà nghiên cứu viết phê bình. Ông say mê văn chương và có tấm lòng với văn chương dân tộc. Ông làm việc nghiêm cẩn và có nhiều phát hiện sâu sắc thú vị. Có lẽ gốc của ông là dân Triết nên ông thường nghiêng về tìm hiểu tư tưởng. Ông cho rằng Bùi Giáng là người: “đến bên bờ vực của Hư Vô – một ngã ba tâm thức, một tuyệt vọng tư tưởng, một hoài nghi biện chứng”; Tô Thùy Yên đã dừng lại ở bờ vực hư vô!”.

Đây là đoạn Nguyễn Vy Khanh bình thơ Bùi Giáng: Ông diễn giải ý thơ theo cảm tính chủ quan trước, rồi chứng minh bằng thơ (đây là cách viết áp đặt, không phải là cách đọc văn bản):

“Ông làm người tiều phu lạc lối bên ngã ba đường rừng lý luận bằng hư vô, có khi tìm ra được tới bìa rừng lại “sa mù chiếu cố” nên vô lại rừng, ngơ ngác nhìn cõi hữu thể ông không thể hiểu. Vô núi đọc sách và làm Trung-Niên Thy-Sỹ luôn lơ đễnh “nhìn một nẻo mà thấy ra một ngã ba”, rồi “một hôm đếm một ra ba / Thật là lạ lắm ấy là cái chi” Phải chăng là một tổng hợp mới, một một-mà-ba ba-mà-một? 

Hoặc rằng người cũng là tôi

Hay là tôi cũng là tôi như người

Ấy rằng tinh thể đười ươi

Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và

Ấy rằng một cũng là ba

Là hai mai một mốt là hôm nay”

Đọan thơ này xác định sự chứng ngộ Thiền của Bùi Giáng. Bùi Giáng không “lạc lối bên ngã ba đường rừng lý luận bằng hư vô”, ông cũng không làm “một tổng hợp mới, một một-mà-ba, ba-mà-một?”. Người là tôi, tôi như người vì cùng tinh thể (Phật tánh) [8a]. Khi không còn cái Tâm sai biệt, tức là nhìn vạn pháp một cách nhị nguyên, tách biệt thành “một, hai, ba”, khi thời gian “hôm nay, mai, mốt” cũng là Một, nói cách khác khi thời gian và không gian trở thành nhất thể, trong vạn pháp cùng một Phật tánh, thì đó là cảnh giới chứng ngộ của Bùi Giáng. Bùi Giáng dùng trò chơi chữ, xáo trộn trật tự từ, xen lẫn từ thuần Việt và Hán việt, tung tẩy các từ nối (hay là, và tươi vui và) làm lạc hướng đọc theo logic lý trí, từ đó diễn đạt tư tưởng Thiền. Giọng của Bùi Giáng là giọng bông đùa, của một người đã vượt qua thực tại nhị nguyên. Bùi Giáng đâu có “lạc lối bên ngã ba đường tư tưởng” như Nguyễn Vy Khanh gán cho ông.

Đoạn bình thơ Bùi Giáng trên lộ ra hạn chế trong năn lực đọc tác phẩm văn học của Nguyễn Vy Khanh. Tôi không thấy Nguyễn Vy Khanh thủ đắc một lý thuyết văn học hay lý thuyết phê bình văn học nào cụ thể trong các bài viết của ông, và có lẽ điều đó ngăn trở ông tiếp cận sâu sắc tác phẩm. Nếu ông vận dụng cách đọc Hiện tượng luận và lối miêu tả “dòng ý thức” của văn chương Hiện sinh để đọc Dương Nghiễm Mậu, có lẽ ông đã nhìn thấy vấn đề khác hơn. Nếu ông hiểu cách nói vô ngôn và mỹ học Thiền, ông sẽ phát hiện ra một Bùi Giáng khác với những gì ông đã viết. Nếu ông đọc bằng lý thuyết Cấu trúc và Giải Cấu trúc, ông sẽ nhận ra thơ Du Tử Lê và Nguyễn Sa là thơ cũ, vẫn nằm trong giòng Thơ Mới giai đoạn (1930-1945).

Vì thiếu nền tảng lý thuyết văn học, nên việc lập luận của ông không có cơ sở. Xin đọc một đoạn ông “lý luận” về thơ. Thú thực là tôi không hiểu ông muốn nói gì:

Vũ trụ thơ là một vũ trụ con chữ, xử dụng với mỹ học khiến thơ hay. Ngôn ngữ có những ký hiệu ước định của nó. Có ngôn ngữ mới có văn chương, nhờ hư cấu, sáng tạo mà ngôn ngữ trở nên văn chương và ngôn ngữ đó đến được với người khác, với ký hiệu ước định của ngôn ngữ thơ! Thật vậy, tổ chức ngôn ngữ tạo nên thi-tính, tức, thơ có cách tổ chức ngôn ngữ riêng. Thơ cũ được tổ chức để dễ nhớ, thơ mới không hẳn vậy, vì chỉ cốt tạo ấn tượng cho hợp mỹ học thời đại. Dù sao thì ngôn ngữ thi ca phải/nên mang chức năng thi pháp!”[13d]

