HỘI NGHỊ LÝ LUẬN PHÊ BÌNH VĂN HỌC LẦN THỨ IV, TƯỜNG THUẬT Ở MỘT GÓC HẸP

HỘI NGHỊ LÝ LUẬN PHÊ BÌNH LẦN THỨ IV,

tường thuật ở một góc hẹp.

Bùi Công Thuấn

3 chủ tọa đoàn

Chủ tọa đoàn:Nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, TS Phan Trọng Thưởng

 

Trong hai ngày 24.và 25.06.2016, Hội nghị Lý luận phê bình lần thứ IV được tổ chức tại thị trấn Tam Đảo Vĩnh Phúc, một nơi có cảnh sắc giống như Đà Lạt, nhưng nhỏ hơn Đà Lạt nhiều. Nơi đây cũng đã diễn ra Hội nghị LLPB lần thứ I (2003) và Hội nghị LLPB lần thứ III (2013). Hội nghị LLPB lần thứ II được tổ chức ở Đồ Sơn (2006)

Tham dự hội nghị lần này có gần 200 nhà thơ, nhà văn, nhà LLPB trong cả nước. Có nhiều khuôn mặt quen thuộc của các hội nghị lần trước như Ts Nguyễn Văn Dân, Ts Lê Thành Nghị, Ts Văn Giá, Ts Chu Văn Sơn, Nhà văn Nguyễn Văn Hạnh, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, Dịch giả Thúy Toàn, Gs Phong Lê, Gs Nguyễn Đăng Mạnh, Gs Nguyễn Đình Chú, nhà phê bình Nguyễn Hòa, nhà phê bình Nguyễn Văn Lưu…

1.Tham luận, thảo luận

 Các tham luận ở tất cả các hội đồng bộ môn được in thành một tập tài liệu gồm 74 bài,  tổng cộng 422 trang A4, nếu in thành sách sẽ gần 1000 trang. Vì thời gian giới hạn, chỉ một số ít tham luận được trình bày tại hội nghị, mỗi tham luận 15 phút. Phát biểu không quá 10 phút. Nhà thơ Trần Ninh Hồ mới đọc được nửa bài tham luận thì chủ tọa đoàn rung chuông. Các nhà văn phải tuân thủ Quy chế hội nghị (được in và phát cho từng người). Quy chế nêu rõ: Không phát biểu ra ngoài chủ đề, không làm tổn thương người khác, không phát tán tài liệu và thông tin của hội nghị. Đề cao văn hóa tranh luận và trách nhiệm nhà văn, giữ gìn trật tự và lắng nghe ý kiến của người khác

Buổi chiều 24.06, các hội đồng sinh hoạt riêng.

Các tham luận chuyên ngành được trình bày và thảo luận. Không khí hội nghị khá êm ả.

Ở Hội đồng lý luận Phê bình, chủ tọa đoàn là TS Nguyễn Văn Dân và PGS.TS Phan Trọng Thưởng. Có các tham luận sau đây:

TS Trần Hoài Anh: Tiếp nhận lý thuyết phương Tây- thành tựu của Lý luận phê bình văn học thời kỳ đổi mới

 Nhà văn Nguyên An: Nhân vật trung tâm của văn chương-Văn học thời đổi mới, phát triển. Ông nói đến người nông dân mất đất…

Nhà phê bình Đông La: đặt vấn đề đổi mới không phải là lộn ngược.

PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh đặt vấn đề:

Hiện thực trong văn học là gì? Văn học không phản ánh hiện thực mà nghiền ngẫm hiện thực. Hiện thực trong văn học là hiện thực kiến tạo.

Về tác phẩm văn học, có xu hướng cho rằng, nhà văn chỉ sáng tạo ra văn bản tác phẩm. Phân tích và diễn giải là những qúa  trình khác nhau.

Về lịch sử văn học, chúng ta không thể viết được lịch sử văn học, nó phát triển có quy luật hay đứng yên. Các tác phẩm lịch sử chỉ là tác phẩm chủ quan về lịch sử. Thí dụ. Nguyễn Huy Thiệp bịa hoàn toàn truyễn Thị Lộ.

Giá trị của văn học là những gì?

Về phê bình, từ 1986 đến nay chuyển từ Thi Pháp học sang phê bình văn hóa (phê bình nữ quyền, phê bình sinh thái, phê bình thông tin…). Đặc điểm chung là tính chủ quan.

TS Chu Văn Sơn được mời phát biểu, song ông không lên, (vì không thích lên hay vì chưa chuẩn bị kịp?).

Ts Nguyễn Văn Dân gợi ý: LLPB đang trong tình trạng nghiệp dư hóa. Thành tựu của LLPB, ứng dụng và nghiên cứu vào Văn học Việt Nam đã đáp ứng yêu cầu chưa? Chúng ta trao đổi những thắc mắc suy tư..

Nhà phê bình Nguyễn Bích Thu cho biết, đội ngũ LLPB nữ trong HNV chỉ có 13 người. Các nhà LLPB nữ gây được tiếng vang còn ít, nhưng cần nhấn mạnh, LLPB nữ có đóng góp.

