45 NĂM TRUYỆN NGẮN ĐỒNG NAI

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

45 NĂM TRUYỆN NGẮN ĐỒNG NAI

(Tổng quan)

Bùi Công Thuấn

***

                 Truyện ngắn là thế mạnh của văn học Đồng Nai. Tuy vậy, viết truyện ngắn không dễ, bởi đã có nhiều nhà văn lớn chiếm ngự văn đàn về thể loại này. Thạch Lam kể những truyện lãng mạn không có cốt truyện. Nguyễn Tuân độc đáo với Vang bóng một thời. Nam Cao đặc biệt về những bi kịch của người trí thức “sống mòn” và người nông dân tha hóa. Nguyễn Công Hoan đứng một mình với truyện hài. Lý Văn Sâm ghi tên mình trên văn đàn là một nhà văn viết truyện đường rừng. Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, mỗi người một phong cách độc đáo, một cách kiến tạo tác phẩm riêng, một thế giới nghệ thuật riêng. Họ là những đỉnh cao bất hủ của truyện ngắn Việt Nam.

MỘT VÀI ĐƯỜNG NÉT

                 Ở Đồng Nai cũng đã có những tập truyện ngắc đặc sắc của Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn, Nguyễn Đức Thọ, Khôi Vũ, …

       45 năm qua, các tác giả Đồng Nai đã để lại những trang văn qúy giá về hiện thực đất nước. Văn học hoan ca đất nước hòa bình thống nhất sau 1975. Văn học trăn trở về những khó khăn của thập niên 1980. Văn học đón vận hội mới khi đất nước mở cửa, hội nhập với thế giới. Bước vào thế kỷ XXI, đất nước phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam vươn ra biển lớn, văn học cũng hướng đến những chân trời mới.

       45 năm qua, truyện ngắn Đồng Nai vẫn nằm trong thi pháp chung của Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Cảm thức anh hùng ca, tình yêu quê hương đất nước, tình cảm công dân là những nét đặc trưng. Xin đọc Chuyện Ầy Đã Qua Rồi (1979) và Chuyện Người Thổi Sáo Ở Bến Xuân (1991) của Lý Văn Sâm, Muối đỏViên gạch lạ của Tấn Hoài, Hồi ức làng Che (1999) của Nguyễn Đức Thọ, Một thời rừng Sác của Đại tá AHLLVTND Lê Bá Ước, Đàn ống tre bên kia sông  của Khôi Vũ, Mẹ Nghiệp của Đào Sỹ Quang, Người chợ Kệ của Dương Đức Khánh, Một thời khói lửa của Phạm Văn Đảng…

                 Trong tiến trình phát triển, truyện ngắn Đồng Nai có sự vận động về bút pháp.

                 Từ khói lửa chiến trường bước ra, các nhà văn Đồng Nai giữ nguyên cách viết của văn học kháng chiến là Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội chủ nghĩa[[1]]: ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lý tưởng hóa nhân vật, văn học trực tiếp phục vụ nhiệm vụ chính trị.                 

                 Đất nước “đổi mới”(1986), Nghị quyết Trung ương 5 (1998) xác định nhiệm vụ: Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng sâu sắc xây dựng con người./ Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác vì mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng. Bài trừ các khuynh hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính”. Truyện ngắn Đồng Nai chuyển dần từ bút pháp Hiện thực xã hội chủ nghĩa sang Hiện thực Nhân văn Dân chủ (chữ của NQ TW 5), tập trung vào việc “xây dựng con người Việt Nam” với tinh thần “nhân văn dân chủ”.

                 Nét đặc trưng của những tác phẩm văn chương Nhân văn Dân chủ là sự lên tiếng trước những cái tiêu cực của cuộc sống, nhà văn bày tỏ trách nhiệm công dân, thức tỉnh mọi người về những hiểm họa của toàn xã hội, để mọi người cùng giữ gìn lấy cái tốt, cái đẹp trong đạo đức, lối sống, quan hệ của dân tộc. Đồng thời ngòi bút bày tỏ lòng tin vào lẽ thiện, vào cái đẹp, tiếp nhận những điều mới mẻ tiến bộ khi hội nhập toàn cầu hóa.

                 Xin đọc: Người điên kể chuyện người điên của Hoàng Văn Bổn, Hồi ức làng Che của Nguyễn Đức Thọ, Tri thiên mệnh của Khôi Vũ…

                 Tuy vậy, cũng có nhà văn lúng túng trong cách thể hiện phần “hiện thực không cách mạng”. Xin đọc Nhật ký Cô Cô của Dương Thu Hường (VNĐN số 34 – tháng 11 & 12 năm 2019), Lênh đênh qua cửa Thần Phù của Nguyễn Trí (VNĐN số Xuân Tân Sửu 2021)…

                 Khi Đảng khuyến khích tìm tòi sáng tạo: Tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước nhà”.Văn học Việt Nam đã có những thử nghiệm cách tân mạnh mẽ đầu thế kỷ XXI như phong trào Thơ Trẻ, tiểu thuyết Hiện Sinh, tiểu thuyết Hậu Hiện đại…Nhà văn Đồng Nai cũng đã có những nỗ lực cách tân: Khôi Vũ, Nguyễn Một, Trần Thu Hằng…

                 Nhìn chung, nhà văn Đồng Nai vẫn giữ cách viết “truyền thống”, tuân thủ những quan điểm, nguyên tắc của Đảng trong sáng tạo nghệ thuật và nỗ lực “đổi mới” ngòi bút của mình. Và vì thế văn chương Đồng Nai tránh được những va vấp trong lúc giao thời [[2]].

Về nội dung, truyện ngắn Đồng Nai có nhiều mảng đề tài và đa dạng về những kiểu truyện kể. Điều này là do nhà văn Đồng Nai đến từ nhiều nguồn: từ quê hương chôn nhau cắt rốn, đến chiến trường sinh tử trở về mà trên ba lô còn đầy lửa đạn, cùng muôn vàn khó khăn buổi giao thời (1975-1990), rồi  thị trường “bung ra” làm đảo lộn mọi giá trị. Hiện thực ấy đầy ắp trong truyện ngắn Đồng Nai.

Xin đọc tập truyện ngắn Hồi ức làng Che (1999) của Nguyễn Đức Thọ: “Nguyễn Đức Thọ đã dẫn người đọc đi từ những ngày khởi nghĩa Yên Bái của Nguyễn Thái Học (tr.117) qua Cách Mạng Tháng Tám, Kháng chiến chống Pháp, Điện Biên Phủ (tr.113), cải cách ruộng đất (tr.156), những ngày vào ra vào hợp tác xã (tr.183) rồi 21 năm ngày Bắc đêm Nam (tr.18) kháng chiến chống Mỹ, những ngày giúp bạn bên Cambuchia  và những ngày ta đang sống đây khi đất nước bắt đầu mở cửa (tr.278), cái thời của mỗi người phải “đóng một vai kịch cho hợp lệ với màn kịch “(tr.92)[[3]].

                 Riêng những tập truyện ngắn viết về đất nước, con người Đồng Nai, là không có nhiều (Lý Văn Sâm, Khôi Vũ).

                 Thay vào đó là những miền quê hương khác: nhà văn Bùi Quang Tú (1948-2023) viết về Hà Nội (Lời cám ơn Hà Nội), Tấn Hòai viết về Huế (Muối đỏ, Hoa Quý Lan), Dương Đức Khánh viết về Người Chợ Kệ (làng nằm trên một nhánh sông Hương, Huế), Nguyễn Một viết về Quảng Nam (Truyện ngắn Nguyễn Một, 2021),

                 Truyện ngắn đi dần vào những  sinh hoạt đời thường, đi sâu vào những số phận bất thường mà cái đời thường che lấp, từ ngợi ca-anh hùng ca, chuyển sang “tinh thần nhân văn dân chủ” hướng đến việc “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”(Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014).  

                 Xin đọc Ngày biển ấm của Hoàng Ngọc Địệp, Sương sớm của Lê Đăng Kháng, Bến hồng nhan của Đào Sỹ Quang, Người trầm lặng (các truyện: Chuyện nhà tôi, Hai anh em, Nén Nhang Ngoài Khuôn Viên, Tôi kể chuyện tôi, Người trầm lặng…)của Trần Thúc Hà…

                 Nguyễn Trí viết về chuyện hàng ngày của những người “dưới đáy” ở khắp nơi: giang hồ gặp tứ chiếng”, chuyện của những đứa “bụi đời”, “rượi chè, trai gái, hút sách” cờ bạc; chuyện đâm chém, ngồi tù, bán thân; chuyện lấy chồng ngoại lên đời. Đó là một thế giới xô bồ, nhếch nhác, và “vô chính phủ”(xin đọc: Lênh đênh qua cửa Thần Phù, Trong trường gà, Về đâu hỡi người, Cạn chén đời, Bể khổ…)

                 Có thể nói, truyện ngắn Đồng Nai là những chắt lọc, những chưng cất, những nâng niu giữ gìn của nhà văn về những giá trị cách mạng và bản sắc dân tộc trong đời sống nhân dân suốt mất chục năm qua.

NHỮNG KHUÔN MẶT TIÊU BIỂU

 Những ghi nhận dưới đây về các tập truyện ngắn Đồng Nai là chưa đầy đủ, và vì thế chưa thể bao quát được “sự nghiệp” truyện ngắn của mỗi tác giả, chưa thể vẽ chân dung nhà văn, càng chưa thể xác lập được những đặc điểm phong cách nghệ thuật của từng cây bút. Có chăng là, bước đầu nhận dạng khuôn mặt truyện ngắn của những nhà văn quá cố, vì sự nghiệp cầm bút của họ đã kết thúc.

   Lý Văn Sâm với những “truyện đường rừng”, những “huyền thoại”, ghi lại được hình đất nước Đồng Nai đẹp và thể hiện khát vọng độc lập tự do. Các tập truyện: Kòn Trô (1949), Rồng bay trên núi Gia Nhang (1949), Nắng bên kia làng (1949), Sương gió biên thuỳ (1950), Bến xuân (in chung, 1980)…

Hoàng Văn Bổn chủ yếu viết tiểu thuyết. Ông có ít tập truyện ngắn: Người điên kể chuyện người điên (truyện ngắn, 1992), Con nai vàng (truyện ngắn, 1996). Trong tập Người điên kể chuyện người điên, tình yêu đất nước, con người Đồng Nai, cụ thể hơn là cái làng Bình Long của tác giả, cháy bỏng nồng nàn. Ông ghi lại hình ảnh những con người, những sự tích anh hùng, những mất mát hy sinh của Đồng Nai với tất cả sự nâng niu, trân trọng từ tấm lòng của một người trong cuộc. Trang văn của Hòang Văn Bổn ướt đẫm mồ hôi, thấm từng giọt máu, từng nỗi nhục nhằn của quá khứ để lưu truyền đời đời cho con cháu một chân lý: mất nước là mất tất cả[[4]].

            Nguyễn Đức Thọ (1955-2001) đặc sắc ở những “bi kịch khốc liệt” của một thời, được viết bằng tấm lòng nhân ái. Các tập truyện: Đêm Dưới Núi Đá Chồng (1985), Ốc mượn hồn (1992),Dấu Chân Tiên (1993), Hồi ức làng Che (1999).

  Khôi Vũ có phong cách riêng về truyện ngắn [[5]]. Truyện của ông là “truyện thời sự-thế sự”. Các tập truyện ngắn chính là Già lửa (1986), Tri thiên mệnh (2001), Phù phiếm bên biển (2010). Tập truyện Đàn ống tre bên kia sông (2015) đặc biệt viết về con người Đồng Nai [[6]].

Lê Đăng Kháng có các tập: Kẻ đánh thuế đời mình (1997); Vùng sáng trước mặt (2002), Sương sớm (2014),… “Có thể nói triết lý người hiền là cốt lõi tư tưởng của tất cả các truyện trong tập Sương Sớm của Lê Đăng Kháng. Nhà văn quan tâm đến những vấn đề nhân sinh có tầm  bao quát hiện thực rất rộng. Đó là những vấn đề từ thời Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa (Sương Sớm), vấn đề anh em ở hai chiến tuyến trong Di Cư 1954, trong kháng chiến chống Mỹ trước 1975, rồi cải tạo, rồi chuyện người di tản H.O (Những Điều Chưa Hóa Giải); đến những vấn đề của đời sống đương đại”[[7]].

Phạm Thanh Quang có các tập truyện: Tình yêu thuở ấy (1993), Địa linh (2001), Tìm lại mỹ nhân (2004),..Nhiều truyện của Phạm Thanh Quang nói về người lính hôm nay: “Bây giờ, thời mở cửa, mọi chuyện đã thay đổi. Người lính phải đối đầu với một cuộc sống phức tạp, bị vây quanh bởi bao thứ tiêu cực. Một cuộc chiến đấu khác, cũng quyết liệt như xưa, cuộc chiến bảo vệ nhân cách, bảo vệ cái đẹp đẽ hào hùng của một thời”[[8]].

Nguyễn Một có các tập truyện: Tha Hương (1996), Vũ điệu trên đỉnh Kung Pô (2001), Như là cổ tích (2005), Truyện ngắn Nguyễn Một (2020), và các tập truyện ngắn thiếu nhi. Ông viết nhiều về quê hương Quảng Nam. Lê Trâm nhận xét ông là người “mắc nợ ký ức”: Quê nhà Nguyễn Một thời chiến tranh là vùng đất “xôi đậu”, nơi ngày nào cũng xảy ra chiến sự, các bên giành nhau từng mét đất. Cha bị bắn chết khi ông còn trong bụng mẹ. Chưa được bốn tuổi, mẹ bị viên đạn lạc bắn ra từ một lô cốt của lính Mỹ, trút hơi thở cuối cùng khi đang ôm con ngủ… Những ám ảnh ấy chừng như khiến anh trở thành người mắc nợ ký ức, được bày biện với chính mình trong tập “Truyện ngắn Nguyễn Một” (2020) [[9]].

Bùi Quang Tú (1948-2023) có tập Truyện kể của thầy hiệu trưởng (2017) gồm 10 truyện viết về cuộc sống thường ngày mà tác giả chứng kiến, ghi lại. Đó cũng là những câu chuyện cuộc sống mang tính giáo dục cao, những bài học cuộc sống đắt giá [[10]]. Xin đọc: Hơi thở mùa xuân (VNĐN số 57/tháng 11/ 2022). Cốt truyện rất đơn giản. Tác giả kể lại chuyện Phụng đến thăm Hoàng. Hai người là đồng nghiệp cũ thời 1982. Họ nhắc lại những việc của ngày xưa, thời bao cấp khó khăn, xin lỗi vì những sai lầm đối với nhau, rồi Phụng chào ra về. Vì nghiêng về Ký, truyện của Bùi Quang Tú ít tính truyện và hạn chế về chất văn chương.

            Dương Đức Khánh có các tập Người Chợ Kệ (2018), Nghệ sĩ vườn (2018), Nửa ngày chiến tranh (2019). Anh kể những “sự tích” trong dân gian, bằng ngôn ngữ dân gian, vì thế truyện của Dương Đức khánh có giọng rất riêng [[11]]. Chất giọng này chỉ phù hợp với những truyện trong Người Chợ Kệ khi anh kể những sự tích anh hùng. Ở những tập truyện khác (Nghệ sĩ vườn) truyện của anh không thành công. Dường như anh chỉ viết lại những gì đã trải nghiệm. Anh không có những truyện sáng tạo (fiction), con đường văn chương của anh ít có cách tân nghệ thuật.

Hoàng Ngọc Điệp có các tập Ngày biển ấm (2019),Xóm sông (2020). “Miêu tả

những cuộc tình và hôn nhân đổ vỡ, dưới góc nhìn của người phụ nữ về tình yêu và hôn nhân, nhà văn đã thâm nhập rất sâu vào nhiều tình cảnh gia đình, chia sẻ những đau thương bất hạnh và nói lên khát vọng tình yêu hạnh phúc của người đàn bà, bởi vì: “Chúng tôi là đàn bà, tạo vật mong manh và bất ổn”[[12]]. Truyện của Hoàng Ngọc Điệp là những truyện “hiền lành”, nhà văn nói vậy, vì không kể những sự việc dữ dội, không kể cxhuye65n ác. Truyện có khi phức tạp, xô bồ, vượt ra ngoài ranh giới của đạo đức, nhưng không miêu tả những cảnh “nóng” trần trụi, những tình tiết “nhạy cảm”…để câu view, mà hướng đến mục đích chân-thiện. Và, dù có khi nhiều lời, song truyện kết thúc “có hậu”. Thực ra đó là chất hồn hậu trong văn chương Hoàng Ngọc Điệp xuất phát từ tấm lòng nhân ái đối với cuộc đời (xin đọc Hai người đàn bà, Vợ chồng Ka Líu, Chung cư…).

Trần Thu Hằng có các truyện ngắn: Áo dài của mẹ, Cánh đồng bình yên, Cánh đồng tuổi thơ, Cầu ván ghép, Còn mãi tình anh, Con trai người mê bóng đá, Cựa gà thuốc, Đôi mắt bạc, Gió xuân, Hóa thân, Huyết yến, Nhịp song lan giãn cách, Phiện tòa, Trăng khuyết, Trăng ngự bến xuân…Đặc sắc truyện ngắn Trần Thu Hằng là những truyện lịch sử và truyện tư tưởng (fiction) [[13]]. Ở hai loại truyện này, năng lực sáng tạo của Trần Thu Hằng có tính vượt trội. Hứa hẹn một ngòi bút truyện ngắn đặc sắc của văn chương Việt Nam, bởi kiểu truyện tư tưởng còn rất mỏng trên văn đàn đương đại. Trước 1975 ở Sài Gòn có các tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu (Xin đọc Cũng đành). Sau 1975, Nguyễn Huy Thiệp có thử bút loại truyện này nhưng không thành công (xin đọc: Muối của rừng, Sang sông…).

Nguyễn Trí viết về những người “dưới đáy” xã hội. Ông chia sẻ: “Tôi tìm thấy được lòng nhân ái, nét nhân văn trong những người ở đáy xã hội. Tôi yêu họ và viết, dù chưa hay lắm nhưng cố gắng đem tình yêu, tình thương, niềm đau và sự cô đơn của họ vào trang viết của mình.”[[14]]. Ông đã in: Bãi vàng, đá quý, trầm hương (2012), Đồ Tể (2014), Bay cao thì mặc bay cao (2016), Ảo và sợ (2016). Mặt cưa, rượu trắng, đường vàng (2018), Bên kia của ánh sáng (2019), Ma bùn, lưu manh và những câu chuyện khác (2020)…Nguyễn Trí kể chuyện “một cách tự nhiên chủ nghĩa”[[15]]. Truyện của ông chỉ có một giọng kể (là khẩu ngữ của người bình dân), một kiểu nhân vật (những người sống dưới đáy xã hội), một motip là kiểu “truyện giang hồ”. Có rất ít những yếu tố sáng tạo.  Ông viết bằng vốn trải nghiệm. Ông ít quan tâm đến chất thẩm mỹ của văn chương.

Đào Sỹ Quang đã in: Sự đời (2013); Viên đạn cuối cùng (2016), Mùa tôm sú (2017), Điều như không thể (2018), Trời đang vào thu (2019), Đối mặt (2019), Bến hồng nhan (2022). “Truyện của nhà văn Đào Sỹ Quang gửi gắm rất nhiều tâm huyết. Những năm tháng ông dầm mình trong mưa bom bão đạn ở mặt trận Quảng Trị để lại sức nóng trên từng trang văn. Cùng với sức nóng của một trái tim yêu thương con người sâu nặng, văn của ông có thể chạm đến trái tim người đọc”[[16]].

Trần Thúc Hà kể nhiều truyện thế sự [[17]]. Ông cũng tâm huyết với truyện lịch sử. Ông đã in: Trăng sáng như băng (1992), Mỹ nhân cổ (1998), Bức ảnh (2003), Nẻo khuất (2009), Người trầm lặng (2011), Ánh mắt (2015), Một tiếng chim rừng (2020). Đằng giang tự cổ (2021). Năm 2018, truyện ngắn Người cận vệ của vua Hàm Nghi của Trần Thúc Hà được chọn trong 10 truyện ngắn hay của báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam. Ông có nhiều cốt truyện hay, song cách kể mộc mạc (cách cấu trúc truyện, lời văn chưa mới…), ít cách tân nghệ thuật, chất văn chương trong truyện của ông chưa phát huy được; trái lại, trang văn của ông đọng lại một tấm lòng với đời.

Phạm Văn Đảng viết rất hấp dẫn về người lính hôm nay trong công tác dân vận: Các truyện:

Chuyên gia bất đắc dĩ, Nấm mồ không tên, Hương ngọc lan, Hữu duyên thiên lý, Một quyết định khó khăn, Một thời khói lửa, Phải sống, Thiên lương, Trung đội phó đặc biệt…[[18]]. Truyện của Phạm Văn Đảng phản ánh được sự khốc liệt của cuộc chiến bộ đội Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở Cambuchia, ghi được tình hữu nghị thắm thiết giữa hai dân tộc. Phạm Văn Đảng cũng có những truyện hay về người lính hôm nay trong công tác dân vận. Anh khéo lồng vào nhiệm vụ của người lính một câu chuyện tình yêu khá bất ngờ, éo le nhưng kết thúc rất đẹp. Truyện của anh tràn đầy không khí trẻ trung, vui tươi. Phạm Văn Đảng là tác giả trẻ, một ngòi bút văn chương quân đội đầy hứa hẹn.

      Dương Thu Hường mới xuất bản Bông hồng đen (tập truyện ngắn đầu tiên) gồm 18 truyện, do Nhà Xuất bản Thanh niên ấn hành. Hầu hết các truyện viết về hoạt động sản xuất công nghiệp và đời sống công nhân tại các khu nhà trọ. Nhà văn Hoàng Ngọc Điệp nhận xét: “Đây là sách “hiếm” về đề tài công nhân, và nó chân thực đến mức có cảm giác như truyện nào Dương Thu Hường cũng kể về… chính mìnhCó vẻ  như tác giả không để ý đến kỹ thuật viết truyện ngắn, thậm chí dấu chấm câu nhiều chỗ chưa chuẩn, nhưng Bông hồng đen lôi cuốn người đọc bởi hiện thực đời sống hết sức phong phú và cái nhìn vừa độc đáo, vừa nhân văn của tác giả [[19]].

Dương Thu Hường cho rằng viết về người công nhân trong các tông ty FDI theo khuôn mẫu “ta nhất định thắng” là rất khó. Tôi hiểu là viết theo phương pháp Hiện thực xã hội chủ nghĩa: xây dựng hình tượng người công nhân tiên tiến, đi đầu trong lao động sản xuất, dũng cảm kiên cường trong đấu tranh chống thống trị bóc lột; và có tư tưởng, tình cảm của giai cấp vô sản trong quan hệ.

Người công nhân hôm nay đã hoàn toàn khác với người công nhân thời của K.Marx. Nhà văn tâm sự: Viết về công nhân, công nghiệp trong đầu tư trực tiếp nước ngoài theo mô -tip trên không ổn. Với tôi, không thể viết. Cuộc sống công nhân đã trả rất nhiều giá đắng chát, ngậm ngùi bên tiền lương, đôi khi được cho là đắt với loại lao động phổ thông. Nhưng đích cuối cùng của công nhân khi được hỏi chỉ là về quê, vì không sống nổi ở thành phố”[[20]].

Truyện Chiếc hộp bí mật, nhà văn lên tiếng về thái độ đối với công nhân: “Chăm lo người lao động thì phải nhớ là họ đang tự do, sáng tạo chứ không phải loại gì đó với bữa ăn như có ma vầy trước, mặc dù mồng hai nào cũng cúng cô hồn long trọng như tết”[[21]].