Có nhiều thuật ngữ được dùng lộn xộn, vô nghĩa trong đoạn văn này: Trong câu “vũ trụ con chữ, xử dụng với mỹ học khiến thơ hay”, mỹ học là gì và thế nào là thơ hay? Vì sao con chữ xử dụng với mỹ học lại khiến thơ hay? Thực ra Ký hiệu học đã xem xét tính ký hiệu của ngôn ngữ, không phải “Ngôn ngữ có những ký hiệu ước định”, mà ngôn ngữ là ký hiệu. Nguyễn Vy Khanh không xác lập “thơ cũ” là thơ nào, “thơ mới” là thơ nào và “mỹ học thời đại” là mỹ học gì? Khi Nguyễn Vy Khanh viết: “Dù sao thì ngôn ngữ thi ca phải/ nên mang chức năng thi pháp!” thì tôi không rõ ông có đọc Thi pháp học và lý luận về Thi pháp của trường phái Hình Thức Nga hay không? Đoạn văn hoàn toàn thiếu tri thức khoa học cần thiết, vì thế lý luận trở nên chông chênh!

Tôi có cảm tưởng rằng ông chưa nghiên cứu Mỹ học, chưa nghiên cứu các lý thuyết văn học và lý thuyết phê bình văn học, vì thế lý luận đối với ông là điều vượt quá sức mình! Người đọc chắc chắn không hiểu ông muốn nói gì trong đoạn lý luận trên, ấy còn là lỗi về diễn dạt câu chữ…Khi ông đem vốn lý luận này vào viết những đề tài cần đến lý luận, bài viết của ông thiếu tính thuyết phục và cách viết của ông tỏ ra lúng túng.

Thí dụ, trong bài Thơ hôm nay, ông không xác lập được “cách tân” thơ là gì. Ông lẫn lộn cách tân với canh tân. Bài viết không nhất quán về nội dung, phương pháp nghiên cứu, càng thiếu phương pháp luận nghiên cứu vấn đề. Phần đầu bài viết ông cho rằng cách tân thơ là thay đổi hình thức câu chữ, phần sau ông lại cho rằng nội dung sex, đồng tính là cách tân… Nguyễn Vy Khanh đã không triển khai vấn đề theo dòng lịch sử thi ca, để thấy thơ Việt có những cách tân như thế nào, ở giai đọan nào? Ông cũng không hiểu cách tân thơ trước hết là cách tân tư duy nghệ thuật thơ, thí dụ, thơ Việt từ kiểu tư duy nghệ thuật thơ Đường, chuyển sang mỹ học thơ Lãng mạn, rồi chủ nghĩa Siêu thực, [chủ nghĩa] Hậu hiện đại. Cách tân không phải là cắt nát câu, chữ, vần điệu như kiểu thơ Du Tử Lê, hay thay đổi cách ngắt nhịp của thơ Lục bát…

Có lẽ vì thế ông đã không nhận ra Thanh Tâm Tuyền là người góp phần cách tân thơ Việt những năm 1960 trong cách viết dòng ý thức. Thơ Thanh tâm Tuyền là “dòng ý thức” của chủ thể hiện sinh, khác với Thơ Mới (Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính…) thơ là “dòng tâm trạng” của nhân vật trữ tình. Xin thử so sánh bài Tĩnh vật của Thanh Tâm Tuyền với bài Tương tư chiều của Xuân Diệu, hay Tương tư của Nguyễn Bính. Thơ Du Tử Lê và thơ Nguyễn Sa là dòng tâm trạng như thơ Xuân Diệu. Các nhà phê bình đề cao thơ Thanh Tâm Tuyền là đề cao sự cách tân này.

NGUYỄN HƯNG QUỐC – NHÀ PHÊ BÌNH THƠ CON CÓC

 Tôi gọi Nguyễn Hưng Quốc là Nhà phê bình thơ con cóc vì ông “nổi tiếng” với bài viết bình “Thơ con cóc”.