Nhà văn Trần Thị Trâm lưu ý việc áp dụng các lý thuyết phê bình phương Tây cần phải phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Không bê nguyên xi. Hiện nay, các em nghiên cứu đi sâu vào Thi pháp mà quên nội dung, không khéo chúng ta rơi vào cực đoan mới…(BCT: ý tưởng này đã có trong tham luận của GS Trần Đình Sử ở Hội nghị LLPB lần III, năm 2013)

TS Lê Thành Nghị chia sẻ với ý kiến của Hoài Anh, Nguyên An, Đông La. Ông cho rằng đổi mới là một sứ mệnh. Đổi mới phải trên cơ sở truyền thống. Thơ kéo dài vô lối trong khi nội dung không có gì thì thơ sẽ mất. Về nhân vật trung tâm, không cứ gì cứ phải là nhân vật tích cực.

Các nhà văn Bảo Hưng, Văn Giá, Vũ Nho được chủ tọa đòan mới phát biểu nhưng không ai lên.

Nhà phê bình Nguyễn Văn Lưu được mời, ông mặc bà ba nâu, vui vẻ lên diễn đàn, song không phát biểu gì. Ông nói, chỉ mong có sức khỏe lên đến đây ăn miến su su là mãn nguyện…(Hội trường cười)

Ngày 25.06.2016, tham luận và thảo luận chung

 Ngày 25.06.2016, nhà văn thuộc cả 4 hội đồng tập trung tại hội trường khách sạn Ngôi Sao Tam Đảo. Phòng hơi chật, âm thanh yếu. Hội nghị diễn ra liên tục, không giải lao. Nhà văn nào cần uống nước trà hay café, hội nghị phục vụ sẵn ở hành lang. Không khí hội nghị nghiêm túc, yên lặng lắng nghe, cũng có lúc hơi nóng lên một chút. Dường như đến hôm nay (2016) những vấn đề nóng của LLPB những năm trước đã nguội? và những nhà phê bình “lớn tiếng” đều vắng mặt (Trần Mạnh Hảo, Bùi Minh Quốc, Phạm Xuân Nguyên…), chỉ còn Nguyễn Văn Lưu, Đông La.

Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn đọc diễn văn khai mạc. PGS.TS Phan Trọng Thưởng đọc đề dẫn: ”Để có cái nhìn toàn diện về văn học thời kỳ đổi mới”.

TS Nguyễn Văn Dân đặt vấn đề chưa có tác phẩm đỉnh cao; và cần chỉ ra VH Việt Nam nằm ở đâu so với VH trên thế giới

Nhà phê bình Nguyễn Hòa (trước đây ông được coi là “thùng thuốc nổ”), hôm nay điềm đạm. Ông nói ngắn gọn tham luận (Một số lý thuyết ngoại nhập và văn học Việt Nam gần đây). Ông nêu 3 nội dung: Chủ nghĩa Hậu Hiện đại, Hậu Thực dân và phê bình Nữ Quyền. Ông trích dẫn (hơi dài) ý kiến của Thụy Khuê và nhấn mạnh “Hãy suy nghĩ trên luống cày của mình”.

Sau Nguyễn Hòa là tham luận của nhà văn Trần Văn Tuấn (Đôi điều cảm nhận về đổi mới văn học), nhà thơ Trần Nhuận Minh (Thơ đổi mới và Thơ Mới thời kỳ thứ hai), nhà văn Thùy Dương. Ba diễn giả này nói chung chung, nói lại cái cũ, theo kiểu ăn theo, không có gì đáng quan tâm.. Thí dụ Trần Văn Tuấn nói: “Viết văn càng ít cái “phải” càng tốt, nên lấy dân làm gốc”. Trần Nhuận Minh nói về thơ kháng chiến chống Pháp, đọc thơ Hồ Chí Minh “ào, ào, ào…”…Thùy Dương nói đến việc nhà văn “đi tìm cái tôi” (Chữ và ý tứ này là của Nguyễn Khải trong bài Đi tìm cái tôi đã mất)

Nhà thơ Lê Minh Quốc tham luận bằng một bài thơ về những vấn đề nóng hiện nay. Thơ anh có mùi của thơ Chế Lan Viên, nhưng hình ảnh, tư tưởng không thể sánh được với thơ Chế.

Dịch giả Thúy Toàn đặt vấn đề: Dịch là gì? vấn đề: chưa có phê bình dịch thuật. Ông nói như giảng bài cho sinh viên nghe, chán chết được!

GS Ngyễn Đăng Mạnh (Ông cho biết đã gửi 2 tham luận, nhưng Ban tổ chức không đưa vào tập tài liệu) đặt vấn đề: “văn chương đích thực là gì? Văn chương minh họa có phải là văn chương đích thực?” Ông cho rằng “phải có dân chủ thực sự mới có văn chương đích thực”. Ông cho rằng “Lý luận phê bình hiện nay đang xuống cấp. Nhà phê bình phải có tài, có lý luận đúng. Có một thời người ta mắc vào lý luận sai, máy móc, giáo điều. Có người coi nhà phê bình là “lũ giòi bọ”. Phê bình phải trên cơ sở nghiên cứu. Nhà phê bình phải lao động cật lực”.