      Trong truyện Những “kẻ cắp” thời gian, Dương Thu Hường đặt ra nhiều vấn đề về người công nhân, song tiếng nói của nhà văn không có phản hồi: “…nhà thầu muốn loại bỏ những chiến binh lâu năm, lương cao, sức khỏe giảm dần. Một loạt mâu thuẫn lớn. Nhưng chẳng lẽ cần thiết phải làm như thế sao? Người ta đã chôn vùi cả thanh xuân trong nhà máy không lẽ chỉ vì xót lợi nhuận mà đẩy họ ra đường?”; Trong xưởng có những người làm suốt ngày chỉ khoe sơn phết móng, đi dép cao gót ngất ngưởng, đeo vòng vàng trĩu tay, lông mi dán dài như mi bò”…thời gian đâu tập trung làm công việc.[21].

    Trâm Oanh viết những “Câu chuyện cuộc sống” đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần online. Đó là cuộc sống có nhiều nhếch nhác, mọi nề nếp truyền thống trở nên chệch choạc.  Con người quay quắt trong một xã hội đảo lộn. Văn của Trâm Oanh có chất hài của Nam Cao, có cách đánh vỗ mặt vào những thoái hóa đạo đức của Vũ Trọng Phụng, nhưng cũng có một tấm lòng rất giàu tình nhân ái. Năm 2023, Trâm Oanh đạt giải Nhì Cuộc thi sáng tác văn học về đề tài Công nhân – Công đoàn với truyện ngắn “Hệ sinh thái và cánh diều của cha“. Xin đọc: Rổ ra thì phải cạp, à thương, Xương sườn thứ bảy, Lỗi của tờ tiền Polimer, Hoài không chết cho, Mẹ biết không, nơi lạnh nhất là nơi không có tình thương, Lâu lâu ngoảnh lại, Một chuyện có thật (mùa Covid)

            Hạnh Vân đạt giải thưởng Trịnh Hoài Đức với tập truyện Quán ven sông (2014). Tác giả khai thác những bi kịch và những đổ vỡ gia đình. Truyện Tổ ấm là tình cảnh người chồng đi nhậu, bị Vợ bỏ. Chồng hối hận. Anh đã đánh mất nàng từ lúc nào! Giờ không biết phải bắt đầu từ đâu cho cuộc hành trình tìm lại những gì đã mất.TruyệnTrọn nghĩa vẹn tình một tình cảnh khó xử. Hai chị em cùng yêu một người, và em nhường chị.Tình An nhiên là một chuyện tình tay ba: An, Nhiên là hai chị em, cùng dạy một trường. Cả hai cùng yêu Thành, nhưng Thành chỉ yên An. Còn An đã thành vô cảm vì chứng kiến thảm cảnh gia đình khiến mẹ phải uống thuốc rầy tự tử. Hạnh vân có những truyện viết khéo (Quán ven sông, Trọn nghĩa vẹn tình).

            Nguyễn Duy Đồng in Ma chữ, tập truyện ngắn đầu tay năm 2023. Ma chữ có những truyện ngắn viết về hiện tượng tiêu cực trong giáo dục. Một số truyện phong trào, ca ngợi người tốt việc tốt [[22]] của ông đạt giải các cuộc thi: Miệt vườn quyến rũ kể chuyện những người làm kinh tế vườn ở Đồng Nai. Đời hoang kể chuyện “vua trồng bưởi”. Truyện Vương hương màu áo ca ngợi nữ công an xinh đẹp, dũng cảm cứu người mà hy sinh. Chậu mai tết ca ngợi trung úy Hoàng, phòng cháy chữa cháy, nhiểu lần cứu nạn mà bị thương.Tập truyện Ma Chữ đạt giải Văn học nghệ thuật 2023 của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam

NHÌN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN

          1.Nỗ lực và hiệu quả sáng tác ở từng nhà văn Đồng Nai là không đồng đều. Có người bút lực dồi dào, in nhiều tập truyện, nhưng cũng có tác giả in rất ít tác phẩm. Tính chất “truyện phong trào” lấn át tính nghệ thuật chuyên nghiệp. Có người có khả năng đổi mới cách viết nhưng cũng có tác giả giậm chân tại chỗ một cách viết đơn điệu.

            2. Truyện ngắn Đồng Nai ngày càng khai thác những đề tài đời thường, nhỏ nhặt, những chuyện trong gia đình, trong khu xóm. Đề tài Cách mạng và kháng chiến vơi dần, rất ít tác phẩm chạm tới những vấn đề lớn, vấn đề “nóng” của hiện thực.

            3. Lực lượng viết truyện ngắn nồng cốt của Đồng Nai là Chi Hội Nhà văn Đồng Nai cùng những tác giả kỳ cựu. “Thế hệ phong trào” chưa có đóng góp gì nhiều. “Văn Trẻ đồng Nai” có nhiều hứa hẹn ở tương lai. Xin đọc: Lã Hoài Mai, Đào Nguyên Thảo, Tống Thanh Tâm, Lý Thăng Long…

            4. Giá trị đặc sắc của truyện ngắn Đồng Nai là những đổi mới đóng góp vào sự phát triển chung của truyện ngắn Việt đương đại. Những “truyện đường rừng” giàu huyền thoai của Lý Văn Sâm là một “khuôn mẫu” không dễ có người kế tục. Nguyễn Đức Thọ viết những bi kịch khốc liệt của một thời, đó là những truyện bi kịch nằm trong số những truyện ngắn hay nhất của văn chương Việt đương đại. Kiểu truyện “thời sự-thế sự” của Khôi Vũ là một cách khai thác chất liệu hiện thực, cho nhà văn một khả năng vô hạn của sự sáng tạo. Kiểu chuyện tình lãng mạn đầy bi kịch của Nguyễn Một đem đến sự mới mẻ cho kiểu truyện tình “truyền thống” Việt Nam (Tự Lực Văn Đoàn, những chuyện tình kháng chiến…). Kiểu truyện tư tưởng của Trần Thu Hằng là một hướng phát triển góp phần lấp đầy khoảng trống tư tưởng (chữ của Nguyễn Huy Thiệp [[1]]) trong văn học Việt…

Những đổi mới thi pháp truyện ngắn này vừa khẳng định tài năng khám phá sáng tạo của nhà văn, vừa làm nên một diện mạo riêng cho truyện ngắn Đồng Nai.

Tháng 7/2023


[1] Nguyễn Huy Thiệp-Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn

    http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c369/n25390/Khoang-trong-ai-lap-duoc-trong-tu-tuong-nha-van.html

***


[1] Trường Chinh-Về Văn hóa nghệ thuật-Tập 1-Nxb Văn học 1985. Tr.115  (Báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam.1948)

[2] Những yếu kém: “Đời sống văn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc và thành quả đổi mới. Trong sáng tác và lý luận, phê bình, có lúc đã nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu văn học cách mạng và kháng chiến, đối lập văn nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một vài tác phẩm viết về kháng chiến đã không phân biệt chiến tranh chính nghĩa vói chiến tranh phi nghĩa. Xu hướng “thương mại hoá”, chiều theo những thị hiếu thấp kém, làm cho chức năng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của văn học, nghệ thuật bị suy giảm.” (Nghị quyết Trung ương 5.)

[3] Bùi Công Thuấn-Hồi ức làng Che: sự thăng hoa của những nỗi đau bi kịch

https://buicongthuan.wordpress.com/2023/07/26/nguyen-duc-tho-hoi-uc-lang-che/__

http://buicongthuan.vn102.space/?p=6332121&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[4] Nguồn: Bùi Công Thuấn-Nhà văn Đồng Nai. Nxb HNV. 2018

 http://buicongthuan.blogtiengviet.net/2021/07/30/nha_v_n_hoang_v_n_b_n_ng_i_ien_k_chuy_n_

[5] Truyện ngắn Khôi Vũ. Nguồn: Bùi Công Thuấn-Nhà Đồng Nai-Nxb HNV 2018

http://buicongthuan.vn102.space/?title=nha_v_n_khoi_v_truy_n_ng_n&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[6] Bùi Công Thuấn-Đàn ống tre bên kia sông của Khôi Vũ    https://buicongthuan.wordpress.com/?s=%C4%90%C3%A0n+%E1%BB%91ng+tre+b%C3%AAn+kia+s%C3%B4ng

[7] Bùi Công Thuấn-Triết lý người hiền (Đọc Sương sớm của Lê Đăng Kháng)

    Nguồn: Hoa đỏ bên sông-Nxb HNv 2014:

    http://nvledangkhang.blogspot.com/2012/12/bui-cong-thuan-oc-suong-som-cua-le-ang.html

[8] Bùi Công Thuấn-“Phạm Thanh Quang-Một tấm lòng người lính”:

    http://buicongthuan.vn102.space/?title=vh_n_ph_m_thanh_quang_m_t_t_m_long_ng_i_&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[9] Lê Trâm-Nhà văn Nguyễn Một, người mắc nợ ký ức

https://baoquangnam.vn/tac-gia-tac-pham/nha-van-nguyen-mot-nguoi-mac-no-ky-uc-109773.html

[10] Chuyện kể của thầy hiệu trưởng

    http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/print.aspx?NewsId=1654

[11] Bùi Công Thuấn: Người Chợ Kệ và Cá tình sáng tạo:

    http://hvhnt.dongnai.gov.vn/pages/newsdetail.aspx?NewsId=1914&CatId=83

[12] Bùi Công Thuấn-Ngày biển ấm, tình yêu và khát vọng.

https://baodongnai.com.vn/vanhoa/201912/ngay-bien-am-tinh-yeu-va-khat-vong-2981260/

[13] Bùi Công thuấn-Đặc sắc truyện ngắn Trần Thu Hằng:

https://vanchuongthanhphohochiminh.vn/dac-sac-truyen-ngan-tran-thu-han

https://vanvn.vn/dac-sac-truyen-ngan-tran-thu-hang/

[14] Nguyễn Trí-Ngoi lên từ đáy: https://www.khaitam.com/van-hoc/van-hoc-viet-nam/ngoi-len-tu-day

[15] Chủ nghĩa tự nhiên-lytuong.net: https://lytuong.net/chu-nghia-tu-nhien/ : “chủ nghĩa tự nhiên lạm dụng các chi tiết đời sống, coi chi tiết là mục đích của nghệ thuật. Chính Zola cũng đã từng thừa nhận rằng “bức tranh mà tôi miêu tả, đơn giản chỉ là phân tích một mẩu hiện thực như vốn nó đã tồn tại. Tôi chỉ việc xác nhận”. Chủ nghĩa tự nhiên quan niệm rằng, không cần phải chọn lọc các chi tiết của đời sống, các chi tiết bản thân nó đã là bản chất, người viết chỉ cần lắp ghép các chi tiết đó một cách trần trụi tự nhiên như nó vốn có đã là nghệ thuật rồi”(Phạm Phú Phong-Giáo trình tiến trình văn học)

[16] Bùi Công Thuấn-Đào Sỹ Quang một cốt cách văn chương.

[17] Bùi Công Thuấn-Nhà văn Trần Thúc Hà-“Một tiếng chim rừng”

    http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2437&CatId=87

[18] Bùi Công Thuấn-Nhà văn Phạm Văn Đảng và người lính hôm nay:

    http://buicongthuan.vn102.space/?title=vh_n_ph_m_v_n_ng_va_ng_i_linh_hom_nay&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[19] Hoàng Ngọc Điệp-Dương Thu Hường, Bông hồng đen đáng trọng

    http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2137&CatId=87

[20] Dương Thu Hường- “Công nhân viết văn và văn học viết về công nhân

    http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2400&CatId=83

[21] Tuyển tập Đồng Nai hành trình ra biển lớn. Nxb Đồng Nai. 2018.tr.194; tr.201).

[22] Bùi Công Thuấn-Nguyễn Duy Đồng-Ma chữ

    http://buicongthuan.vn102.space/?title=vh_n_nguy_n_duy_ng_ma_ch&more=1&c=1&tb=1&pb=1

NGUYỄN ĐỨC THỌ & Hồi ức làng Che

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

HỒI ỨC LÀNG CHE,

SỰ THĂNG HOA CỦA NHỮNG NỖI ĐAU BI KỊCH

( Đọc Hồi ức làng Che – Nguyễn Đức Thọ, Nxb Thanh Niên 1999 )

Bùi Công Thuấn

***

Mỗi khi Nguyễn Đức Thọ kết thúc câu truyện của mình, tôi lắng nghe anh kể, lắng nghe lòng mình,  cảm nhận một nỗi bâng khuâng rất lạ. Tôi tự nhủ “câu chuyện thật cảm động. Câu chuyện kết thúc, nhưng dư âm của nó cứ vang vọng mãi. Đó là những câu chuyện của một thời, những bài học lớn của một thời. Mai sau, mỗi khi nhắc lại, những ai đã sống qua cái thời ấy, không khỏi ngậm ngùi thương tâm.  Anh đau đớn thốt lên: “thương tâm lắm”(tr.189).

HỒI ỨC LÀNG CHE

Nguyễn Đức Thọ dẫn người đọc cùng đi với anh, chiêm nghiệm, suy gẫm về những bài học đau thưong của những kiếp người trong những biến động lớn lao của thời đai.  Anh ngậm ngùi xót thương khi nhe tin lão Câm oan tử: “xong một kiếp người”. Than ôi, nếu ông Câm sống lại . . . .?(tr.126). Có lúc anh lại nói trong u mê như đang quay quắt trong sáu cõi thế gian: “Thế đó, trên mặt đất này ân oán còn nhiều tơ vương lắm”(tr.295). Rồi anh cố kềm giữ lòng mình để khỏi bật khóc thành tiếng trước vong linh người mẹ “Chiến tranh mà! Chiến tranh mà”(tr.57). Nhưng khi phải chứng kiến cái chết đứng của anh Đạt, một người mà anh rất thương yêu gắn bó suốt một đời lính, anh đã “khóc lã người, khóc hết nước mắt một đời lính góp lại”.(tr 240). Rồi Bảy Công sợ hãi, làm cho người đọc cùng sợ hãi, một nỗi sợ hãi vô hình treo lơ lửng trên đầu. Anh giật mình thon thót: Làm thế nào để tồn tại? Anh nghe Cụ Nguyễn tâm sự cay đắng: “Tôi tồn tại được là nhờ biết sợ”(tr. 98).

Thế đấy, Nguyễn Đức Thọ đã dẫn người đọc đi từ những ngày khởi nghĩa Yên Bái của Nguyễn Thái Học (tr.117) qua Cách Mạng Tháng Tám, Kháng chiến chống Pháp, Điện Biên Phủ (tr.113), cải cách ruộng đất (tr.156), những ngày vào ra vào hợp tác xã (tr.183) rồi 21 năm ngày Bắc đêm Nam (tr.18) kháng chiến chống Mỹ, những ngày giúp bạn bên CamBuChia  và những ngày ta đang sống đây khi đất nước bắt đầu mở cửa (tr.278), cái thời của mỗi người phải “đóng một vai kịch cho hợp lệ với màn kịch “(tr.92).

 Nguyễn Đức Thọ không viết sử thi, nhưng anh suy gẫm trong  khoảng dài rộng sử thi ấy đâu là chân lý của mỗi số phận con người. Trên cái nền đỏ rực hào hùng của lịch sử dân tộc, trong  thanh âm hùng tráng của một thời, anh tìm thấy những bông hoa tím tái của những số phận bị vùi dập, anh lắng nghe những tiếng khóc mà âm thanh và nước mắt chảy hết vào tim. Anh chia xẻ, xót thương cùng đau đớn với nhân vật, như anh đang vật vã nỗi đau của chính mình. Anh đã vuốt mắt cho cậu Miền, khi cậũ chết không thể nhắm mắt “Tôi vuốt mắt cho cậu. Vuốt đến ba lần, đôi bờ mi tím bầm mới chịu nhắm lại vĩnh viễn”(tr.95); và anh  van xin người yêu, bi kịch của những người yêu nhau “Em ạ, anh xin quỳ hoá đá dưới chân em… xin em…ngàn vạn lần xin em…” (tr.178). Truyện của Nguyễn đức Thọ là truyện ngắn nhưng lại mang dung lượng những vấn đề  sử thi của tâm linh thời đại. Anh đã vượt qua những luân lý thông thường, những giáo điều chính trị, những cách nhìn khuynh tả khuynh hữu, những ấu trĩ nhất thời, những cực đoan máy móc,  mà vươn tới những giá trị nhân bản sâu thẳm ân tình,..trong không gian tâm linh chan hoà ánh sáng, thứ ánh sáng trong ngần vĩnh hằng của   những kiếp nhân sinh chân chất, thanh khiết thẳng thắn ân tình ân nghĩa, yêu vô vàn cuộc sống này.

Người Của Người không còn là nỗi oan nghiệt truyền kiếp con hoang lại đẻ con hoang. Đó là bi kịch của ông Thuộc, một cán bộ tập kết, tan nát gia đình trong chiến tranh. Đó là lòng nhân ái vô bờ với số phận của Rớt. Không có định mệnh nghiệt nga, nhưng có những thành kiến ác tâm. Nhưng bây giờ, cuộc đời này thuộc về những con người yêu thương “Vẫn còn mái nhà tranh ấm áp tình người muôn thuở…vẫn còn người cha nuôi miền Nam tập kết giàu lòng nhân hậu …vẫn còn những người dân làng sống chan hoà mộc mạc…người là của người… người là của người”.

Người Của Ngày Xưa sống đẹp đến thế! Cuộc tình của người lính trong veo thánh thiện giữa trần tục và bom đạn, giữa sống chết từng ngày và giữ gìn mãi mãi. Chính và Ngàn sao có thể yêu nhau, giữ gìn  cho nhau, thầm lặng, thuỷ chung và đep đẽ đến thế. Dư vị cuộc tình thật ngậm ngùi, yêu quá đi thôi, thương quá đi thôi, nhưng cũng tiếc quá đi thôi, nhưng làm sao có thể sống khác đi được! Chiến tranh đã cướp mất bao nhiêu hạnh phúc của tuổi tre, rồi vì cuộc sống, tuổi tre lại hy sinh tất cả trái tim mình để giữ gìn, chẳng thể nói được một lời yêu nhau, để khi về già vẫn ân hận, tiếc mãi những gì có thể cho nhau được mà vẫn không thực hiện được. “Về sau anh cứ ân hận mãi, tại sao mình không dám hôn em” (tr.41). Người lính yêu thanh khiết như thế. Nguyễn Đức Thọ nửa thật nửa đùa, vừa thành ý ngậm ngùi vừa hài hước xuê xoa nói với nhân vật: “người như lão Chính chỉ cần rửa ráy qua loa rồi đem đặt lên bàn thờ là thành Phật “(tr.37).

Người Trong Cổ Tích là một tình yêu hồn nhiên với bao kỷ niệm từ tuổi thơ thiên thần giữa Thư và Tộ. Chiến tranh ập đến. Tộ ra chiến trường. Khi trở về người yêu đã có chồng. Không còn tình yêu, Tộ sống cằn cỗi,  cô lạnh. Ngậm ngùi biết bao nhiêù khi hai người yêu gặp lại nhau. Nên trách hay nên thưong tấm lòng người mẹ. Thư đi lấy chồng vì ngỡ là Tộ đã hy sinh. Mẹ Tộ nói với Thư vậy. Thư nói trong nước mắt: ”mẹ đã báo tin cho em là anh đã hy sinh”. Chiến tranh mà! Mẹ đã khổ vì mất chồng trong chiến tranh, mẹ không muốn em khổ vì mất anh. Nhưng có biết đâu mẹ lại làm khổ cả hai con. “Chiến tranh mà!” Thương quá những cuộc tình trong chiến tranh!

            Ngươi ở miệt vườn là má Hai Phấn, hai Tín, ba Nghĩa. Trong cuộc chiến tranh quyết liệt với kẻ thù, số phận nghiệt ngã đã đẩy hai người bạn về hai phía thù nghịch, Má Phấn  bằng tấm lòng bao dung của mình đã giữ được những người con, những tình bạn thiêng liêng , những giá trị vượt lên trên những ân oán thù nghịch.“Bà Hai Phấn là sợi giây buộc chặt tình bạn của hai người lính hai bên chiến tuyến”(tr.66). Nguyễn Đức Thọ đã miêu tả được một thực tại bi kịch của cuộc chiến tranh vưa qua. Do hoàn cảnh, anh em, bạn bè trở thành thù nghịch. Người mẹ không bao giờ muốn mất người con, dù bên này hay bên kia chiến tuyến . Nhưng làm thế nào để vượt qua ranh giới của sự thù nghịch, vượt qua những mặc cảm tự tôn của người chiến thắng, mặc cản tự ty của người chiến bại. Làm thế nào để trở về với bản chất đích thực của dân tộc, để gắn bó những chia lìa dân tộc mà cuộc chiến tranh hơn 20 năm đã gây ra? Làm gì bây giờ dây để báo đáp những người mẹ suốt một đời hy sinh, làm gì giờ dây để nghững người ở miệt vườn không còn thiếu đói, không còn phải chạy đôn chạy đáo kiếm tiền mua gạo từng bữa, làm gì để con trẻ có cơm ăn, áo mặc đến trường (tr.72). Làm gì cho những con người ở miệt vườn?

            Bóng Dáng Người Yêu Nhau là bi kịch tình yêu cay đắng quá, bi kịch ẩn dấu trong suốt những năm tháng dài của nhiều thế hệ.  Cụ cố Tiệu có người yêu là một bà đầm người Pháp. Bất ngờ bà đầm đến thăm và tặng một chiếc áo. Cụ khổ biết bao nhiêu chỉ vì cái áo  ba-đơ-xuy ấy. Nhưng lúc chia tay với bà đầm “cố Tiệu đứng như trời trồng ngỡ mình chiêm bao”(tr.82). Trung tá nghỉ hưu Miền lâm vào một bi kịch làm ông chết đau đớn đến nỗi không thể nhắm mắt. Hai đứa con cùng cha khác mẹ của ông là Thản và Xuân lấy nhau. Thản là con vợ. Xuân là con người yêu.Trong chiến tranh, ông đã giữ gìn thánh thiện để bi kịch không xảy ra. Nhưng lối sống thực dụng chủ nghĩa hiện tại của con ông gây ra bi kịch. Nỗi đau thương ập đến đến bất ngờ và khốc liệt, làm tan nát tất cả là. Trong thời đại mà cuộc sống làm chao đảo tất cả thì làm sao nhận ra đâu là chân lý. Suốt một cuộc đời cậu Miền đã sống, chiến đấu, ăn ở chân thành, giữ gìn rất mực, vậy mà trước những bi kịch khốc liệt không thể lý giải nổi,  cậu Miền đau đớn thốt lên trước lúc lìa đời “Suốt một đời… tôi không nhận ra tôi làm sao nhận ra ai được nữa”(tr.95). Làm thế nào để nhận ra chính mình, nhận ra chân lý trong cuộc sóng đầy biến động này để khỏi lâm và những bi kịch đau đớn?

            Nỗi Buồn Giao Chỉ là nỗi buồn gì? Nỗi buồn của thân phận con người trong một thời mà người ta tồn tại được là nhờ biết sợ (lời của nhà văn Nguyễn) … Làm sao sống cho đúng đây khi cuộc sống cứ thay đổi đến tráo trở, khi sự phán xét cứ ngả nghiêng khôn lường.Vũ vẽ nhà văn Nguyễn, bị ông nội chê là Tây trong khi nhà văn Nguyễn là dân Giao Chỉ. Bố Vũ lại chê Vũ vẽ văn nhân giống quan võ. Cũng giống như bảy Công, suốt đời  theo cách mạng nhưng cứ giật mình thon thót, đổ mổ hôi hột, bởi lúc nào Bảy Công cũng sống trong nỗi sợ hãi bị nghi ngờ về phẩm chất, bị đánh giá là kẻ phản bội, là thành phần giai cấp địa chủ. Bảy sợ hãi đến nỗi lúc đã về hưu, đứng xếp hàng mua gạo, nghe “con nhỏ bán hàng chưa đến hai mươi tuổi, nghĩa là nó nhỏ hơn cháu nội, thế mà nghe giọng tôi cũng rụng rời tay chân”( tr.104). Bảy Công dặn cháu khi ông chet nhớ mời sư thầy đến tụng kinh. Có lẽ  nhờ lời tụng kinh của sư thầy mà ông bớt sợ khi về cõi vĩnh hằng? Đúng là nỗi buồn không chỉ của nhà văn Nguyễn, của Bảy Công mà là của dân Giao Chỉ. Ngòi bút của Nguyễn Đức Thọ thật thấm thía khi anh đã khứa một lát dao thật ngọt vào tâm can người đọc về những nỗi sợ hãi cứ treo lơ lửng trên đầu, làm cho con người sống hèn đi, sống mà như con rối bị giật giây bởi chính nỗi sợ hãi của mình. Làm sao Vũ có thể vẻ đưỡc nổi buồn của ông nội! vì đó là nỗi buồn của dân Giao Chỉ, nỗi buồn có trong suốt trường kỳ lịch sử từ thời An Dương Vương kia mà!

