THƠ ĐÀO TRỌNG THỬ-Nhà văn Đồng Nai

 

 

 

dao trong thu

(Chân dung nhà thơ Đào Trọng Thử, hội viên Hội VHNT Đồng Nai. ảnh của BCT)

Bài viết về các tập thơ: Em bán sầu riêng, Sợ, Trốn của Đào Trọng Thử

___________________________________

NHÀ THƠ “BÁN SẦU RIÊNG

(Đọc tập thơ Em Bán Sầu Riêng của Đào Trọng Thử .NxbHội Nhà Văn 2004)

Bùi Công Thuấn

 

 

Bài thơ Em Bán Sầu Riêng nói về tình cảnh “đắng cay, ngọt bùi “của người thiếu phụ ở Long Thành. Chồng chị chết trẻ, con thơ dại, chị phải bán sầu riêng dạo ở Sài Gòn để kiếm gạo nuôi con. Bài thơ không có gì đặc sắc lắm. Trong tập thơ, Đào Trọng Thử cũng không khai thác nhiều cảnh đời như người thiếu phụ này, nhưng  tại sao Đào Trọng Thử lại lấy bài thơ này làm nhan đề cho cả tập thơ? Em Bán Sầu Riêng là ai? Có ý nghĩa gì? Tôi cứ mông lung nghĩ suy, rồi chợt vỡ nhẽ rằng, đó là một cách chơi chữ. Đào Trọng Thử không chú tâm đến việc bán trái sầu riêng của người thiếu phụ mà nói đến nỗi sầu riêng của chính mình. Và cũng thật lạ, người đời chỉ “mua vui “, ai đi mua sầu mà Đào Trọng Thử đem bán?

Thành ra Đào Trọng Thử chỉ trò truyện với nỗi sầu riêng của chính mình.

“…Mình tôi trò truyện với mình tôi thôi…“

(Tháng 5 ở Lộc Ninh)

“…Mình tôi với lại con đường thẳm xa…“

(Về lại Tây Ninh)

Anh độc thọai điều gì trên con đường đời thăm thẳm?

“…Đời người được mấy gang tay

Mỗi ngày mỗi trải đắng cay ngọt bùi

Bán sầu mua lấy cái vui

Cho bao đau khổ trên đời vợi đi! “

(Tháng 5 ở Lộc Ninh)

“… Ngẫm ra trong cõi nhân gian

Hoa kia rồi cũng nát tan có ngày…”

(Cỏ ở đồi Cù)

“…cõi người như thực như mê “…

(Trên đèo Mẹ Bồng Con )

Những câu thơ ấy nghe trĩu nặng ưu tư nghìn năm về thân phận con người trong cõi đời này, nhưng anh không lạc vào cõi siêu hình hay trạng thái bi phẫn trước thực tại, cũng không bất lực yếm thế. Anh đau một nỗi đau đời và cất tiếng nói tri kỷ.

…” bạn cùng tôi đau nỗi đau đời

Lũ chúng ta sinh ra vì thế kỷ

Thế kỷ hai mươi thấm đẫm máu xương người …”

(Bạn thơ)

Thơ anh có những mảng rất sáng. Những vầng sáng thơ anh tỏa ra từ những tình cảm với đồng đội đã hy sinh trong những năm tháng chiến đấu. Có thể nói những bài thơ hay, xúc động lòng người của Đào trọng Thử là những bài anh viết về đồng đội. Trong tâm thức anh, đồng đội vẫn như ngày nào, đang cùng chia nhau niềm vui nỗi buồn. Ngày gặp mặt đồng đội cũ đích thực là một ngày vui. Câu thơ như rạng rỡ ánh mắt nụ cười.

Lính gặp lính là tri kỷ đấy

Chào những đứa con chung một chiến hào

Nào hãy cụng ly, uống mừng nhau còn sống

Cụt chân, cụt tay, thủng bụng, sứt đầu…

…nào hãy cụng ly uống thay người đã chết

Ba mươi năm tan trong đất trong cây

Gương mặt bạn nhòe trong trí nhớ

Hình như lúc chết bạn hơi gầy…”

(Ngày của chúng mình)

Anh ao ước:

Mong ước lớn có một ngày trong trẻo

Một ngày thôi gặp lại bạn bè xưa

Để được nói, được cười, được khóc

Khóc cho bạn bè đã ngã xuống ngày xưa.

(Nhớ bạn)

Anh không khóc người bạn xưa đã ngã xuống, mà cầu nguyện cho họ “hồn thiêng tụ họp về phương mặt trời “(Về lại Tây Ninh). Anh muốn thực hiện cho bạn cái nguyện ước ngày xưa là có được một chiếc xe đạp, nhưng không sao mua được chiếc xe đạp hàng mã để gửi cho người đã hy sinh.

“…hàng mã bây giờ tòan xe hơi xe cúp

Xe đạp lọai xòang kiếm đâu ra

Ngày giỗ bạn cố tìm mua một chiếc

Để hóa tro gửi xuống cho Hòa! “

(Chiếc xe đạp)

Đồng đội anh lúc sống chiến đấu thiệt thòi đã đành, giờ đất nước hòa bình, cuộc sống đã giàu có sự thiệt thòi vẫn không sao bù đắp được. Anh nhận ra nét đẹp  một thời của người lính:

“…Sống trong chiến tranh ta trong trắng thế

Ngây thơ, hiền dịu, dại khờ …”

(Nhớ bạn)

Có lẽ vì thế, khi anh vào thăm nghĩa trang, tâm trạng thương bạn, nỗi xót xa cứ dâng lên trước cuộc sống thực tại lạnh lẽo tình người.

“Các anh chị nằm đây thì yên tĩnh thật

Nhưng mà khuất nẻo phải không nào

Cuộc sống ngòai kia xô bồ chụp giựt

Chẳng cần biết nơi này bao người chết vì sao…”

(Viết Ở nghĩa trang Đồng Nai )

« …Thương đồng đội đi dọc thờ đánh Mỹ

Bao đồng chí giờ đây yên nghỉ

đơn trong đất lạnh Lâm đồng « 

                                (Mùa đông ở Đà Lạt)

Sự lạnh lẽo lan tràn  mọi nơi mọi chốn :

«Cứ ngỡ nơi này không có mùa đông

Cái rét giờ đây lan tràn khắp cả

(Mùa đông ở Đà Lạt)

Anh hướng về đâu? “… nỗi lòng gửi đến mai sau…”

(Về lại Tây Ninh)

và Anh nghe thấy gì?

“… Cuốc kêu ngỡ lời non nước

Gọi anh suốt cuộc chiến tranh

Triệu người đã thành bất tử

Hóa thân mây trắng trời xanh…”

(Nhớ chim Quyên)

 

Từ ánh sáng của những người đã hy sinh, anh rọi soi vào hiện thực cuộc sống thời kinh tế thị trường. Anh giật mình nhận ra:

 

Em yêu ta một thời oanh liệt ấy

Nhưng ta phản lại chính ta rồi…

…Thành phố ấy phồn hoa mà băng họai

Nuốt chửng ta cùng ngàn vạn cuộc đời…”

(Sầu Riêng Phú Hội)

Anh đau lòng đến phẫn uất

“Nào hãy cụng ly, chia buồn thời mở cửa

Đô la đang ngự trị tòan cầu

Quân tham nhũng những ông hòang bà chúa

Lòai giặc này còn sống đến bao lâu?

(Ngày của chúng mình)

Anh đặt ra khá nhiều vấn đề, nhưng dường như không có câu trả lời.

ba mươi tháng tư theo đại quân về phố

Ta sống với ngày mà quên mất đêm

(Đêm và Ngày)

Khắp xứ sở đi đâu mà chẳng thấy

Tô Thị bồng con đầu chít khăn xô.

(Nàng Tô Thị)

Bác Châu em cũng tuổi trâu

Kéo cày năm tháng để giàu cho ai?

Ách đời chín rạn hai vai…”

(Không đề)

..Nông dân nuôi nước nuôi nhà

Nước đục thế bao nhiêu phèn cho lại

Lòai cò sinh sôi…

«  ..Bao giờ cho hết người nghèo ?

.. bao giờ mới hết cánh bèo lênh đênh ?

(Thơ viết cuối năm Thìn)

Ám Ảnh Tà Lài  thực sự là một bài thơ ám ảnh. Đào Trọng Thử đặt cái tương phản giữa những hình thức của cuộc sống mới bên cạnh đời sống cơ cực của nhân dân: Trong khi nhân dân  “mất mùa liên tiếp “, “cỏ cháy đồng khô”,  “chạy ăn từng bữa” , “ khắc khỏai “ thì

Nhà Văn hóa như cây đuốc lớn

Cháy bập bùng đỏ một khúc sông nông

Sau cây đuốc là cánh đồng nứt nẻ …

.. Khách lại đến tham quan và những tiếng thở dài “

Không có câu trả lời cho những vấn đề nhân sinh xã hội vì thế thơ anh có giọng buồn:

Gạn đục mãi nước vẫn không trong nổi

 Câu thơ buồn tái tê…(Bạn thơ )

Anh bế tắc hay phủ định cuộc sống thực tại?

Kiếp sau được đầu thai lần nữa

Ta lại làm thơ chứ biết làm gì

Cầm súng thì quen. Làm quan thì dốt

Làm giàu không biết đường chi…”

(Bạn thơ)

…” Chí trai đạp đất đội trời

Giờ về chiều vợ , lụy đời cưng con.

(Bài thơ tặng vợ)

Ấy là tấm lòng của một “người thơ“ hiền lành. Nếu có kiếp sau, anh sẽ lại làm thơ. Anh từ chối làm giàu, từ chối làm quan và nếu tổ quốc gọi, anh lại cầm súng. Anh lại làm thơ vì thơ anh là tiếng lòng của anh, tiếng lòng với quê hương, với đồng đội, với những nàng “Tô Thị bồng con đầu chít khăn xô “,  những cảnh đời bèo dạt như cô gái bán sầu riêng, những cô gái chăn bò, những cô cậu  công nhân mà anh gọi là hòang tử cô tiên,  những người cha đánh Pháp, người mẹ đánh Mỹ, với “các anh, các chị, các em ‘ một thời chiến trận, những người “nông dân nuôi nước nuôi nhà ‘. Anh cũng chẳng quên tình quên nghĩa với bàu rau muống bạt ngàn đã cứu anh và đồng đội trong cơn ngặt nghèo bủa vây của kẻ thù, nhớ lá trung quân “chiến sĩ miền Đông với trung quân như Chồng như vợ ‘, với trái bình bát lót lòng năm nào, với “lòai chim quyên bất tử “…Thơ Đào Trọng Thử  đọng lại trong lòng người đọc ở cái chân tình đằm thắm , sâu lắng suy tư, đậm chất dân dã. Cái tình ấy có cội nguồn trong thơ Nguyễn Du, thơ Nguyễn Khuyến, trong ca dao dân ca.