Nguyễn Đăng Mạnh nói năng lẩm cẩm, lạc đề. Ông sa vào những vấn đề từ thời thuở nào, hết sức lạc hậu so với tình hình LLPB 2016

GS Nguyễn Đình Chú (trong tập tài liệu không có tham luận) đặt vấn đề, khi ta đón nhận các lý thuyết văn học từ bên ngoài, xin đặt nó trong văn hóa Việt Nam. Cần xử lý giao lưu văn hóa. Thí dụ, không có văn học Pháp thì không có thơ văn Lãng Mạn.

Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân nêu 3 ý kiến (Xin lưu ý, tham luận của ông không in trong tập tài liệu. Ông Ân phát biểu bằng miệng khác với văn bản được phổ biến trên vandoanviet.blogspot.com.)(2)

1.Phải đánh giá công bằng hơn đối với di sản, nhất là đối với những nhà văn hóa cộng tác với thực dân. Ta phải nhận thức lại chủ nghĩa thực dân. “Chủ nghĩa thực dân là công cụ vô thức của lịch sử”. Thực dân Pháp đã xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam, hiện đại hóa Việt Nam, cập nhật tri thức, đào tạo trí thức. Pháp có công hiện đại hóa, vậy người cộng tác với Pháp có nên bị nhìn khắt khe không? Trường hợp báo Nam Phong, cần nhìn nhận lại cụ thể các nhà văn hóa.

2.Nhân ý kiến của TS Nguyễn Văn Dân về tác phẩm lớn, chúng ta không thể biết được. Cần có thời gian và cần đo bằng nhiều công cụ. Không nên sốt ruột, không thể một sớm một chiều trông thấy tác phẩm lớn. Ví dụ “Nỗi buồn chiến tranh” khi in ra có được giải, nhưng lập tức bị ném đá dữ dội. Hoặc “Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, in ra lập tức bị cấm.

3.Nói hội nhập và phát triển, nhà quản lý vĩ mô cần phải suy nghĩ. Việt Nam có 11 triệu người ăn lương từ ngân sách, 96 triệu dân gò cổ đóng góp để nuôi cả những người làm các việc hội đoàn, chuyên cai quản những người viết văn vẽ tranh làm tượng, diễn kịch, v.v. trong khi lẽ ra thuế của dân chỉ để nuôi bộ máy hành chính nhà nước mà thôi. Thế thì diện mạo hội đoàn văn nghệ dăm ba chục năm tới có thay đổi hay vẫn giữ như bây giờ?

Chủ trì thảo luận, PGS.TS Phan Trọng Thưởng phản biện Lại Nguyên Ân rằng, hội nghị không đề cập đến những vấn đề ngoài văn chương. Chủ đề của hội nghị là: ”Văn học-30 năm đổi mới và phát triển”

Nhà phê bình Đông La, mới được kết nạp HNV 2016. Ông làm nóng hội trường khi đề cập đến những vấn đề “nhạy cảm” của văn chương hiện nay.

Đông la nói: Đổi mới là gì? Cuộc sống thay đổi, anh bám sát hiện thực cuộc sống ấy là đổi mới. Bây giờ chúng ta đang mắc lỗi hệ thống. Nhà văn ăn thuế của dân, chúng ta phải làm gì để sửa chữa lỗi hệ thống?

Anh có tài, có tâm mới phản ánh, phản biện; không phải là phản bội. Có anh phản ánh để lấy giải ngân nước ngoài.

Bây giờ trắng đen loạn xạ, có cả một phong trào muốn lật đổ thể chế. Điển hình là Nguyên Ngọc, Trần Mạnh Hảo.

Đông La giới thiệu cuốn sách sắp in trong đó phê phán Trần Độ, Trần Xuân Bách, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyên Ngọc, Trần Mạnh Hảo…

Đông La cho rằng Nguyên Ngọc nói sai, nói lộn ngược. Gần đây Nguyên Ngọc bênh vực Bop Kerrey, đánh đồng kẻ xâm lược với quân giải phóng. Nguyên Ngọc dùng miệng lưỡi xảo quyệt liếm máu…

Đông La nói, “tôi viết về những vấn đề có tính pháp luật. Nếu tôi nói sai, người ta sẽ kiện”.

Người nghe dễ nhận thấy rằng, Đông La viết văn bản, còn dễ đọc. Khi ông trình bày bằng lời nói, cách nói của ông rối rắm, các chủ đề lộn xộn, không hiểu ông định nói về vấn đề gì: Về 30 năm văn học đổi mới? về ý nghĩa của khái niệm đổi mới? cũng có thể ông muốn vạch mặt những người mà ông cho là cả một phong trào muốn lật đổ thể chế; hay ông PR cho cuốn sách sắp in của ông?…(bó tay!)

Nhà văn Nguyễn Khắc Phê có tham luận Văn xuôi 30 năm đổi mới nhìn từ người trong cuộc in trong tập tài liệu, nhưng ông chỉ phát biểu ngắn. Ông bổ sung ý kiến Nguyễn Hòa về Nữ quyền. Ông nói đây là vấn đề rộng lớn. Trong Kinh Thánh, từ khởi thủy, người phụ nữ đã bị kết án. Nam và nữ khác nhau lắm.

Ông cho rằng thời điểm hiện nay nhà văn không thể lảng tránh: Cá chết, biển chết, số phận hàng vạn người khốn khổ. Chủ quyền biển đảo bị xâm phạm mà ngay trên đất liền cũng bị xâm phạm…Nhà văn không được phép đứng ngoài. Đây là một mặt trận của cả dân tộc.