Con cóc trong hang

Con cóc nhảy ra

Con cóc nhảy ra

Con cóc ngồi đó

Con cóc ngồi đó

Con cóc nhảy đi

Lê Thành Tâm cho biết: Trong cuốn Ba Mươi Nam Vãn Học Nghệ Thuật của Người Việt ở Úc của Ngô Lâm (2005), trang 146 ghi như sau: Nguyễn Hưng Quốc, tên thật là Nguyễn Ngọc Tuấn, sinh ngày 29 tháng 10 nãm 1957 tại Quảng Nam, tốt nghiệp Văn khoa trường Ðại học sư phạm tại Việt Nam và tiến sĩ văn học tại Úc“. Nguyễn Hưng Quốc vượt biên đến Nam Dương năm 1985 và định cư ở Pháp [14]. Trang tienve.org giới thiệu: Nguyễn Hưng Quốc là nhà phê bình văn học, chủ bút tạp chí Việt (1998-2001), đồng chủ bút trang Tiền Vệ (2002~); dạy các môn ngôn ngữ, văn học, văn hoá, và chiến tranh Việt Nam, tại đại học Victoria University, Úc. Ông đã in nhiều tác phẩm như: Tìm hiểu nghệ thuật thơ Việt Nam  (Quê Mẹ, Paris, 1988). Nghĩ về thơ (Văn Nghệ, California, 1989). Võ Phiến (Văn Nghệ, California, 1996). Thơ, v.v… và v.v… (Văn Nghệ, California, 1996). Văn học Việt Nam từ điểm nhìn h(ậu h)iện đại (Văn Nghệ, California, 2000). Văn hoá văn chương Việt Nam (Văn Mới, California, 2002). Sống với chữ (Văn Mới, California, 2004). Thơ Con Cóc và những vấn đề khác (Văn Mới, California, 2006). Mấy vấn đề phê bình và lý thuyết văn học (Văn Mới, California, 2007). Socialist Realism in Vietnamese Literature (VDM, Germany, 2008).

Bình bài “Thơ con cóc”, dường như Nguyễn Hưng Quốc đã vận dụng tất cả vốn liếng lý thuyết văn học, tri thức văn chương và năng lưc lý luận của một Tiến sĩ dạy tiếng Việt ở Đại học Victoria, Úc, để chứng minh cho được bài “thơ con cóc” là “bài thơ” hay. Ông viết với một niềm say mê, một niềm xác tín như thật, rằng mình vừa khám phá ra điều mới lạ về mỹ học và muốn chia sẻ hạnh phúc với mọi người, thậm chí ông muốn thay đổi cả nền mỹ học truyền thống. Văn phê bình của ông có chất tài hoa, lập luận mê hoặc, và không dễ phản biện. Diễn ngôn của ông như thật, như đùa. Tin rằng ông nói thật thì sẽ bị ông cười vào mũi cho. Ôi! những kẻ dốt nát! Mà không tin những gì ông diễn giải thì cứ thử phản biện xem. Ông thách đấy! Hì hì! Đây là một nhà phê bình mà thế mạnh là biết vận dụng các lý thuyết văn học để giải quyết vấn đề, sức mạnh của sự lừa mị xuất phát từ ảo thuật ngôn ngữ.

Đây là đoạn “giáo tuồng” rất mủi lòng của bài bình “thơ con cóc”. Sự uốn éo chữ nghĩa đạt đến độ “tài hoa”:

 “Đâu phải tôi không biết đó là một bài thơ dở, cực kỳ dở, hơn nữa, với người Việt Nam, còn là điển hình của cái dở nói chung”. Nhưng rồi ông bộc bạch lòng mình: “Tôi mơ hồ cảm thấy bài ‘Thơ con cóc’ đã nói hộ giùm tôi bao nhiêu niềm u uẩn, cứ day dứt trong lòng. Những nỗi niềm ấy nhoi nhói đòi phát ngôn, đòi tìm tri âm mới”. Kết quả là một khám phá bất ngờ: “Từ sự cảm nhận mơ hồ này, dần dần, tôi khám phá ra một điều, là, trái hẳn những định kiến quen thuộc của chúng ta lâu nay, bài ‘Thơ con cóc’ không chừng là một bài thơ hay.” Rồi ông kéo tất cả mọi người Việt Nam về phía mình làm đồng minh: “Mà đâu chỉ có một mình tôi nhận ra điều đó. Dường như, tự thâm tâm và một cách thiếu tự giác, rất nhiều, nếu không nói là hầu hết người Việt Nam đều công nhận như thế”. Trong cách thể hiện, ông “vơ vào” tất cả, ông đồng hóa mình với “chúng ta”, tự cho mình quyền phát ngôn thay “chúng ta” (đó là một cách ăn gian). Cần nói rõ là, bài viết chỉ là cảm quan của riêng ông.

Sau đó ông dùng lý luận văn học đi sâu vào “tác phẩm”. Ngoài lý thuyết về điển hình cùa “Engels và sau đó, giới nghiên cứu văn học mác xít mượn lại”, ông còn dùng cả Phân tâm học. ông viết:

Về phương diện giá trị điển hình, hình tượng con cóc không hề thua kém hình tượng Sở Khanh, Xuân tóc đỏ hay Thị Nở. Về phương diện sức sống, nó cũng đã vượt qua bao nhiêu thử thách, từ đời này qua đời khác, cứ tồn tại hoài. Không ngoa chút nào nếu gọi ‘Thơ con cóc’ theo cách nói quen thuộc đã thành sáo ngữ của chúng ta là bài thơ ‘vượt thời gian’… Như vậy, có thể nói, qua việc nhớ bài ‘Thơ con cóc’, việc coi ‘Thơ con cóc’ như là một điển hình của cái dở, từ trong vô thức, chúng ta đã thừa nhận giá trị của nó, đã linh cảm được đó là một bài thơ hay.”