            Thung Lũng Xưa khai quật ngôi mộ  một người bị chôn sống giữa cuộc đời, giữa mọi người: lão Câm. Lão bị quy là Quốc Dân Đảng phản động, bị đi tù. Ra tù, bị quy thành phần giai cấp “người làng lặng lẽ xa lánh anh, tên phản động mới ra tù” (tr.118 ). Lão sống cay đắng, câm luôn trước cuộc đời. Vậy mà khi lên tiếng nói trở lại, lão chết thảm vì bị đá vùi lấp. Người ta đã chôn sống lão, thời đại đã chôn sống bao người. Lão làm sao sống được trong cái thời của “ thung lũng Trận Đồ hùng vĩ và bi tráng”. Một con người bé nhỏ như lão làm sao tránh được gươm đao giữa “chiến trường của các vị thần linh” ( tr.126). Lão phải chết, dù lão tự nguyện câm giữa cuộc đời cũng không được tha. Người ta phong thần cho lão để làm gì? “Xong một kiếp người “! Thời gian đã qua đi nhưng  nỗi oan khiên những số kiếp như lão Câm vẫn còn đó. Gạch đá có thể vùi lấp thân xác lão Câm nhưng làm sao gạch đá vùi lấp được lưong tâm! Phải trả lại lương tâm trong sạch và nhân ái cho một thời .

            Mùá Trái Cây “là nỗi buồn của những người phụ nữ có cái thời xuân xanh đi qua chiến tranh”(tr.150). Không, hơn cả nỗi buồn, đó là những bi kịch thánh thiện. Tất cả đã thăng hoa trên nỗi đau đớn đã tím tái thân phận. Bà Ba Cỏn có 5 con là liệt sĩ trong đó có người con nuôi là bộ đội miền Bắc. Nỗi đau không chỉ ở lòng người mẹ mất mát những người con mang nặng đẻ đau. Đó còn là nỗi đau câm nín không thể nói ra thành lời khi hai người phụ nữ tre tuổi gặp nhau bên mộ người thân yêu. Chất đi tìm mộ chồng lại gặp Mai người yêu có con với chồng: liệt sĩ Hùng. Hùng hy sinh khi Chất chưa có được một đứa con với chồng. Chất khát khao hạnh phúc có con, vì đó chính là máu thịt sự sống và tình yêu thuỷ chung của hai người. Chị giữ mình hết sức cho niềm khát khao thuỷ chung ấy. Hùng ở nhà bà Ba Cỏn, được bà yêu thưong như con. Cuộc tình âm thầm của Út Mai và Hùng may mắn để lại một đứa con. Mai chịu tiếng có con hoang. Bà Ba Cỏn nuôi cháu nhưng cứ phải giấu hoài. Chất nhìn đứa bé “thằng bé có một khuôn mặt quen thuộc, từng theo đuổi trong những giâc mơ suốt đời chị…phải chăng đó là… chị thở dài “ (tr.149).

Biết xử sự làm sao đây. Bất cứ một đụng chạm nhẹ nào cũng sẽ rất thưong tâm . Thương lắm. Hãy để cho nỗi đau ấy thăng hoa. Nguyễn Đức Tho kết truyện bằng một sự thăng hoa. “Mùa trái cây năm nay đang chin rộ”. Cảm thông, chia xẻ và nhân ái biết bao với những người phụ nữ đi qua chiến tranh như  Mai, Chất .

            Hồi Ức Làng Che là nỗi đau đớn hoá đá của một cuộc tình. Nhưng thưc ra đó là thân phận hoá đá của những kiếp oan khiên từ thời Cải cách ruộng đất. Lão Trạch bị kết thành phần địa chủ theo mức khoán áp đặt  5% địa chủ. Lão bị xử ở toà án nhân dân (tr.157) bị đi tù, bị tịch thu ruộng đất, nhà cửa. Người làng Che thương lão nhưng biết làm sao. Ra tù, lão không chịu vào hợp tác xã, sống “lạc hậu, sống ngoài đoàn thể nên mất nết” (tr.159). Lão quyết liệt phản đối tập thể, người ta cũng đối xử với lão quyết liệt. Cuộc tình của Nhọi Đức và Nhàn không thành vì những oan khiên quyết liệt ấy. Bài học của một thời sao mà đau đớn dường vậy. Thân phận con người trong cuộc bể dâu ấy, dù có vùng vẫy quyết liệt vẫn bị trói cứng mà chịu đòn. Chẳng lấy gì bù đắp được, dù lão Trạch có hai con hy sinh trong chiến tranh. Nhận tin hai con báo tử cùng một lúc “bà trạch và Nhàn rũ rượi như hai cái xác chết” (tr.175). Không chỉ có nỗi oan khiên hoá đá, Hồi ức làng Che còn ghi lại bao điều dối trá khác mà hôm nay và mai sau. Chúng ta còn phải chịu đựng, còn phải suy gẫm!

            Dấu Chân Tiên là câu chuyện thế sự thăng trầm của một giòng họ, có kẻ lên voi có kẻ cùng đinh làm thằng mõ. Những kẻ lên voi chẳng phải vì được đặt chân mình vào dấu chân tiên. Bởi vì “đàn bà duyên phận lỡ làng vô tình đạp lên dấu chân tiên về nhà dễ bị có mang” (tr.180), đẻ ra con giống lý trưởng, trương tuần, chủ nhiệm hợp tác xã, giống anh cán bộ huyện về chỉ đạo cấy giống lúa cao sản, giống anh chỉ huy đoàn xe quá cảnh sang Lào (tr.181). Những người lên voi được là nhờ “theo cửa sau, cửa của những kẻ cơ hội chủ nghĩa“ (tr.206) có tài “dóng trống, dong cờ, trương khẩu hiệu “(tr208 ) va tham quyền cố vị “Ông Khởi định kiên nhẫn làm bí thư đến hết thời kỳ quá độ”(tr.211). Những anh dốt nát lại phất như diều ban phát ân huệ cho mọi người (trần Thành). Kẻ trí thức (Trần Thanh trì, đỗ tiến sỹ) lại là kẻ “sinh bất phùng thời không tìm được người tri âm từ trong họ mạc lẫn ngoài xã hội “(tr220). Đó là câu chuyện của một thời hay của mọi thời? Vì cuộc đời có những kẻ như thế nên bao nhiêu giá trị đã bị phá huỷ (phá đền thờ thần nông (tr.191), bao nhiêu chân lý bị vùi lấp.(“bây giờ người ta dạy trẻ con hô khẩu hiệu hơn là dạy cái hay cái đẹp “ (tr.199) “Chưa có nơi nào học đại học dễ như ở Việt nam. . .các sinh viên giám đốc lo tiền phong bì, tiền bia và xe đưa đón. Các giáo sư lo chấm bài theo tinh thần đào tạo chuẩn hoá cán bộ đương chức của cấp uỷ địa phương” (tr.213 ). Một thời mà những người như “bà Duân từ mặc váy lên bà phu nhân đại sứ. Chắt Khởi từ anh câu ếch lên ông bí thư. Còn  anh từ. . .từ lên địa chủ, à quan lên giám đốc”(tr.217). Cái thời như thế Nguyễn Thanh trì tìm đâu được tri âm tri Kỷ! Đó cũng là cái thời chúng ta đang sống.

            Ốc Mượn Hồn gửi lại người đọc một “bản di chúc lạ lùng nhất trên cõi đời“, không phải di chúc của đại tá Đạt người chọn cái chết để tìm sự sống, mà là di chúc của người lính, dù dày dạn chiến trường nhưng lại “khó thích ứng với hoàn cảnh dân sự “ (tr.236)  nơi mà ở đâu “Máu cục bộ địa phương thì nơi nào cũng có, nên rất khó hào nhập thoải mái“ (tr.236). Anh Đạt đã cay đắng thốt ra: “Mình đi khắp xứ Đông Dương, bây giờ mới thấm thía thê nào là dân ngụ cư”.

Nhưng anh chết không phải vì không hoà hợp được với địa phương mà vi chuyện hoá giá căn nhà đang ở. Những lòng vòng về giá nhà đất, về thủ tục hoá giá khiến cho Đạt không thể nào có tiền trả đủ cho hội đồng hoá giá, dù anh đã “lôi cả ông bố thời Nam tiến” là liệt sĩ dậy cũng không đủ tiền. Luật quy định: người thừa kế được giảm thuế. Thế là anh chọn cái chết để người thừa kế là Lân được  hưởng miễn giảm thuế (thực sự Lân là đồng đội, không phải con, nhưng trong di chúc anh gọi Lân là con nuôi). Quả thực cái cơ chế thị trường ác nghiệt, cái cách tính thuế quái gở, cái cách đối xử lạnh lùng tàn nhẫn đã giết chết anh Đạt. Anh không chết vì súng đạn kẻ thù ở mọi chiến trường khắp Đông Dương nhưng phải chết đứng trong căm uất. Chết để giữ lấy những giá trị đẹp đẽ của người lính. Người ta tính toán ù xương máu của người lính với cái giá thật đau lòng. Anh Đạt đã nỗi khùng: “Người ta liệt sĩ 12 triệu, bố tao liệt sĩ có một triệu thôi à?’(tr.238) phải chăng đó là cái “lẽ đời” như di chúc anh Đạt viết “các con. Bố là lính, coi như bố hy sinh ở chiến trường. Đừng nhận tiền phúng điếu. Lẽ đời có lúc phải biết từ chối . . .” (tr.240). Biết nói gì khác hơn với cuộc đời! Sẽ chẳng ai trong chúng ta đồng ý với anh về một lẽ đời như thế. Nhức nhối tim gan lắm! “Cầu chúc anh yên giấc ngàn thu “(tr.240).

            Cây sầu riêng tứ thời  cũng là cái chết đứng nhưng là cái chết âm thầm, câm lặng. Nước mắt dấu hết vào tim. Chồng chị Tư Trang hy sinh lúc chị đang mang thai. Để che dấu nỗi đau mất chồng chị phải chịu đựng nỗi oan nghiệt chửa hoang với lính nguỵ. Chị bí mật nuôi dấu cán bộ ngay dưới giường đẻ của mình. Hoà bình lặp lại, chị có con với người cán bộ năm xưa (anh Bảy) bây giờ là bí thư huyện uỷ. Để bảo vệ uy tín cho người cán bộ sắp bước vào kỳ bầu cử, chị xin thôi việc về làm vườn. Chị còn đưa thêm cho  ngưới cán bộ ấy hai cây vàng để cứu danh dự của anh khi vợ anh chơi hụi bị bể. Trong chiến tranh chị đã hy sinh, giờ đây, chị lại tiếp tục hy sinh để bảo vệ Đảng. “Đảng cần Anh. . .Nghĩ mãi, chị quyết định bỏ hết về nhà để cho anh được ven toàn. . .ngày trước chị đã chịu một lần rồi, giờ thêm một lần nữa cũng ráng thôi “(tr.249). Đã đành là tình nghĩa là hy sinh  như chị Tư nói “Chồng người ta nhưng là cha của con mình. Đời chị thấy người mình thương cực, mình không đành”(tr.250). Nhưng vấn đề không chỉ mãi mãi là chịu đựng và hy sinh . . .

            Nhị Độ Mai là sự chọn lựa một thái độ sống,  cuộc sống thời mở cửa. Ba người bạn, Đức vượt biên đi tìm thiên đường trên đất Mỹ, Phước đi buôn làm giàu, người làm thầy giáo nghèo  đầy dẫy những mặc cảm thua kém về vật chất. Chân lý của mỗi người là gì? Đức đi Mỹ mất tất cả. Tuy làm giám đốc một hãng  điện tử chuyên chế tạo phần mềm vi tính nhưng anh đã trở nên  như một robot, anh “tập nhịn nói, càng nhịn càng thấy khoẻ” (tr.257 ) đến nỗi gần như không còn giao tiếp dược với người. Phước buôn bán, làm đại diện cho một công ty dược phẩm lại mắc bệnh nói nhiều, bệnh nhậu và thèm gái, khách sạn nào anh cũng có bà xã đang chờ. Anh nhà giáo được cho là may mắn “vì mày còn có hai đứa con. Phải lo cho chúng. Chúng là thế hệ tương lai, còn thế hệ ta coi như đồ bỏ”(tr.260 ). Mỗi người sẽ phải chọn lựa thế nào đây trước cuộc đời trăm ngả, đâu là chân lý? Có thể những lý giải của Nguyễn Đức Thọ chưa thật thuyết phục nhưng vấn đề anh đặt ra làm người đọc phải suy nghĩ về thái độ chọn lựa của mình. Nguyễn đức Thọ đã chọn lựa đứng về phía dân tộc, về phía thanh cao về phía ánh sáng của sự thanh khiết và lòng nhân ái.

            Nhưng “Người Cùng Làng” vượt biên , anh cu Chày, khi trở về nước không phải là một robot. Anh ta là việt kiều yêu nước hẳn hoi, chi tiền cho xã làm bữa chén đón việt kiều về nước đề xuất kế hoạch xây dựng lại quê hương, xây trạm xá để thực hiện kế hoạch hoá. Nhưng anh việt kiều ấy là ai? Anh cu Chày, vừa là việt kiều, vừa là liệt sĩ. Thời nào cũng được tôn vinh, thực chất anh  thuộc dòng họ Dương, dòng họ nổi tiếng vì có cái “chày” thuộc loại đặc biệt. Anh  đi bộ đội vì bị đẩy đi. Bởi vì, để anh ở nhà “Nó như con trâu đực đến kỳ xỏ ú rồi. Để ở nhà không yen tâm…Không khéo nó làm chị em vợ bộ đội chửa hoang thì nguy“ (tr.272 .) Tin báo Chày hy sinh làm người ta thở dài  lẩm bẩm “thằng này chết vì gái”(tr.273). Cuộc đời đưa đẩy. Nhóm người cướp tàu vượt biên bắt được Cu Chày định ném xuống biển. Anh được một phụ nữ cô đơn giàu có cứu . Vì  anh là “ tên Việt Cộng hiền lành đẹp trai có vóc dáng thật lý tưởng“. Anh trở thành Việt kiều, giàu có, sòng phẳng. Về nước Cu Chày xin trả lại số tiền chế độ trợ cấp liệt sĩ bấy lâu, việc đã rồi cho qua. “Liệt sĩ là liệt sĩ, Việt kiều là Việt kiều”(tr.277). Phải chăng đó là “chuyện cổ tích cá chép rùng mình vượt Vũ môn để hoá rồng”(tr.278)? Người ta bất cẩn lầm lẫn đến như vậy sao? Phải chăng một thời đại mà những kẻ nhố nhăng như chuyện anh Cu Chày lại được tôn vinh. Hay thời đại đã phong tước cho những kẻ như vậy ?

            “Đền thờ An Dương Vương” được Nguyễn Đức Thọ gọi là Đền Thờ Nước Mắt. Nơi ấy không chỉ an nghỉ những cuộc tình oan nghiệt nhưng truyện còn là số phận những con người thấp cổ bé miệng bị lưu đày bị làm nhục. Những quyền lợi vị kỷ, những hư danh, những nguỵ biện những phân biệt giai cấp và những thành kiến muôn thuở đã đẩy những lứa đôi yêu nhau đến bờ vực nước mắt. “Côi có mẹ theo trai, cha nó là tên đào ngũ vượt tuyến vào Nam. Ngày xưa bà ngoại nó cũng theo trai. Nòi nhà nó không đàng hoàng”(tr.283). Vì thế Côi không có quyền yêu Nương. Còn Nương, dù yêu Côi nhưng Nương bị ép gả cho con bác chủ tịch. Chồng cô tốt nghiệp kỹ sư ở Liên xô nhưng chạy theo mốt bỏ vợ quê tìm vợ Hà Nội, đang tâm bỏ Nương chỉ vì cô không sinh con trai. Kết thúc truyện “đúng là một ngày tệ hại nhất cuộc đời”(tr.295). Sau lần gặp lại Côi, Nương cùng với hai con uống thuốc ngủ rồi đổ xăng tự thiêu. Nước mắt hết một đời bà ngoại Côi, nước mắt một đời mẹ Côi, tủi nhục thân phận Côi và oan nghiệt một đời của Nương. Những điều ấy bởi đâu? chẳng lẽ “do ma quỷ xui khiến, do tiền oan nghiệp chướng”(tr.295) hay do sự linh thiêng của ngôi đền? (tr.283) Không, do con người tất cả, do cái giòng đời xô đẩy. Nguyễn Đức Thọ gọi đó là “cuộc sống xoay vần con người theo ý muốn của số phận”(tr.276) hoặc có lúc anh bàng hoàng “thì ra con người có số mệnh. Chẳng ai chống lại được số mệnh”(tr.177). Đấy chỉ là một cách Nguyễn Đức Thọ tránh không nói thẳng ra những cái ác đang tồn tại trong cuộc đời.

NHÀ VĂN CỦA LÒNG NHÂN ÁI

            Nguyễn Đức Thọ là nhà văn của lòng nhân ái. Anh không nói trực diện đến cái ác. Trong các truyện của anh không có nhân vật kẻ thù. Anh không viết truyện theo mô típ ta-địch, ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Anh cũng không xây dưng truyện theo mô tip đấu tranh nông dân-địa chủ  áp bức, bóc lột. Anh cũng không phơi bày những mưu mô tiêu diệt được điều khiển bởi ác tâm. Trên cái nền của những bi kịch thương tâm, truyện của Nguyễn Đức Thọ là lòng yêu thương con người sâu thẳm. Lòng yêu thưong đạt đến chiều sâu tâm linh, chiều dài thời gian của nhiều giai đoạn lịch sử và bề rộng vượt qua những định kiến máy móc những giả trá bao biện, những thủ đoạn đa đoan và những nỗi sợ hãi vô hình. Anh  nhắc lại nhiều lần trong nước mắt “Người của người! người của người”, yêu thưong và nhân ái. Dân tộc này là vậy. Thời gian sẽ qua đi, sự vật sẽ qua đi, những biến động của thời đại sẽ qua đi. Những cuộc bể dâu rồi cũng qua đi. Cái chân lý ở đời là tình nghĩa, là gìn giữ những giá trị làm người nhân nghĩa. Làm khác đi là ác, là tiêu diệt con người. Thương làm sao những Người của ngày xưa, Người trong cổ tích , Người ở miệt vườn. Thương làm sao Bóng dáng những người yêu nhau , những người phụ nữ đi qua chiến tranh như Chất, Út mai, chị Tư Trang. Thương làm sao những  người lính mà cuộc sống của họ trong veo, chân chất nhiệt thành như cậu Miền, Trung tá Đạt, Chính, và biết bao ngườiđã hy sinh. Thương tâm lắm những con người bị chôn sống như lão Câm, những người chết đứng như Đạt, chị Tư Trang những oan nghiệt của Nương. . .

            Nguyễn Đức Thọ kể những câu chuyện bi kịch nhưng anh không khai thác tính bi kịch, cũng không khai thác tính phê phán, mặc dù anh có dư tài năng để đạt tới nhữ giá trị đặc sắc, điều ấy nhiều người đã viết. Truyện của anh có cả bi lẫn hài. Cái bi là bản chất của số phận nhân vật, là cốt lõi  lòng nhân ái trong tác phẫm cùa anh. Còn cái hài là cách anh chỉ ra những lố bịch của cuộc sống, là cách anh  ném những cái thối tha vào mặt cái ác, nhưng cũng là những nục cười bao dung, nụ cười vượt lên cái bi thương, nụ cười giúp cho cái bi kịch thăng hoa, để rồi người đọc  chiêm nghiệm nhận ra những gì là giá trị ben vững của cuộc đời . Điều mà anh cố đạt đến là tìm ra đâu là chân lý để tồn tại, đâu là nguyên nhân mọi nỗi oan khiên, đâu là lối ra cho mọi kiếp đau thương, đâu là cái lẽ đời nhân ái. Những điều ấy được khai phá trên cái nền hiện thực rộng lớn, phức tạp, biến động, xoay trở, nghiệt ngã, suốt từ thời Nguyễn Thái Học đến thời cơ chế thị trường. Quả thực Nguyễn Đức Thọ đã hướng tâm thức của mình vào những vấn đề lớn của thới đại. Truyện của anh sẽ còn lay động tâm thức của nhiều thời đại. Đọc văn anh, người đọc như được nhắc nhở “Người của người” “thương tâm lắm” “ trên mặt đất này ân oán còn nhiều tơ vương lắm”, sẽ còn nhiều hy sinh ngay trong cuộc sống bình yên như anh Đạt, chị Tư Trang. Sẽ còn nhiều chao đảo như kiểu liệt sĩ biến thành việt kiều yêu nước. Sẽ còn nhiều tính toán như đã tính toán liệt sĩ một triệu đồng, sẽ còn nhiều tan nát, đập phá những cảnh lên voi xuống chó, những kiếp người bị chôn sống và những nổi buồn như nỗi buồn Giao Chỉ. . . .

            Bản lĩnh của ngòi bút Nguyễn Đức Thọ là ở sự thăng hoa của những bi kịch. Nếu không có bản lĩnh, khi viết những bi kịch, ngòi bút nhà văn dễ nghiêng về phê phán, mai mỉa, uất ức. Đã có lúc người ta cho rằng những trang văn của giai đoạn vừa qua là những trang văn của sự sám hối, thậm chí có cả khuynh hướng phủ định quá khứ. Tôi nghĩ đó là sự trầm luân của tâm thức và là sự non yếu về bản lĩnh cửa người cầm bút. Nguyễn Đức Thọ viết về những nỗi bi thương, những thân phận bị vùi dập những cái lố bịch của cuộc sống, kể cả những cái ác những nhẫn tâm, những nỗi sợ hãi vô hình. Nhưng âm hưởng toàn bộ các sáng tác của anh là sự thăng hoa của những nỗi đau. Anh không trách cứ ai, không đổ lỗi cho ai. Anh chiêm nghiệm, suy gẫm, thoát khỏi khỏi trầm luân, thanh thản, nhẹ nhàng. Nhân vật của anh hiểu sâu sắc bản chất của cuộc sống, vượt qua bi kịch và sống chính cái sự sống quý giá nhất là lòng nhân ái.