Hội Nhà văn cần ủng hộ các chiến sĩ trên mặt trận này…

Nhà thơ Vương Trọng nói, đổi mới quan trọng là đổi mới tư tưởng. Thành tựu đổi mới 30 năm qua trong thơ là đổi mới tư tưởng. Thơ khó hiểu là cách đẩy thơ khỏi công chúng.

Vương Trọng không nói đổi mới tư tưởng gì. Thơ Việt Nam làm gì có tư tưởng! Thực ra muốn đổi mới thơ, phải đổi mới tư duy nghệ thuật. Vương Trọng tỏ ra không hiểu thơ.

Nhà thơ Trịnh Công Lộc nói đến 3 xu hướng đổi mới: Xu hướng quá đà, Xu hướng đổi mới còn gắn với truyển thống, Xu hướng truyền thống.

Ông nói: Chưa có nhà LLPB nào nói đến các vấn đề trên. Những bài Lý luận phê bình đọc thì sâu sắc, nhưng còn xa lắc xa lơ mới đến được với người sáng tác

Trần Ninh Hồ mới đọc được nửa bài tham luận thì hết giờ.

(Một hai tác giả lên nói, nhưng tên lạ hoắc và nói không nghe được…)

Nhà văn Văn Chinh chỉ nêu suy nghĩ.phản biện với nhà phê bình Đông La. Ông nói rằng, Nhà văn Việt Nam trung thành với Đảng ghê gớm! gắn bó với cả máu xương, không có ai lại nhận tiền của Việt Tân như Đông La nói. Anh Đông La muốn răn dạy ai thì nói ở chỗ khác. Còn ở đây những mái đầu tóc bạc nghe anh nói thì bi phẫn lắm.

Ngay sau đó Đông La lên diễn đàn ngay, ông không chờ chủ tọa mời. Ông nói rất giận dữ: Ông Văn Chinh nói sai, tôi phải đính chính.Tôi không nói gì về Việt Tân, tôi nói có khuynh hướng viết để giải ngân tiền ở nước ngoài như Nhã Thuyên, Nguyên Ngọc, Trần Mạnh Hảo, Trần Đĩnh.

Sau khi Đông La nói, hội trường không ai nói gì. Có lẽ họ không bận tâm những chuyện liên quan đến chính trị như vậy? Những “thùng thuốc nổ” của các hội nghị trước đã xẹp, trả lại sự bình yên, trầm tĩnh của hội nghị lần này!

Trịnh Đình Khôi lên giới thiệu cuốn sách ông viết về các sự kiện văn học, từ Nhân văn Giai phẩm…Ông nói, trong cuốn sách Trong đó nhắc tới gần 100 đồng chí trung ương.

Nhà văn Phạm Khải (P TBT báo Công An) nói: Trong tập kỷ yếu in tham luận, hầu hết các nhà phê bình không tôn trọng người đọc. Tôi chỉ thấy có cuốn Phê bình và đối thoại của Trần Đăng Khoa là được tái bản, nhưng không ai nhắc đến. Tôi làm báo, nếu không tôn trọng độc giả, họ bỏ mình ngay.

Về phê bình, có một số khuynh hướng cấp tiến, nhưng cần xác định đặc trưng thơ. Thơ không phải báo chí. Thơ mà viết như văn xuôi trên báo, dài dòng, rối rắm, mà cứ gọi là hiện đại, thì thơ sẽ không tồn tại được…

Nhà văn Bùi Việt Sỹ nói dài dòng về đổi mới tiểu thuyết. Hết giờ, chủ tọa đòan rung chuông, ông vẫn nói. Hội trường vỗ tay 3 lần mời xuống, ông vẫn thản nhiên. Sau Nguyễn Trọng Tạo cho biết, ông bị điếc!

Nhà thơ Kiều Vượng nói về thân phận nhà văn tỉnh lẻ. Giới LLPB chú ý thế nào về họ? Cách khoanh vùng xuất bản 30 năm qua gây tổn hại lớn cho tài năng. Quỹ hỗ trợ sáng tác, LLPB giới thiệu, chỉ có ở Hà Nội. Nhà văn tỉnh lẻ không được quan tâm. Ông kể trường hợp của Hữu Loan, Phùng Gia Lộc phải sống quẫn cực một đời, đề nghị HNV cần quan tâm đến số phận các nhà văn.

Nhà phê bình Nguyễn Văn Lưu (Chu Giang)-lên diễn đàn ngay khi Kiều Vượng vừa xuống. Ông phản bác ý kiến Kiều Vượng về Phùng Gia Lộc và Hữu Loan. Theo Chu Giang, Phùng Gia Lộc không thê thảm như Kiều Vượng nói. Phùng Gia Lộc được tặng cỗ áo quan, Lộc còn làm thơ đề trên áo quan và được nhiều người hỗ trợ. Khi Lộc chết, UBND tỉnh đã tổ chức tang lễ.