Nguyễn Hưng Quốc tiếp tục “thổi phồng” lý luận về “thơ con cóc”: “Song có lẽ vì cái hay của nó quá lạ, khác hẳn những cái hay chúng ta quen thưởng thức, cho nên lý trí chúng ta tự nhiên đâm ngờ vực, cuối cùng, lý trí thắng thế: bài thơ bị liệt vào loại dở. Sự hàm oan của bài ‘Thơ con cóc’, do đó, gắn liền với sự hàm oan của một quan điểm thẩm mỹ. Khôi phục giá trị của bài ‘Thơ con cóc’ cũng có nghĩa là đặt thành nghi vấn đối với những quan điểm thẩm mỹ quen thuộc, đang giữ vai trò thống trị trong sinh hoạt văn học nghệ thuật lâu nay.

Rồi ông luận về cái hay của bài thơ. Rằng bài “thơ con cóc” là bài thơ hay nhất “trong tất cả những bài thơ miêu tả cái dở, cái kém nghệ thuật và kém thẩm mỹ. Ở mức độ nào đó, có thể coi ‘Thơ con cóc’ cũng tương tự bức chân dung Thị Nở của Nam Cao. Nếu Thị Nở là điển hình của cái Xấu, ‘Thơ con cóc‘ sẽ là điển hình của cái Dở. Chỉ riêng ở khía cạnh này, ‘Thơ con cóc’ đã là một cái gì khá mới mẻ và đầy táo bạo, khác hẳn mỹ học truyền thống”.

Nguyễn Hưng Quốc còn nói về kết cấu “thơ con cóc”, nói đến những “nghịch lý”: “Tính chất nghịch lý ấy lại được nhìn thấy ở một phương diện khác: hình tượng ‘con cóc’, lặp đi lặp lại sáu lần, chiếm nửa số lượng từ vựng trong bài, luôn luôn đứng làm chủ ngữ trong mọi câu thơ, nổi bật, uy nghi, vừa như một tượng đài lại vừa như một quyền lực”.

 Là một nhà phê bình thành thạo các thao tác của Thi pháp học, Nguyễn Hưng Quốc còn phân tích cả âm “i” trong từ “đi” (Con cóc nhảy đi), phân tích kiểu ngôn ngữ trần trụi. Ông nhấn mạnh: “Không thể có thứ ngôn ngữ nào giản dị hơn thế nữa. Nó có phần giống thứ ngôn ngữ Albert Camus dùng khi viết Người xa lạ: rời, tẻ, lạnh, không chỉ những từ thêu thùa, đẩy đưa mà cả những từ nối, những từ có chức năng diễn giải, phân tích cũng bị tước hết.”

 Nguyễn Hưng Quốc còn sánh “thơ con cóc” với thơ Nguyễn Đức Sơn: Cùng một chủ đề, nhưng rõ ràng bài ‘Thơ con cóc’ mạnh và sắc hơn bài thơ của Nguyễn Đức Sơn nhiều. Và nếu tin vào lời của Nguyễn Hưng Quốc thì “thơ con cóc” là bài thơ hay và mới lạ nhất của thơ Việt Nam. Như vậy, theo Nguyễn Hưng Quốc, bài “Thơ con cóc” ngang với tầm cao của văn học dân tộc, và đỉnh cao văn học thế giới (A.Camus)

Tôi phải trích dẫn hơi dài bài viết của Nguyễn Hưng Quốc để bảo đảm không làm sai lệch ý tứ và cấu trúc bài viết của tác giả, dù biết rằng mọi diễn giải đều mang tính chủ quan.

Tôi chỉ xin trao đổi vài điều ở những chỗ Nguyễn Hưng Quốc làm ảo thuật bằng lý luận văn học để lừa mị người đọc. Đọc những dòng này, chắc chắn ông sẽ cười: Đùa vui thôi mà! Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!

Yếu tố trung tâm của tác phẩm là hình tượng nhân vật. Nhân vật chứa đựng tư tưởng, nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Giá trị của một tác phẩm trước hết là sự thành công trong việc xây dựng nhân vật. Nhân vật Hamlet của Shakespear, Jean Valjean của V.Hugo, Thúy Kiều của Nguyễn Du, Xuân Tóc Đỏ của Vũ Trọng Phụng là những hình tượng tư tưởng-thẩm mỹ đã từ tác phẩm đi vào đời sống lừng lững giữa cuộc đời, soi sáng lương tri người đọc. Vậy “con cóc” trong bài “Thơ con cóc” có là một hình tượng nghệ thuật như thế hay không (tức là hình tượng tư tưởng-thẩm mỹ được hư cấu, sáng tạo). Câu trả lời là không.

Nguyễn Hưng Quốc viết: “Về phương diện giá trị điển hình, hình tượng con cóc không hề thua kém hình tượng Sở Khanh, Xuân tóc đỏ hay Thị Nở.

Đây là sự đánh tráo thứ nhất, đánh tráo khái niệm “hình tượng văn học”. Trong bài “Thơ con cóc”, chữ “con cóc” chỉ là một ký hiệu, là một từ mang nghĩa khái niệm, định danh một loài sinh vật, không phải là một hình tượng. Theo F. Saussure, “cái biểu đạt” dẫn tới “cái được biểu đạt”. Chữ “con cóc” chỉ dẫn tới ý niệm trong đầu về con cóc, không dẫn tới con cóc thật ở ngoài đời thực được phản ánh thành ý niệm. Vì thế bài “Thơ con cóc” không có hình tượng con cóc, ngôn ngữ là ký hiệu thuần túy với duy nhất một nghĩa tường minh. “con cóc” không chứa đựng tư tưởng-thẩm mỹ gì.