Chị Tư Trang không ù phiền trách anh Bảy, vẫn tiếp tục hy sinh giữ gìn cho anh. Anh Đạt để lại những dòng di chúc thật thấm thía “Giờ chết đi tôi hoàn toàn thanh thản. Không băn khoăn oán trách một điều gì và với bất cứ ai “ (tr.240). Ông Thuộc 21 năm ngày Bắc đêm Nam, lâm phải bi kịch, ông ngồi thiền trong một cái cốc nhỏ. “Ông oà khóc thành tiếng. Một ông lão tu hành vướng duyên nghiệp trần thế còn quá nặng mà khóc thì đó là điều kinh hoàng nhất của kiếp người”(tr19). Phải chăng sự thăng hoa đã đạt đến cõi thiện hảo khi Chính được coi là ông Phật sống? (tr.37). Mẹ của Tộ đã viết cho Thư “Người ra trận xưa nay không về cũng là chuyện thường tình. Bác đã từng một đời dang dở . Chắc cháu hiểu lòng bác” (tr.57) bà mẹ goá phụ tử sĩ ấy đâu có muốn một người con gái, dẫu là con dâu phải chịu cảnh goá phụ tử sĩ như mẹ. Cậu Miền xin ra Đảng vì không tài nào chịu đựng nổi lối sống cường hào của đám cán bộ địa phương (tr.90) nhưng cậu quyết giữ lại tấm huy hiệu Bác Hồ đã gắn cho cậu. Cậu kiên định: “trên đời này nhớ mời sư thầy đến tụng kinh nghe Vũ “(tr.108). Lão câm bị chôn sông  vì bị nổ mìn đá đè, vậy mà lại rất linh thiêng độ trì cho thợ đá. Lão có oán thù, trả thù gì đâu! Bà ba Cỏn nói lời thật cảm động khi Mai xin má thương cháu, con không cha, và đừng hỏi cha đứa bé là ai: “Mày nói cái gì nghe kỳ cục! cá đìa người nhảy vô đìa ta là cá ta, con à”. Lão Trạch nói những lời thương quá khi tiễn chân Nhọi Đức “Tao thương mày, thôi mày đi con ạ. Chân cứng đá mềm, vạn sự bình an. Nhà người ta có vài ba thằng, nhà mày có một, đi nhớ giữ gìn, thủ thân vi đại. Tội nghiệp mày, mày đi. . .”.

Cứ như vậy bao nỗi oan khiên, bao bi kịch, bao nước mắt bay lên cõi sáng láng của lòng nhân ái, một lòng nhân ái thanh khiết của những con người thanh khiết, chẳng cần phải thành Phật, cũng không cần ngồi Thiền hay cầu kinh. Đây chính là chỗ đặc sắc nhất của ngòi bút Nguyễn Đức Thọ mà ít ngòi bút có được. Ngòi bút của anh như thanh gươm sắc bén tung hoành giữa Trận Đồ hùng vĩ và bi tráng (tr.111), nhưng thanh gươm ấy lại không hề gây thương tích cho ai, cũng không hướng đến một đối thủ nào, mà  thanh gươm ấy toả hào quang ngọc bích, vang lên những khúc ca thiên thần và chữa lành những nỗi bi thương của một thời. Tôi yêu những giá trị ấy.

MỘT PHONG CÁCH RIÊNG

            Trong những tác giả truyện ngắn hiện nay, Nguyễn Đức Thọ đạt đến những đặc điểm nghệ thuật có phong cách riêng. Truyện của  anh phát triển nhanh, đọc với tốc độ nhanh, tốc độ của nhịp sống hiện đại. Anh dẫn truyện rất có duyên. Đôi khi chỉ là một cuộc gặp gỡ, với vài ba câu nói vui, anh cũng dựng được một truyện ý vị (Nhị độ Mai). Có khi hiện thực cuộc sống cực kỳ phức tạp, anh lại viết rất mạch lạc. Trên cái nền khô khan của những tranh chấp đời thường, anh xây dựng một chuyện tình thấm thía (Hồi ức làng Che).  Có những chuyện thật khó nói thành lời nhưng anh lại nói được bằng sự im lặng, như  tiếng đàn tỳ bà “thử thời vô thanh thắng hữu thanh” (Mùa Trái cây – Cây Sầu Riêng tứ Thời). Lại có những chuyện như những thông điệp ngụ ngôn gưi cho những ai tri kỷ (Nỗi Buồn Giao Chỉ – Đền Thờ Nước Mắt ) .

 Màu sắc thẩm mỹ các truyện của anh cũng thật phong phú. Có lúc người đọc phải cười to lên mới cảm nhận hết những ý vị của câu chuyện, nhưng lại giật mình về điều mình vừa cười (Người cùng quê, Hồi ức làng Che – Ốc mượn hồn . . .). Đọc văn anh, có lúc người đọc cứ lo cho anh, lỡ anh nói quá đà, không kịp giữ gìn thì.. . (Nỗi Buồn Giao Chỉ – Người Cùng Làng). Truyện của anh vừa có cái không khí ồn ào sôi nổi bi tráng của hiện thực, lại có cái thi vị của những tâm hồn thanh khiết yêu nhau. Có cái mộc mạc trần tục rất đỗi trần tục (anh Cu Chày) lại có cái hư ảo linh thiêng sững người (Đền thờ nước mắt ). Có cái thâm thuý chết người lại có cái hồn nhiên thánh thiện (Nỗi buồn Giao Chỉ- Người của người- Người của ngày xưa).

            Ngôn ngữ truyện của Nguyễn Đức Thọ vừa mộc, khoẻ, chân chất như chính nhân vật của anh lại vừa sáng trong thanh tú như chính sự thăng hoa của những bi kịch cuộc đời. Có lúc tôi đã săm soi xem trong từng câu chữ của anh có những gì mà bút lực mạnh mẽ như vậy, lôi cuốn như vậy. Tôi  thấy sự mộc mạc, chân chất của câu chữ, nhưng đàng sau đó là một lối tư duy hết sức sắc xảo. Trong truyện của anh có hai giọng nói thật mạnh mẽ, thật ấn tượng. Tôi cho rằng đó là tiếng nói tiêu biểu của thời đại. Tiếng nói mộc, khoẻ, chân thành, thấm thía của những con người chân chất như Lão Trạch, Lão Câm, bà Ba Cỏn, Má hai Phấn, cụ cố Tiệu, Học Trị. Đó là tiếng nói chân lý của nhân dân trên những biến động lớn lao của thời đại.Và tiếng nói thâm thuý, sắc bén như những miếng võ rất  hiền nhưng công lực của nó lại có thể chết người.

Tiếng nói của ông nội Vũ, của Cụ Tú Trần Viên… là tiếng nói thẳm sâu của tâm thức thời đại, của kẻ sĩ đất nghìn năm văn vật. Anh cũng đặc biệt thành công ở kỹ thuật viết những đoạn đối thoại. Nhân vật của anh nói năng tự nhiên như được ghi âm trực diện, hết sức bất ngờ, thú vị. Anh không sở trường về miêu tả tâm lý nhưng nghệ thuật miêu tả ngoại diện vẫn giúp anh thể hiện được nội tâm nhân vật. Tôi thích những các ăn nói bỗ bã của người lính, cách nói bộc trực nam Bộ, cả cách nói băm bổ của lão Trạch.

            Nhân vật của anh có cá tính quyết liệt có hành đông quyết liệt. Ngưởi đọc sững sờ khi lão Câm chém một nhát đứt đôi hai kẻ gian phu dâm phụ. Người đọc cũng kinh hoàng khi Nương cùng ba đứa con uống thuốc ngủ rồi tự thiêu. Đúng là một ngày kinh hoàng đối với những người phụ nữ hiền lành ấy. Oan nghiệt thay. Cái chết của anh Đạt củng quyết liệt, bi tráng như vậy. Nguyễn Đức Thọ thường kết thúc truyện với những tình tiết bất ngờ, khiến cho truyện trở nên thực sự hấp dẫn hấp dẫn, tư tưởng, chủ đề phát toả những năng lượng làm cân não và tâm can người đọc bỗng cồn cào không nguôi. Nỗi bâng khuâng day dứt tâm hồn người đọc mãi. Những ý tứ còn đọng lại thật thâm trầm, nó gợi cho người đọc về những bài học nhân thế trong một thời đại mà “chiến tranh cũng đã làm đảo lộn tất cả mọi sự đời”(tr.53).

Nhân vật nữ trong truyện của anh cũng thật đẵc sắc. Họ đẹp cả ngoại hình lẫn tâm hồn, như anh nói: đẹp như tiên sa. Họ giàu sức sống, giàu tình nghĩa nhưng tất cả đều lâm vào những bi kịch. Có khi đó là bi kịch thánh thiện (Ngàn, Rớt), có khi đó là bi kịch oan nghiệt (Nương, Xuân, Nhài ). Cũng có khi đó là những bông hoa tím ngát trên cái nền đỏ thắm (Mai, Chất, Tư Trang). Tất cả đều khao khát được sống hạnh phúc, đều hết sức giữ gìn những giá trị quý giá của cuộc sống, nhưng tất cả đều không với tới được những mong ước rất đỗi bình thường (Chất mong có con với chồng. Nhàn mong được nghe Chính nói một lời yêu thương, Chị Tư Trang mong con mình có cha như mọi đứa tre khác. . .). Dẫu vậy, họ không hề than thân trách phận hay oán trách bất cứ ai. Họ chắt chiu giữ gìn tất cả những gì có được vì đó chính thật là giá trị nhân bản. Bà Ba Cỏn nói với con khi bồng cháu ngoại không cha: “cá người nhảy vô đìa ta là cá ta, con  à!” ( tr.146). Những nhân vật ấy đều rất đậm những phẩm chất truyền thống nhưng cũng rất mới mẻ mà những nhân vật trước đây như Chị Sứ (Hòn Đất) Chị Út Tịch (Người mẹ Cầm Súng ) chưa hề có. Chị Sứ, chị Út tịch không lâm vào bi kịch đau thương, Các chị chỉ phải đối mặt với kẻ thù tàn bạo, từ đó thể hiện hết các phẩm chất   “anh hùng bất khuất, trung hậu đảm đang”. Những nhân vật nữ của Nguyễn Đức Thọ được xây dựng không phải để thể hiện những phẩm chất ấy,  nhưng họ phải đối mặt với  bi kịch của chính mình (Tư Trang tự chọn thái độ đối với anh Bảy – Chất đối diện với Mai cả hai đều không có cái mà người kia có nhưng không thể hoà hợp hay trao đổi. . .)

            Tôi nghĩ Nguyễn Đức Thọ không phải “hồi hộp lo âu trước các bậc khả kính”. Những  nhân vật của anh như chị Tư Trang, cô Út Mai, má hai Phấn, ông Bảy Công, ông Đậu Trạch. . . dù có bị những nguyên mẫu này “đòi hỏi, trách móc, la lối khi anh làm lech lac, méo mó, biến đổi hình hài gương mặt họ” (Đàm Chu Văn – Đồng nai 11/12/99). Sáng tạo là hư cấu. Nhà văn chỉ mượn hình hài vóc dáng, câu chuyện của nguyên mẫu, rồi nhào nặn lại theo lý tưởng thẩm mỹ  của mình để thể hiện tư tưởng của mình. Vì thế nhân vật văn học không bao giờ là bản sao tự nhiên chủ nghĩa của hiện thực.

Nhân vật của Nguyễn Đức Thọ chuyên chở được những chiêm nghiệm của anh trước những bi tráng của lịch sử, những đau đớn vật vả giàn giụa nước mắt của anh khi phải chứng kiến bao cảnh thương tâm, để từ đó thông điệp anh nói với thời đại là những thông điệp lớn về lòng nhân ái, về những giá trị nhân bản, về những lẽ đời  giàu nặng ân nghĩa, từ đó mà đời sống vượt lên trên cái bi kịch, để những đau thương mất mát hy sinh thăng hoa thành những giá trị đẹp đẽ của cuộc sống hôm nay. Nhân vật của anh lớn hơn nguyên mẫu vì những giá trị đó. Thực hiện được những giá trị đó chính là tài năng vủa Nguyễn Đức Thọ. Tôi không bao giờ nghĩ Nguyễn đức Thọ làm méo mó hình hài gương mặt nguyên mẫu của mình để đến nỗi bị trách móc la lối như Đàm Chu Văn đã chia xẻ với anh.

Tôi cũng không nghĩ  những nhân vật, những vấn đề anh viết, là của ngày hôm qua. Bạn đọc và những người của ngày hôm nay có quyền đòi hỏi đâu là những nhân vật của ngày hôm nay, đâu là những vấn đề của ngày hôm nay mà nhà văn quan tâm (Đàm Chu Văn). Sự thực nhân vật và những vấn đề trong tuyển tập Hồi ức làng Che anh viết là để cho ngày hôm nay. Nó vẫn đang thực sự day dứt trong lòng người đọc hôm nay. Tôi nghĩ sẽ còn phải mất nhiều chục năm nữa những vấn đề Nguyễn Đức Thọ nói đến trong tập truyện này mới có thể trở nên sáng tỏ trước công luận, và ngay cả đến lúc đó, thì những chiêm nghiệm thế sự Nguyễn Đức Thọ đặt ra vẫn lấp lánh những sắc màu riêng của anh . Chẳng hạn về những nỗi sợ hãi vô hình cứ treo lơ lửng trên đầu, hoc nỗi buồn mà anh gọi là Nỗi buồn Giao Chỉ chắc ai trong chúng ta cũng hiểu nhưng  không dễ gì nói ra, cũng không cần nói ra  vì nó ở tận đáy sâu tâm hồn mỗi người, hoạc những ấu trĩ của một thời và nhiều ấu trĩ khác giờ đọc lại cứ ngỡ như là đùa nhưng thực sự đau đớn thấm thía. Hồi ức Làng Che là của ngày hôm nay, cho người đọc hôm nay, và cả mai sau. Tôi nghĩ nhà văn chỉ cần viết thật hay những gì mình tâm đắc, những gì là chính máu thịt xương tuỷ của mình. Nhà văn không cứ phải ù chạy theo những gióng trống mở cờ, ồn ào hời hợt, để rồi nhìn lại chỉ thấy nhạt nhẽo vô vị. Văn Nguyễn Đức Thọ không phải như thế .                                                                           

Văn anh là tâm huyết của anh, một phong cách đậm chất dân gian. Không chỉ những câu chuyện anh kể được chắt lọc từ chính đời sống của nhân dân, mà người đọc như tìm thấy lại cái không khí của nhiều chuyện dân gian trong cách kể, trong tính cách nhân vật, trong cái cười vừa tục vừa hồn nhiên lại vừa thâm thuý. Đó là chỗ độc đáo riêng anh, là cái giọng của riêng anh, cái chất của riêng anh, không khác đi được, dẫu anh có “muốn vượt lên chính mình”. Tôi nghĩ anh nên tô đậm cái chất độc đáo ấy thêm lên, sâu hơn, sắc hơn, thâm thuý hơn, hồn nhiên hơn, bỗ bã hơn, thanh khiết hơn, duyên hơn, tri kỷ hơn, dù biết rằng “kẻ sỹ bất phùng thời không tìm được người tri âm . . .” (tr.220). Thân phận nghệ sỹ là vậy. 15 truyện ngắn anh chọn trong tuyển tập này mà anh gọi đùa là 15 cái vé của một xuất Kiều. Tôi hiểu anh đã phải sống hết một thời trai trẻ với bao thăng trầm thế sự, lăn lộn trong những biến động lớn lao của thời đại, đau đớn với bao nhiêu kiếp trầm luân vắt cạn kiệt hết máu  và nước mắt từ trái tim mình, anh mới có thể viết được như vậy. Làm sao anh có thể sống một thời như thế nữa để lại làm nen 15 cái vé của một xuất Kiều thứ hai. Tôi nghĩ những truyện trong tuyển tập này đã đủ tạc nên một Nguyện Đức Thọ độc đáo trong văn chương Việt Nam đương đại

PHÁC THẢO MỘT CHÂN DUNG

Trước đây, đã có lần tôi thử phác thảo chân dung Nguyễn Đức Thọ qua tác phẩm của anh, tôi thấy anh lạ lắm. Bên ngoài anh nói cười oang oang hồn nhiên, có khi băm bổ,  đùa nghịch không ai bằng (Hai Tín đè người Ba Nghĩa lòn tay sờ háng bạn  (tr.68), anh cu Chày cho bọn con nít treo giỏ cua lên “của quy” của mình (tr.271). Học Trị tát yêu “thằng em”  thò ra ngoài quần (tr.187)…) nhưng rồi, trước những bi kịch trước những đớn đau số phận anh đẫm nước mắt có lúc khóc oà lên (nước mắt tôi trào ra, tôi khóc lặng người tr.23.), khuôn mặt anh cười như mếu.

Trong tuyển tập này, tôi thấy chân dung Nguyễn Đức Thọ đã sáng hơn nhiều, khuôn mặt anh thanh thản hơn, giọng nói của anh trầm hơn, sâu hơn, hiền hậu hơn thăng hoa hơn . Anh đã đạt đến sự trọn hảo của một phong cách độc đáo –  một cây bút kế tục được những thâm thuý của ngàn năm văn vật nhưng lại có được  tốc độ  nhanh của cuộc sống công nghiệp hiện đại. Có lúc anh nhìn về phía trước mà ái ngại: “Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh”(tạp bút đăng trên báo Tuổi Trẻ).

Tôi hiểu anh đã đi đến chỗ tận cùng  cái nghiệp văn chương. Anh  khao khát sáng tạo những cái mới hơn, hay hơn, lớn lao hơn, độc đáo hơn, nhưng đường càng đi, càng thăm thẳm, thời gian càng ngắn lại mà lực lại bất tòng tâm. Tôi nghĩ người nghệ sĩ khi đã góp được cho đời những bông hoa hương sắc thì đó là cái gì rất quý giá rồi. Cuộc đời sẽ là một vườn hoa lớn đầy màu sắc. Tuyển tập Hồi ức Làng Che đủ đóng góp cho đời một chùm hoa mà hương sắc của nó sẽ còn thơm mãi.

Tháng 12/1999

***

ĐẶC SẮC TRUYỆN NGẮN TRẦN THU HẰNG

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

ĐẶC SẮC TRUYỆN NGẮN TRẦN THU HẰNG

Bùi Công Thuấn

Nhà văn Trần Thu Hằng thành công với các tiểu thuyết Đàn đáy (2005), Rừng thiêng vẫn gọi (2007), Người đàn bà Lưu vong (2008) và Chuyện tình ở Hầm Hinh (2015-tác phẩm đạt giải Trịnh Hoài Đức lần thứ IV). Về truyện ngắn, tôi không tìm được tập Chà gạc xanh (Nxb HNV 2020)của Trần Thu Hằng nên đành phải góp nhặt. May mà tìm được khoảng 20 truyện ngắn: Áo dài của mẹ, Còn mãi tình anh, Gió xuân, Huyết yến, Nhịp song lan giãn cách, Hai cô gái, Cầu ván ghép, Cựa gà thuốc, Trăng khuyết, Cánh đồng bình yên, Con trai người mê bóng đá, Đôi mắt bạc, Hóa thân, Tóc dài ở quán cà phê thơ, Một kiếp hoa quỳnh [[1]] và một vài truyện thiếu nhi. Đó là một thế giới nghệ thuật mới lạ, và tôi thực sự ngạc nhiên trước thế giới tinh anh ấy.

NHỮNG TRUYỆN HIỆN THỰC

            Áo dài của mẹ, Còn mãi tình anh, Gió xuân, Huyết yến, Nhịp song lan giãn cách, Hai cô gái, Cầu ván ghép là những truyện viết bằng bút pháp hiện thực về những vấn đề đời thường; nhưng câu chuyện, cách viết, cách đặt vấn đề rất mới, khiến cho người đọc không nhận ra mình đang đọc một truyện đã quen.

 Chẳng hạn, viết về đại dịch Covid có 2 truyện: Còn mãi tình anhNhịp song lan giãn cách. Đó là một chuyện tình yêu và một chuyện tình nghệ sĩ. Người đọc mải mê dõi theo cuộc tình của một đôi bạn từ thời học sinh, đến nay đã 70 (Còn mãi tình anh). Họ mong gặp nhau, nhưng rồi một người ra đi. Họ cách trở mãi mãi chỉ vì Covid. Trong Nhịp song lan giãn cáchlà một cuộc mua bán đất vườn của hai ông gia đam mê nghệ thuật. Câu chuyện bắt đầu từ một đêm đờn ca tài tử. Ông Vĩnh hợp đồng mua khu vườn của ông Tam. Một tháng sau, dịch lan mạnh. Ông Vĩnh trở tay không kịp bèn phải xin thôi hợp đồng. Gia đình ông Tam cũng khốn đốn vì chỗ ở cho thằng con nên đồng ý. Hai ông kết nghĩa anh em. Một đêm thanh vắng, ông Tam “phát trực tiếp” cho ông Vĩnh đang nằm chèo queo một mình xem buổi đờn ca tài tử “giãn cách” ở nhà…

Tôi nghĩ, đặt đại dịch Covid vào những tình huống cụ thể như thế, với những tình tiết “hiện đại” được update (thí dụ, buổi live stream đêm đờn ca tài tử), thì đó là điều sáng tạo mới mẻ. Người đọc không nghĩ rằng mình đọc một “truyện phong trào”. Covid tô đậm thêm sự mất mát nhưng cũng làm sâu sắc hơn tình người.

Gió xuân là một nhan đề đầy lãng mạn, nhưng lại kể chuyện những con người “dưới đáy”(chữ của M. Gorky), chuyện lão Bảy Nhão với một “con điếm” 17, 18 tuổi ở dưới tán cây bàng lơ xơ.  Cả hai cứ thản nhiên giở trò khỉ ra giữa thanh thiên bạch nhật suốt buổi chiều. Khi xe cộ trong thành phố đã lên đèn, Bảy cúi xuống bế xốc thân xác mỏng như một con dao của nó lên, lần vào bên trong cánh cổng công viên còn mở. Đứa con gái không khóc không rằng, nhưng mà Bảy khóc– Em ơi! Anh đâu còn gì dành cho em…! Bảy đã già rồi. Khi Bảy tỉnh dậy thì đứa con gái đã bỏ đi. Hai ba chục năm trước, Bảy Nhão là Bảy Quỷ, nổi tiếng giang hồ. Bảy vá xe ở góc đường hơn 10 năm rồi, kiếm ăn như một con cu ly hiền lành, nhẫn nhục. Bảy ra bến xe miền Đông, bị bọn trai trẻ kiếm cớ đánh một trận đòn thừa sống thiếu chết. Bảy về chợ Cầu Muối, đột lốt một lão ăn xin dơ bẩn, hôi hám. Lần này lão phải chui rúc dưới gầm cầu, mặc dù hình con đại bàng xăm trên ngực nhăn nhúm vẫn còn. Tết sắp đến, Công an chuẩn bị gom hết bọn cô hồn, Bảy cũng vội vàng đi, suýt nữa thì bị hốt. Đêm giao thừa, lạnh buốt, Bảy đi cho đến lúc bàn chân tướp máu, mà không biết đi đâu…

Truyện tưởng như quen. Tôi cố lục lọi bộ nhớ xem có truyện nào của Nam Cao, Nguyên Hồng, của Kim Lân mà nhân vật có hoàn cảnh như Bảy Nhão và “con điếm” không, nhưng tuyệt nhiên không. Bảy Nhão giang hồ nhưng lương thiện. Bảy sống “dưới đáy”, không biết rồi sẽ dạt về đâu khi “đâu còn gì” cho em, nhưng lão vẫn khao khát hạnh phúc gia đình. Lão không căm thù như Chí Phèo tìm giết Bá kiến. Kết truyện, tác giả giành cho lão một cành huệ. Thật mới lạ!

            Cầu ván ghép viết về số phận bi thảm của những người đàn bà “đứng đường”. Trong buổi sáng ấy, người ở cảng Đồng Nai đến báo cho Sư  Nhật Tâm cái tin một cô gái điếm chết vì tự tử được vớt lên, cô gái ấy không có thân nhân, không ai nhận làm giấy chứng tử, nên xác nằm ở bờ sông đã đưa về nghĩa trang nằm phía đối diện chùa. Những người đàn bà (“đứng đường”) cầu xin sư rủ lòng thương. Người ta bảo người đàn bà đã gieo mình xuống sông Đồng Nai sau khi ném đứa con mới sinh vào cổng nghĩa địa.  Đứa con ấy là của thằng Sang với người đàn bà. Sang là một kẻ tâm thần, cũng chết vô gia cư. Sư Nhật Tâm đã làm lễ tang cho họ và nhiều người không thân nhân khi nghĩa địa bị giải tỏa. Người sống đã khổ mà kẻ chết cũng khổ. Chỉ có tấm lòng từ bi của sư Nhật Tâm an ủi họ, và nhà văn viết về họ. Truyện có cấu trúc  rất lạ (khi kể lại truyện này, tôi đã làm hỏng cấu trúc đặc sắc của truyện).