Trường hợp Hữu Loan, Nguyễn Văn Lưu nói: Hội Văn học nghệ thuật Thanh Hóa có làm nhà cho anh, chứ không phải bỏ anh. Nhưng ta cũng phải thông cảm. Hữu Loan sau nhiều năm bức xúc quá, anh không còn đủ bình tỉnh. Khi tôi đến thăm Hữu Loan, nghe Hữu Loan nói “thằng Hồ Chí Minh thế này, thế kia…” tôi biết Hữu Loan đã hỏng, cái đầu của cụ đã hỏng rồi. Tôi quan niệm, ở Việt Nam, Hồ Chí Minh vẫn là người đã cứu dân tộc này. Sau đó tôi bỏ đi..

Nguyễn Văn Lưu nói về tình trạng xuất bản: Việc xuất bản đang nằm trong tay các đại gia, không nằm trong Hội Nhà văn. Sách Văn học in 1000 bản, năm, bảy năm bán không hết. Sách sex, chỉ một tuần bán hết sạch 50.000 bản và tái bản nhiều lần…

Nguyễn Văn Lưu cũng nói về cuốn sách của Trịnh Đình Khôi, rằng anh Khôi đã trót trèo lên lưng ngựa rồi, xin anh hãy chạy đến cùng.

Ông đề xuất Viện Sử học nên nghiên cứu ý kiến của Lại Nguyên Ân về Phạm Quỳnh. Viện Sử học đã tổng kết được gì về chủ nghĩa thực dân làm hại đất nước này? Lợi ích Pháp đem lại là như thế nào? Tôi chưa thể nói anh Ân đúng/ sai tới đâu, nhưng Phạm Quỳnh là tay sai đắc lực của Pháp. Báo Nam Phong do Phạm Quỳnh chủ biên là nằm trong kịch bản của Pháp. Năm 1929 Phạm Quỳnh đã nói trên báo (bằng tiếng Pháp) rằng: “Lịch sử đã làm cho Việt Nam gắn liền với Pháp. Sự hiện diện của Pháp là tất yếu. Người Việt Nam chỉ nên chấp nhận sự đô hộ của Pháp như ơn Chúa ban“. Câu này thực hiện ý đồ của Pháp. Câu Phạm Quỳnh nói về truyện Kiều phải uyên thâm mới hiểu. Cỡ như các Giáo sư ở đây thì không hiểu được. GS Nguyễn Đình Chú đã trích dẫn không đầy đủ. Câu đầy đủ đăng ở tạp chí Nam Phong số 86 (Nguyễn Văn Lưu đọc lại câu của Phạm Quỳnh viết về truyện Kiều: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn…). Cần tập hợp trên cơ sở tư liệu mới đánh giá được. Trần Hữu Tá đã hết sức ca ngợi Trương Vĩnh Ký. Những chỗ bất lợi của Trương Vĩnh Ký, Trần Hữu Tá lướt qua. Về gia đình Phạm Quỳnh, chúng tôi rất quý trọng. Chúng tôi đã cố gắng xuất bản tác phẩm của cụ. Nhưng xin bình tĩnh xem xét…

Sau ý kiến của Nguyễn Văn Lưu, không thấy Lại Nguyên Ân, Nguyễn Đình Chú hay Kiều Vượng phản biện. Chủ tọa đòan thông báo: đã có 14 ý kiến phát biểu. Thời gian còn 10 phút, nếu ai còn ý kiến thì xin mời phát biểu, sau đó tổng kết hội nghị. Mọi người yêu cầu chủ tọa đòan tiến hành tổng kết.

  1. Tổng kết hội nghị LLPB lần thứ IV

Sau hai ngày 24 và 25.06.2016 hội nghị trinh bày tham luận và trao đổi, nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn đã tổng kết hội nghị. Ông đã chỉ ra nhiều thành tựu của Văn học trong 30 năm đổi mới. Giọng nói của ông vẫn hào sảng, tuy có hơi yếu (vì âm thanh của hội trường kém). Ông trình bày:

Vấn đề 1: Đổi mới đã giải phóng tiềm năng sáng tạo. Chẳng hạn, chưa bao giờ ta có nhiều tiểu thuyết lịch sử như bây giờ. Đề tài, chủ đề, tư tưởng trong sáng tác là phóng khoáng. Hội Nhà văn không cầm tay chỉ việc.

Điều làm thay đổi toàn bộ nền văn học là, văn học ba mươi năm qua nói về cái bình thường, cái tự nhiên, cái hài hòa, không lấy cái bất thường, cái phi thường như giai đoạn trước. Nền văn học 30 năm đổi mới phát triển hài hòa, vì thế ta có điều kiện quan sát con người trong nhiều bình diện. Vai trò cá nhân nhà văn, cá tính sáng tạo được tôn trọng. Thí dụ, khi nhà văn gửi tác phẩm đến nhà xuất bản thì nhà xuất bản phải trả lời.

Trước kia chúng ta ca ngợi hay phê phán, ngày nay văn học hướng thiện. Không hướng thiện thì không phải là con người. Khi nhân danh lý luận, nhân danh mỹ học của cái khác, thì cái khác đó có hướng thiện hay không? Không hướng thiện thì không còn là văn chương.

Dưới góc nhìn của lý luận phê bình văn học, chúng ta thấy nhiều giá trị đã bị vượt qua. Chẳng hạn, mức độ phê phán, mức độ đấu tranh bảo vệ con người, bây giờ dữ dội vô cùng, không còn chỉ như thời Vua Lốp.