Đào Trọng Thử đem nguyên chất “người thơ hiền lành “vào trong thơ, vì thế giọng thơ anh là giọng đằm thắm của lục bát, của những câu thơ mà cung điệu bao giờ cũng vang lên những hòa âm thuận. Bè trầm có âm lượng mạnh mẽ, trong khi bè cao rất nhẹ nhàng. Rất ít có hòa âm nghịch.Thơ anh không có cách tân trong cả thể lọai và ngôn ngữ, nhưng anh lại kế thừa được cái tình, cái tâm cái nhìn và cả cái khí` vị của thơ dân tộc. “ách đời chín rạn hai vai “, “Cao su xanh tận chân trời “ gợi nhớ Nguyễn Du, “Những ai ước mình làm cây thông “là khí phách Nguyễn Công Trứ , Thăm Bạn Trấn Biên có ý vị thanh tao tình bạn Nguyễn Khuyến – Dương Khuê. Tặng Vợ có cái tình của Trần Tế Xương, cả cái bình dị lấp lánh lục bát của Tố Hữu. Trên đèo Mẹ Bồng Con, Nàng Tô Thị, Gửi, Nhớ chim Quyên chắc chắn lấy cảm hứng từ ca dao dân ca. Nhiều câu thơ của anh sử dụng nguyên chất ca dao (“Người về em chẳng cho về “, Giận thì giận, thương càng thương “, “ Gió đưa cây cải về trời ‘…), thành ra người đọc thấy thơ anh gần gũi lắm, đằm thắm và hồn hậu. Cái hồn hậu của riêng anh khi anh vượt qua được những bức xúc của cuộc sống.

…ta già, trái đất đang non

Trăm năm dâu bể: vuông tròn, tròn vuông

Giận thì giận, thương càng thương…”

(Gửi)

Anh đã vượt qua được cách viết tụng ca quen thuộc một thời mà tiếp cận được với hiện thực tỉnh táo và có tình có lý hơn. Nhưng hiện thực bề bộn và phức tạp không phải là đối tượng của thơ anh. Anh khai thác những cái bình dị, bất chợt trong những chuyến đi: cỏ ở Đồi cù, cây thông Đà Lạt, Sầu Riêng Phú Hội, cái yên tĩnh ở nghĩa trang Đồng Nai, đàn kiến, con chuồn chuồn ở tượng đài chiến thắng Long Khánh, cao su xanh tận chân trời ở Lộc Ninh, Đèo Mẹ Bồng Con, cây Tung ở Nam Cát Tiên, mưa ngập nước ở Biên Hòa, nắng hạn ở Tà Lài. Anh cũng viết rất ít về những vấn đề bức xúc của chính mình như chuyện ước mơ  có được ngôi nhà  nhỏ, chuyện không về quê mà ở lại Đồng Nai “làm trai đất lành“,  đến thăm bạn  , nhưng viết nhiều đến những gì liên quan đến kỷ niệm một thời chiến đấu:  Trăng Cù Lao Phố, rau muống ,cây dừa nước, lá trung quân, trái bình bát, nhớ chim quyên, và viết rất có duyên về những gì tưởng như chẳng phải thơ: đèn đỏ, cưới, tre cảnh, đêm và ngày, lạc, cô gái chăn bò, …

Anh có thiên hướng phát hiện và đặt ra những vấn đề tư tưởng nhân sinh từ những cái đời thường. Bài thơ nào cũng có những suy nghiệm nặng trĩu về lẽ đời. Đọc thơ anh có sự thú vị thấm thía của những phát hiện và suy nghiệm ấy. Bài thơ Lạc làm người đọc thảng thốt nhìn lại chính mình và tự hỏi không biết mình có bị lạc giữa trần gian không. Đọc Viết ở nghĩa trang Đồng Nai hay Ám ảnh Tà Lài người đọc cảm được ngay, bởi cái nhìn của anh tinh tế, tấm lòng của anh sâu nặng, sự phát hiện vấn đề của anh thật tự nhiên như thể vấn đề đã hiển hiện sẵn ngay trong đề tài. Thực ra đấy chính là một khía cạnh tài hoa của thơ Đào Trọng Thử. Tôi đã đi qua đèo Mẹ Bồng con không biết bao nhiêu lần, từng ngắm nhìn tượng đài chiến thắng Long Khánh, đã dạo chơi ở đồi Cù, đồi thông Đà Lạt, xung quanh chỗ tôi ở bạt ngàn cao su, vậy mà tôi chẳng phát hiện được gì, ngòai những xúc cảm về cảnh quan tươi tốt tấp nập. Vậy mà Đào Trọng Thử đã viết được những bài thơ rất “lạ‘và tài hoa về những nơi ấy. Đào Trọng Thử là người thơ hiền lành nhưng thơ anh vẫn ánh lên những câu thơ tài hoa, ấy là một sắc màu thẩm mỹ là thơ Đào Trọng Thử sáng lên trên nền của những âm sắc truyền thống.

Em Bán Sầu Riêng là tấm lòng của Đào Trọng Thử nhưng cũng là tiếng lòng của người đọc về những gì đã trở thành lương tri của cuộc sống chúng ta, Đào Trọng Thử khơi gợi cho cái lương tri ấy sáng mãi lên

Lũ chúng ta sinh ra vì thế kỷ

Thế kỷ hai mươi thấm đẫm máu xương người

Tháng 3/ 2005

__________________________________________

Ghi chú về

“SỢ”

Tập thơ Của Đào Trọng Thử

(Bài này bị Nxb Đồng Nai cắt khi in Nhà Văn Đồng Nai 2018)

Bùi Công Thuấn

  

Nhà thơ Đào Trọng Thử, quê ở Ninh Bình, hiện là hội viên Hội VHNT Đồng Nai. Anh từng là người lính thời đánh Mỹ, cũng từng là nhà báo. Đào Trọng Thử đã in nhiều tập thơ. Em bán sầu riêng (2004), Đau (2009), Trốn (2011), Sợ (2013) là những tập thơ đậm đặc chất thơ và phong cách Đào Trọng Thử. Thơ anh có những đặc điểm thi pháp rất khác với các nhà thơ Đồng Nai. Đào Trọng Thử Tự trào:

Giật mình tóc đã hoa râm

Mắt đeo kính viễn cái tâm vẫn đầy

Ngẫm mình phận rủi duyên may

Bạc vàng khó kiếm con bầy đủ nuôi

Nhìn lên chẳng được chín mười

Bằng lòng nhìn xuống ối người kém ta

Phó thường dân trấn Biên Hòa

Nhủ lòng sống đẹp để mà làm thơ…

 

“SỢ” TRƯỚC THỰC TẠI

 

Tập thơ “Sợ” đề cập đến nhiều hiện tượng xã hội, như đời sống nông thôn nghèo xơ xác (Quê Chồng, Ghi ở vườn bách thảo Hà Nội), đất nước cờ bay nhưng vẫn còn nhiều gia đình trắng tay (Viết dưới chân Tháp Rùa), người nông dân thất bại (Nông dân), người thương binh đói nghèo vất vả (Gặp Phúc bên hồ Vân Trục), giới kinh doanh đưa dân nghèo vào chỗ chết (Ngân hàng), suốt đời xóa đói giảm nghèo (Ưu việt),

Nhận thức về một thực tại còn nhiều bất công, nhà quan cao ngất còn nhà dân thì nghèo (Đỉa), chênh lệch giàu nghèo (Gặp ở Quảng Bình), quần chúng thì thiệt thòi còn anh cảnh sát giao thông làm giàu bằng cái còi (Cái còi), mặt đất đâu cũng sông Tiền Đường, đầy dẫy bọn Sở Khanh. Phận lính tráng chỉ là nông nô vô danh, (Không đề), xã hội toàn phường treo dê bán chó (Lạ và quen), tình trạng luật rừng (Cứu cánh). Trước 30.4.1975 lý tưởng là chiến đấu hy sinh, bây giờ là :Tiền-Tảm-Tường (Tâm tưởng), hiện tượng bố đi chiến đấu, con làm quan tham nhũng (Giặc ở trong nhà), về sự thất bại của những đường lối, chính sách như: Cải cách ruộng đất, phong trào hợp tác xã, cấm chợ ngăn sông, về thời bao cấp,cấm đốt pháo, xóa đói giảm nghèo, sinh đẻ có kế hoạch, về chống tham những (Không Đề 2)

Những suy nghĩ về sự đời, lẽ đời: Không sợ chiến đấu hy sinh nhưng sợ lũ cơ hội (Sợ), làm thằng dân chỉ biết cúi đầu (Có một người câm cắt tóc mở phố Ngọc Hà), buồn vì báo đăng tin án mạng (Tràn), ước gì viện bảo tàng treo bức tranh bất công xã hội (Ươc), lúc sống xin chữ”nhẫn”, khi chết, thờ chữ” bất”(In chữ). Thăm Củ Chi về, tác giả thấy mình lưởng khưởng vì Củ Chi tàn tạ chỉ còn hình nộm người xưa. Viết về một thời Hợp tác xã và hỏi tội “ai đắc tội với ai”(Long Phước), thương bạn đi tù về (Gửi bạn thơ Ngọc Thùy Giang). Ở đền Bến Dược, tác giả nhận ra:” Ngỡ ai cũng được thờ/ Ngẫm ra chẳng thờ ai cả…Vô tình/ vô cảm/ vô tâm”(Ghi ở đền Bến Dược), Binh pháp nói dối để khoe thành tích (Binh pháp), đồng bào miền Trung yêu nước quá bị nước nhấn chìm (Phản trắc). Xưa ta đánh Mỹ, giờ ta thân Mỹ, mai này đi gặp bạn chết vì Mỹ, bạn sẽ quay mặt (Mỹ), trung thành như chó lẽ nào lại chết oan (Tâm sự của một chó già), rùa thần cũng có ngày tận số (Rùa thần Hồ Gươm), Vào chung cư là sống chung với lũ người đang hại người (Thời của chung cư), Trên cao là quỷ, trên cao có sao Thái Bạch quét dân lộn nhào (Cao), Triết lý sự đời :”Chả ai dám nói trước biết trước sự gì…những bài học phải trả bằng máu và nước mắt/ Ví như những bài học đau lòng về các cuộc chiến tranh”(Không đề)…

THÁI ĐỘ CỦA NHÀ THƠ

Cảm hứng chung cả tập thơ là cảm hứng phê phán hiện thực. Một vài bài có cảm hứng trữ tình nhân đạo (Gặp Phúc bên hồ Vân Trục, Lão Hạc, Gửi bạn thơ Ngọc Thùy Giang, Thăm lại khúc Hoàng Long, Nhớ chồng, Hải ơi…)

Có khi nhà thơ phê phán trực tiếp bằng kiểu thơ suy tưởng (Cứu cánh, Thời của chung cư, Truyền thống, Mỹ…), có khi phê phán bằng ẩn dụ, có cách nói bóng gió, “nói kháy”, nói mỉa (Phản trắc, Ngụ ngôn, Con rối, Con mọt, Tâm sự con chó già, Binh pháp, Sợi dây, Cao,). Cũng có cách nói “huỵch toẹt”, nói thẳng, “nói văng mạng” (Ưu viêt, Cố, Không đề, Trèo lên Bái Đính mà xem, Bợm, Trả giá, Về, Củ Chi, Nông dân, Ghi ở đền Bến Dược..)