Nguyễn Hưng Quốc tiếp tục đánh tráo khái niệm: “có thể coi ‘Thơ con cóc’ cũng tương tự bức chân dung Thị Nở của Nam Cao. Nếu Thị Nở là điển hình của cái Xấu, ‘Thơ con cóc‘ sẽ là điển hình của cái Dở.

Ở đọan trên, Nguyễn Hưng Quốc coi “con cóc” là một hình tượng. Đến đây, Nguyễn Hưng Quốc lại gọi bài Thơ con cóc” là một hình tượng điển hình như hình tượng nhân vật Thị Nở. Đây lại là sự đánh tráo khái niệm lần thứ hai. “Thơ con cóc” là một bài thơ. Xưa nay chưa có lý luận nào gọi bài thơ (tác phẩm) là hình tượng. Tác phẩm là một cấu trúc nghệ thuật, một thế giới tư tưởng- thẩm mỹ. Hình tượng nhân vật chỉ là một thành tố của cấu trúc tác phẩm. Từ sự đánh tráo khái niệm này, Nguyễn Hưng Quốc tiếp tục đánh tráo khái niệm mỹ học. Rằng “thơ con cóc” thuộc về một mỹ học mới lạ hẳn so với mỹ học truyền thống mà ông gọi “đạo Thúy Kiều”.

Nguyễn Hưng Quốc viết: “Nếu Thị Nở là điển hình của cái Xấu, ‘Thơ con cóc‘ sẽ là điển hình của cái Dở. Dù ông có đặt ý tưởng trong dạng câu giả định “Nếu…thì”, ý nghĩa của câu văn vẫn là khẳng định: Thị Nở là điển hình của cái Xấu Thơ con cóc‘ là điển hình của cái Dở, dùng điển hình Thị Nở để nâng “Thơ con cóc” lên thành một điển hình. Về điều này, hoặc là Nguyễn Hưng Quốc chưa hiểu thấu đáo hình tượng nhân vật Thị Nở, hoặc ông lờ đi, cố ý đánh tráo nội dung. Hình tượng nhân vật Thị Nở không là điển hình cho cái xấu (theo nghĩa mỹ học). Thị Nở cùng với tình yêu của mình, có giá trị thức tỉnh nhân tính của Chí Phèo. “Cuộc tình” Chí Phèo-Thị Nở đã biến Cái xấu thành Cái đẹp, biến Cái ác thành Cái thiện, biến hai con vật thành hai Con người với khát vọng sống lương thiện, hạnh phúc như mọi người (và họ đã sống như ước mơ được 5 ngày). Không có nhân vật Thị Nờ, truyện Chí Phèo mất tất cả giá trị nhân đạo sâu sắc của ngòi bút Nam Cao. Cho nên, Nguyễn Hưng Quốc nói: “Thị Nở là điển hình của cái Xấu”, tôi e rằng người biết chuyện sẽ cười ông dốt!

Ngôn ngữ là chất liệu mang tính bản chất của văn chương. Ai cũng biết: Văn chương là nghệ thuật ngôn từ. Văn bản văn chương khác với văn bản báo chí, văn bản khoa học, văn bản hành chính trước hết là ở đặc trưng ngôn ngữ. Ngôn ngữ của văn bản văn chương là ngôn ngữ có tính đa nghĩa, tính biểu cảm, tính hình tượng, ngôn ngữ mang đặc điểm phong cách. Ngôn ngữ của văn bản văn chương được đan dệt theo những quy luật của kiểu tư duy nghệ thuật. Ngôn ngữ “Thơ con cóc” không có những đặc điểm này. Từ, ngữ của “Thơ con cóc” chỉ có một nghĩa, nghĩa tường minh, đó là nghĩa thông tin. Nội dung “Bài thơ” chỉ thuật lại một sự việc, như một bản tin: có một con cóc từ trong hang nhảy ra ngoài. Nó ngồi đó, rồi nhảy đi. (Giống như bản tin: có một người bị tai nạn nằm ở ngã ba đường. Kẻ tông xe gây tai nạn đã bỏ chạy). “Con cóc” không có chân dung, không rõ là loài cóc gì (trong 500 loài cóc), không có bối cảnh sinh hoạt, không có quan hệ xã hội. Người thuật lại “câu chuyện” hoàn toàn vô cảm trước sự việc. “Tác già” dân gian cũng không đặt vào “con cóc” chủ đề, tư tưởng gì.