            Trần Thu Hằng viết về những chuyện xảy ra hôm nay với một tấm lòng yêu thương con người. Cái lạ là, hiện thực không được viết dưới góc nhìn của “Hiện thực phê phán”, không than trách, không truy nguyên cái khổ của những phận người. Nhà văn lên tiếng vì những con người “dưới đáy” ấy, dù họ là ai, cũng cần được tôn trọng, vì họ là con người; và trong cuộc sống này, tình người vẫn còn đủ ấm cho những linh hồn bơ vơ lạc loài.

TRUYỆN LỊCH SỬ

Đọc nhan đề Cựa gà thuốc, Trăng khuyết, bạn đọc không thể đoán ra được đây là truyện lịch sử. Thực ra nói “truyện lịch sử” chỉ là một cách để nói sự khác biệt về bút pháp của Trần Thu Hằng. Nhà văn không kể lại lịch sử, không đặt những vấn đề thuộc về lịch sử, cũng không rút ra bài học lịch sử cho hôm nay. Ai đó đã nói, lịch sử trong truyện Trần Thu Hằng chỉ là cái khung  mà nhà văn dùng để treo bức tranh nghệ thuật của mình.

Cựa gà thuốc mở đầu (ở hiện tại) bằng chuyện “Hồ cá của thằng Thanh với gà của thằng An bị mất!”. Rồi An mơ mình bị một bọn người như trong kiếm hiệp bắt đem đi. Chúng dẫn An đến gặp chúa đất. Chúa đất nói đến một cuộc đấu gà và cần đến An. Trong cuộc đấu gà, bọn Chúa đất bị quân của thủ lĩnh Lê Lộc đánh tan.

Thì ra, tác giả muốn giới thiệu một chuyện tích về Cù Lao phố: “cuối thế kỷ thứ 17, có một thủ lĩnh nông dân tên là Lê Lộc đã khởi nghĩa đánh đuổi chúa đất, xóa bỏ đặc quyền buôn bán chuyên chở hàng hóa của người Hoa kiều trên khúc sông này. Từ đó tên đất là Cù lao Sông Phố”. Trần Thu Hằng kết hợp những chuyện thật với giấc mơ, kết hợp cõi dương với cõi âm, để tái hiện một sự kiện lịch sử. Truyện kể như thật và hấp dẫn. Tính phiêu lưu, những điều kỳ lạ xuất hiện như trong kiểu truyện “chí quái chí dị” (thí dụ: Liêu trai chí dị) kết hợp với sinh hoạt đời thực, tạo nên một thế giới huyền thoại khả tín.

Trăng khuyết là một truyện lịch sử rất giàu chất thơ. Con thuyền, đêm trăng, khách thơ, Cầm nương đánh đàn, cuộc tình, người đi tìm nhau, thấp thoáng Tỳ Bà hành (Bạch cư dị):

Vua Gia Long mất, Tố Như (Nguyễn Du) với chức tòng tam phẩm, đứng chầu bên tử cung. Trở về công quán, Tố Như tắm rửa.  Viết xong bài thơ, ông dán lên vách rồi lặng lẽ đẩy cửa đi ra. Chỉ còn ít ngày nữa là đến tết Nguyên Đán rồi. Nhưng khắp hang cùng ngõ hẻm, nơi đâu cũng lặng tờ. Năm nay không có tết. Tố Như gọi đò và đi ngược dòng. Ông thở dài: -Chao ôi vắng vẻ! “Tố Như chợt thiếp đi… thấy mình đi xa lắm, len lỏi trong các thạch động ở Phong Nha (Quảng Bình), rồi phút chốc con đò quay mũi về sông Cài, cửa Trẹm, dừng lại ở bến Giang Đình quê nhà ông”. Ông bừng mở mắt, thấy mình vẫn ngồi trong lòng một con đò nhẹ tênh. Trước mặt ông là một người đàn bà, hai tay nâng cây đàn nguyệt lên ngang mày thì thầm, mời ông nghe khúc Tỳ Bà. Ông từ chối. Con đò trở về bến Kim Long trước khi trời sáng. Mùng năm, trăng hiện lên như cái lá lúa nơi hói Phú Cam. Tố Như lại đi đò ngược dòng sông. Lần này, ông thấy mình đi trên sông Hán, sông Hoài ở Trung hoa. Đêm nguyên tiêu, trăng hiện một phần ba qua đám mây chì. Người ta thả những búp hoa sen bằng giấy có gắn bấc đèn đang cháy xuống sông. Lão đưa đò nói lễ thả đèn này là để cầu cho những vong linh siêu thoát. Tố Như nhòa hai hàng lệ nhìn những ánh lửa thắp lên ngọn đèn trời.

Cơn sốt dai dẳng bám lấy cơ thể Tố Như, ông thường không ngủ những đêm dài. Sau khi thi hài vua Gia Long được đưa ra khỏi Hoàng cung, Vua Minh Mạng lệnh cho Cần Chính học sĩ Nguyễn Du chuẩn bị đi sứ cầu phong vua Thanh. Nhưng ông đang ốm, mắt nhắm nghiền nằm trên giường. Trên vách có dán một bài thơ. Đến đêm, Tố Như lại mặc áo rồi đi ra.Ông gặp Cầm nương, người đánh bài Tỳ Bà đi tìm ông đã 30 năm. Nhưng nàng chết rồi, giờ đây chỉ còn hồn nàng đi tìm ông khắp nơi. Nàng bảo, ông bây giờ có xác mà chẳng có hồn, còn đang lênh đênh như chiếc bách giữa dòng. Nàng lại nói, -Vậy Người làm thơ để làm gì? Người hay chữ để làm gì?…Chưa đầy tháng sau, Tố Như qua đời. Người chết bó chiếu nằm đó, thân thể lở lói dơ bẩn. Vợ con ông không kịp ra, mà cũng không thể đưa ông về làng Tiên Điền được. Trên vách quán không còn bài thơ nào nữa. Có lẽ trước khi chết, Tố Như đã kịp gỡ bỏ đi rồi.

Có thể nói ngắn gọn thế này, Trăng khuyết là tâm trạng và thái độ im lặng của Nguyễn Du sau khi vua Gia Long qua đời. Truyện được lồng trong đêm trăng thả thuyền trên sông và mối tình với Cầm nương [[2]]. Tác giả không lý giải vì sao Nguyễn Du lặng lẽ. Có lẽ vì thương cảm những vong linh khi ông nhìn những búp hoa sen bằng giấy có gắn bấc đèn đang cháy xuống sông mà Lão đưa đò nói lễ thả đèn này là để cầu cho những vong linh siêu thoát. “Tố Như nhòa hai hàng lệ nhìn những ánh lửa thắp lên ngọn đèn trời”.

Kể chuyện Nguyễn Du, Trần Thu Hằng không có phát kiến lịch sử mới nào khác với những gì giới viết văn học sử đã về Nguyễn Du. Trần Thu Hằng chỉ tập trung miêu tả tâm trạng của ông, tâm trạng về thân phận kẻ sĩ dưới triều đại phong kiến. Nguyễn du quyết liệt đến nỗi ông từ bỏ tất cả. -Vậy Người làm thơ để làm gì? Người hay chữ để làm gì?…câu hỏi của Cầm Nương cũng là sự tra vấn của chính Nguyễn Du. Ông đã chết trong đơn độc. Trên vách quán không còn bài thơ nào nữa. Có lẽ trước khi chết, Tố Như đã kịp gỡ bỏ đi rồi.

Có thể nói truyện lịch sử của Trần Thu Hằng đầy sáng tạo. Trước hết nhà văn dẫn người đọc vào một bầu khí lịch sử để sống với nhân vật. Trong thế giới ấy, nhân vật lịch sử trăn trở, sống và hành động nhưng đang ở trong bối cảnh hiện tại  (không phải là khộng gian cổ kính của quá khứ); và, nhà văn đem vấn đề của lịch sử để hỏi người đọc. Tại sao Nguyễn Du lại im lặng trước thực tại? Tại sao Nguyễn du chỉ nhìn thấy xung quanh mình vắng lặng, ông một mình trơ trọi; và tại sao nhà văn để Nguyễn Du chết đơn độc, ngay cả người thân cũng không có ai? Tại sao Nguyễn Du lại phủ nhận sự nghiệp thơ văn? (Cầm Nương hỏi Nguyễn Du: -Vậy Người làm thơ để làm gì? Người hay chữ để làm gì?…). Sự khác biệt là ở chỗ, nhiều nhà văn đương đại viết truyện lịch sử với mục đích dùng cái xưa để nói cái hôm nay. Tác phẩm lịch sử chỉ là cái mặt nạ tác giả ẩn mình để phê phán hiện tại.

TRUYỆN HƯ CẤU (FICTION)

          Truyện hư cấu (fiction) là truyện tưởng tượng, không phải là chuyện thật, mặc dù nó có thể dựa trên một câu chuyện hoặc tình huống có thật [[3]]. Những truyện Cánh đồng bình yên, Con trai người mê bóng đá, Đôi mắt bạc, Hóa thân, Tóc dài ở quán cà phê thơ, Một kiếp hoa quỳnhtruyện hư cấu.

Có thể khẳng định rằng những truyện này làm nên một khuôn mặt truyện ngắn đăc sắc nhà văn Trần Thu Hằng, có tính vượt trội, so với những tác giả trẻ cùng thời với tác giả. Bởi vì, những truyện hư cấu của Trần Thu Hằng là kiểu truyện tư tưởng (không phải truyện giải trí), tức là những truyện được kể, không phải để phản ánh hiện thực, hướng đến giải quyết những vấn đề đời sống, mà để thể hiện những suy tư có phẩm chất triết học. Người đọc có thể nhận ra trong truyện, Trần Thu Hằng tra hỏi về hiện sinh, các nhân vật thấp thoáng mang bóng dáng những phạm trù triết học Hiện sinh; nhưng Trần Thu Hằng không viết truyện để trình bày triết thuyết như J.P.Sartre (1905-1980) viết Buồn Nôn (La Nausée), A. Camus (1913 – 1960) viết Người xa lạ (L’Étranger).

Thú thực là nhưng truyện này không dễ đọc chút nào. Sức hấp dẫn của truyện có thể cuốn người đọc lướt đi rất nhanh, những tình huống bất ngờ, những miêu tả táo bạo, những khám phá tinh tế và những diễn đạt trí tuệ đem đến thật nhiều thú vị cho người đọc. Nhưng đọc xong, ta ngẩn người ra, đắn đo, tự hỏi, thông điệp tác giả  muốn nói là gì? (không dễ xác định), và có cái cảm giác này, rằng những gì mình nhận thức được chưa chắc đã đúng với những tư tưởng tác giả gửi trong truyện, bởi tư tưởng được gói rất kín trong nhiều lớp hiện thực được kể, ẩn rất sâu trong một cấu trúc truyệt khá phức tạp, và đôi khi, tác giả không để cho người đọc một chút gì để bám víu mà lần tìm ánh sáng. Tôi ngộ ra hai điều. Hãy cứ thưởng thức cái hay của một tác phẩm nghệ thuật, còn những tư tưởng triết học, hãy để đó mà nghiền ngẫm.

Nhưng nếu đã nghiền ngẫm mà không ngộ ra được, thì truyện sẽ theo ta mãi. Xin đọc:

 Truyện Cánh đồng bình yênNàng vấp cửa té, bất tỉnh. Lúc tỉnh dậy thì đau đầu. Nàng tìm một cái khăn buộc chặt quanh đầu. Nàng thay áo quần. Nàng tắt đèn và nhẹ nhàng quay người đi. Người cha hỏi đi đâu?– Đến chỗ nào bình yên, cha ạ. Nàng sang nhà hàng xóm nhờ một anh sinh viên chở mình tới bệnh viện. Bác sĩ mở hộp sọ của nàng, múc hết máu xuất huyết ra, rồi đóng hộp sọ lại cho nàng. Cuộc phẫu thuật thành công. Anh sinh viên chờ ngoài cổng đưa nàng về. Họ lại về qua cánh đồng. Anh ta đặt nàng xuống cánh đồng xanh. Chàng cởi quần áo nàng. Chàng muốn đặt nàng lên cánh đồng ban chiều ngọt lịm. Còn nàng, nàng thả rơi mình vào không gian bao la, vì nghe những nhịp đập tim mình càng lúc càng hòa vào với tiếng nói của Mẹ đất dịu hiền, …và nàng nghe thấy tiếng bước chân dẫm trên mặt đất cách xa hàng nghìn dặm. Chàng trai tung người ngã vào trong bùn, mang trên ngực lỗ thủng của một viên đạn xuyên qua. Người thợ săn xách khẩu súng vội chạy đến. Con vật mà ông thấy còn đang nhoai mình lóp ngóp trên những ngọn lúa non, lại chẳng ra hình thù gì. Ông không hiểu. Vì tò mò, ông chạm vào thì nó tan biến đi.

Một câu chuyện hoàn toàn hư cấu. Phải chăng nhà văn trình bày điều suy tư này: con người đi tìm sự bình yên thì lại gặp cái chết, chết vì bị ngộ nhận.

Các nhân vật đều không được đặt tên (chỉ có đại từ phiếm chỉ: Nàng; anh sinh viên, bác sĩ, nữ y tá, người thợ săn) vì thế mang tính đại diện. Thời gian, không gian (cánh đồng chiều) không rõ là ở đâu. Vì thế mọi chi tiết có sự chuyển nghĩa, từ nghĩa miêu tả sang nghĩa ẩn dụ. Chẳng hạn, anh thanh niên bị trúng đạn ngã vào trong bùn (nghĩa miêu tả), nhưng khi người thợ săn chạy đến, ông lại thấy một con vật, chẳng ra hình thù gì, và khi ông chạm tay vào thì nó tan biến đi (nghĩa ẩn dụ). Người thợ săn đã ngộ nhận anh thanh niên với một con thú hoang, và anh thanh niên lại ngộ nhận cánh đồng là nơi bình yên để yêu thương. Cái bi đát của con người là từ ngộ nhận này nối tiếp ngộ nhận khác. Sự ngộ nhận xuất phát từ trong nhận thức của tha nhân đối với ta.

Truyện Hóa thân là truyện của Hạnh. Hạnh nhận lời đóng thế vai Thiên Kim trong bộ phim “Người Nữ” của đạo diễn Quốc Chính. Cô giấu tên mình với đạo diễn. Cô cũng giấu công việc với Trung, một người bạn, khiến anh ta không đủ kiên nhẫn mà bỏ rơi cô. Và Hạnh từ chối làm vợ Quốc Chính. Khi đến thăm Thiên Kim, biết Kim bị ung thư, Hạnh bỏ chạy khỏi bệnh viện. Thời gian trôi, một lần xem bộ phim mình đóng, Cô nhận ra chính mình đang sống, đang thở, đang hạnh phúc khổ đau trong hình hài không có tiếng nói, không có bộ mặt của mình”. Cô nói với người đàn ông của mình: “Em yêu anh”.

Câu văn người đọc có thể bám vào để hiểu tư tưởng nhà văn muốn chia sẻ là, khi Hạnh xem phim mình đã đóng: “Cô nhận ra chính mình đang sống, đang thở, đang hạnh phúc khổ đau trong hình hài không có tiếng nói, không có bộ mặt của mình”.

Có nhiều điều cần phải giải cấu trúc truyện mới có thể hiểu. Tại sao Hạnh phải che giấu mọi người tên tuổi, công việc của mình? Việc che giấu ấy khiến cô đánh mất nhiều thứ nhưng cô vẫn đánh đổi (tình bạn với Trung, làm vợ đạo diễn Quốc Chính). Tại sao cô bỏ chạy khi biết Thiên Kim sẽ chết vì ung thư? Và lời cô nói với người đàn ông của mình “Em yêu anh” có ý nghĩa gì? Ý nghĩa tư tưởng của “Hóa thân” là gì?

Tôi đọc được điều này. Khi Hạnh “hóa thân” vào Thiên Kim, Hạnh không tồn tại là Hạnh. Khi nàng nói với người đàn ông của mình rằng “Em yêu anh” thì nàng mới thực sự là mình. Nàng chọn lựa sự tồn tại là chính mình (Tồn tại là một phạm trù của triết học Hiện sinh).

Truyện Một kiếp hoa quỳnh cũng có cấu trúc phức tạp. “Anh có trồng một khóm hoa quỳnh ở công viên Kỷ Niệm. Anh đi rồi em thỉnh thoảng ghé về chăm sóc hoa thay anh…”. Đó là lời dặn dò cuối cùng của anh. Đêm ấy anh chết, trong vòng tay người vợ yêu của mình. Mạc Hương theo lời dặn ấy đi tìm công viên kỷ niệm. Cô gặp một ông già trong biển người đi hội mùa xuân. Cô hỏi ông, Ông già chỉ lên trời. Thực ra ông già là người chăm sóc khóm hoa quỳnh cô gặp mỗi ngày.

Mạc Hương ghi nhật ký: “Tro của anh vùi ngay trong khuôn viên vườn nhà anh. Vậy là vợ của anh lại giam cầm anh kể cả sau khi anh chết Em chưa bao giờ nghe tên công viên ấy”. Đêm mùa xuân ấy, cô đã khóc giữa nỗi cô đơn cùng cực. Cô nhớ đến anh – một bình tro lạnh. Lần đầu gặp anh, anh trở thành thần tượng của cô. Nhưng tử thần trong chớp mắt đã cướp anh đi. Di chứng của chiến tranh. Năm ấy, đơn vị anh đi qua Quảng Trị, nơi giặc rải chất độc màu da cam…Anh đã ra đi trong một đêm xuân ấy. Đêm, có những lúc anh từ cõi hư không trở về. Cô đã từng nhìn thấy anh ngồi đó, lật những trang sách và trò chuyện cùng cô.

Rồi một buổi sớm kia, Mạc Hương không nhìn thấy ông già trên bao lơn nữa. Buổi chiều mưa khủng khiếp, cô đã nhìn thấy Gã trai mình trần đang vặt gãy những gốc hoa quỳnh. Mạc Hương chạy vào nhà và cầu xin hắn đừng giết khóm hoa quỳnh. Hắn nói: – Không muốn tao nhổ nó đi à? Trừ khi mày hãy hiến thân cho tao. Như người mộng du, cô gật đầu. Gã xấn vào bế bổng cô lên, như một con thú hoang vồ được miếng mồi ngon. Cô bừng tỉnh: – Anh ơi! Hãy cứu em, hãy cứu em. Anh vẫn im lặng. Trong trái tim Mạc Hương, tất cả sụp đổ hoang tàn..

            Nhật ký Mạc Hương: “Cuộc đời là như thế sao, tình yêu là như thế sao? Em không thể bình tâm được nữa. Em đã phải đánh đổi – một trò đổi chác khốn nạn mà chính em không sao hiểu được.

            Mùa xuân lại đến. Một đêm, khuya lắm rồi, gã trai trẻ ấy tìm đến. Hắn yêu cầu cô một điều: đêm mai đến nhà hắn. Gã nói: Hoa quỳnh nở, tôi muốn chị thấy nó, đoá hoa đầu tiên, kể từ hôm ấy. Rồi gã ngồi kể chuyện ông già. Ông ấy là bác ruột, người nuôi gã ăn học. Lúc trẻ hình như ông đã vướng vào một chuyện tình không lối thoát, để suốt cả cuộc đời lúc nào cũng ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Ông ấy yêu hoa quỳnh mê muội. Đột nhiên ông về quê, để lại lá thư dặn gã hãy nhổ hết hoa quỳnh đi giúp ông. Ông mất.

            Gã cầu xin Mạc Hương tha thứ. Hắn nói:  Tôi xin nói thật, chị đẹp lắm. Khi nhìn thấy chị nằm trong căn phòng cũ của bác tôi, tôi cảm thấy như gặp lại người yêu của mình. Tôi có cảm giác đó không phải là một con người xác thịt, mà là một đoá hoa quỳnh trắng muốt, ngọc ngà, bất tử… Có phải hoa quỳnh đối với chị là một điều gì đó thật thiêng liêng…? Gã ướm hỏi, – Chị đến chứ? Tôi làm tất cả, vì tôi tin chị sẽ vui lòng… nhưng Mạc Hương không đáp lời. Gã nhẹ nhàng đi ra, không nói lời từ biệt, trông thật cô đơn và cổ lỗ.

            Thú thực là văn của Trần Thu Hằng cô đặc lượng thông tin thẩm mỹ đến nỗi tôi không thể tóm tắt ngắn gọn hơn được. Bỏ bớt câu văn nào cũng tiếc, bởi nó sẽ làm mất đi cái hay của câu truyện. Hãy cứ để cái hay ấy thấm sâu trong cảm thức của ta, giờ cần giải mã cho được những tư tưởng nhà văn gửi trong tác phẩm.

            Đúng là có quá nhiều điều bí ẩn trong truyện. Nhân vật Anh là ai, mối quan hệ Anh và vợ thế nào? Mối tình giữa Anh và Mạc Hương chỉ được tác giả nói đến thấp thoáng? Tại sao Mạc Hương chấp nhận hiến thân cho gã trai trẻ, cháu ông già để giữ lại khóm hoa quỳnh, mà chính cô cũng không hiểu? Hắn đến mời Mạc Hương xem hoa quỳnh nở và xin tha thứ nhưng tại sao Mạc Hương lại im lặng?

            Những câu hỏi ấy không cần trả lời, bởi truyện là hư cấu, không đặt vấn đề hiện thực. Mọi yếu tố của truyện là những tín hiệu chuyển tải tư tưởng. Trong truyện có 3 cuộc tình bi kịch: Tình của Mạc Hương với anh, tử thần đã cướp anh đi đột ngột. Cuộc tình của ông già, một chuyện tình không lối thoát, để suốt cả cuộc đời lúc nào cũng ngẩn ngơ như kẻ mất hồn; và cuộc tình của gã trai trẻ cháu ông già. Gã thú nhận với Mạc Hương: Vâng. Cũng vì tình yêu, một cơn mê cuồng của tình yêu, biến con người thành thú vật… Bây giờ thì tôi đã tỉnh ngộ”.

            Cả ba con người, cũng vì tình yêu, mà đánh mất mình. Tình yêu như khóm hoa quỳnh kia, rất đẹp nhưng bắt họ phải chịu vùi giập phũ phàng. Họ không biết rằng, tình yêu là không có thật. Cái công viên kỷ niệm mà Mạc Hương đi tìm, cô ghi trong nhật ký: “Em chưa bao giờ nghe tên công viên ấy”. Khi cô hỏi thì ông già chỉ tay lên trời (hãy hỏi trời, mà “Cổ kim hận sự thiên nan vấn-Nguyễn Du). Sau cùng khi đã “ngộ” ra, họ từ bỏ. Ông già cho nhổ khóm hoa Quỳnh, gã thanh niên bị tình yêu “biến con người thành thú vật” sẽ “cố gắng, sống lại con người thánh thiện của mình”. Và Mạc Hương, khi được gã mời đến nhà xem hoa quỳnh nở, nàng đã im lặng. Đây là câu trả lời của lời nàng: “Cuộc đời là như thế sao, tình yêu là như thế sao? Em không thể bình tâm được nữa. Em đã phải đánh đổi – một trò đổi chác khốn nạn mà chính em không sao hiểu được.

            Vâng, “Cuộc đời là như thế sao, tình yêu là như thế sao?”, những câu hỏi hoài nghi, soi vào bản thể. Những tra vấn như thế, người đời sẽ còn khắc khoải mãi.