Tác giả đứng trên lập trường người lính đã chiến đấu hy sinh trong kháng chiến để phê phán không khoan nhượng những cái xấu, cái bất công, cái tiêu cực trong đời sống xã hội kinh tế thị trường, vì thế sự phê phán có tính thuyết phục.

Thí dụ:

Bài Quê Chồng là một bức tranh nông thôn thê thảm.

Cùng trang lứa nhiều đứa thành ma trẻ

Cười với tấm bằng Tổ Quốc Ghi Công

Cám cảnh đìu hiu cột xiêu nhà dột

Gian giữa dành thờ liệt sĩ tổ tông

 

Mất mùa chuột, sâu, rầy múp míp

Rạ rơm teo típ níu chân người

Cua rốc, ốc nhồi thành xa xỉ

Đỉa hút máu người lởn vởn trêu ngươi

 

Đình chùa phá nát rồi lại dựng

Thánh thần phách lạc được hồi hương

Các thánh bảo nhau lo phù thịnh

Nhanh chóng ăn theo kinh tế thị trường

 

Xóm làng dang dở bê tông hóa

Đẻ nhiều đất ruộng cứ hẹp dần

Quan tham rủ nhau giành chỗ đẹp

Đầu thừa đuôi thẹo ấy phần dân

 Vợ than:-Về một lần nhớ mãi

Quê chồng nghèo quá biết làm sao

Bài Ghi ở Vườn Bách Thảo Hà Nội, chỉ thấy cảnh xơ xác:

Chỉ có hai con công nhốt trong lồng khát nước

Một đôi cầu vượt mặt rỗ da mồi

Vài đám cưới lăng xăng chàng phó nháy

Cây cõ rũ buồn

                Trầm mặc

                              Buông xuôi

 

Bài Không đề (1) là mặt trái, mặt tiêu cực của đời sống. Thực ra đó chỉ là cái nhìn chủ quan của nhà thơ. Cuộc sống luôn có hai mặt tốt/ xấu, và ở đâu trong cõi Người này, cái Thiện, cái Tốt, niềm hy vọng và sự phát triển vẫn vượt lên.

 Đến đâu cũng gặp Tiền Đường

Con sông định mệnh Kiều đương lập lờ

Đâu là bến, đâu là bờ?

Sở khanh thấp thoáng đang chờ dắt đi

 Phận ta nào có hơn gì

Thanh xuân ra trận, già thì nông nô

Rầm trời dậy đất hoan hô

Máu xương tốt cỏ nấm mồ vô danh

 

Giá đừng có cuộc chiến tranh

Bạn không chết trận yên lành thường dân

Bao nhiêu ma quỷ thánh thần

Rủ nhau quậy nước dần dần đục thêm…!

 NGHỆ THUẬT THƠ ĐÀO TRỌNG THỬ

 Đào Trọng Thử viết đa dạng các thể thơ: Lục Bát, Tứ Tuyệt, thơ 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ, thơ tự do…Lục bát có bài tài hoa (Gặp Phúc bên hồ Vân Trục, Thời của chung cư), nhưng nhiều bài gần với Vè, Ca dao (Củ Chi, Tâm sự một chó già, Về, Ma nơ canh,…). Thơ suy tưởng đa số chỉ có ý tưởng, rất ít chất thơ (In chữ, Hão, Cái còi, Ngân hang, Vốn, Ưu việt, Pháo, Cứu cánh, Bong bóng bay,…)

Nhiều bài thơ của Đào Trọng Thử được viết bằng bút pháp trào phúng. Bút pháp này đã thành “truyền thống” từ Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến, Tú Mỡ, Tú Kếu… Để tạo hiệu quả nghệ thuật, Đào Trọng Thử sử dụng nhiều kiểu cấu tứ tương phản (Gặp ở Quảng Bình, Sợ, Hải ơi, Tâm tưởng..), cách nói ẩn dụ (Phản trắc, Riềng mẻ, Không đề 1), nói bóng gió (không nói trực diện vào đối tượng, mà dùng hàm nghĩa để người đọc suy ra. (Vốn, Trèo lên Bái Đính mà xem, Có một người câm cắt tóc ở phố Ngọc Hà, Ước, Chim quý, Binh pháp, Cao, Lão Hạc…)

Thơ Đào Trọng Thử không nằm trong dòng thơ Cách mạng và kháng chiến, dù anh có viết về đề tài này, nhưng thơ anh nằm trong dòng thơ nhân văn, dân chủ”. Anh đem đến một góc nhìn khác về hiện thực, một tiếng nói phản biện so với thơ tụng ca. Những bài thơ trữ tình (Lão Hạc, Đêm trừ tịch, Hải ơi,…) có sức lay động lòng người.

Trong tập thơ này, Đào Trọng Thừ có nhiều tìm tòi về đề tài, soi vào nhiều hoàn cảnh xã hội, và có những đặc sắc riêng về phong cách. Tuy vậy, về nghệ thuật, tập thơ không có những khám phá mới (so với những tập thơ trước như Em bán sầu riêng, Trốn…). Người đọc quen với kiểu thơ Trần tế Xương, Nguyễn Khuyến sẽ thấy điều thú vị trong thơ Đào Trọng Thử. Ngược lại, người quen với thơ Hiện thực Xã hội Chủ nghĩa, quen với thơ tụng ca, quen kiểu thơ lãng mạn bỏ tập thơ của anh sang một bên.

Nhìn trong dòng chảy thơ Việt đương đại với nhiều nỗ lực cách tân của các thế hệ từ trước 1945 đến nay, với các nhà thơ tiên phong như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Pham Thiên Thư, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt và “thơ trẻ” Hậu hiện đại, thơ Tân Hình thức đầu thế kỷ XXI, thì thơ Đào Trọng Thử đã thuộc về quá vãng. Bởi vì những hiện tượng của hiện thực được Đào Trọng Thử nói đến giờ đã thành “cổ tích”.

Người đọc hôm nay quan tâm đến những vấn đề khác, tìm kiếm những giọng thơ khác, những kiểu tư duy nghệ thuật khác với “truyền thống”, bởi họ đã sống ở một thời đại rất khác với thời đại của nhà thơ cách đây bốn, năm thập kỷ.

Tháng 3. 2014

 ________________________________________ 

SAO ANH LẠI TRỐN, HỠI NHÀ THƠ!

(Đọc tập thơ TRỐN của Đào Trọng Thử, Nxb Hội Nhà Văn.2011)

Bùi Công Thuấn

 

Tập thơ đọng lại trong tôi nỗi buồn và nhiều trăn trở. Nỗi buồn thế sự của nhà thơ về thế hệ mình, thời đại mình và về chính mình. Thơ Đào Trọng Thử (ĐTT) là thơ châm biếm – trữ tình, chất trữ tình là chính. Bởi dường như anh nhận ra rằng, sự phê phán châm biếm của anh đã bị thời đại vượt qua, và tiếng thơ của anh như tan vào cõi không. Trữ tình và châm biếm hòa quyện vào nhau, và  đó là phẩm chất nghệ thuật riêng của thơ anh.

Đào Trọng Thử quan tâm đến điều gì của thực tại?

Anh châm biếm cái sai, cái nghịch lý, cái bất nhân bất nghĩa, cái trái đạo đức của nhân dân, để khẳng định cái tình cái nghĩa, đặc biệt đối với những người đã chiến đấu và hy sinh. Anh không chịu đựng được những sự việc, những con người, những hoàn cảnh của đời sống kinh tế thị trường trái với lối sống tình nghĩa, nghèo mà thanh cao của thời chiến đấu hy sinh. Trong tập thơ này, trái tim người lính trong anh vẫn dành cho đồng đội. Niềm vui, nỗi đau của anh xuất phát từ sự hy sinh của những người bạn, tương phản với đời sống xã hội thực tại.

Bốn trăm chiến binh dự Mậu Thân đẫm máu

Các anh hy sinh khi tập kích Biên Hòa

Giặc chôn các anh chung nấm mồ to quá

Hài cốt mỗi người không thể nhận ra

 

Đành chia thôi : Ôi đống xương khô lạnh

Đầu , mình, tay, chân kiếm đủ, chia đều

Chia lần lượt, trời ơi sao vẫn thiếu

Tất cả lặng câm không nghe ai kêu?!

 

Cha chia cho con nào nhà nào đất

Mafia chia nhau món lợi nhuận kếch xù

Quân tham nhũng chia nhau những đồng tiền bẩn…

(Chia)

Chiến tranh kết thúc lâu rồi

“Nhắn tìm đồng đội” của tôi chưa dừng

Nhắn người :- người dửng dừng dưng

Nhắn đất :-đất lặng không ngừng… chia lô…!

( Nhắn Tìm Đồng Đội)

 

Đoạn thơ sau đây mang đặc trưng trữ tình – châm biếm của thi pháp ĐTT. Anh châm biếm rất khôn ngoan, mỉa mai rất sâu cay sự giả dối trong cách người ta tổ chức mừng chiến thắng, nhưng không thể bắt bẻ câu chữ của anh được, bởi anh nhìn thấu cái bất nhân bất nghĩa của con người hôm nay với người đã hy sinh, và bởi cái tình của anh với đồng đội sâu nặng quá.

Đồng đội cũ gặp nhau

Xanh xao

Nói cười như mếu

Lang thang lên tàu vào Nam-ra Bắc

Lên tàu ra Bắc xuôi Nam

Tự hào

Đưa tay ngang mũ để chào

Mắt ầng ậc nước

“Nước mắt dành cho ngày gặp mặt”

Nước mắt trong những ngày lận đận

TỔ QUỐC ĐÃ TOÀN THẮNGT!