Xin báo cáo với lãnh đạo, công lao lớn nhất của Hội Nhà văn là chủ đề đạo đức xã hội. Đảng ra nghi quyết 33 nhấn mạnh việc xây dựng đạo đức con người. Nhưng cách đây mấy chục năm, văn học đã nhấn mạnh đến đạo đức con người, cái đó là tinh tường lắm!

Tôi xin tiếp ý kiến của GS Nguyễn Đăng Mạnh rằng, văn học của chúng ta không minh họa. Nhà văn nắm bắt được hồn cốt xã hội là đạo đức, là nền tảng của nền tảng, (cái đó) hay vô cùng!

Vấn đề 2: Chúng ta từng bước hiện đại hóa nền văn học:

Văn học hôm nay hiện đại hơn rất nhiều, đó là, khả năng tiếp nhận đời sống ở diện rộng. Thú dụ, chỉ vụ cá chết, hàng trăm bài thơ, bút ký xuất hiện nhanh. Đây là nhiệm vụ của nhà văn. Rất thành công.

Hiện đại là ở chỗ: Xu hướng mở, không áp đặt. Vấn đề dân chủ rất quan trọng. Văn học đổi mới thực sự là một nền văn học dân chủ. Ngay trong hội nghị này, có người nói đi, có người nói lại, dân chủ quá đi chứ! Không có chỗ nào có vách ngăn văn học với đời sống. Cách đây 30 năm, ai dám viết về đồng tính, về thế giới tâm linh. Bây giờ mỗi người có giọng riêng, cách nói riêng. Chúng ta đang thoát khỏi dàn đồng ca. Thí dụ Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện là một, tôi không bỏ qua tác phẩm nào của Nguyễn Ngọc Tư. Nền văn học dân chủ là nền văn học mỗi người có giọng điệu riêng, không phải là một dàn đồng ca.

Văn học không đánh bóng, không mạ kền. Con người hiện ra trần trụi, xù xì như nó có, vì thế văn học thực hơn, gần sự thật hơn.

Đổi mới là nhu cầu nội tại của văn học. Hãy đánh giá nền văn học dưới góc độ Văn hóa học. Không chỉ đánh giá giá trị phản ánh mà phải đặt văn học trên hệ giá trị văn hóa. Nhà văn là đội quân văn hóa. Lực lượng sản xuất những giá trị tinh thần cho xã hội. Đây là đội quân rất đáng quý (dù ăn mặc còn xộc xệch).

Nhiều vấn đề chúng ta đã vượt một chặng đường dài. Tiểu thuyết Dòng sông mía (Đào Thắng) viết sinh động, gai góc, nhưng tâm nhà văn trong sáng. Nguyễn Khắc Phê viết về Cải cách ruộng đất, ông nói muốn “nắn gân Hội Nhà văn”, chúng tôi trao giải. Nếu như sợ sệt, thiếu trách nhiệm thì tác phẩm Biết đâu địa ngục thiên đàng sẽ bị bỏ qua. Viết gai góc, nhưng cái nhìn của nhà văn trong sáng, chúng tôi trao giải. Đó là cái mới. Trước kia không dám trao giải. Sách của Tô Hải Vân đặt vấn đề ngồi nhầm chỗ làm đảo lộn hệ giá trị. Tiểu thuyết Mảnh vỡ (Vĩnh Quyền), Ban chấp hành thảo luận lên thảo luận xuống. Trao giảo là ở cái tâm của nhà văn.

Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng nhắc tới tác phẩm của các nhà văn: Xuân Đức, Lê Minh Khuê (Chân trời của Hạ), Trầm Hương (Sài gòn đêm không ngủ), Bích Ngân (Thế giới xô lệch), Nguyễn Bình Phương…

Vấn đề 3: Hội Nhà văn đã khôi phục những giá trị một thời,

như phục hồi danh dự nhà văn cho Trần Dần, Hoàng Cầm. Lan Khai, Vũ Trọng Phụng… Có Giáo Sư vi phạm đã không bị tước danh hiệu, không truất giải thưởng Nhà nước.

Vấn đề 4: Đã xuất hiện mt lực lượng trẻ

Vấn đề thứ 5: Lý luận phê bình có những bước tiến mới. Nhiều trào lưu được giới thiệu, cái nhìn cởi mở hơn. Trường hợp GS Hoàng Ngọc Hiến, cuối đời ông nghiên cứu Hồ Chí Minh, tôi kính trọng vô cùng!

Lý luận Phê bình có nhược điểm là tầm bao quát chưa hết, chưa sâu. Lý luận Phê bình phải bao quát được tình hình văn học. Nhà Lý luận Phê bình phải đọc tác phầm.

Vấn đế thứ 6: Một số vấn đề cần trao đổi

Trong hội nghị này còn có những vấn đề phải trao đổi thêm. Đó là

Vấn đề phân kỳ văn học đổi mới chưa thống nhất.