Xin so sánh “Thơ con cóc” với bài thơ Con cóc của Lê Thánh Tôn thì rõ:

Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi
Chép miệng dăm ba con kiến gió
Nghiến răng chuyển động bốn phương trời

          (Con cóc-Lê Thánh Tôn)

 Con cóc trong bài thơ của Lê Thánh Tôn là một hình tượng vừa thực vừa là ẩn dụ, mang được tầm vóc của nhân cách Lê Thánh Tôn, một vị vua đỉnh cao của chế độ phong kiến Việt Nam. Ngôn ngữ thơ đa nghĩa, vừa biểu cảm, vừa cá thể hóa. Hình tượng con cóc được miêu tả cụ thể trong không gian và trong mối quan hệ xã hội rộng lớn: “Nghiến răng chuyển động bốn phương trời”. Bài thơ còn tạo được lòng yêu mến của người đọc đối với vị vua xuất thân từ cửa Thiền này. Lê Thánh Tôn diễn ngôn với một thái độ khiêm tốn, chân thành của một người đã đạt đến chân lý.

 Nguyễn Hưng Quốc biết rõ điều này: ““Đâu phải tôi không biết đó là một bài thơ dở, cực kỳ dở, hơn nữa, với người Việt Nam, còn là điển hình của cái dở nói chung. Nhưng tại sao ông cố đánh tráo lý luận để chứng minh “thơ con cóc” là bài thơ hay?

Đoạn bình thơ (ngoại đề) sau đây bộc lộ rõ cái tâm và chủ đích của Nguyễn Hưng Quốc: Bài ‘Thơ con cóc’, như thế, đang nói về con người. Về tôi. Về chị. Về anh. Về tất cả chúng ta. Trong cuộc đời, chúng ta làm bao nhiêu công việc, đôi khi, một cách cực kỳ nghiêm cẩn. Chúng ta đắn đo trước khi khởi sự. Đã đành. Chúng ta còn có thói quen tự chiêm ngưỡng mình lúc đang hành động. Chúng ta tự khoác lên chúng ta cơ man những hào quang lấp lánh. Chúng ta lạm dụng tính từ để miêu tả, để tô vẽ việc làm của chúng ta. Cuối cùng, chúng ta chỉ sống với sự diễn dịch về cuộc đời chứ không phải với chính cuộc đời. Huyền thoại lên ngôi. Ảo ảnh che khuất hiện thực. Lê Duẩn và những người lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1975, khi hứa hẹn chỉ trong vòng 10, 15 năm Việt Nam sẽ trở thành một cường quốc, là nạn nhân của chính cái nhìn tự mê hoặc của họ: thay vì nhìn đất nước Việt Nam như một xứ sở tan nát sau cuộc chiến tranh khốc liệt và dai dẳng, họ chỉ nhìn nó như là sự anh hùng và sự sáng suốt, những khả năng có thể làm được phép lạ. Hiện nay, Đảng cộng sản cứ tiếp tục sống trong thế giới phi thực ấy khi họ khăng khăng khẳng định chỉ có họ mới đủ sức cứu vãn đất nước và một mực từ chối yêu cầu dân chủ hoá chế độ.

Khi “nhà phê bình” thoát ly văn bản tác phẩm, mượn chuyện văn chương để làm chính trị, thì đó là sự tha hóa, như một kiểu “bán linh hồn cho quỷ”. Tất cả những điều gọi là lý luận văn học hay khám phá cái hay cái đẹp của “thơ con cóc” chỉ là trò giả ngụy.  “Thơ con cóc” không liên can gì đến chính trị, nhưng Nguyễn Hưng Quốc chuyển nội dung bài thơ thành ý nghĩa chính trị. Ông làm như thế với mục đích gì? Tôi không nghĩ Nguyễn Hưng Quốc viết về “Thơ con cóc” là để chơi theo lý thuyết trò chơi của văn học. Ông viết bằng lối văn hùng biện, cố ý áp đảo người đọc để bắt người đọc phải suy nghĩ, nhận thức theo sự hướng dẫn của ông. Có điều ông không lừa được ai. Khi bị chất vấn, ông cười: Đùa chút thôi mà!  

Nếu bỏ qua thiên kiến chính trị của một người do hoàn cảnh sống tạo thành não trạng, những bài phê bình văn học của Nguyễn Hưng Quốc có nhiều giá trị văn chương. Ông vẫn giữ được những nét bản sắc của phê bình văn học Việt Nam cả trong phương pháp phê bình và phong cách nghệ thuật. Điều này có thể hiểu được. Ông sinh 1957 ở Qủang Nam. Năm 1975 ông mới 18 tuổi. Ông học Đại học Sư phạm ở Việt Nam. Toàn bộ tri thức về văn chương Việt, kể cả về lý luận phê bình Việt ông tiếp thu được từ trường học Việt Nam trước và sau 1975. Năm 1985 đến Nam Dương (Indonesia), rồi định cư ở Pháp. Năm 1991 di dân đến Úc. Những bài phê bình ông viết về Bùi Giáng, Mai Thảo, Tô Thùy Yên… bộc lộ rõ cốt cách tài hoa của một cây bút phê bình Việt có nguồn gốc truyền thống.