Chúng mình còn gian lao!

Nếu không có ngày 30 tháng Tư

Ta cũng không vợ, không con, không nhà

Không ruộng,

Ngồi trầm tư trên bàn thờ khói hương đứt quãng

Xương đen nằm ngoài nghĩa trang

Làm ma trẻ ngắm tượng đài sừng sững

TỔ QUỐC GHI CÔNG…

 

…Mừng Việt Nam ta thắng Mỹ

Nhà nhà cụng ly

Người người cụng ly

Chiến sỹ cụng ly

Quân tham nhũng cụng ly

Cùng nhau giết chó ăn mừng…

 

Đất nước đang thời mở cửa

Gió bốn phương, tám hướng ùa vào

Mát đấy rồi đau âm ỷ đấy

ĐAU SUỐT ĐẾN ĐỜI CON-ĐỜI CHÁU

CHÚNG MÌNH…!

(Lắng Tiếng Vỗ Tay- Nhân dịp kỳ niệm 35 năm Việt Nam thắng Mỹ- 30.04.2010)

 

Trái tim anh còn đau nỗi đau của dân tộc trong thời đại nhiễu nhương, thời đại cả dân tộc sợ ngáo ộp (Có Một Con Ngáo Ộp), thời đại oan sai không biết tìm Bao Công ở đâu (Bao Công ), thời đại mà chênh lệch giàu nghèo không sao hiều nổi (Dột), thời đại mà nhân dân xài tiền xu còn bọn nghĩ ra tiền xu lại xài tiền tỷ, chúng ném vào mặt nhân dân những đồng xu đen như ném cho lũ ăn mày (Tiền Xu), thời đại mà người thua kiện luôn là dân đen (Sạch), bởi đó là thời đại người ta đã quên bài hát “ vì nhân dân quên mình “(Bài hát Ấy Quên Rồi)

Tôi lớn lên ngáo ộp có lâu rồi

Nó hiện nguyên hình từ thời cải cách

Trong mỗi mái nhà tranh

Trên mỗi bức tường bức vách…

Làng xóm lặng câm như bãi tha ma…

 

…Trong tăm tối:

Người với người nhìn nhau ngờ vực

Con cảnh giác cha

Vợ ngờ vực chồng

Cháu đấu tố ông

Con đòi giết bố

Ngáo ộp âm thầm

Rình người khốn khổ

Nỗi kinh hoàng bạc nhược suốt trăm năm…

 

…Có một con ngáo ộp

Ngự trị trong anh

Ngự trị trong em

Ngự trị trong lòng dân tộc

Khổ đau cho tổ quốc này

Buồn thay!

(Có Một Con Ngáo Ộp)

Bài thơ dùng ngôn ngữ ẩn dụ chỉ những người đương thời với tác giả mới hiểu, hoặc nếu biết lần theo câu thơ Tố Hữu thì có thể nhận ra. Những thế hệ hôm nay sẽ chẳng hiểu được ngáo ộpmình đồng da sắt/ Trăm mắt, trăm tay thật sự là gì, và bởi họ không hiểu nên không còn sợ ngáo ộp nữa. Thí dụ, vụ cưỡng chế đất tại Tiên Lãng mà Đoàn Văn Vươn dám chống lại Ngáo Ộp. Rất tiếc tập thơ này in trước sự kiện nấy, nếu không tôi tin Đào Trọng Thử đã có thơ, nhưng mà nhà thơ đã “TRỐN” thực tại hôm nay rồi, bạn đọc sẽ chẳng được đọc những bài thơ không sợ ngáo ộp của Đào Trọng Thử. “Buồn thay!”Ấy là tôi chỉ giả định vậy thôi, nhà thơ hôm nay đã không còn là anh lính chiến năm xưa nữa, mà “ giờ đây thanh thản đợi giờ để bay”(Lên Lão)

Và đây là nỗi đau đã bật thành tiếng cười bất lực, bởi thời đại hôm nay đã đánh mất lý tưởng:

Thời anh là lính chiến

Đêm ngày “Hành quân xa”

“Bác vẫn cùng chúng cháu”

Ngày nào anh cũng ca

 

“Vì nhân dân phục vụ”

“Vì nhân dân hy sinh”

Vì nhân dân quên mình”

Cà toàn quân cùng hát

 

Đất nước giờ đổi khác

Thêm nhiều bài hát hay

“Vì nhân dân “ quên khuấy

Cúi đầu chào- bó tay…!

(Bài hát Ấy Quên Rồi)

 

Đào Trọng Thử trốn đi đâu?

Đào Trọng Thử lấy tên tập thơ là “TRỐN”, bạn đọc sẽ tự hỏi tại sao nhà thơ lại trốn, trốn đi đâu, thái độ của anh là thế nào trong cuộc chạy trốn?

Vào rừng để nhớ chiến tranh

Một thời khốc liệt toàn anh lính quèn

Phố phường sống gấp không quen

Quên nhanh thớ lợ, nghèo hèn nhớ lâu

 

Rừng ơi đồng chí ở đâu?

Cây rưng rưng lặng. Ve sầu điên điên…!

Vào rừng ngỡ gặp bạn hiền

Bạn hiền nhiều đứa xuôi miền hư vô

 

Vào rừng chạy trốn hoan hô

Hoan hô xô lệch cơ đồ nước Nam

Trốn phố phường cái túi tham

Cùng rừng ta tiếp tục làm con dân..!

(Trốn)

Như vậy là đã rõ. Anh trốn cuộc sống gấp ở phố phường, trốn sự giả dối, trốn sự gian tham. Anh lên rừng sống với đồng đội lính quèn chân thật, sống với những đồng chí, những người đã xuôi miền hư vô. Thực ra đó chỉ là cách nói ẩn dụ. Nhà thơ không thích hợp với đời sống kinh tế thị trường, bởi vì người “Làm kinh tế có trăm phương ngàn kế”(Âm Thịnh), lũ người sống xung quanh  chẳng khác gì lũ đười ươi, thực ra đười ươi khác người bởi chúng không ngậm tăm như người (Ngậm Tăm). Anh không sống được với bọn quan tham kiếm tiền như làm xiếc (Xiếc), trong khi người nghèo hiền lành chân thật như Thạch Sanh  vẫn bị lừa (Thạch Sanh). Dẫu vậy, anh không dấu được những cơn giận điên người trước thủ đoạn và tội ác mà tập đoàn Vê-Đan gây ra cho quê hương Đồng Nai (Bột Đắng)

 

Ai trực tiếp giết sông

Là gián tiếp giết người

Sông chết bây giờ

Người sẽ chết mai kia !

 

 Lửa đã cháy! Chuột đã lòi mặt chuột

Tập đoàn Vê-Đan ăn năn hối cải

Đã muộn rồi !

Bột ngọt các ngươi trở nên đắng chat

TẬP ĐOÀN VÊ-ĐAN LÀ TẬP ĐOÀN TỒI”

 

Câu thơ ngắn lại với giọng quyết liệt, câu thơ bùng lên như lửa cháy. Những tưởng lửa căm giận, lửa của lòng yêu nước thương dân sẽ thiêu sạch bọn chuột Vê-Đan. Vậy mà anh chỉ kết luận  bằng một câu chẳng có một tí trọng lượng nào. Câu thơ đa số là tiếng bằng, nhạc điệu buồn, chậm lại và buông xuôi như người lính gục xuống. “TẬP ĐOÀN VÊ-ĐAN LÀ TẬP ĐOÀN TỒI”

. Phải chăng bút lực của anh đã sức cùng lực kiệt? hay kẻ thù quá lớn đến nỗi, dù súng đạn anh có thừa, anh cũng chẳm làm nên trò trống gì? Thơ anh chỉ còn là những lời hô hào suông, không lay động được những tâm hồn đồng điệu khác, không  gợi được cái hào khí hùng ca của thơ ca thuở trước! Hay tại đề tại anh chọn báo chí đã khai thác cạn kiệt, mà tài thơ của anh không thể gây sóng? tất nhiên chẳng ai đòi nhà thơ phải xông lên chiến đấu như người lính năm xưa, nhưng ít ra tư tưởng, tình cảm và ngọn lửa yêu nước trong lòng anh phải rực sáng, trong thời đại mà anh bảo là “Chặng đường phía trước còn tăm tối/ Đời còn lâu nữa mới bình minh “(Tự)

Hồn thơ ĐTT chỉ thực sự bình yên khi trở về với đồng quê xanh mát tình người

Phở bò, lẩu Thái cho qua

Mẹ ghiền bánh đúc – thứ quà nhà quê

Bánh đúc bát, bánh đúc sề

Lạc rang ít hạt bùi tê tái…bùi…

 

Mẹ ăn bánh : Con bùi ngùi

Bao bà Mẹ – Giống mẹ tôi hở giời?!

Nồng nàn tấm bánh đúc vôi

Quốc hồn dân Việt dâng đời thảo thơm…!

(Ca bánh Đúc- Kính tặng các bà mẹ Việt Nam)

 

Cha tích cực trồng cau

Để kiếm mo làm quạt

Trời dộp phồng khô khát

Thương mẹ già mỏi tay …!

(Mo Cau)

Ước gì trở lại ngày xưa

Đời yên tình thắm trâu đùa cùng ta

Cỏ non xanh lại đồng nhà

Trâu xơi thỏa chí, khỏi qua đồng người”

(Trâu Về)

Ở những bài thơ trên (Ca Bánh Đúc, Sen, Hoa Lau, Rau tàu bay, Lá Trung Quân,Thày Ơi, Nước Mắt Chảy Xuôi, Mo Cau, Trâu Về..), thơ ĐTT hiền lành hơn, chất trữ tình đậm đặc hơn. Hồn thơ sâu nặng nghĩa tình. Tính châm biếm chỉ còn là nỗi xót xa rất nhẹ nhàng. Nói điều này để thấy những bài thơ châm biếm của anh xuất phát từ những nỗi bức xúc thế sự không dằn lòng được, còn căn cốt hồn thơ anh là tiếng nói trữ tình.

Thở phào : Thoát khỏi hương dương

Chuyển sang hưởng thọ : đọan trường còn xa…?!

Bao nhiêu lần suýt làm ma

Rồi con, rồi cháu đầy nhà như ai

Ngẫm mình có tí tẹo tài

Hành nghề chữ nghĩa với vài tập thơ

Xuống ruộng chán, lại lên bờ

Giờ đây thanh thản đợi giờ để “bay”

Của riêng “còn một chút này”

Ai khen : Cảm tạ- ai rầy : Cám ơn…!