Đổi mới văn học là vì sinh mệnh của chính nó. Không phải nó chỉ đổi mới vài năm rồi dừng lại (1986-1991). Trường hợp của Nguyễn Ngọc Tư thế nào? Bảo Ninh bây giờ khác với Bảo Ninh 1991. Nguyễn Quang Thiều đạt giải 1993, trường hợp của Nguyễn Xuân Khánh…

Đổi mới văn học là dòng chảy của nhiều thế hệ, sức lực của cả đội ngũ. Không nên quy kết đổi mới chỉ ở lớp trẻ. Đổi mới nhưng không đoạn tuyệt với quá khứ. Nhà văn phải học lẫn nhau. Không có nhà văn nào trở thành lĩnh xướng mà không hút mật thời đại.

Vấn đề nhân vật trung tâm hay vấn đề trung tâm của văn học, cái nào là chính? Nhân vật nào gánh vác hai nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng tổ quốc thì nhân vật ấy là nhân vật trung tâm. Vấn đề trung tâm mới là vấn đề quan trọng. Văn học phải vì con người, tiếp sức cho con người. Vấn đề trung tâm là: xây dựng cho con người tới đâu?

Vấn đề 7: Sắp tới chúng ta làm gì?

1.Đẩy mạnh quá trình kết tinh tác phẩm. So với văn học hiện thực và Thơ Mới, quá trình kết tinh tác phẩm của ta chậm.

2.Lo âu lớn nhất hiện nay là vấn đề suy thoái đạo đức. Chúng ta ăn không ngon, ngủ không yên

3.Hội Nhà văn đặt hàng nhà Lý luận Phê bình viết về đề tài: bản chất của đổi mới văn học là gì? Mối quan hệ cùa Cái Mới, Cái Hay, cái Truyền thống là gì?

  1. Tọa đàm báo chí đã chỉ ra Phê bình báo chí có vấn đề.
  2. Xin phép tổ chức một cuộc hòa hợp dân tộc. Nhạc sĩ Phạm Duy đã về rồi…Sao nhà văn lại không được hội nhập. Nhà văn nào trở về với đất nước, mình cũng phải sẵn sàng. Nhà văn nào tác phẩm có lợi cho dân tộc thì ghi nhận. Lợi ích của dân tộc là tối cao.

7.Không để lọt tác phẩm có giá trị.

8.Cải tiến phương pháp đầu tư.

9.Xử lý những vấn đề trong tác phẩm phải vô cùng hiểu biết. Ban chấp hành phải tham mưu được cho Đảng.

10.Vấn đề văn học dịch.

11.Tác giả có tác phẩm muốn PR thì phải tự giới thiệu bằng cách tóm tắt tác phẩm. Hội Nhà văn sẽ đưa lên websdite của Hội. Cát cứ văn học thì nguy hiểm vô cùng.

  1. Ban Chấp hành Hội Nhà văn phải có tiếng nói với Ban Cán sự Chính phủ về việc trao giải Nhà nước.

13.Thay đổi cách thẩm định tác phẩm. Về thông tin và truyến thông (nhà xuất bản Hội Nhà văn, tuần báo Văn nghệ. 1 báo điện tử…

  1. Kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Nhà văn (2017)

Hội nghị kết thúc thành công tốt đẹp.

3.Nhiều vấn đề vẫn còn đó

 Lần đầu tiên tham dự Hội nghị Lý luận phê bình Văn học, tôi có vài suy nghĩ:

Nếu chỉ nói đến Văn học 30 năm đổi mới (1986-2016) thì văn học 10 năm trước đó (1976-1986) đặt vào đâu?. Văn học dân tộc là một dòng chảy liên tục, không thể cắt một khúc lịch sử để xem xét. Giai đoạn 10 năm (1976-1986) đất nước lâm vào tình trạng cực kỳ khó khăn và khủng hoảng, bao nhiêu vấn đề dầu sôi lửa bỏng, bao nhiêu thân phận như bị rang trên chảo lửa. Đó là bối cảnh lịch sử ít nhiều có chất “bi tráng” để sản sinh những tác phẩm lớn. Văn học cách mạng và kháng chiến vẫn tiếp tục dòng chảy, đồng thời bắt đầu xuất hiện những tác phẩm viết về hiện thực mới. Không thể bỏ qua 10 năm văn học này.

Chủ đề của hội thảo là “Văn học-30 năm đổi mới, hội nhập và phát triển”, nhưng trong hội nghị, người ta vẫn đặt lại vấn đề: Thế nào là đổi mới? và câu trả lời là không thống nhất. Dường như chủ đề này quá lớn so với khả năng bao quát của nhiều người. Thành ra, các tham luận chỉ như kiều “thầy bói sờ voi”. Cũng có những tham luận, những ý kiến không đi vào chủ để hội thảo (ý kiến của GS Nguyễn Đăng Mạnh, của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, nhà phê bình Nguyễn Văn Lưu…)

Vấn đề là, Hội thảo đánh giá thành tựu của văn học giai đoạn 30 năm đất nước đổi mới (1986-2016), hay hội thảo về Lý luận phê bình về một nền văn học đổi mới? Các nội dung này không rạch ròi nên mới có tham luận “Văn xuôi đổi mới và văn xuôi thời kỳ đổi mới”,”Thơ Việt Nam 30 năm đổi mới-Những đóng góp cho văn học”… Đa phần các ý kiến nói về sự đổi mới văn học, đổi mới là quy luật tại của văn chương, đổi mới là sứ mệnh của văn chương.