Nhưng anh thanh niên doanh nhân bị phá sản trong truyện Tóc dài ở quán cà phê thơ đã tìm được câu trả lời sau khi nghe diễn giả (nhân vật được chủ quán gọi là thầy) nói về thơ. Anh ta nói với thầy: – Con nghe thầy nói về Truyện Kiều hay quá. Chỉ với một câu thơ “Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân” mà con hiểu được lý lẽ của cuộc đời này, và hiểu được bản thân con nữa”. Và anh ta đã hàn gắn với vợ mà trước đó anh đã làm thủ tục li dị vợ.

Tôi thích cái ý tưởng dấn thân của nhà văn Trần Thu Hằng khi để cho Tóc dài nói với anh thanh niên rằng: “nhưng sống thế nào, định đoạt cuộc đời thế nào là do anh chứ”. Lời nhắc nhở ấy của Tóc dài là ý thức Hiện sinh. Triết học Hiện sinh suy tư về thân phận con người. Con người tại thế là một nhân vị độc đáotự do, một mình gánh vác định mệnh của mình [[4]], nó phải dấn thân (M. Heidegger) chống lại những gì là “phi lý”, “buồnnôn”(J.P. Sartre). Anh ta kể lại một trải nghiệm: “-Một tháng qua anh lên núi Chứa Chan, giam mình trong chùa đọc sách, đàm đạo với sư trụ trì. Nhưng không hiểu sao trong lòng anh vẫn thôi thúc giấc mơ nhập thế,…”

Triết học Hiện sinh nói nhiều đến cô đơn, xao xuyến, bi đátcái chết. Nhưng nhà văn Trần Thu Hằng nói với độc giả: “Đứng dậy, hãy đứng dậy. Hãy khóc lên. Hãy hát lên. Hãy mở toang cánh cửa kia ra, bởi vì anh đang sống.” Đấy là tư tưởng hiện sinh trong truyện Đôi mắt bạc. Truyện chia làm 4 phân đọan:

1.Đã hơn 10 năm rồi, anh mơ thấy hình ảnh đứa con lúc nó vừa lọt lòng mẹ. Đứa bé sinh ra không có màng mắt, cũng không có mi mắt. Và nó không ngừng khóc. Mắt lúc nào cũng mở trừng trừng, và lấp lánh ánh bạc.

Anh ngồi trong bóng tối, đợi cho cảm giác hãi hùng, đau đớn tan đi, rồi gọi Liên ra ban công chơi. Anh lại bảo Liên đi vào. Trong một khoảnh khắc, cuộc sống vụt trở nên trống rỗng.

            2. Anh bật đèn lên. Anh sáng xanh. Anh ngồi xuống, lặng lẽ ngắm những tấm ảnh trên tường. Anh vẫn chưa có con. Ngày ấy, Liên nói rằng cô ấy có thai với anh, và anh đã cưới cô ấy, nhưng anh chờ đợi mãi mà không có gì máy động. Nhưng mà đứa con ấy?! Là của Liên, người vợ xấu xí gớm ghiếc, vừa đáng thương, vừa đáng ghét của anh? Hay của Nga, người con gái anh yêu nhưng đã đi xa mãi mãi?

            3. Vợ của anh lúc nào cũng kè kè bên cạnh, chẳng thể nào cảm thấy thoải mái để tưởng nhớ đến Nga. Anh bần thần mang mấy tấm ảnh của Nga ra ngắm. Chúng đã nhạt nhòa hết cả. Con người ấy đã chết. Nếu anh phải lòng ai đó, có lẽ cuộc đời anh giờ đã khác đi. Nhưng vì sao tất cả lại không hề thay đổi nhỉ?

            4. Tất cả đã được chuẩn bị sẵn sàng. Chỉ cần nhấn công tắc nó sẽ truyền một dòng điện đến thẳng ghế ngồi của anh. Sau ba phút, nó sẽ tự động ngắt điện, nhưng chừng đó là đủ để trái tim anh bị cháy thành than. Anh nghĩ đến Hemingway.

            Anh định gọi cho Tường Vân để nói rằng anh chết sau bao nỗi chán chường. Cảm ơn cô đã lắng nghe anh tâm sự bấy lâu nay. Nhưng Tường Vân đã chết cách đây 3 ngày, cô để lại một cuốn băng ghi âm gửi cho khách hàng. Anh nghe Tường Vân nói: Tính tuổi đời, tôi chưa đầy 45 tuổi. Nhưng tôi đã mang bệnh gần 10 năm rồi. Tôi đã tìm nhiều cách chữa bệnh khác nhau nhưng cuối cùng tôi đã phải đầu hàng. Nhưng tôi đầu hàng vì cơ thể tôi đã cạn kiệt sức lực, chứ không phải vì chán chường, thất vọng… Tôi chỉ xin mọi người hãy lắng nghe trong lòng mình, những tiếng nói lương thiện, từ tâm nhất, để mang đến những niềm an ủi và hạnh phúc cho người thân của mình, cũng là cho bản thân mình.”

Bên tai anh vẫn vang lên những câu nói của cô Tường Vân, … Đứng dậy, hãy đứng dậy. Hãy khóc lên. Hãy hát lên. Hãy mở toang cánh cửa kia ra, bởi vì anh đang sống.

Truyện Đôi mắt bạc miêu tả cặn kẽ tình trạng “buồn nôn”(J.P.Sarte) của nhân vật Anh, để đến nỗi anh phải chủ động tìm cái chết bằng cách chuẩn bị ấn công tắc điện. Bởi những bi đát đời anh, anh không thể giải quyết được, rằng anh luôn bị ám ảnh bởi đứa con trong mơ có đôi mắt bạc. Nhưng anh vẫn chưa có con, và ngay cả đưa bé trong mơ ấy, anh cũng không biết là con ai, con của vợ hay Nga (người yêu). Cái chết của Tường Vân đã thức tỉnh Anh. Hơn thế, mang lại cho anh ý nghĩa của tồn tại: “Tôi chỉ xin mọi người hãy lắng nghe trong lòng mình, những tiếng nói lương thiện, từ tâm nhất, để mang đến những niềm an ủi và hạnh phúc cho người thân của mình, cũng là cho bản thân mình”. Chính cái chết (theo nghĩa bi đát nhất của Hiện sinh) lại đem đến sự thức tỉnh về sự sống. Thực ra đứa con có đôi mắt bạc vẫn là sự sống tiềm ẩn trong nhân vật Anh. Với Sartre, “tha nhân ấy là địa ngục”(L’enfer c’est les autres)[[5] ], nhưng chính Tường Vân (tha nhân) đã giúp Anh tìm lại sự sống. Trần Thu Hằng đã vượt qua hiện sinh, thật thú vị!

CON ĐƯỜNG PHÍA TRƯỚC

          Kiểu truyện tư tưởng, truyện hư cấu vẫn là một bộ phận còn rất mỏng của văn chương Việt đương đại. Trần Thu Hằng đã có những bước vượt lên trước so với những nhà văn trẻ cùng thời.

            Khi thể hiện tư tưởng Hiện sinh, ngòi bút Trần Thu Hằng đã khám phá được phần ý nghĩa tích cực của những tư tưởng triết học này và để nhân vật vượt qua hiện sinh. Điều ấy là phù hợp và cần thiết đối với người trẻ hôm nay.

            Kiểu truyện tư tưởng của Trần Thu Hằng có thể là một kiểu mẫu về năng lực sáng tạo: cốt truyện phức tạp, dày đặc tình huống bất ngờ, nhân vật góc cạnh, cấu trúc truyện rất lạ. Ngôn ngữ hết sức cô đặc. Lời văn được nén lại để chứa tối đa những tín hiệu thẩm mỹ. Vì thế đọc truyện Trần Thu Hằng rất thú vị, niềm vui của sự sáng tạo và đặc biệt là niềm vui khám phá tư tưởng của tác phẩm.

            Trần Thu Hằng không chỉ có truyện tư tưởng mà cón có truyện lịch sử, truyện đời thườngtruyện thiếu nhi. Đó là một tài năng còn nhiều hứa hẹn.

Xin mạo muội chia sẻ với nhà văn và bạn đọc (những gì đã viết ở trên), bởi đối diện với kiểu truyện tư tưởng, là bị một tòa lâu đài ẩn dụ chận ngang trước mặt. Ý nghĩa của tác phẩm mà người đọc tìm thấy trong ẩn dụ chưa hẳn là thông điệp của tác giả và càng không là ý nghĩa mà bạn đọc khác  đọc được. Dù vậy, Lý thuyết Người đọc (Reader Theory) chấp nhận những cách giải mã khác nhau. Điều ấy làm phong phú thêm ý nghĩa tác phẩm, và làm tăng sức sống của trang văn.

            Với những gì nhà văn Trần Thu Hằng đã đạt được, người đọc có quyền hy vọng…

Tháng 7/ 2023

***


[1] Xin đọc truyện ngắn Trần Thu Hằng trên trang Văn học Sài gòn:

https://vanhocsaigon.com/tag/tran-thu-hang/

[2] Xin đọc Long thành cầm giả ca, phần tiểu dẫn của Nguyễn Du về người ca nương nảy:

https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Du/Long-th%C3%A0nh-c%E1%BA%A7m-gi%E1%BA%A3-ca/poem-XvKjFm4rQBZLHSgDqU2gVA

[3] fictionliterature created from the imagination, not presented as fact, though it may be based on a true story or situation. https://www.britannica.com/art/fiction-literature

[4] Trần Thài Đỉnh-Triết học Hiện sinh-Nxb Văn học 2015. Tr.41

[5] L’enfer, c’est les autres est une citation extraite de la pièce de théâtre Huis clos de Jean-Paul Sartre, qui a eu un grand retentissement, a largement dépassé le cadre de la philosophie pour passer dans le langage courant et la culture populaire. https://fr.wikipedia.org/wiki/L%27enfer,_c%27est_les_autres

   “THUẬT TÍCH VIỆC NƯỚC NAM”, Lịch sử và Văn học

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

   “THUẬT TÍCH VIỆC NƯỚC NAM”, Lịch sử và văn học

Bùi Công Thuấn

***

1.LỊCH SỬ HAY VĂN HỌC?

            Thuật tích việc nước Nam [[1]] là tác phẩm của Lm Gioakim Đặng Đức Tuấn (1806-1874). Văn bản chúng tôi khảo sát là văn bản của Nguyễn Văn Thoa trong cuốn Cuộc đời và tác phẩm của Linh mục Đặng Đức Tuấn [[2]](Nxb tổng hợp Tp HCM. 2017). Nội dung tác phẩm chia làm hai phần. Phần I: Thuật lại lịch sử truyền đạo Công giáo ở từ thời vua Lê Thần Tông (1627), đến chỉ dụ “Phân sáp” năm 1861, Đức cha Cuénot chịu phúc tử đạo [[3]]. Phần II: tác giả tự thuật cuộc đời mình: từ lúc bị bắt ở Nga Mân đến hòa ước Nhâm Tuất (1862). Sau đó vua cho ông về quê. Ông viết “Thuật tích việc đạo để truyền hậu lai”.

            Hai tác giả Vũ Thu Hà và Nguyễn Ngọc Quỳnh cho rằng: “cuốn sách thơ Nôm Thuật tích việc nước Nam của ông là tài liệu quý báu cho những người nghiên cứu lịch sử Thiên chúa giáo nước nhà”[[4]].

Tiến sĩ Wynn Wilcox, nhận xét: “Cha Tuấn bắt đầu câu chuyện lịch sử Việt Nam bằng cách kể lại lúc khởi đầu đầy triển vọng của Kitô giáo tại Việt Nam”. (Father Tuấn begins his narrative history of Vietnam with a retelling of the auspicious beginnings of Christianity in Vietnam) [[5]].

Hình như các nhà nghiên cứu mới chỉ chú ý đến tính chất lịch sử mà chưa xem xét những giá trị văn học của tác phẩm. Lm Đặng Đức Tuấn nói rõ mình thuật lại dấu tích việc đạo để lưu truyền mai sau.

“Nghĩ trong thiên vận tuần hoàn,

Thuật tích việc đạo để truyền hậu lai”.

Thuật lại là kể chuyện (văn học). Tính chất “thuật”(kể chuyện) khác với kể lịch sử ở chỗ, lịch sử phải được kể lại trung thực, khách quan và có tính chuẩn xác khoa học. Ngôn ngữ lịch sử thuộc phong cách ngôn ngữ khoa học. Thuật truyện (văn học) là dựng lại sự việc như đang diễn ra trong hiện tại. Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ nghệ thuật (có tính đa nghĩa, tính hình tượng, tính biểu cảm và tính cá thể hóa). Truyện tạo ra thế giới tư tưởng và nghệ thuật. Nói cách khác, hiện thực được miêu tả trong tác phẩm văn học lả một hiện thực-tư tưởng-thẩm mỹ (hiện thực được tái tạo qua lý tưởng thẩm mỹ của nhà văn, chứa đựng thông điệp gửi đến người đọc).

Tôi đọc Thuật tích việc nước Nam dưới góc độ một tác phẩm văn học, không phải đọc một “tài liệu nghiên cứu lịch sử”.

2.LỊCH SỬ TRONG THUẬT TÍCH VIỆC NƯỚC NAM  

            Xin hãy đọc một đoạn

            Lê Chiêu Thống tìm nơi cầu viện (30)

            Qua Thanh triều yên hết giá băng (băng hà: chết)

            Tây Sơn mặc sức hung hăng

            Phân chia cõi đất, xâm lăng ngôi trời.

            Bụi bay khắp chốn đòi nơi,

            Gió nghiêng thế nước, nực hơi gian hùng.

            Thái Đức, Cảnh Thịnh, Quang Trung,

            Trăm hai sông núi ngàn trùng phong ba.

            Bắc Nam lừng lẫy binh qua

            Xây nền tiếm ngụy đốt tòa vương công (1)

            Đàng Ngoài nhẫn đến Đàng Trong,

            Lê gia thành quách quạnh không tro tàn.(40)

            Nguyễn Chúa tị nạn gian quan

            Đã qua Phú Quốc lại hoàn trấn Tiên (Hà Tiên trấn)

Tác giả thuật lại (như một bản tin): Vua Lê Chiêu Thống sang Trung quốc cầu viện

nhà Thanh và chết ở bên đó. Quân Tây Sơn mặc sức tung hoành, tiếm quyền, đốt phủ chúa Trịnh ở Thăng Long. Cơ nghiệp nhà Lê chỉ còn là tro tàn. Lúc ấy Nguyễn Ánh trốn tránh ở Phú Quốc rồi Hà Tiên. Ánh được Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) giúp khôi phục cơ nghiệp:

            Bá Đa Lộc quyền làm Giám mục

            Chăn chiên lành dưỡng dục khi song

            …

                        Ra tay tá quốc an bang

           Dực phù Nguyễn chúa đem sang Tiêm Thành. 60

           Vua tôi thầy bạn xuất hành

           Mấy trùng non nước tấc thành kim lan

           Nguyễn Chúa ở lại Tiêm bang

           Đức thầy phượng mệnh lại hoàn Tây dương

           Mảnh lo khôi phục cố cương,65

           Một phen toan tính, một trường phân ly.

           Đông cung niên thiếu ra đi (hoàng tử Cảnh)

           Thác cô gánh nặng, quyền thì nghĩa thông.

           Trèo non vượt biển mấy trùng,

           Một lòng kính ái, một lòng nghĩa nhân.70

           Về cố quốc thiệt hơn bày tỏ,

           Xin viện binh giúp tộ Nguyễn gia.

           Chí lăm cả sáng Danh Cha,

           Giửa dân ngoại đạo, mở tòa hội công.

           Đem sang binh thủy, thuyền đồng,75

           Quyết trừ đảng dữ, dẹp xong mối loàn.

           Lại từ kinh quốc Pha Lang,

           Nghiêm bày đội ngũ trở sang Nam Kỳ

           Vua tôi sum hiệp một khi,

           Phong vân hội mở, tuần thì thái lai.80

Khi Giám mục Bá Đa Lộc chết, vua vô cùng thương tiếc

            Nào hay biến cuộc thương tang

            Cõi trần từ tạ thiên đàng nghỉ ngơi.106

Đức vua thương tiếc rụng rời

Sứt tay tả hữu, mất người phúc tâm

             (Câu 105-108)

Lm Đặng Đức Tuấn không kể lại lịch sử như sự thật khách quan đã diễn ra. Ông

đứng trên lập trường nhà Nguyễn, coi Quang Trung là “đảng dữ” gây binh đao tan tành. Ông không nhìn thấy sức mạnh dân tộc khi Quang Trung kéo quân ra Bắc, chỉ trong 5 ngày phá tan 20 vạn quân Thanh, thống nhất tổ quốc.

Lm Đặng Đức Tuấn kể khá kỹ việc Giám mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh khôi phục cơ nghiệp (nhưng không kể cụ thể quá trình suy sụp của Quang Trung, quá trình tái chiếm lãnh thổ của Nguyễn Ánh…)

            Lm Đặng Đức Tuấn hết lời ca ngợi vua Minh Mạng:

           Năm Minh Mạng cửu trùng kế vị,

           Đời thái bình tức chỉ binh qua,

           An nhàn khắp chốn gần xa,

           Biển đông trong lặng, tuyết hoa rực ngời.

           Kính vua thờ Chúa nơi nơi

           Vui vầy đời trị, vẽ vời đàng ngay.

           Giảng rao đạo Chúa cao dày,

           Giải dịch kinh sách, vẽ bày khôn ngoan.164

           Nước nhà cường thịnh giàu sang,

           Ngỏa nguê tứ thú, an nhàn tứ dân.

                               (Câu 157-166)

            Sự thật là, trong 21 năm cai trị của Minh Mạng, đã có tới 234 cuộc nổi dậy chống triều đình trên cả nước, không thể là “đời thái bình”. Minh Mạng duy trì chính sách bế quan toả cảng của Gia Long. Ông thù ghét đạo Công Giáo và thẳng tay thi hành chương trình tiêu diệt đạo Công Giáo. Nguyên năm 1838, đã có 23 thánh tử đạo đã bị giết hại [[6]], không thể là “Kính vua thờ Chúa nơi nơi”…

Những tường thuật như thế của Lm Đặng Đức Tuấn không thể coi là lịch sử. Vậy Lm Đặng Đức Tuấn kể lại lịch sử từ Lê Thần Tông (1627), đến Quang Trung, Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức và chỉ dụ “Phân sáp” 1861 để làm gì?

Có thể nhận thấy rõ điều này, trong cấu tứ và lập luận, Lm Đặng Đức Tuấn chứng minh bằng lịch sử rằng, trong 200 năm (1627-1833), những khi có vua nhân hậu (nhơn hoàng) thì đời sống đạo của nhân dân rất tốt đẹp, đạo Chúa được rao giảng khắp nơi, đất nước thái bình thịnh trị. Lm Đặng Đức Tuấn tô đậm hình ảnh Giám mục Bá Đa Lộc giúp Gia Long cũng để chứng minh rằng, các Thừa sai vẫn có thể hợp tác và giúp vua dựng nước. Ngầm nói rằng, thái độ thù nghịch người có đạo, việc bắt bớ giết hại cái Thừa sai, đạo trưởng thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức là không đúng với tầm nhìn và sách lược của Thế tổ Gia Long.

            Tiến sĩ Wynn Wilcox(đã dẫn) cho rằng: “Cha Tuấn đã dùng chiến thuật đồng hoá những quan niệm trật tự, thịnh vượng và hoà bình của Khổng Tử với niềm tin về tầm quan trọng của hoà bình và công bình của Kitô giáo. Chiến thuật tìm kiếm những điểm tương đồng giữa nền văn hoá với Kitô giáo đã là một chiến thuật thường được các cha Dòng Tên sử dụng tại Trung Hoa để cải đạo giới trí thức, và được các thừa sai tại Việt Nam dùng để “hội nhập văn hoá” những niềm tin Kitô giáo… Đối với Cha Tuấn, lịch sử trở thành như một phương tiện để ngài có thể giải bày hết mọi nỗi khó khăn” (Lm Phao lô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ)[[7]].

            Tôi nghĩ đó là cách lý giải dưới góc nhìn “hội nhập văn hóa” rất đáng quan tâm. Nhưng xin lưu ý, Lm Đặng Đức Tuấn là người Việt Nam, ngài không cần “hội nhập văn hóa”Việt. Nền tảng văn hóa của ngài là lòng thương người (“Thương người như thể thương thân”), lòng tin vào lẽ thiện của trời đất và đức tin Kitô giáo. Về tư tưởng, ngài nhìn hiện thực theo lẽ biến dịch (Kinh dịch), ngài không tìm lời giải đáp cho những vấn đề xã hội bằng Thiên mệnh của Nho giáo. Là con dân trong nước, ngài hiểu lẽ “hiếu-trung”. Tất nhiên “hiếu -trung” cũng theo quan điểm Việt. Người Việt có “đạo hiếu” thờ ông bà, người Việt trung thành với những chân lý của dân tộc như tôn trọng lẽ phải, coi trọng con người, coi trọng tình làng nghĩa xóm, gìn giữ truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, truyền thống yêu nước…Tất cả những giá trị ấy đều hiện diện trong Thuật tích việc nước Nam.

3.HÌNH TƯỢNG NGƯỜI GIÁO DÂN trong Thuật tích việc nước Nam.

            Nếu Thuật tích việc nước Nam không phải là mộttác phẩm lịch sử, thì những giá trị văn học của tác phẩm thể hiện ở những yếu tố nào?

 Hình tượng văn học là yếu tố đặc trưng, yếu tố trung tâm của một tác phẩm văn học. Trong Thuật tích việc nước Nam vãn, hình tượng trung tâm là hình tượng tập thể giáo dân trên nền của bối cảnh lịch sử xã hội đương thời. Tuy lịch sử được nhắc tới dài hơn  2 thế kỷ, song đây không phải là bối cảnh sử thi.

Hình tượng tập thể cũng đã có trong văn học dân tộc. Trong Bình Ngô đại cáo (1428), hình ảnh “Nhân dân bốn cõi một nhà/ dựng cần trúc ngọn cờ phất phới” mang vẻ đẹp của một sức mạnh mới. Những “dân đen con đỏ” giờ đây là những con người làm nên lịch sử. Trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861) hình ảnh nghĩa quân Cần Giuộc với tư thế “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;…” cũng là tư thế của cả một dân tộc trước họa ngoại xâm... Cả Nguyễn Trãi và Nguyễn Đình Chiểu đều nhận ra sức mạnh của dân, “làm lật thuyền mới biết dân như nước”(bài thơ Quan hải [8]của Nguyễn Trãi). Hai nhà thơ lớn của dân tộc thể hiện lòng in vào dân, và qua đó bộc lộ lòng thương dân vô hạn.

Miêu tả người giáo dân khốn khổ trong thời đại cấm đạo, Lm Đặng Đức Tuấn cũng tin yêu dân với tấm lòng ấy.

Đây là tình cảnh giáo dân bị khảo tra. Ngòi bút hiện thực của Lm Đặng Đức Tuấn miêu tả cận cảnh, đường nét sắc xảo như khắc như tạc:

            Mật truyền tỉnh, phủ, huyện đường

            Đạo nhân tận số tế tường đầu khai.(1)

            Bất kỳ già trẻ gái trai,

            Mỗi tháng đòi bắt, điểm hoài lao đao.(2)

            Những đi lên xuống, ra vào,

            Cửa nhà bỏ đó hư hao kể gì.

            Đến quan dạy bảo một khi:

            “Bay mà xuất giáo tao thì tha cho!

            Đứa nào cứng cổ cưỡng co,

            Dây roi có, đó nọc vồ có đây!

            Bay đừng quen thói dại ngây,

            Đạo ta thời bỏ, đạo Tây lại thờ.

            Khá tua cải quá bây giờ,

            Bước qua thập tự, ngõ nhờ ơn tha.

            Chẳng nghe tao cũng xẻ da,

            Phước đâu chưa thấy tội đà nhuốc nha!”

            Thảm thương con trẻ, đàn bà,

            Phen này mới thấy huyện nha dường nào!