(Lên lão-2009)

 

Nằm trong dòng thơ trữ tình của ĐTT là những bài anh viết cho các công ty (Tình Trong Ly Cà Phê, Những tiếng Đập Sữa, Gửi Người Mặc Áo Nàng Bân, Những Cái Râu Mực). Những bài này chất trữ tình lấn át hẳn chất quảng cáo, khiến cho người đọc chợt ngỡ ngàng về tài thơ của anh. Bởi khi viết thơ châm, người thơ chú trọng đến đối tượng châm biếm và các kỹ thuật viết thơ châm, khiến cho chất nghệ thuật của ngôn ngữ văn chương bị giảm đi (thí dụ các bài : Không Đề, Gặp Lại Cây Sung, Bình Quân, Mèo, Đầy Tớ Còn Đang Họp…)

Thơ châm của Đào Trọng Thử có gì đặc sắc?

 Nghệ thuật châm biếm trào phúng của ĐTT là nghệ thuật của thơ trào phúng truyền thống. Anh hay dùng thủ pháp tương phản để bật ra cái mâu thuẫn gây cười, tiếng cười đánh thẳng vào kẻ xấu, cái xấu. Anh cũng có những bài sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để khái quát về một vấn đề (Mối, Gặp Lại Cây Sung, Không Đề, Rác, Thạch Sùng, Xuân Tóc Đỏ, Thạch Sanh, Lý Thông, Chí Phèo, Thi hào Nguyễn Du, Có Một Con Ngáo Ộp) Lập trường của anh là lập trường nhân dân, chính nghĩa của anh là chính nghĩa dân tộc, tình cảm yêu thương chiến đấu của anh là tình cảm thiên về đạo lý của nhân dân. Trong thơ anh, rất hiếm khi gặp được Cái Tôi

Tiền Xu

Kẻ nghĩ ra tiền xu

Lại đang xài tiền tỷ

Hắn ung dung

Búng

        Những

                  Đồng

                           Xu

                               Han gỉ

Lăn

      Lăn

           Lăn

Về phía lũ ăn mày

 Bài Cấp Độ được viết như một tiểu phẩm hài.

Đỉnh tầng năm khách sạn 5 sao

Nhìn xuống cánh đồng ven đô

Cán bộ tỉnh trầm trồ :

  • Ôi! Lúa mùa chin vàng mơ, đẹp quá!

Cán bộ huyện tán dương hể hả

  • Một cánh đồng màu mỡ

Dân trồng toàn lúa nếp

Hứa hẹn vụ mùa bội thu

 

Cán bộ xã gãi đầu, gãi tai :

  • Hổng dám đâu, đất quy hoạch sân gôn

Nông dân đã nhận tiền rồi

Màu vàng cỏ tranh thôi

Kính thưa các sếp…!

 

Nhưng tuyệt kỹ châm biếm của ĐTT phải kể đến bài Lắng Tiếng Vỗ Tay, Bài Học Vỗ Tay, Thưởng. Anh nói rất thật, nhưng lại là châm biếm, và châm biếm sâu cay. Cái đau không phải là ở đối tượng bị châm biếm mà lại nỗi đau không kìm nén được trong lòng anh. Anh phê phán thói giả hình, thói vong ân bội nghĩa của cuộc đời và xót xa cho những người đã chiến đấu và hy sinh. Anh chỉ ra trong cái ồn ào, xô bồ, phô trương hình thức, đâu là bản chất của sự giả dối vong ân. Nội dung trở nên trào phúng khi ngôn ngữ của anh đang bình thường bỗng chuyển sang cường điệu hoặc tương phản

 

…Ba mươi lăm năm ăn mừng toàn thắng

Người sống ngồi cùng người chết

Cùng lắng nghe biển người

Vỗ tay rào rào hoan hỷ

Bắt tay đồng chí- đồng bào

Tiếng vỗ tay đều đặn, tự hào

Tiếng vỗ tay vang vang như biển động sóng trào

Tiếng vỗ tay như sấm rền tít tận trời cao…

Mừng Việt Nam ta thắng Mỹ

Nhà nhà cụng ly

Người người cụng ly

Chiến sỹ cụng ly

Quân tham nhũng cụng ly

Cùng nhau giết chó ăn mừng

Tự hào ngày 30 tháng Tư góp mặt chúng mình

Tự hào có chúng mình mới có ngày 30 tháng Tư

Đồng đội của tôi ơi hãy im lặng lắng nghe cả nước vỗ tay

Vỗ đến tấy đỏ cả hai bàn tay vẫn còn mãi vỗ…

            (Lắng Tiếng Vỗ Tay)

 

12 câu thơ đầu mang ý nghĩa bình thường, vì vui nên có hơi lãng mạn một chút, nhưng khi bật ra câu 13 “Quân tham nhũng cụng ly” và câu 18:” Vỗ đến tấy đỏ cả hai bàn tay vẫn còn mãi vỗ…” thì toàn bộ nội dung trước đó trở nên trào phúng, châm biếm. Bởi tất cả những gì đang diễn ra, niềm vui, niềm tự hào, tình đồng chí đồng bào, ý nghĩa sự thắng lợi, ý nghĩa của lòng tri ân chỉ là giả dối, là hình thức, là ngụy trang. Làm gì có chuyện cả nước vỗ tay đều đặn? làm gì có cảnh Nhà nhà cụng ly/ Người người cụng ly/ Chiến sỹ cụng ly/ Quân tham nhũng cụng ly/ Cùng nhau giết chó ăn mừng. Làm gì có cảnh cả nước vỗ tay/Vỗ đến tấy đỏ cả hai bàn tay vẫn còn mãi vỗ. Chính sự cường điệu, sự diễu nhại này tạo ra ý nghĩa châm biếm, làm đảo ngược ý nghĩa nội dung tưởng như thật được ĐTT miêu tả. Trong đoạn thơ trên cũng cần thấy tài năng dựng cảnh, tài năng ,”chộp” những hình ảnh sắc nét, bất chợt, tài năng đặt bên nhau những cái tương phản để tạo ra một không gian nghệ thuật vừa cụ thể, vừa có sức khái quát, vừa rất thật, nhưng vừa là sự lật nhào tất cả làm lộ ra những gì là giả dối, sự giả dối lớn lao, sờ sờ ra đó trong thời đại hôm nay (cả nước-vẫn còn mãi). Cái đau là ở những người như “chúng mình”. Tự hào có chúng mình mới có ngày 30 tháng Tư/ Đồng đội của tôi ơi hãy im lặng lắng nghe cả nước vỗ tay.

Có thể bạn đọc sẽ không đồng tình với ĐTT về cách nhìn và cách phản ánh, phân tích hơi quá đáng của anh về hiện thực. Cả tập thơ chỉ phản ánh hiện thưc đau lòng của số phận nhân dân, của người lính sau chiến tranh, hiện thực giả dối, hiện thực bất công của thời kinh tế thị trường, anh ước mơ trở về “ngày xưa”, thời chiến tranh, tuy gian khổ nhưng nghĩa tình chân thực, đằm thắm. Tuy không nói thẳng ra, nhưng anh đòi hỏi phải có một xã hội công bằng, “Cơm no, áo ấm nhà nhà”, đòi hỏi những người đã chiến đấu hy sinh phải được bù đắp xứng đáng. Anh ca ngợi cuộc sống thanh bần. Cái nhìn của anh bi quan trước hiện thực, có đôi khi anh thỏa hiệp với hiện thực (Mừng Thọ Bác Bùi Tứ Hải, Thiên Đường,…).

Thực ra chiến tranh đã qua lâu rồi (37 năm), chẳng còn ai mong trở về cái thời đau thương ấy nữa. Bây giờ là thời khép lại quá khứ hướng đến tương lai, thời của “nước giàu, dân mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minhsẽ chẳng  ai ngồi ôm đống xương người chết mà khóc (dù công việc đền ơn đáp nghĩa, tìm hài cốt liệt sĩ vẫn đang tiến hành), chẳng còn ai thích ăn rau tàu bay, dùng quạt mo cau nữa (Rau Tàu Bay, Mo Cau). ĐTT cố níu kéo cái thời quá vãng ấy, liệu anh có đủ sức không?

Cũng cần thấy điều này về mặt nghệ thuật, ĐTT có những phát hiện rất tinh tế, rất thơ cũng rất tư tưởng ở những sự vật sự việc của đời thường, qua đó anh đặt vấn đề làm “nhức đầu” người đọc (Hoa Lau, Rau Tàu Bay, Âm Thịnh, Tiền Xu, Mối, Nhắn Tìm Đồng Đội, Cấp Độ). Đọc những bài thơ này, người đọc vừa thấm thía, vừa thú vị. Thấm thía ở vấn đề anh đặt ra, thú vị ở nghệ thuật thể hiện. Xin đọc Tiền XuCấp Độ là hai bài tiêu biểu. Tuy vậy không phải bài nào anh cũng thành công. Bình QuânNgậm Tăm là hai bài rất ít sáng tạo nghệ thuật. Bài Ngậm Tăm (07.2010) của ĐTT chắc chắn là sự diễn đạt lại dưới dạng thơ ý tưởng chủ đề của truyện ngắn Thói Ngậm Tăm (12.2007) của Khôi Vũ. Còn Bình Quân là câu chuyện giả định được kể nhiều trong dân gian để mỉa mai cách tính GDP theo bình quân đầu người. ĐTT chỉ ghi lại câu chuyện mà không có sáng tạo gì mới hơn. Bài Mèo thực sự chưa đem đến cho người đọc cảm xúc thẩm mỹ cần thiết để cảm nhận đó là một bài thơ, ngoài sự chia sẻ một nhận định bi quan của tác giả “Người đời ai chẳng một lần/ Mèo…!”

Có một con gà luộc

Bình quân cho hai người

Kẻ giầu thản nhiên chén

Người nghèo nhăn răng cười…

(Bình Quân)

Nếu Đào Trọng thử phát huy được mặt mạnh của mình cả trong thơ trữ tình và thơ châm biếm, anh sẽ có nhiều thành công hơn, bởi anh có được cái nền tình nghĩa sâu nặng với nhân dân, sử dụng được kỹ thuật thể hiện của nhân dân, và anh hòa mình vào trong nhân dân để cảm nhận, lên tiếng về những vấn đề của đời sống đương đại, mà tầm nhìn của anh vừa có chiều lịch sử, vừa có chiều hiện đại (Có Một Con Ngáo Ộp- Bột Đắng; Sen-Cấp Độ…). Trong tập thơ TRỐN anh không có bài thơ cách tân theo khuynh hướng của thơ Việt đương đại, tuy vậy tập thơ định hình được khuôn mặt thơ Đào Trọng Thử với hai nét sắc xảo là  trữ tình và châm biếm. Đào Trọng Thử vẫn trung thành với con đường đi riêng trong cá tính sáng tạo, và ít nhiều anh đã có được thành công.