Thế mạnh văn phê bình của ông là sự hiểu biết và vận dụng khá thành công lý luận phê bình đương đại mà ông tiếp cận được khi ở nước ngoài, kết hợp với văn chương hoa mỹ và óc liên tưởng phong phú…Tuy nhiên, nhiều chỗ ông bay bổng thoát ly khỏi tác phẩm liên hệ lan man (kiểu tùy bút Nguyễn Tuân). Bài ông viết về thơ thị giác của Lê Văn Tài là một bài như thế. Cái gọi là “thơ cụ thể” (thơ thị giác) của Lê Văn Tài thật ra là những bức tranh Siêu thực, đó không phải là thơ bằng ngôn ngữ. “Đọc” tranh Siêu thực, Nguyễn Hưng Quốc mặc sức tưởng tượng, diễn giải những ý nghĩa mà ông có chủ đích. Thí dụ ông bình luận về bức tranh Quốc Khánh, Tổ quốc ghi công, Chân dung tự họa. Viết về ca dao, ông cũng có những liên tưởng phóng túng, thoát ly văn bản như vậy. Đây là một đọan ông bình câu ca dao: “Em như cục cứt trôi sông/ Anh như con chó chạy rông trên bờ”:

“Em như cục cứt …

Anh như con chó …

Cái tục của ngôn ngữ, cái thô của hình tượng ở đây lại là những cái thực và là một sự sáng tạo. Nó phá đổ những khuôn sáo cũ kỹ và giả tạo trong văn chương bác học. Nó vứt bỏ những son phấn những mũ mão đai hia để làm hiện hình những con người gần gũi với cuộc đời hằng ngày…

… Ở giữa câu lục là hai từ bắt đầu bằng phụ âm ‘k’ (‘cục cứt’) mạnh, gắt, như một nỗi đau uất. Ở giữa câu bát là hai từ bắt đầu bằng phụ âm ‘ch’ (‘chó chạy’) mềm mại, ngân vang, như một nỗi buồn tênh. Câu ca dao, như thế, không phải chỉ tả mối tình giữa hai người khốn khó bất hạnh tự ví mình với những gì hèn mọn, thậm chí hèn hạ nhất trên mặt đất. Điều đáng đau xót, toát lên từ câu ca dao này là ở chỗ, mặc dù họ tự biết thân phận của mình, mặc dù họ hoàn toàn an phận, chấp nhận cái số kiếp làm phân, làm chó, họ vẫn không được gần nhau. Em vẫn lênh đênh giữa sông và anh vẫn chạy rông trên bờ. Anh vẫn không bắt được em, vẫn ở từ xa mà nhìn em một cách thèm thuồng. Giữa hai người vẫn có một khoảng cách vời vợi. Không cùng.

Bài ca dao, do đó, mặc dù có một số chữ có vẻ tục, có vẻ sỗ sàng lại chứa đựng một ý nghĩa hết sức thâm trầm, thể hiện được đúng số phận của hàng triệu triệu cặp thanh niên nam nữ nghèo khó, lam lũ và bất hạnh trong cuộc đời, nhất là cuộc đời ngày xưa.”

Đọn bình văn trên, Nguyễn Hưng Quốc cho rằng: “phụ âm ‘k’ (‘cục cứt’) mạnh, gắt, như một nỗi đau uất” và” phụ âm ‘ch’ (‘chó chạy’) mềm mại, ngân vang, như một nỗi buồn tênh” thì ý nghĩa đó là do ông tưởng tượng ra thôi, nó thô thiển và gượng ép. Về phương pháp phân tích, dù không có ý né tránh, Nguyễn Hưng Quốc vẫn dùng quan điểm của các nhà phê bình Xã hội chủ nghĩa trong nước là quan điểm văn học phản ánh xã hội (ông dùng chữ “toát lên, thể hiện”) để cố gán cho câu ca dao: “thể hiện được đúng số phận của hàng triệu triệu cặp thanh niên nam nữ nghèo khó, lam lũ và bất hạnh trong cuộc đời, nhất là cuộc đời ngày xưa.”

Thực ra câu ca dao chỉ có ý nghĩa bông đùa, kiểu nói rất quen thuộc của người nông dân xưa (chẳng hạn, thay vì nói: nếu chê thì sẽ không có mà ăn đâu!, người nông dân nói: “Có cứt mà ăn”). Câu ca dao chẳng có ý nghĩa thâm trầm gì, cũng chẳng có gì sáng tạo cả. Người nông dân hàng ngày đụng chạm với “cứt” là thường. Trẻ con tắm sông thường ỉa ngay lúc tắm, làm cứt nổi lềnh bềnh để chọc nhau chơi. Sáng sáng lũ trẻ đi gắp phân rơi trên đường. Người trồng rau, trồng thuốc lào thường bón bằng phân người. Phân, “cứt”, với người nông dân là quen thuộc, không có gì là tục, trái lại còn rất quý, vì ngày xưa chưa có phân bón hóa học như bây giờ. Tôi phải nói dài dòng một chút như thế để trả lại đúng nghĩa nguyên thủy của câu ca dao. Còn Nguyễn Hưng Quốc muốn thưởng thức cái hay, cái mới lạ, cái thâm trầm của câu ca dao thì đó là quyền của ông.