            Quan quân roi vọt hùng hào,

            Hết hồn, hết phách, hết tao, hết mày!

            . . .

            Roi to roi nhỏ đánh bừa

            Chẳng kiêng lưng cổ, chẳng chừa đầu đuôi.

            Kẻ thời bóp cổ, kéo lôi,

            Kéo qua thập tự cho rồi phui pha.

Kẻ thời vồ nọc giăng ra,

            Đánh thét vừa mắng, kêu la vang trời…

                        (Câu 309-338)

            _____

  • tất cả người có đạo phải đến huyện đường khai báo rõ ràng
  • Mỗi tháng huyện đường cho gọi, bắt bớ, điểm danh làm cho dân lao đao      

Đọc đoạn thơ, người đọc hôm nay không thể tưởng tượng nổi lại có những cảnh man rợ như thế, chà đạp lên nhân quyền đến thế, coi rẻ sinh mệnh dân đến thế! Chỉ vì đức tin, giáo dân phải chịu bao nhiêu cảnh khổ: “Bất kỳ già trẻ gái trai” đều phải đến huyện đường khai báo tỏ tường. Ở đây, họ bị quan đe dọa, bị nhục hình. Roi vọt đánh bừa “Chẳng kiêng lưng cổ, chẳng chừa đầu đuôi”, bị vồ, nọc giăng ra. Dã man là cảnh người bị bóp cổ kéo qua thập tự. Tiếng thét mắng, tiếng kêu la vang trời. “Thảm thương con trẻ, đàn bà”…,

Năm 1861 vua Tự Đức ra lệnh “Phân sáp”[[9]], đối xử với giáo dân còn tàn bạo hơn:

Trát ra cho các  xã làng,

Tựu nha lập tức đợi quan mật truyền.

Dạo rày “phân sáp” các miền

Làm vi canh nhặt, giữ gìn chớ tha.

Làng nào để nó trốn ra,

Tội tình chẳng nhỏ oan gia chẳng vừa.

Dữu dân lớn nhỏ bắt bừa

Dẫn ra thích tự chẳng chừa gái trai. (khắc chữ “tả đạo” lên mặt)

Thích rồi quan dạy răn răn

Làm tờ giao lãnh vi bằng một khi

Các làng cứ số lãnh đi,

Dỡ nhà lập tức dẫn tùy theo tay.

Ngạt ngào trăm nỗi đắng cay,

Mưa sa hàng lệ, gió day ngọn sầu

. . .

Ra đi khôn xiết nỗi lo,

Lúa thóc để lại, đói no mặc trời!

Lang thang gánh xách nón tơi,

Giã từ quê quán tới nơi giam cẩm.

Mịt mù mấy dặm nước non

Phận cha làng nọ, sáp con làng này.

Chông gai hào lũy bủa vây,

Gông cùm ngang dọc đó đây chất đầy.

Ngậm ngùi trời đất cỏ cây,

Núi Nam chất thảm, biển Tây dẫn sầu.

               (Câu 417-464)

Lm Đặng Đức Tuấn không ngăn nổi xúc động khi nhìn những con người bị “phân xáp”: “Ngạt ngào trăm nỗi đắng cay,/ Mưa sa hàng lệ, gió day ngọn sầu”; “Ngậm ngùi trời đất cỏ cây,/ Núi Nam chất thảm, biển Tây dẫn sầu”. Nỗi sầu thảm như núi như biển, nước mắt như mưa, nỗi đắng cay, ngậm ngùi mênh mông cả đất trời. Trong nạn “phân sáp”, cha mẹ lìa con, vợ chồng ly tán, nhà bị dỡ, ruộng đất, thóc lúa bỏ lại, ra đi hai bàn tay không để sống đời giam cầm: “Chông gai hào lũy bủa vây,/ Gông cùm ngang dọc đó đây chất đầy”. Cái hình ảnh tơi tả này làm đau nhói tim gan: Lang thang gánh xách nón tơi,/ Giã từ quê quán tới nơi giam cẩm”.

Đây là những đoạn thơ tuyệt hay có thể sánh với những đoạn Nguyễn Trãi miêu tả giặc Minh “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ vùi con đỏ dưới hẩm tai vạ” (Bình Ngô đại cáo) đối với dân ta… Nhưng trong nạn “phân sáp”, giáo dân là con dân Việt, vua chúa quan quân cũng là con dân Việt, đạo lý dân tộc ở đâu mà họ hành xử với giáo dân như vậy? Ngoài bọn quan quân, giáo dân còn chịu nạn của bọn hôi của (câu 337-350).

“Sáp” lần thứ hai còn ghê gớm hơn:

       Sáp lần trước cực đà chết xẻ,

       Cải sáp này quá lẽ lao đao

       …

       Lại phải bỏ đó mà đi,

       Sáp qua làng khác sầu bi bàng hoàng.

       Loi ngoi lách ách ngoài đàng,

       Kẻ gánh trẻ nhỏ, người mang đồ lề.

       Cực sao mà cự gớm ghê!

       …Ai ai cũng là người đời,

       Bế tệ dường ấy, đất trời hay chăng?

       Nghĩ buồn lại biếng nói năng,

       Làm thinh ngồi đó biết ăn đí gì!

       Sầu bi lại lấp sầu bi,

       Thảm thương mấy kẻ ở vi qua đời.

       Lâm cơn chếch mếch đòi nơi, (lâm chung-chết)

       Không ai tụng sách, không người rước cha…

Cả đoạn thơ là một nỗi đau buồn “ghê gớm” vì cảnh lao đao quá đỗi do phân sáp lần thứ hai gây ra. Phần xác đã mất, người giáo dân còn thiệt thòi cả phần hồn khi qua đời “Không ai tụng sách, không người rước cha…”. Tác giả lên tiếng hỏi trời: “Bế tệ dường ấy, đất trời hay chăng?”. Người Việt, trong mọi tình huống khó khăn, đều kêu trời (đó là văn hóa Việt, niềm tin vào trời đất. Nhà bên lương có bàn thờ Thiên, dưới chân bàn thờ thờ ông Địa).

Hình ảnh được chụp cận cảnh này của giáo dân gây ấn tượng mạnh:

       Lại phải bỏ đó mà đi,

       Sáp qua làng khác sầu bi bàng hoàng.

       Loi ngoi lách ách ngoài đàng,

       Kẻ gánh trẻ nhỏ, người mang đồ lề.

       Cực sao mà cự gớm ghê!

Người đọc không nhìn rõ chân dung nhân vật bởi họ là những con người trong đám đông, những “dân đen con đỏ”, những “tiểu tốt vô danh”, nhưng hành vi, cử chỉ, số phận của họ thì hiện lên rất rõ. Những người bị phân sáp đã bi thảm nhưng những người lẩn trốn cũng lao đao không kém (câu 508-550).

Trên nền của hình ảnh đám đông giáo dân, Lm Đặng Đức Tuấn ghi lại cụ thể, chi tiết hình ảnh Đức cha Cuénot Thể bị bắt ở Gó Bồi cùng với những người trong gia đình ông Quả, bà Lưu. Tất cả bị đóng cũi giải đi và bị tra tấn (câu 554-608). Đức cha bị bịnh và qua đời. Hình ảnh Đức cha  nhân từ, đẹp lẫm liệt.[[10]]

       Các cha bắt được lần hồi

       Đức thầy bắt tại Gò Bồi thị Lưu

…Đức thầy khát nước thiết tha

       Ở trong lẫm lúa bước ra bề ngoài

       Quan quân xem thấy kinh oai,

       Kêu la truyền báo dậy tai vang làng

       …Quan đòi ông Quả vào dinh

       Nọc căng, roi tấn, nát mình xỉa da.

       Thầy Tuyền cũng bị khảo tra

       Đau đớn quá sức kêu la vang trời.

Tất cả những sự khó ấy được nhìn dưới ánh sáng đức tin:

       Chúa dùng sự khó thử ta

       Gian nan dưới thế, vinh ba trên trời.

            Lm Đặng Đức Tuấn gửi gắm điều gì trong hình tượng tập thể người giao dân trong tác phẩm này?

            Có một điều ngầm hiểu rằng, viết về việc các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cấm đạo đương thời, khi tác giả đang là con dân dưới quyền của các đấng thiên tử, nếu không khéo sẽ mang tội khi quân. Vì thế Lm Đặng Đức Tuấn đã không truy nguyên các chỉ dụ cấm đạo của Minh Mạng, Tự Đức; không làm rõ lý do tại sao các vị vua này thù ghét và muốn tiêu diệt đạo Công giáo; cũng không kết tội những gì các vị vua này gây ra cho giáo dân.

            Dù vậy, ngòi bút hiện thực, và sự trung thực của lương tâm Công giáo của Lm Đặng Đức Tuấn kết tụ trên trang văn, giúp người đọc tin chắc rằng những gì được “thuật” lại là sự thật. Đã có một lịch sử hơn 200 năm kể từ Vĩnh Tộ (1627-1862) người Công giáo cùng với các Thừa sai phương Tây sống “tốt đạo đẹp đời” ở triều đại của các vị vua nhân hậu. Đã có Thừa sai (Pierre Pigneau de Behaine) giúp Thế tổ Gia Long dựng nghiệp. Nhưng giáo dân đã bị bách hại “ghê gớm” do những chỉ dụ của Minh Mạng và chỉ dụ “phân sáp” (1861) của vua Tự Đức, khiến cho cả người sống cũng như người chết “lao đao”.

            Dưới cái nhìn của lẽ biến dịch (“Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông”) và đức tin Kitô giáo, Lm Đặng Đức Tuấn nhìn những cơn bách hại ấy, những oan khiên ấy là thử thách của Chúa, để nhiều người được nên thánh.

                        Đương cơn lụy tiết dưới đời

                        Đã nhiều người thánh về nơi thiên đàng

                                                (câu 227-228)

                        _____

                        (lụy tiết: ý chỉ tội oan)

            Vì thế, hình tượng giáo dân trong Thuật tích việc nước Nam được khắc họa không phải “phản ánh hiện thực” để phê phán, mà là để nêu gương nên thánh của giáo dân Việt, cũng là nói rõ về những cách “ứng xử” mà Kinh thánh đã dạy: “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế”(Mt 5, 11-12).

            Chính mục đích miêu tả này đã tạo nên sự khác biệt căn bản tác phẩm của Lm Đặng Đức Tuấn và các tác phẩm đương thời (thí dụ, những trang tố cáo tội ác của chế độ phong kiến trong truyện Kiều, hoặc thơ văn tỏ lòng Trung hiếu của Nguyễn Công Trứ với Nhà Nguyễn…).

 Hình tượng người giáo dân trong Thuật tích việc nước Nam mang vẻ đẹp của Mỹ học Kitô giáo, vẻ đẹp của chính Chúa Giêsu chịu nạn và Phục sinh. Họ chịu bách hại vì Đức Kitô và họ sẽ được gặp ngài: “Nhưng trong những ngày đó, sau cơn gian nan ấy… Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời (Mc.13,24-27).

4. TỰ TRUYỆN CỦA TÁC GIẢ

(Phần II, Thuật tích việc nước Nam)

                        Đặng Đức Tuấn đương hồi bản đãng

                        Thuật lại đây chuyện vãn cho cùng.

                                                      (Câu 623-624)

            Lm Đặng Đức Tuấn thuật lại việc theo phái đoàn Phan Thanh Giản và Lâm Văn Hiệp ký hòa ước Nhâm Tuất 1862. Sự việc được kể chi tiết về ngày giờ, nơi chốn, sự việc diễn ra đối với ngài.

Đang lúc cấm đạo ngặt nghèo, Lm Tuấn bị bắt ở Nga Mân, bị giải đi huyện Mộ Đức. Quan thấy Lm Tuấn có các bản điều trần bèn giải lên tỉnh. Ở tỉnh, quan án sát bắt Lm Tuấn làm tờ khai. Vì những lời Lm Tuấn khai không thể kiểm chứng, quan cho tra tấn hai vòng, 36 roi, Lm Tuấn quá đau. Lúc ấy có quan ngoài kinh vào thám thính tình hình, quan tỉnh trình các bản điều trần của Lm Tuấn. Quan Kinh nói các bản điều trần đắc lực phải dâng lên vua. Năm ngày sau có chỉ giải Lm Tuấn ra kinh đô. Ở Huế, các đại thần Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp tra vấn Lm Tuấn 2 điều: Một là, về đạo Da tô. Hai là, hỏi về giặc Tây, chúng đến đây quấy rối là vì cớ gì. Lm Tuấn trả lời thông, được cho về nghỉ. Quan lại dạy Lm Tuấn làm điều trần nữa để dâng vua. Vua cho phái đoàn Phan-Lâm từ Huế vào Gia Định nghị hòa, Lm Tuấn được vua cho đi theo. Trong khi nghị hòa, hai đại thần Phan-Lâm hỏi ý kiến Lm Tuấn rằng, Pháp “Xin bồi ngũ bách vạn nguyên/ Xin giao sáu tỉnh thì yên mọi đàng”. Lm Tuấn nói: “Đòi bồi thì chịu, đừng giao tỉnh thành”. Sau đó phái đoàn đã ký hòa ước Nhâm Tuất 1862 mà theo Lm Tuấn “Trong 12 khoản ngặt hai ba điều”.  Đòan trở về Huế được đón tiếp tưng bừng. Ngày 14/5, Lm Tuấn được vua cho về quê. Ngày 19/5 có chỉ tha phụ nữ, lão ấu. Ngày 14/6 có chỉ tha nam tráng, đầu mục. Vua có chỉ đòi Tuấn vào Huế vài lần. Nghĩ đến ơn Chúa cao sâu, Lm Tuấn viết “Thuật tích việc đạo để truyền hậu lai”.

Việc viết “tự truyện” trước Lm Đặng Đức Tuấn đã có Lê Hữu Trác viết Thượng kinh ký sự (1783). Lê Hữu Trác kể lại việc lên kinh đô chữa bịnh cho chúa Trịnh Sâm và thế tử Trịnh Cán.

Trong Thuật tích việc nước Nam Lm Đặng Đức Tuấn tập trung vào việc ông bị bắt, rồi từ một tù nhân, ông trở thành tùy viên phái đoàn Phan-Lâm thương thuyết hòa ước Nhâm Tuất 1862. Thậm chí hai đại thần Phan Lâm còn hỏi ý kiến ông. Những điều như thế làm kinh ngạc quan lại ở kinh đô Huế thời bấy giờ mà còn làm kinh ngạc cả chúng ta hôm nay. Bởi nó chứa đựng những điều “nhạy cảm” trong mối quan hệ giữa triều đình và Công giáo. Lm Tuấn đã trả lời rành rẽ, ngài thuyết phục được hai đại thần Phan-Lâm (cả vua Tự Đức) về Kitô giáo và về sách lược đối phó với giặc Tây (xin xem thêm 6 bản điều trần để rõ thái độ và tư tưởng của ngài). Đó cũng là những vấn đề lớn tồn tại đến hôm nay, đó là những định kiến về người Công giáo trong cuộc xâm lăng của thực dân Pháp.

Phần tự truyện của Lm Tuấn còn để lại nhiều thông tin quý giá về tình hình quan lại triều đình Huế trước vấn đề nghị hòa, về thái độ nghi ngờ đối với “đạo trưởng” (linh mục), về chuyến đi tàu và cảnh đón tiếp ở Gia Định, ở Huế. Ngòi bút ghi chép của Lm Tuấn sắc xảo, sinh động và rất hiện đại. Tuy kể chuyện mình, song Lm Tuấn quan tâm nhiều hơn đến tình hình xã hội bên ngoài. Có lẽ ở cương vị của ông, ông không được phép phân tích phê phán hòa ước 1862 (ông chỉ nói trong 12 khoản của Hòa ước có hai ba điều ngặt). Cũng có thể, điều ông quan tâm là giải độc những định kiến tôn giáo của thời đại và làm sao để những giáo dân bị bắt vì các chỉ dụ cấm đạo được sớm tha về. Vì thế trong tác phẩm, Lm Tuấn thuật lại rất kỹ những ý kiến của mình về đạo Da Tô, về giáo dân, về thái độ trung với vua chống pháp (câu 769-834).

Và có lẽ Lm Tuấn muốn nói với giáo dân hậu lai về chính cuộc đời mình, đó là sự dấn thân tích cực vào cuộc đời để loan báo Tin Mừng. Dù có bị nghi ngờ, bị bắt tra khảo nhưng lòng đạo cùng với lòng yêu nước thương dân của ngài tỏa sáng đủ sức cảm hóa triều đình thời bấy giờ. Trong Thuật tích việc nước Nam, Lm Tuấn không hề bận tâm gì đối với “công trạng” mình làm được. Ông kết luận, mình là kẻ đầy rẫy tội lỗi, nhưng nhờ lòng Chúa khoan nhân nên vượt qua được gian nan, vì thế xin thuật lại để truyền mai sau, vì “Thiên vận tuần hoàn”:

Ngẫm mình đầy rẫy tội khiên

Chúa chưa kêu gọi gần miền nghỉ an.

Trải qua một trận gian nan,

Nghĩ coi ít kẻ vẹn tròn trước sau

Chúa tôi nhân thứ cao sâu,

Nếu cứ công thẳng, ai hầu dám đương.

Nghĩ trong thiên vận tuần hoàn,

Thuật tích việc đạo để truyền hậu lai.

(Câu 1021-1028)

5. TÀI NĂNG VÀ SỨC MẠNH VĂN CHƯƠNG

            Những bản Điều trần (thuộc thể chính luận) của Lm Đặng Đức Tuấn giúp người đọc hiểu rõ thái độ VÀ tư tưởng yêu nước chống Pháp của một linh mục trước tình hình đất nước. Qua những tác phẩm văn chương (Thuật tích việc nước Nam vãn, Tự tích Đức cha Thể vãn…) Lm Đặng Đức Tuấndựng lại cả thời đại đầy biến động đương thời (Tây Sơn, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Thực dân Pháp xâm lược…).

Trên nền bối cảnh ấy, tác phẩm của Lm Đặng Đức Tuấn đem đến cho văn học Việt nhiều điều mời mẻ cả về tư tưởng và nghệ thuật. Đó là sự kết hợp lẽ biến dịch với đức tin Ki tô giáo để lý giải hiện thực, là thái độ chống pháp quyết liệt. Ngòi bút của Lm Tuấn cũng khắc tạc được những hình tượng điển hình của thời đại là hình tượng giáo dân trong cơn bách hại, hình tượng Đức cha Cuénot Thể, người mục tử giữa đoàn chiên, lẫm liệt trước bao sự dữ. Bút pháp hiện thực tinh tế sắc xảo, kết hợp với Mỹ học Kitô giáo cùng với lương tâm của một linh mục trước thời đại đã tạo nên những trang văn giàu tính hiện thực, tính lịch sử, tính đối thoại tư tưởng và tính thẩm mỹ. Có thể khẳng định, tác phẩm của Lm Đặng Đức Tuấn là một thế giới tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc đóng góp cho văn học Việt Nam đương thời, và những giá trị còn mãi đến hôm nay.

Tháng 6/2023


[1] Về nha đề tác phẩm, Nguyễn Văn Thoa gọi là: Thuật tích việc nước Nam vãn.Các tác giả khác như Vũ Thu Hà, Nguyễn Ngọc Quỳnh, Lã Minh Hằng (Viện Hán Nôm) vẫn gọi là Thuật tích việc nước Nam.

[2] Nguyễn Văn Thoa-Thuật tích việc nước Nam vãn, đã hiệu đính từ bản của Viện nghiên cứu Hán Nôm, mang ký hiệu AB196, MF1848, sao lại năm 1940. Vãn này làm theo thể thơ trường thiên Lục bát biến thể, dài 1028 câu, kèm 11 bài thơ Thất ngôn bát cú và một bài tứ tự dài 88 câu.

[3] Cuộc đời và tác phẩm của Linh mục Đặng Đức Tuấn (Nxb tổng hợp Tp HCM. 2017), tr.64.

[4] Vũ Thu Hà, Nguyễn Ngọc Quỳnh-Linh mục Đặng Đức Tuấn và cuốn sách Thuật tích việc nước Nam

http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=496&Catid=225

[5] Wynn Wilcox, Western Connecticut State University, USA- A Nôm Source on Nineteenth-Century Vietnamese History: Đặng Đức Tuấn’s Thuật tích việc nước nam. Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ.https://gpquinhon.org/q/on-co-tri-tan/ky-niem-160-nam-ban-dieu-tran-cua-cha-dang-duc-tuan-thuat-tich-viec-nuoc-nam-nguon-chu-nom-va-lich-su-viet-nam-the-ky-xix-4530.html

[6] Trần Văn Cảnh-Chính sách cấm đạo của vua Minh Mạng

[7] Wynn Wilcox:Father Tuấn takes the time-honored strategy of equating Confucian conceptions of order, prosperity, and peace with similar Christian beliefs about the importance of peace and justice. This strategy of searching for equivalencies between literati culture and Christianity had been one frequently used by Jesuits in converting literati in China, and had been one of the major ways in which missionaries in Vietnam had tried to “inculturate” Christian beliefs as well”

[8] Nguyễn Trãi-Quan hải. “Phúc chu thủy tín dân do thủy”

https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Tr%C3%A3i/Quan-h%E1%BA%A3i/poem-o8HaXeEyR21CIUGTUVs8_A

[9] Năm 1861, vua Tự Đức ra chỉ dụ phân sáp toàn diện, nội dung gồm năm khoản: “1- Tất cả già, lớn, bé, nam, nữ Công Giáo phải chia ra phân tán vào các làng lương không Công Giáo. 2- Các làng không Công Giáo phải nhận canh chừng theo tỉ lệ năm người lương canh một người Công Giáo. 3- Các nhà Công Giáo bị phá hủy, đất đai trao cho các người lương canh tác để nộp thuế. 4- Vợ chồng con cái phải tách biệt nhau. 5- Phải khắc chữ tả đạo ở má trái và nơi lưu đày ở má phải”.

[10] Xin đọc: Bùi Công Thuấn-Lm Gioakim Đặng Đức Tuấn và những đóng góp về tư tưởng và nghệ thuật (Đọc Tự tích Đức cha Thể vãn). Nguồn: vanthoconggiao.net

TỌA ĐÀM 45 NĂM VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

TỌA ĐÀM 45 NĂM VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI

Sáng thứ Bảy ngày 8/7/2023, Hội VHNT Đồng Nai đã tổ chức tọa đàm: “Đề cương văn hóa Việt Nam và sự phát triển văn học, nghệ thuật tỉnh Đồng Nai trong thời kỳ đổi mới và hội nhập”

Chủ trì tọa đàm là TSKH Trần Ngọc Thêm, đại diện Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Đồng Nai, Chủ tịch Hội VHNT Đông Nai. Khách mời là các cơ quan ban ngành, hội viên Hội VHNT Đồng Nai.

Tham gia tọa đàm còn có 15 bài viết của các đơn vị: Văn nghệ dân gian Đồng Nai trong bối cảnh Dân gian Nam bộ từ 1945 đến nay (TS. La Mai Thi Gia – Trưởng Bộ môn Văn hóa dân gian, Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia TP.HCM); Đề cương văn hóa và sự phát triển văn học Đồng Nai (nhà lý luận phê bình Văn học ThS. Bùi Công Thuấn); Văn hóa Dân gian miền Đông Nam bộ nhìn từ… văn học viết (nhà nghiên cứu Bùi Quang Huy); Nhìn lại chặng đường phát triển và hội nhập của Mỹ thuật Đồng Nai từ trước năm 1975 đến nay (TS. Họa sĩ Đoàn Minh Ngọc); Các loại hình nghệ thuật biểu diễn từ truyền thống đến hiện đại (NSUT Đồng  Thị Quế Anh – giám đốc Nhà hát Nghệ thuật Đồng Nai); Hoạt động tuyên truyền văn hóa, văn nghệ trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ở tỉnh Đồng Nai (ThS. Tôn Thị Thanh Tình – Giám đốc Trung tâm Văn hóa – Điện ảnh tỉnh); Bảo tồn và phát huy di sản Văn hóa Đồng Nai trong phát triển du lịch – Một góc nhìn (ThS. Phan Đình Dũng – Ủy viên BCH Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Trưởng ban VNDG thuộc Hội VHNT Đồng Nai)… 

(Dưới đây là vài hình ảnh)

(Truyền hình Đồng Nai phỏng vấn BCT)

Nhà văn Bùi Quang Tú & Lời cám ơn Hà Nội

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

Tôi và nhà văn Bùi Quang Tú cùng kết nạp Hội Nhà văn 2014. Anh vừa trở về cõi vĩnh hằng. Tôi đăng lại bài viết này như một nén tâm nhang kính tiễn anh. Vô vàn thương tiếc một người bạn hiền lành và tài hoa.