Dù sao ý niệm “trốn” trong thơ ĐTT cũng gợi ra thái độ an bần lạc đạo của nhà Nho xưa, tuy ĐTT chưa bao giờ là nhà Nho, mà tính cách của anh là tính cách con nhà lính.

 

Cháu nội cháu ngoại đầy nhà

Gặp nhau thì vẫn cứ là mày tao

Ngỡ như vừa mới hôm nào

Tha La, Vườn Mít, đội tao đội mày

Trộm rau bắt gặp thì “vay”

Mổ thương binh giỏi, đứ tay la làng

Lính quèn rất khoái xài sang

Đèn Nghéo, đài Nhật nghênh ngang rừng già…

Chiến trường ôn lại mắt cay

Rưng rưng nhớ bạn bấy chầy “tiêu dên”

Miền Đông ác liệt nỡ quên?

Mất toi tuổi trẻ bắt đền ai đây?!

Ăn mừng cuối tháng Tư này

Sang năm gặp lại chúng mày Hăm ba…

(Ngẫu hứng K23)

Ghi chú: Bài đã in trong tập Hoa đỏ bên sông. Nxb HNV .2014

____________________________________

ĐẤT TRỜI VẦN VŨ-Nguyễn Một

 

 

 

CÂU CHUYỆN CỦA KẺ CHƠI DAO

Đọc tiểu thuyết Đất Trời Vần Vũ của Nguyễn Một, Nxb Hội Nhà Văn 2009

Bùi Công Thuấn

 

sachhay

Ai cũng biết rằng văn chương là sự sáng tạo cái đẹp bằng ngôn từ, và tác phẩm văn chương là sự lên tiếng của nhà văn trước hiện thực thông qua hình tượng nghệ thuật. Khi đọc tác phẩm văn chương, tôi thường tìm kiếm sự sáng tạo cuả nhà văn và suy gẫm về những thông điệp nhà văn gửi gắm trong tác phẩm. Quả là thú vị nếu gặp được những sáng tạo mới mẻ, độc đáo. Bây giờ có người coi sáng tác văn chương là trò chơi chữ nghiã, nhưng tôi tin rằng nhà văn không chỉ là người “mua vui” cho thiên hạ, mà còn là người sáng tạo, góp phần làm nên bộ mặt văn hóa của thời đại. Ngòi bút cuả nhà văn có sức mạnh…

Tôi sẽ viết những cảm nghĩ cuả mình một cách tự nhiên như nó xuất hiện khi tôi đọc tác phẩm, ngổn ngang như nội dung cuả Đất Trời Vần Vũ, và theo cái cách bây giờ người ta đọc văn bản. Văn bản có nhiều nghiã, diễn giải là vô tận, người đọc giải mã theo cách hiểu văn bản của riêng mình. Có khi cách hiểu của người đọc không trùng khớp với ý định chủ quan cuả tác giả. Cũng dễ hiểu, vì tác phẩm là một sinh thể biệt lập với tác giả, là một thế giới riêng, thế giới do người đọc hình dung ra và gán nghĩa cho nó. Khi đứa con tinh thần ra đời thì cũng là lúc tác giả bị khai tử (Roland Barthes). Tác phẩm thuộc về người đọc.

CÂU CHUYỆN “CON DAO QUYỀN LỰC”

            Đất Trời Vần Vũ có hai câu chuyện được kể theo cấu trúc song song. Một câu chuyện ở hiện tại: Đám tang lão Tư Ngồng; một câu chuyện ở quá khứ, do nhân vật Nhà Thơ kể. Đó là câu chuyện về dòng họ Tư Ngồng và con dao quyền lực.

Câu chuyện ở hiện tại: Trong quán cafe của Lụa, Bảy Tánh thông báo tin Tư Ngồng chết bí ẩn (chương 1), sau đó là việc chuẩn bị đám tang (chương 2) và chôn cất Tư Ngồng (chương 40). Rải khắp 27 chương sau đó là những sự việc và con người liên quan đến Tư Ngồng. Ông đã đi chiến đấu vì lý tưởng, vì tình yêu quê hương đất nước. Khi hoà bình, ông có chức có quyền và đặc biệt nắm trong tay quyền lực bí mật từ con dao, ông đã thay đổi (tr. 316). Ông chiếm đoạt Lan, cô gái quê từ tay Trần Đình, bằng thủ đoạn. Ông chiếm đoạt Biển, giám đốc ngân hàng bằng quyền lực. Ông chiếm đoạt Diễm bằng tiền (tr.318), và sau cùng, chết bằng chính lưỡi dao quyền lực của mình.

Chuyện quá khứ do nhân vật Nhà Thơ (Miên Trường) kể gồm 13 chương, xen kẽ với tuyến truyên hiện tại. Nhà Thơ kể lại câu chuyện về con dao quyền lực mà dòng họ Trương Phước có được từ thời ông tổ Trương Phước theo Trần Thượng Công. Trương Phước đã dùng con dao quyền lực hãm hại nhà họ Trần. Tội ác chồng chất từ đời Trương Phước đến cháu là Trương Phước Loan, đến người cuối cùng là Trương Phước Tư (Tư Ngồng). Khi chôn Tư Ngồng, ni cô Diệu Lan (vợ Tư Ngồng) đã ném con dao xuống huyệt.

HÃY NGHE TIẾNG NÓI CỦA NHÀ VĂN

Có hai dang phát ngôn cuả nhà văn trong tác phẩm: Tác giả phát ngôn gián tiếp qua lời nhân vật, qua hệ thống hình tượng và lời bình ngoại đề.

Đã có một thời Nguyễn Một dạy học, hiểu thực tại của đời nhà giáo, anh viết về giáo dục Việt Nam như sau: Giáo viên khổ vì chuyện vẽ vời của mấy ông lãnh đạo bên giáo dục (tr.114), đó là một nền giáo dục tồi tệ (tr.121). Muà hè, các thầy cô giáo có một tháng nghỉ ngơi, trước khi vào mùa hành xác với những giáo trình nhàm chán, được đặt tên là ‘bồi dưỡng nghiệp vụ’ (tr.196). “Các thầy giáo, những trí thức của đất nước như em mà hàng tháng tranh giành nhau cái lốp xe đạp theo phân phối. Các cô giáo hàng tháng được phát hai tấc vải mùng để làm băng vệ sinh, xài xong giặt phơi và để dành các tháng còn lại may mùng để ngủ, anh chưa thấy ở đâu trên thế giới này, con người sống nhục nhã như thế “(tr.225). ”Thời buổi gì mà ngành giáo dục cũng có tham nhũng thì còn ra cái thể thống gì”(tr.200). “Hoá ra lâu nay lũ trẻ bị lưà dối, Cả nền giáo dục bị lưà dối”(tr.310).

Mượn lời bà Năm Trầu, Nguyễn Một chửi cán bộ Nhà nước tha hoá như Tư Ngồng (cán bộ cấp cao, tr. 285) là “cái đồ dô ơn bạc nghiã “(tr.52), làm quan bây giờ là để hưởng thụ, vì “Kẻ chiến thắng phải được hưởng thụ những chiến lợi phẩm mà họ đã bỏ xương máu ra đổi lấy, đó là lẽ tự nhiên thôi, từ xưa đến giờ là thế, chế độ nào cũng vậy thôi”(tr.61). Chuyện cán bộ lợi dụng quy hoạch để cuớp đất khiến cho nhân dân phải đấu tranh, đả đảo (chương 32, tr.264), Nguyễn Hữu Trí đi đòi công lý bị bắt (tr.209), Nguyễn Một than lên rằng Vân Tiên, Tử Trực chết hết rồi (chương 25)!

Nguyễn Một cũng không ngại khi phải đề cập tới những vấn đề “nhạy cảm”, có thể gây ngộ nhận: Trần Thượng Công suy tư về xứ sở phương Nam, ông cay đắng nhớ lại sự cai trị cuả người Mãn trên đất nước ông. “Ông không thể nào chịu đựng nổi bọn mọi rợ phương bắc lại có thể cai trị đất nước ông”(tr.28), ông còn nghe được lời thề cuả dân chúng “kề vai sát cánh với Chuá chống lại kẻ thù chung là Trung Quốc “(tr.30).

Ấn tượng mạnh mẽ là tiếng nói phản kháng chiến tranh. Chiến tranh đồng nghiã với chết chóc. Cha Diệu Lan đã nghĩ thế này: ”Ông chẳng có lý tưởng chính trị gì cả, là người nông dân, ông yêu ruộng đồng và ghét chiến tranh, cuộc chiến liên miên trên quê hương ông, người chết như rạ “(tr.72). “người anh hùng “ Trần Đình đi kiếm đàn bà, gây ra hai cuộc tàn sát trên cù lao Dao (chương 11). Nguyễn Một cũng đồng nhất những cuộc tàn sát cuả lính ngoại cuốc thời chống Mỹ với cuộc tàn sát vì hận thù tư lợi cuả Nguyễn Biện (chương 36). Anh không coi đâu là chiến tranh chính nghiã hay phi nghiã. Anh gọi chung là đội quân cứu nước, lính Cộng Hoà, lính ngoại quốc. Anh bảo, “Mọi cuộc chiến nhìn từ phiá trước đều là chính nghiã (tr.92), như vậy nếu nhìn từ phiá sau hay nhìn từ phiá khác, thì sẽ thế nào? Chính nghiã hay không là tuỳ thuộc vào phiá người đứng nhìn. Cách đặt vấn đề như thế là rất khác với cách nhìn cuả những nhà văn trực tiếp sống chết ở chiến trường chống Mỹ (Anh Đức, Nguyễn Thi…).

“Tư tưởng” được Nguyễn Một khẳng định trong tác phẩm là: “Tình yêu đã cứu thế giới này, tình yêu mới thực sự có quyền lực và sức mạnh”(339). Anh có nói đến Phật, đến sư bà, ni cô Diệu Lan, nhưng họ vẫn vướng bận lòng trần, không siêu thoát được. Anh ca ngợi Chuá Kitô. “Ở đời này chuyện chết, sống là chuyện tương đối. Vì vậy, tôi tin vào sự phục sinh cuả Chuá Kitô, người ta đóng đinh thể xác Ngài vào cây thánh giá, nhưng triết lý ‘yêu thương loài người’ vĩ đại của ngài giúp cho Chuá ‘phục sinh’ trong lòng con người ‘ như bây giờ và hằng có đời đời chẳng cùng’”(232). Tư Ngồng mặc dù có lưỡi dao quyền lực nhưng không thể giết được Diễm khi Diễm đang hạnh phúc trong tình yêu bên Phong, trái lại, lưỡi dao quyền lực ấy quay lại giết lão.