KỲ VỌNG GÌ Ở NHỮNG NHÀ PHÊ BÌNH HẢI NGOẠI

Gặp gỡ một vài nhà phê bình văn học hải ngoại ở trên (rất tiếc tôi không gặp gỡ được nhiều người mà tôi đã từng biết), Thụy Khuê ở Pháp, Nguyễn Hưng Quốc ở Úc, Bùi Vĩnh Phúc vả Nguyễn Vy Khanh ở Canada, tôi có nhiều điều ngẫm nghĩ. Với tất cả sự e dè cần thiết (để khỏi gây ngộ nhận và bị quăng gạch đá), tôi bày tỏ sự trân trọng với tất cả những ai đã làm việc và cống hiến tâm huyết, sức lực cho nền văn chương dân tộc. Các nhà phê bình hải ngoại có nhiều ưu thế vì được tiếp cận với các lý thuyết văn học của thế giới, và ở vị trí của những cây bút “tự do”, họ có thể viết được nhiều điều. Trở ngại lớn nhất của các nhà phê bình hải ngoại là thiên kiến chính trị. Điều này làm mất tính khách quan, khoa học của ngòi viết. Các nhà phê bình hải ngoại viết nhiều về văn chương miền Nam trước 1975 mà ít quan tâm văn chương Việt Nam đương đại. Có thể vì tình trạng hạn chế tài liệu, cũng có thể là do không thích. Vì dù là viết phê bình, nhà phê bình luôn cần có cảm hứng trước một tác phẩm. Có thích, có yêu mến thì mới có cảm hứng để viết. Thôi thì ai mạnh về mặt nào thì viết về mặt ấy. Nhiều người cùng góp sức sẽ tạo nên hiệu quả chung. Bây giờ đã là thời của hợp lưu một dòng chảy văn học dân tộc. Những gì gắn bó với dân tộc thì sẽ còn mãi.

Tháng 6. 2017

_______________________

[1] Bùi Vĩnh Phúc-Thanh Tâm Tuyền, Người Thi Sĩ Ấy

[2] Bùi Vĩnh Phúc- Trịnh Công Sơn, ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật

www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6008&rb=0206

[3] Bùi Vĩnh Phúc

a-Hai mươi năm văn học miền Nam (1954-1975) phẩm tính và ý nghĩa.

Tham luận trong HỘI THẢO VỀ 20 NĂM VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975, tại California, ngày 6 tháng 12 năm 2014.

bBùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn

https://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/bui-giang-buoc-chan-di-tim-hon-nguyen-tieu-va-mot-mau-hoa-tren-ngan-*

c- Nhớ Nguyễn Mộng Giác và tưởng nhớ một thời văn. Damau.org

d- Nghĩ về Võ Phiến và cuốn Văn học miền nam, tổng quan. Damau.org           

[4] Thụy Khuê-Thi pháp Nguyễn Tuânhttp://thuykhue.free.fr/stt3/index.html

[5] Thụy Khuê-Trả lời Dương Thu Hươnghttp://thuykhue.free.fr/thumucindex.html

[6] Không gian sông nước trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư – http://thuykhue.free.fr/thumucindex.html

[7] Ly Hoàng Ly và bóng đêmhttp://thuykhue.free.fr/thumucindex.html

[8] Đọc thêm bài viết của Bùi Công Thuấn:

a- Bùi Giáng, Ai Người Chia Sẻ. Tạp Chí Thơ, Hội Nhà Văn đăng số tháng 10/2008

http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=7197

b-Thanh Tâm Tuyền, thi sĩ tuyệt vọng trần truồng

http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=7163

c-Mười khuôn mặt thơ trẻ đương đại

http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=8942

d-Nguyễn Ngọc Tư và hành trình đã đi

http://www.viet-studies.info/NNTu/NNT_BuiCongThuan.htm

[9] Văn học miền nam 1954 – 1975 của Nguyễn Vy Khanh:

  động cơ thực hiện công trình và ý thức hạn chế

http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=23143

[10]Nguyễn Vy Khanh-Tương lai văn chương Việt Nam

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16095

[11] http://phannguyenartist.blogspot.com/2016/06/nguyen-vy-khanh.html

[12] Dương Nghiễm Mậu-Cuộc đời tình cờ

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=15495

[13] a.Bùi Giáng-Con đường ngã ba

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=15407

  1. Nguyễn Huy Thiệp-Những chuyện Huyền, Kỳ, Núi, Sông và Nước…

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16053

  1. Thơ Thanh Tâm Tuyền

      http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=15363

  1. Thơ hôm nay

      http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=19359

  1. Thơ Du Tử Lê

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16187

  1. Mai Thảo, hoài niệm của người viễn xứ

      http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=15820

  1. Nguyên Sa, Nhà báo, Nhà thơ

          http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=15235

  1. Thơ Tô Thùy Yên, quán trọ hồn phương đông

          http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=15313

[14] Lê Thành Tâm-Nguyễn Hưng Quốc là ai?    https://www.tinparis.net/thoisu12/2012_09_21_NguyenhungQuocl_LeThanhTam.html+&cd=6&hl=vi&ct=clnk&gl=vn