***

LỜI CÁM ƠN HÀ NỘI

Tạp văn của Bùi Quang Tú, Nxb Đồng Nai 2014

Bùi Công Thuấn

***

Nhà văn Đồng Nai dự Đại Hội IX Hội Nhà Văn: (Từ trái sang) Khôi Vũ, Lê Đăng Kháng, Bùi Công Thuấn, Bùi Quang Tú, Đàm Chu Văn

Tạp văn là thể văn ở giữa thể Ký và Tuỳ Bút. Nó cho phép người viết ghi lại những mảnh hiện thực cùng với những cảm nhận của mình. Nếu Ký tập trung phản ánh người thật việc thật và soi rọi vào đó  cái nhìn mang ánh sáng cá nhân thì ở Tùy bút, “cái tôi” tác giả được phóng đại và khúc xạ qua lăng kính con người và sự việc. “Cái Tôi” trong Tùy Bút là cái tôi thẩm mỹ làm nên giá trị của trang văn. Tạp văn không có được “cái tôi” thẩm mỹ, nhưng có thể ghi được những lát cắt hiện thực qua cái nhìn của nhân vật Tôi là người trong cuộc, như một chứng nhân, một trải nghiệm cụ thể, vừa đủ thuyết phục người đọc về những gì khả tín.

1. “Một thời để nhớ”

Lời Cám Ơn Hà Nội  là bài ca về “một thời để nhớ”, vì hầu hết các bài viết khởi đi từ thời điểm hiện tại, tác giả nhớ lại ngày xưa.“Bây giờ đây đang sống ở mảnh đất phương Nam, hồi nhớ lại…”(tr.19) “hồi niên thiếu tôi sống ở Hà Nội…”(tr.36), ”Tôi đã đón bao nhiêu cái tết nhưng vẫn nhớ mãi cái tết Hà Nội năm ấy “(tr.49), ”Tôi nhớ cách đây hơn ba mươi năm tôi đã đi trên một con tàu từ ga Hàng Cỏ”(tr.83), “Chao ôi, tôi lại nhớ tới chuyến đi phép năm 1983. Năm ấy tôi làm hiệu trưởng trường cấp 3 Nam Hà…”(tr.104)…

Ở góc nhìn khác, Lời Cám Ơn Hà Nội là tập hồi ký của người cầm bút. Bạn đọc có thể lần theo từng bước chân của tác giả. “Tôi là một thằng bé nhà quê, thuở bé sống ở quê mẹ, Đức Thọ, Hà Tĩnh”(tr.131). Năm 1955 tác giả theo cha ra Hà Nội, ở nhà G2 khu tập thể Trung Tự, phố Bà Triệu, và sống ở đó 18 năm (tr.7), “Tôi có một tuổi thơ trải dài trên vỉa hè Hà Nội”(tr.136), học trường cấp 1 Lương Khánh Thiện, cấp 2 Tây Sơn 1960. Cấp 3 học trường Đoàn Kết từ năm 1963 đến 1966, lúc này gia đình đã chuyển về khu tập thể Kim Liên (tr.17). Năm 1965 sơ tán về Vạn Phúc, Thanh Trì Hà Nội (tr.20). Tác giả kể :” Tốt nghiệp Phổ Thông, tôi vào trường Đại Học Sư Phạm. Ra trường sau mấy năm dạy học tôi chuẩn bị vào chiến trường miền Nam.(tr.19). Năm 1972, tôi ngoài 20 tuổi, lòng hăm hở như bao chàng trai cô gái khác. Đang là bí thư đoàn trường ở một trường cấp III, tôi viết đơn tình nguyện vào chiến trường miền Nam”(tr.84, tr.128). “Năm 1973 chúng tôi lên đường” (tr.85). “Năm 1974 từ R về được phân về Ban Tuyên Huấn Biên Hòa” (tr.96). “Tôi ở cơ quan được vài tháng thì nhận được quyết định đi biệt phái làm giáo viên trường Văn hóa huyện Thống Nhất “(tr.98), sau đó được kết nạp Đảng. Rồi dạy ở trường Cao Đẳng Sư Phạm Đồng Nai (tr.114), nhiều lần ra Hà Nội. Năm 1983 (tr.104), về phép 1985 (tr.110). 1998 ăn tết ở Hà Nội (tr.156) Ngày 09.02. 2009 thăm Ngày thơ Việt Nam ở Văn Miếu (tr. 124, 151).

Nếu Lời Cám Ơn Hà Nội chỉ là tiểu sử biên niên của tác giả, thì sẽ chẳng có gì đáng đọc, bởi nhìn vào tiểu sử ấy, mà so sánh với nhật ký Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc, Dương Thị Xuân Quý (tr.79), thì Lời Cám Ơn Hà Nội không ghi lại “kỳ tích anh hùng” trong kháng chiến chống Mỹ của một thời Hà Nội hào hùng, hay tìm thấy những giá trị thiêng liêng của một Thăng Long hàng ngàn năm văn hiến. Nhân vật Tôi trong Lời Cám Ơn Hà Nội chỉ là một đứa trẻ bình thường của hè phố Hà Nội, là một học sinh chăm ngoan của những mái trường thủ đô và một người thanh niên Hà thành lên đường vào Nam chiến đấu như bao thanh niên khác (không có bài nào viết về một trận tham gia trực tiếp đánh Mỹ). Sau chiến tranh, nhân vật Tôi cũng là một thầy giáo của đời thường trong thời bao cấp, rồi thời mở cửa chuyển sang kinh tế thị trường.

Dù vậy, Lời Cám Ơn Hà Nội là lời của người trong cuộc, là chứng nhân của “một thời để nhớ”, là trải nghiệm trực tiếp trong những tháng ngày lịch sử vẻ vang của dân tộc, thế nên Lời Cám Ơn Hà Nội có giá trị của nó.

Nhân vật Tôi bình thường như bao người Hà Nội bình thường khác, nhưng chính những con người bình thường ấy lại làm nên một lịch sử vĩ đại, hào hùng. Và cũng chính những con người bình thường ấy lại là người gìn giữ vẻ đẹp và những giá trị văn hóa của nghìn năm Thăng Long Hà Nội. Vâng, xin cứ đọc nhân vật Tôi như một trường hợp cụ thể người con Hà Nội:

”Chúng tôi lên tàu, 10 giờ đoàn tàu chuyển bánh rời ga Hàng Cỏ tiến về phương Nam. Tàu chạy qua công viên Lênin, tôi nhoài người qua cửa sổ nhìn về khu tập thể Kim Liên nơi gia đình tôi đang ở. Chắc giờ này ba đang cặm cụi trên bàn viết, mẹ đang chuẩn bị nấu cơm và em gáu đang học bài…Trên tàu là những người mặc quân phục xanh, mũ tai bèo, dép cao su, mang theo ba lô nặng trĩu. Nhấp nhô về tuổi tác, có những thanh niên hai mươi tuổi trẻ măng, lại có những ông già gần 60 ở các ngành Y tế, Lâm nghiệp. Nhưng tất cả đều một tám long bốc lửa vớ miền nam,  đều muốn có mặt ở chiến trường trong giờ phút bước ngắt của lịch sử…”(tr.85).

Nhân vật Tôi, giống như những người con Hà Nội khác, âm thầm góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Nói như Nguyễn Khải, là góp một “hạt bụi vàng” làm cho Hà Nội thêm lấp lánh. TS Huỳnh Văn Tới cũng khẳng định Lời Cám Ơn Hà Nội có thể xem như là tiếng lòng của người con Biên Hòa-Đồng Nai đối với Thăng Long-Hà Nội (tr.6)

2.Hà Nội, rất nhiều sắc màu

Một nét ký họa rất xinh: ”Mỗi buổi sáng men theo con đường đất đỏ dẫn đến lớp học. Lớp 10 năm ấy nằm ẩn dưới những khóm chuối, bên những bụi dong riềng đỏ rực và những hầm hào chi chít. Ngoài kia là bãi cát trắng phau, mịn màng và dòng sông êm trôi. Những thuyền bè lả lướt trong nắng mai. Ở đây khá yên tĩnh, về đêm ngước nhìn bầu trời Hà Nội nghe thấy tiếng máy bay ầm ì và những viên đạn pháo cao xạ đỏ lừ tung lên trời, nổ lục bục”(tr.20)

Đây là một căn hộ: “Gia đình tôi đến thuê sau cùng nên đành ở nơi chái bếp, khi dọn đến mồ hóng vẫn bám đầy trên mái. Cái chái bếp ấy rộng mỗi chiều 4 mét, có hai cửa sổ. Nhà tôi chỉ kê được có một giường lớn, hai giường nhỏ, một cái bàn và một cái tủ. Nhà có 7 người, bà nội, ba mẹ tôi và 4 anh em…”, “…Ở cái khu nhà với 4 gia đình và mấy chục con người chỉ có một nhà tắm và một nhà vệ sinh, thế là xảy ra cảnh sáng chờ đi vệ sinh, chiều chờ tắm..Vui nhất là buổi trưa và chiều chỉ có một cái bếp chung nên cả 4 nhà đều nổi lửa. Mỗi nhà một cái thùng phuy đựng mạt cưa, nhồi mạt cưa vào bếp lò, dùng mấy mẫu gỗ thông nhồi mồi cho lửa bén. Nhà thì nướng dọc, nhà thì gọt sấu, tuốt rau rút, giã cua thì thụp…bữa ăn thì đạm, bạc, cơm độn ngô, rau muống luộc dầm sấu, vài con cá trích, trứng vịt luộc dầm nước mắm…”(tr.24-25)

Và đây là một nét sinh hoạt: “Xe đạp hồi ấy lai người và thồ hàng. Ở Ngã Tư Vọng tôi đã thấy một chiếc xe đạp đã phát huy hiệu quả tối đa của nó. Trên ghi đông treo 4 túi vừa vải vừa nhựa. Trong túi là hoa quả, thực phẩm, như mỡ, mắm, mì chính…Ở khung xe áp chặt một chiếc ba lô chắc là đựng quần áo. Phía sau mới thật vĩ đại. Ngồi chễm chệ là một phụ nữ bế con. Một bên là bao tải căng phồng với nồi niêu xoong chảo. Bên kia là thùng dầu hỏa. Ngồi cầm lái là một người đàn ông ngoài 40 tuổi rướn người chở vợ con, đồ đạc về nơi sơ tán. Người Hà Nội những năm ấy lúc nào cũng vội vàng, vì bận việc cơ quan, vì chiến tranh vô cùng ác liệt…”(tr.76)

Hà Nội trong bom đạn Mỹ: “Từ cuối tháng 12 và cao điểm nhất là đêm 26.12.1972, Mỹ cho hàng đàn B52 đánh vào ga Hàng Cỏ, bệnh viện Bạch Mai,  Bộ Giao thông và một số khu tập thể đặc biệt là khu phố đông Khâm Thiên. Nhiều cán bộ, dân thường, bác sĩ, y tá, thực tập sinh bị giết chết (tr.63)…Sáng 27.2, tôi đạp xe về nhà ở C4 khu tập thể Kim Liên để kiểm tra xem nhà cửa, đồ đạc có hề hấn gì không. Vừa tới chân cầu thang đã gặp ông già Tự Do người gầy, đội cái mũ lông to tướng màu nâu. Vợ con đi sơ tán, ông thường xuyên bám trụ. Thấy tôi, ông mỉm cười giơ lên một xâu cóc:’Mình mới ra ruộng bắt được mấy con cóc này, trưa nay có cái nhắm rượu rồi’…Trưa 28.12 tôi lại dự một đám cưới ở Hà Nội. Cô dâu là giáo viên -bạn tôi, mặc ái dài. Chú rể bộ đội mặc quân pục. Đưa dâu bằng xe đạp. Tiệc cưới chỉ có bánh, kẹo, chè và bó hoa lay ơn trắng. Ba phần tư câu chuyện trong đám cưới là chuyện bom đạn. Có người còn nêu sáng kiến đưa mấy thằng giặc lái ra giữa phố cho máy bay Mỹ ném bom”(tr.68)

Những đoạn tôi vừa trích hiện lên như những thước phim chân thực, sắc nét, có sức gợi bao nhiêu ký ức của những người đã sống ở Hà Nội. Ngày nay đọc những đoạn ghi chép này, bạn trẻ có thể không hình dung nổi những tháng ngày đã trở thành huyền thoại ấy của Hà Nội. Bùi Quang Tú đã ghi được những nét rất mộc, nhưng rất sáng những cảnh vật những con người Hà Nội bình dị, sáng trong và vô cùng quả cảm. Tôi hiểu rằng anh có ý thức ghi chép lại những sự việc và con người đời thường ấy của Hà Nội để gìn giữ lấy cái bản sắc, cái bản lĩnh Hà Nội trong từng chi tiết. Mai sau con cháu còn biết đến một cách cụ thể cha ông đã sống như thế nào.

Bùi Quang Tú còn có những bài nghiên cứu về cốt cách văn hóa Hà Nội. Lời cám ơn Hà Nội, Gặp gỡ và cảm nhận, Họ đã trở về trái tim Hà Nội, Hà Nội tình ca, Nguyễn Đình Thi với Hà Nội…ghi chép và tổng hợp được những giá trị văn hóa đặc sắc của Hà Nội. Bùi Quang Tú đã nhận xét về Nguyễn Đình Thi, và có lẽ cũng đúng với nhiều văn nghệ sĩ khác: “Hà Nội đã sản sinh ra nhiều nghệ sĩ tài hoa, trong đó có Nguyễn Đình Thi-một nghệ sĩ đa tài. Và chính ông đã dâng tặng Hà Nội những vần thơ, bản nhạc ghi dấu ấn không phai trong lòng người yêu Hà Nội”(tr. 149).

Bạn đọc được gặp rất nhiều nhà văn, nghệ sĩ trong cuộc sống đời thường mà Bùi Quang Tú đã ghi chép được. Trang văn của anh có nhiều giá trị tư liệu: Ở Hội Nhà văn, Bùi Quang Tú thường gặp Nguyễn Đình Thi (tr.28), anh cũng đã sống cùng với nhà văn Nguyên Hồng ở nhà xuất bản Văn Học (tr.29). Ngôi nhà 96 phố Huế, khu tập thể văn nghệ sĩ có Nguyễn Đình, Bùi Huy Phồn, Lưu Quang Thuận, nhạc sĩ Văn Ký, Nguyễn Văn Tý, Phan Huỳnh Điểu, nhà thơ Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ (tr.30).

Lời cám Ơn với Hà Nội ghi chép về các nhà văn miền Nam tập kết ra Bắc 1954, học tập và trưởng thành lên từ Hà Nội. Đó là: Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Đoàn Giỏi, Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Hoàng Văn Bổn, Hoài Vũ, Phạm Hổ, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Diệp Minh Tuyền; Họa sĩ Nguyễn Sáng; Các nhạc sĩ từng sống và làm việc ở Hà Nội khá đông đảo: Lưu Hữu Phước, Hoàng Việt, Hoàng Hiệp, Trần Kiết Tường, Phan Nhân, Huỳnh Thơ, Thuận yến, Trương Quang Lục…(tr 55)… Bùi Quang Tú nhận định: “Từ cái nôi văn hóa Hà Nội họ trở vào chiến trường miền Nam và đã có những đóng góp cho văn học miền Nam như chúng ta đã biết “(tr 53)

Viết về Hà Nội, Bùi Quang Tú đã khai thác được nhiều đề tài, khám phá Hà Nội từ nhiều góc độ và làm hiện lên một Hà Nội với vẻ đẹp văn hóa trong thời đại Hồ Chí Minh. Có thể đó chỉ là một nét rất nhỏ là tiếng rao Phá xa hay Xề cố (Em ơi, Bà Triệu phố), một ấn tượng rất riêng về món ăn ốc luộc, uống nước chè chén (Lang thang vỉa hè Hà Nội), món “ruộm hấp”(Lần đầu ra Hà Nội). Những ngày tháng trẻ con rong chơi, những ngày tháng học trò đầy ắp kỷ niệm, những ngày bao cấp thiếu thốn đủ điều, những ngày rầm rập đoàn quân lên đường vài Nam, ngày bác Hồ ra đi, những ngày Mỹ dội B52 xuống Hà Nội, những người con dũng cảm, tài hoa của Hà Nội. Hà Nội tình ca, Hà nội mùa thu và mùa đông, Hà Nội Ngày thơ Việt Nam, người con Đồng Nai-Hà Nội…Tôi hiểu phải sống với Hà Nội và có tình cảm sâu sắc với Hà Nội mới giúp Bùi Quang Tú viết được những trang văn phong phú sắc màu và nghĩa tình với Hà Nội. Anh cũng nhận ra: “Đã từ lâu Hà Nội và Đồng Nai đã hình thành một sợi dây đàn tình cảm. Người Hà Nội vào Đồng Nai sống và làm việc cũng nhiều. Người Đồng Nai ra Hà Nội học tập, công tác cũng không ít. Cho nên cái sợi dây tình cảm Hà Nội-Đồng Nai mỗi khi có dịp lại ngân rung lên những âm thanh rất đỗi thiết tha, dịu dàng và sâu lắng…”(tr. 160)

3.Tạp văn Bùi Quang Tú

Nếu “văn là người” thì bạn đọc có thể nhận ra một nhà văn Bùi Quang Tú có những đặc điểm rất riêng, không phải bằng văn phong mà bằng những gì anh thể hiện.

Ngòi bút Bùi Quang Tú nhất quán ở việc ghi nhận, phản ánh những gì là đẹp, là nghĩa tình, là nhân văn. Anh không miêu tả cái dữ dội khốc liệt đẫm máu, hay khai thác bi kịch, cũng không khơi gợi lòng căm thù, trang văn của anh  không hề có một lời ta thán hay một sự phê phán những cái tiêu cực, dù anh biết rõ ”vẫn còn đó những vấn đề của Hà Nội trong hôm nay và cả ngày mai”(tr.7). Có lẽ anh là nhà giáo nên văn của anh mực thước, ít khi thấy anh phóng bút để lộ diện sự tài hoa. Tôi thích câu chuyện anh kể về bà cụ 70 tuổi nơi anh sơ tán (Nhớ bà cụ ven sông Hồng), một bà mẹ Việt Nam khó nghèo, bình dị nhưng sâu sắc nghĩa tình đến vậy. Bài viết về họa sĩ Nguyễn Nam Ngữ đầy nghĩa tình (Người Hà Nội giữa rừng Đồng Nai). Tôi cũng rất thích cái bầu khí đầy nghệ thuật của Hà Nội trong những bài: Lãng du cùng nghệ thuật, Đi suốt bài ca, Hà Nội tình ca, Nhờ những mùa thu mùa đông Hà Nội, Tản mạn quanh hồ Gươm. Những bài viết của anh đã hội tụ bao nhiêu nhân tài của Hà Nội, mà ngày hôm nay, có ao ước, cũng khó mà có được.

Anh có những trang văn miêu tả thật trong sáng và đẹp. Rất tiếc những đoạn văn ấy không nhiều trong tập sách này. Xin đọc đoạn văn anh viết về sông Đồng Nai:

Hồi đó tôi có dịp đi dọc đoạn sông tới đoạn làm thủy điện Trị An hiện nay. Những tảng đá hàn nhô lưng giữ lòng sông, chỗ đen bóng, chỗ bạc phếch, vừa trơn tru, vừa nứt nẻ. Nước sông chảy tới đó sôi réo, tung bọt trắng xóa, trận hỗn chiến giữa nước và đá không bao giờ ngơi nghỉ. Những bụi cây rù rì màu đen xám mọc trên tảng đá ngã rạp xuống trong nước tung tóe và gió lồng lộng. Sông Đồng Nai vào mùa nước trong đi trên xuồng có thể nhìn thấy tận đáy cát trắng tinh, bầy cá nhởn nhơ trong làn nước…”

Cách kết bài viết của Bùi Quang Tú cũng tạo ra nhiều cảm xúc thẩm mỹ, đó là ghi lại những dư âm trong lòng khi trái tim nhà văn rung cùng một nhịp với nhân vật.

Sau khi viết về Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, Dương Thị Xuân Quý (Họ đã trở về trái tim Hà Nội), Bùi Quang Tú viết đoạn kết: ”Viết đến đây, trước mắt tôi như đang hiển hiện hình ảnh Nguyễn văn Thạc cùng người yêu Phạm Như Anh đạp xe chầm chậm trên đường Cổ Ngư, họ lặng nhìn nhau lòng dạt dào cảm xúc. Nhà văn Dương Thị Xuân Quý thì đang đưa con đi dạo chơi ở công viên Lênin, chỉ cho bé Ly thấy những bông hoa mang nhiều vẻ đẹp khác nhau. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm đang cùng ba mẹ và em gái ngồi ăn bún chả (món ăn mà chị ưa thích), ríu rít chuyện trò trong căn hộ tập thể. Và bạn có tin không, trong dòng người đón Đại lễ ngàn năm Thăng Long có họ đấy…”(tr. 82).

Bùi Quang Tú đã thương yêu nhân vật, sống với nhân vật, thấu hiểu nhân vật như thế nào mới có thể hình dung được vẻ đẹp của những con người Hà Nội như thế.

4. Lời Cám Ơn Hà Nội – tiếng lòng của người con Biên Hòa-Đồng Nai..

Nếu Bùi Quang Tú viết với cảm thức hoàn toàn là người Hà Nội viết về Hà Nội thì chưa hẳn Lời Cám Ơn Hà Nội  có thể hấp dẫn với người Đồng Nai. Cái khó mà anh vượt qua được là ở chỗ, người Đồng Nai soi mình thấy hồ Gươm Hà Nội, và người Hà Nội chan hòa trong dòng dông Đồng Nai. Nhà văn Hoàng Văn Bổn đã sống làm việc ở Hà Nội, trở thành nhà văn lớn của Đồng Nai và của cả nước. Họa sĩ Nguyễn Nam Ngữ là người con Hà Nội hiện là người của đất Đồng Nai, và tác giả Bùi Quang Tú đã là người của Đồng Nai từ những năm 1974 khi anh từ Bắc vào Nam và  từ R về được phân về Ban Tuyên Huấn Biên Hòa, tính đến nay anh đã sống, chiến đấu và công tác ở Đồng Nai 40 mươi năm (trong khi anh chỉ ở Hà Nội 18 năm).

Lời Cám Ơn Hà Nội  là lời của ngày hôm nay cám ơn các thế hệ đi trước đã sống đẹp, sống quả cảm để gìn giữ và đắp bồi một bản lĩnh Việt nam, làm phong phú và ngời sáng hơn nữa những giá trị văn hóa Việt nam. Ở khía cạnh này, Lời Cám Ơn Hà Nội  cũng là lời nhắc nhở về lẽ sống nghĩa tình khi sự xâm lăng văn hóa đang làm mất đi bao nhiêu giá trị cao đẹp của văn hóa Việt Nam những năm tháng khó khăn và hào hùng.

Tôi nghĩ  trong Lời Cám Ơn Hà Nội, nhà văn Bùi Quang Tú cũng gửi những lời tâm huyết tới các thế hệ mai sau. Đó là điều thật đáng trân trọng.

Tháng 9. 2014