Hình tượng tư tưởng xuyên suốt tác phẩm là “con dao quyền lực” và ý nghiã “chơi dao có ngày đứt tay”. Con dao quyền lực cuả dòng họ Trương Phước đã gây hoạ đến người cuối cùng cuả dòng họ là Tư Ngồng. Nguyễn Một không miêu tả cụ thể Tư Ngồng có quyền lực gì, anh chỉ nói quyền lực ngầm. Tư Ngồng có ăn chơi, có giết đồng đội, có tranh quyền (nhưng có lý do), nhưng do đâu anh ta có tiền, do dâu có quyền thì Nguyễn Một không lý giải. Cái chết cuả Tư Ngồng không do hậu quả tranh giành quyền lực giưã các thế lực xã hội, mà chết do vỡ tim, vì lưỡi dao vô hình (Một cách lý giải duy tâm).

Phải chăng đây là cái khó của chính tác giả? Nhà văn biết rõ “con dao quyền lực“ là gì,  ai nắm quyền lực ngầm ấy, họ sử dụng quyền lực ấy để làm gì, nhưng nhà văn không dám nói thẳng ra. Cuối cùng, Diệu Lan vứt con dao quyền lực ấy xuống mộ huyệt cuả Tư Ngồng. Hình tượng con dao quyền lực chưa đủ sức chuyển tải tư tưởng.

Nguyễn Một giải quyết mọi mâu thuẫn thù hận trong cõi đời vật chất này bằng thế giới song song, vậy hình tượng này có ý nghiã gì?

Đó là một thế giới “không có hận thù, chiến tranh và những tranh chấp vật chất như chùng ta, nhưng tình yêu thì vẫn tồn tại, bởi tình yêu không là dạng vất chất”(tr.85). Có thể đó là một thế giới lý tưởng mà Nguyễn Một mong muốn có được trong cõi đời này khi anh thể hiện tinh thần phê phán chiến tranh. “Tôi đã gặp ông già người Mạ, kẻ đã đưa tôi vào thế giới song song để tránh cuộc chiến mà tôi chán ghét và sợ hãi “(tr.137). Nhưng trong xử lý nghệ thuật, anh đã không đạt được ý nguyện cuả mình. Anh vẫn phải vay mượn tư tưởng về kiếp sau cuả tôn giáo khi cho nhân vật đầu thai lại cõi nhân gian này (Linh Chi treo cổ và đầu thai lại), tất cả các nhân vật chết, đều vào thế giới song song, nhưng anh không miêu tả họ sống thế nào trong thế giới ấy. Vưà từ giã thế giới vật chất, họ bị lôi đi, nhẹ tênh, không còn thù hận, thế thôi. Cha mẹ Lụa, Lài chết vì đi vớt cá, không thấy có mặt trên thế giới song song. Trần Đình kể cho Nhà Thơ nghe cuộc hỏi cung cuả Tư Ngồng khi gặp nhà thơ ở thế giới song song. Và Khi đã ở trong thế giới song song, Thắng vẫn nhìn cô giáo tắm, vuốt ve thân thể cô giáo! (tr.288). Có lẽ đây là thế giới song song theo giả thuyết của khoa học vũ trụ, không phải thế giới tâm linh của tôn giáo hay thần thoại?

Có thể là, Nguyễn Một mới tưởng tượng ra một thế giới riêng để lạ hoá văn chương và giải quyết những vấn đề không thể giải quyết trong thế giới thực tại. Trong tôn giáo và thần thoại, thiên đàng, điạ ngục, niết bàn, cõi tiên là thế giới tâm linh đã được dân gian miêu tả cụ thể, nơi ấy có thưởng có phạt rạch ròi, không sống chung hoà bình giưã kẻ xấu, kẻ ác với người hiền. Vì thế, thiên đàng, điạ ngục có ý nghiã giáo dục đối với tín đồ đang sống trong cõi nhân gian. Trái lại, thế giới song song của Nguyễn Một không có ý nghĩa ấy đối với nhân vật của mình:”Hoá ra thế giới vật chất này có quy luật riêng cuả nó không lệ thuộc vào thế giới song song”(tr.338).

Trong Đất Trời Vần Vũ, Nguyễn Một muốn đem tất cả những vấn đề thời sự (dương thời) vào tác phẩm. Chương 28, 29 kể chuyện Nguyễn Hữu Hà, anh cuả thầy giáo Nguyễn Hữu Trí. Hà vượt biên, phải ăn thịt người, được định cư ở Đan Mạch, sau đó chán nản, trở về Việt Nam, có lẽ nhà văn muốn khẳng định rằng không đâu hạnh phúc bằng ở Việt Nam (?). Có điều, chương 28, 29 này không kết nối gì với câu chuyện của Tư Ngồng. Cũng vậy, Nguyễn Một đưa Hồi Ký Nguyễn Đăng Mạnh vào (không nói rõ tên) và lên án cả nền giáo dục, có lẽ là để thêm thắt vào cho phong phú cốt truyện chính (chương 37. Tr. 310). Chuyện tù cải tạo của Bảy Tánh là một chuyện ngoại đề. Sự dung nạp vào trong tác phẩm những vấn đề nóng của thời đại, và lên tiếng nói trực tiếp về những vấn đề đó là để ghi lại cái thời đang sống, ghi cái dấu ấn của một thời. Điều này có giá trị hiện thực nào đó. Nhưng khi thời sự qua rồi, còn lại giá trị tư tưởng nghệ thuật gì cho tác phẩm. Ngày nay (2018), chẳng ai còn nói đến chuyện vượt biên, chuyện cải tạo. Nhà trường không còn tranh tre lá nứa của một thời…

Chuyện nhà văn gọi cù lao Phốcù lao Dao, là một dụng ý nghệ thuật, một biện pháp mã hóa hiện thực để né tránh những phiền toái do ngòi bút gây ra. Trong truyện, Nguyễn Một đề cập đến những điạ danh thật của Đồng Nai (Đá Ba Chồng Định Quán-143, Miệt vườn Long Khánh-198, căn cứ Bàu Hàm-208…) nhưng không nói trực tiếp đến Cù lao Phố . Nhà văn gọi Cù lao DaoCù lao Phố trong thế giới song song (chương 14) mà lịch sử không ghi chép lại, không đụng tới. Nếu miêu tả bằng bút pháp hiện thực những chuyện ở Cù lao Phố, người đọc sẽ nghĩ rằng ở cù lao Phố, cán bộ hầu hết tha hoá như Tư Ngồng? Nơi đó người ta mặc sức chém giết để giành lấy quyền lực. Những người dân thấp cổ bé miệng như bà Năm Trầu, Ba Thược, thầy giáo Trí đành bất lực đi tìm công lý…và người ta truy ra tác giả muốn nói về ai. Không phải vô tình người ta đã đặt vấn đề này khi săm soi tác phẩm?

Những chuyện vượt biên, chuyện dân khiếu tố vì đất bị quy hoạch, chuyện tiêu cực trong giáo dục, cuốn Hồi Ký cuả GS Nguyễn Đăng Mạnh, hồi ký của Nhạc sĩ Tô Hải, bút ký chính trị cuả Nguyễn Khải tung ở trên Internet, chuyện cán bộ tha hoá, báo chí đã nói quá nhiều rồi, noí mạnh mẽ. Vì chuyện “thời sự” của Đất trời vần vũ không thể làm “nóng” các diễn đàn như tác giả mong muốn (?). Có thể là do bức xúc cá nhân mà tác giả hóa thân vào tác phẩm để lên tiếng nói phê phán hiện thực. Chẳng hạn chuyện giáo dục. Vì lý do riêng Nguyễn Một đã bỏ nghề dạy học (trước đây Nguyễn Một dạy học- tr.177), nhưng nếu tất cả thầy cô giáo đều vì chán mà bỏ dạy thì đất nước này sẽ thế nào? Chỉ một lời nói của em bé với người tù cải tạo mà anh thoá mạ cả nền giáo dục của miền Bắc (tr.121), anh ca ngợi người tù cải tạo miền Nam! Điều ấy là không công bằng. Tôi nghĩ tác giả hoàn toàn có quyền đưa ra ý kiến chủ quan của mình. Tuy nhiên, nếu chỉ qua lời một em bé (trẻ con chưa có ý thức chính trị) mà phủ định mọi giá trị của nền giáo dục miền Bắc, người đọc sẽ phải hoài nghi thái độ diễn ngôn của tác giả.

Người đọc còn tìm thấy nhiều phát ngôn cuả Nguyễn Một về nhà thơ (tr.174), về Bùi Giáng, về “văn học khai khẩn “(tr.199), “tính đặc thù” cuả miền Đông gian lao mà anh dũng (tr.14), những câu triết lý về cuộc đời, chẳng hạn:” biết bao cuộc chiến tranh trên thế giới này vì người đàn bà “(164)’ hoặc, “chỉ cần họ tin có thần thánh, cho dù điều đó có tồn tại hay không thì thần thánh và linh hồn cũng giúp con người sống tốt hơn em ạ”(tr.233), những điều như vậy chưa đủ sức nâng tầm tư tưởng của tác phẩm.

Những yếu tố kiến tạo tác phẩm như kể truyện theo hai tuyến song song, thế giới song song, không phải là sáng tạo của riêng Nguyễn Một. Tiểu thuyết Lời nguyền hai trăm năm (1989) trước đó đã có cấu trúc hai tuyến song song ngược chiều, và phim Vùng đất của thủ lãnh rồng (Land of the Dragin Lord-Úc-2006) đã miêu tả thế giới song song của khoa học viễn tưởng (xem: http://hdonline.vn/phim-spellbinder-land-of-the-dragon-lord-10920.html).

HY VỌNG Ở NHÀ VĂN TRẺ

Nếu đọc truyện ngắn và bút ký cuả Nguyễn Một, so sánh với Đất Trời Vần Vũ, người đọc sẽ nhận thấy anh đã có một bước tiến khá dài và đáng trân trọng. Viết một tiểu thuyết 40 chương, 344 trang, quả là công việc lao động tổn hao nhiều sức lực và tâm huyết. Anh muốn tác phẩm cuả mình chuyên chở được những vấn đề lớn của một thời. Anh cũng đã mạnh dạn thử nghiệm nhiều kiểu bút pháp của nghệ thuật hiện đại. Những giá trị đích thực của văn chương anh sẽ tồn tại lâu dài, cùng với sự đóng góp của anh làm phong phú văn chương Đồng Nai là điều rất đáng mừng. Qua Đất Trời Vần Vũ Nguyễn Một đã thể hiện một khả năng dàn dựng tiểu thuyết có tầm vóc lớn. Văn chương của anh đã trau chuốt hơn, có chất Văn hơn, ít phô trương “cái tôi” hơn (mặc dù chất tự truyện vẫn còn rất rõ- chương 21). Nhiều chương anh viết rất sinh dộng, hấp dẫn, đã lộ ra cốt cách của một ngòi bút có những phẩm chất tiên phong. Anh viết những trang văn hào sảng về thế giới song song, bút lực của anh mạnh mẽ khi anh dựng lại chuyện lịch sử “không ghi trong sách sử”.

Tôi nghĩ rồi đây anh sẽ vượt lên để viết những tác phẩm có tầm vóc hơn về dung lượng phản ánh hiện thực và đề cập đến những vấn đề chính trị, tư tưởng lớn của đất nước này, nếu anh vẫn giữ được bản lĩnh và phong độ viết như khi viết Đất Trời Vần Vũ.

Tháng12/ 2009. Xem lại 3/ 2018

____________________________________________________________________

DÒNG SÔNG ĐỘ LƯỢNG

Bút ký cuả Nguyễn Một

Ghi chú. Xin đọc bài BCT viết về tiểu thuyết Ngược mặt trời in trong Hoa đỏ bên sông. Nxb Hnv 2014

 

Dòng sông độ lượng là tập bút ký có nhiều bài viết biểu dương “người tốt việc tốt “ có thành tích đóng góp cho sự phát triển cuả Đồng Nai. Đó là một nỗ lực đáng quý cuả Nguyễn Một trong việc thực hiện nhiệm vụ sáng tác theo yêu cầu cuả Hội VHNT Đồng Nai.

Người đọc gặp được những khuôn mặt sáng giá cuả văn hoá Đồng Nai như lão nhà văn Hoàng Văn Bổn; nhà thơ Thu Bồn; nhà văn Khôi Vũ; những người đang làm giàu đẹp đồng Nai như cán bộ tỉnh Đồng Nai Trần Đình Thành chăm sóc bonsai; chủ trường dân lập Bùi Thị Xuân; ông bà Lê Kỳ Phùng, chủ “trang trại kỳ cục”;  Bùi Văn Dương công ty cám Long Châu; Đỗ Khắc Long, tư nhân thầu thu gom rác Long Khánh; ông Tám Hiệu, chủ cơ khi Nghiã Thành; Thầy Đỗ Văn Ban, Hiệu Trưởng trường PTTH Tân Phú; Trần Văn Quyến, chủ trang trại Sơn Thuỷ; Võ Văn Quân, Giám Đốc XQ thêu Đà Lạt. Người đọc tiếp cận được một phần vẻ đẹp hiện thực cuả Đồng Nai qua những con người tiêu biểu cuả phong trào thi đua yêu nước. Nguyễn Một gửi trong trang viết tấm lòng trân trọng, yêu mến với đất nước con người Đồng Nai. Văn cuả anh trong sáng, lấp lánh ở từng câu chữ. Con người, cảnh vật Đồng Nai hiện lên đẹp đẽ. Cái nhìn cuả Nguyễn Một đầy cảm hứng lãng mạn.

Tuy vậy, ở mảng bài này, Nguyễn Một có ít thành công. Bài viết giới thiệu nhân vật ở dạng một bài báo. Chất bút ký còn nhẹ. Tác giả chưa thâm nhập sâu vào đối tượng để có thể dựng lên những hình tượng. Tình cảm anh phô diễn có vẻ khách sáo, dường như là để cho phải phép với nhân vật. Anh thường viết theo một công thức. Trước tiên, anh tìm một “tứ” làm khởi điểm, sau đó kể lại quá trình lập nghiệp cuả nhân vật, từ khó khăn gian khổ đến thành công, và kết bằng một cảm tưởng hoặc bỏ lửng.

Cái công thức ấy làm cho bài viết cuả anh trở nên saó mòn. Chẳng hạn, viết về Hoàng Văn Bổn hay Khôi Vũ, tác giả không thâm nhập vào tác phẩm cuả hai nhà văn này để nói cho được giá trị ngòi bút cuả họ. Anh chỉ điểm tiểu sử và tên tác phẩm. Những điều ấy đã được công bố quá nhiều trên truyền thông. Nguyễn Một bảo Khôi Vũ là người lắng nghe tiếng nói nội tâm, nhưng người đọc chẳng hiểu cái “nội tâm “ cuả Khôi Vũ là gì. Chuyện về chủ trường PTDL Bùi Thị Xuân và nhà giáo Đỗ Văn Ban, hai nhân vật này trong đời thường có điều tiếng trong dư luận. Bài viết cuả Nguyễn Một là bài ca ngợi. Người đọc sẽ nhận ra cái “giả ‘ cuả ngòi bút anh, và hoài nghi về mục đích viết cuả anh! Hoặc có những nhân vật, tôi nghĩ chẳng có gì đáng viết, như Đỗ Khắc Long thầu rác ở Long Khánh. Anh Long làm việc chỉ để kiếm sống. Thất bại trong kinh doanh xăng dầu, kinh doanh phân bón, anh quay sang thu gom rác. “Công trạng” cũng bình thường như mọi người lao động.

 

Cũng nên nói thêm, Nguyễn Một tập trung ca ngợi nhiều con người có gốc xứ Quảng quê anh. Thầy giáo Đỗ Văn Ban (Quảng Nam), Trần Văn Quyến (Quảng Ngãi); Nguyễn Văn Sáng (Quảng Trị); Trần bá Dương; Nguyễn Sự; nhà thơ Thu Bồn (Quảng Nam)…Viết về xứ Quảng, anh có nhiều kỷ niệm và có hiểu biết. Tình cảm cuả anh đối với quê hương là chân thật.

Những bài có hương vị“lãng du” như Lang Thang Xứ Quảng, Thái lan Nụ Cười và Sex, hoặc kiểu bài “góp nhặt cát đá “có đem đến một chút thú vị về sự hiểu biết cuộc sống chung quanh và tấm lòng đau đáu cuả tác giả với vấn đề được đặt ra. Vấn đề mai một các làng nghề: Làng nồi đất, Làng đá, làng Nai; vấn đề tàn phá thiên nhiên ở Rừng Lá, vấn đề “vô lý“ ở Nhơn Trạch…Tuy vậy Nguyễn Một lại né tránh cách giải quyết vấn đề. Lúc cần anh lên tiếng thì anh im lặng (tr. 89). Điều ấy  là mặt yếu cuả bản lĩnh ngòi bút Nguyễn Một, nói cách khác, đó là cách “viết lách “ cuả nhà báo.

Sức hấp dẫn cuả một bài bút ký trước hết là ở những gì được ghi chép qua một góc nhìn tinh tế, mới lạ, ở cách thể hiện có duyên, đồng thời còn ở “cái tôi“ cuả tác giả. “Cái tôi“ ấy phải là “cái tôi“ tài hoa, tinh tế, uyên bác. Điều này chỉ Nguyễn Tuân mới đạt được. Văn Nguyễn Một trong sáng, cách viết có duyên, nhưng “cái tôi“ Nguyễn Một lại mờ nhạt chất nghệ thuật. Dường như anh cố phô bày ra “cái tôi“ ấy, và tìm cách tạo cho nó một tầm vóc.  Viết về người khác, Nguyễn Một trình làng với người đọc một con người vưà có chút “ bụi” vưà có chút “ngông” nghệ sĩ,   vưà là con người sánh ngang với các bậc “đại gia“ trong văn chương và xã hội. Xét cho căn cơ “cái tôi“ trong những bài bút ký cuả anh chưa trở thành hạt nhân nghệ thuật, kết tinh cuả những chất liệu, sự việc, con người anh miêu tả.

Đọc Bút ký Nguyễn Một, người đọc thấy anh viết về anh khá kỹ, quê Quảng Nam, lưu lạc đến Phú quốc rổi Đồng Nai. Anh kể cả thói xấu không bỏ được cuả mình là thói hút thuốc (tr.49). Nhân nói về đám tang Thu Bồn anh khoe chuyện làm nhà (tr.90), anh cũng khoe việc mua mấy phon tượng gỗ trang trí quán café cho bà xã (tr.34), anh hả hê trong bưã rượu thuốc với thịt gà cuả Trần Văn Quyến (tr.71), chuyện làm bể nồi bị ngoại mắng  tr.39), anh nói thẳng ra sự kênh kiệu cuả mình: “Tính tôi khá kỳ quặc, tôi không thích cái gì quá mới và sặc sỡ, một chút rêu phong đủ làm tôi chết lặng hàng giờ liền “(tr.19). Trong tất cả các bút ký chỉ thấy anh đi, nghe nhân vật nói, rồi bày tỏ một vài cảm xúc chiếu lệ như: “Tôi thật sự ngạc nhiê “(tr3), “Tôi giật mình bởi…”(tr.12), “chúng tôi khóc vì mất ông …”(tr.14). Có khi hỏi nhân vật nhưng Nguyễn Một lại “không quan tâm lắm đến câu trả lời “(tr.51). Có khi nghe nhân vật nói, anh “thầm thắc mắc” rồi nhận ra”thắc mắc cuả mình thật ngớ ngẩn“(tr.74). Có rất ít những suy nghĩ sâu sắc về những vấn đề có giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Vì thế để bài viết đỡ chông chênh anh thường mượn một caí “tứ“ cuả một nhà văn nào đó: Bùi Giáng, Lão Tử , Derek Walcott, chẳng hạn.

Tôi thiết nghĩ, nếu anh tìm được nhân vật đúng như ý anh tâm đắc, và xây dựng thành hình tượng có chiều sâu và sức khái quát tư tưởng và nghệ thuật, vượt qua cách viết báo chí, bút ký cuả anh sẽ thành công hơn. Tôi tin rồi đây Nguyễn Một sẽ có được những bài bút ký đặc sắc và tìm được một phong cách riêng cho mình.

Tháng 12 /  2007

______________________

Ghi chú của tác giả :

Khi thẩm định bản thảo Nhà Văn Đồng Nai, Nxb Đồng Nai (2018) đã cắt hai bài trên (bài viết về tác phẩm của Nguyễn Một)