Trong hội thảo, không ai chỉ ra những thành tựu và những giá trị của văn học 1986-2016. Những tác phẩm, tác giả nào là tiêu biểu nhất cho thành tựu và giá trị của giai đoạn văn học này? Văn học này được định vị bằng những đặc điểm gì về tư tưởng, thi pháp và phong cách? Trong khi đó người ta nói nhiều đến những đổi mới ngoài văn chương, như việc hiện đại hóa nền văn học, về phục hồi giá trị cho những nhà văn bị “án” một thời, về tinh thần dân chủ, về mở rộng biên độ nhận thức và sáng tác, về tiếp nhận các lý thuyết văn học phương Tây, về các hoạt động của Hội Nhà Văn…

Cũng không tham luận nào nói được giá trị của những “cách tân” trong văn học 30 năm đổi mới. Người ta ca ngợi đổi mới, có tham luận chỉ ra được những hiện tượng cách tân thơ, cách tân trong tiểu thuyết, về bút pháp, góc nhìn, về đề tài, nội dung, nhân vật (nói chung là chỉ ra sự mới mẻ của các yếu tố bút pháp, thi pháp), nhưng không ai chỉ ra được tác phẩm “cách tân” nào là có giá trị, từ đó mở ra một dòng văn chương mới, chủ đạo cho cả một nền văn học (kiểu như Tình già của Phan Khôi mở ra Thơ Mới trước 1945, như kiểu thơ Tố Hữu mở đường cho loại thơ giàu tính quần chúng trong kháng chiến).

Không ai nhận ra văn chương Việt Nam hiện nay có 3 dòng là văn học cách mạng và kháng chiến, văn chương nhân văn và dân chủ và dòng văn chương thị trường. Người ta cho tất cả vào một rọ và gọi chung đó là thành tựu văn học đổi mới.

Xin lưu ý rằng, giá trị của ba giòng văn học này rất khác nhau. Văn học các mạng và kháng chiến tiếp tục viết như văn học kháng chiến, đó là khuynh hướng tụng ca-sử thi. Dòng văn học này được Hội Nhà văn và các Hội VHNT địa phương đầu tư trong các trại sáng tác, được trao giải thưởng cao quý. Dòng Văn học nhân văn và dân chủ là dòng văn chương phức tạp về tư tưởng. Các tác phẩm của dòng văn học này thóat ly chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Thực ra dòng văn học này mang khuynh hướng “phê phán hiện thực”, mà người ta gọi trệch đi là văn chương sám hối, văn chương nghiền ngẫm hiện thực. Mỗi khi nói đến văn học đổi mới, người ta không thể không nói đến truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Thiên Sứ của Phạm Thị Hoài, Thời xa vắng của Lê Lựu, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Những thiên đường mù của Dương Thu Hương và sau này là Nỗi buồn chiến tranh (Bão Ninh), Ba người khác (Tô Hoài), Thời của thánh thần (Hoàng Minh Tường)…Nhưng các nhà Lý luận phê bình chưa biết xếp dòng văn học này vào đâu, tất nhiên không thể xếp vào văn học cách mạng và kháng chiến. Dòng văn chương thị trường mới xuất hiện sau này (thực ra, ở miển Nam, trước 1975 đã có dòng văn học này). Đây là văn chương giải trí, chủ yếu là truyện ngôn tình. Nhưng dòng văn học này đang lấn át thị trường và ảnh hưởng lới đến giới trẻ, vì độc giả của dòng văn chương này là người trẻ. Dòng văn học này có giá trị gì trong sử phát triển văn học của dân tộc? hay chỉ đáp ứng nhu cầu giải trí của đời sống thị trường?

Khi nói về sự đổi mới văn học như là quy luật nội tại, Hội nghị đã bỏ qua những yếu tố tư tưởng cơ bản thúc đẩy sự đổi mới văn học (1986-2016). Đó là Nghị quyết trung ương 5, về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, và nghị quyết 23 của Bộ chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”. Nhiều vấn đề Lý luận và phê bình văn học đã được mở ra. Nhà văn được hoàn toàn tự do trong lựa chọn đề tài, nội dung, phương pháp sáng tác, không còn bị trói buộc trong phương pháp Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tinh thần nhân văn và dân chủ thấm nhuần trong tư tưởng và sinh hoạt văn học với cái nhìn cởi mở hơn. Cách tiếp cận vấn đề đa chiều, không còn độc tôn chân lý. Nhà văn có điều kiện thể hiện cá tính sáng tạo, không phải mặc đồng phục và hát đồng ca. Và đến bây giờ, sau nhiều năm háo hức tiếp cận các lý thuyết mới về văn học của phương Tây, các nhà LLPB nhận ra rằng, lý thuyết văn học của phương Tây là viết cho nền văn học phương Tây, ta cần tiếp thu sao cho phù hợp với văn chương Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Đã có những ý kiến kêu gọi xây dựng một nền Lý luận văn học Việt Nam. Nhưng cho đến nay vẫn còn là ý tưởng.

Tôi trộm nghĩ, trong dòng chảy của văn học dân tộc, văn học 1986-2016 chỉ đổi khác so với văn học kháng chiến, chứ không đổi mới. Văn học chỉ thực sự đổi mới khi đổi mới về tư tưởng thẩm mỹ, đồi mới bút pháp, thi pháp và phong cách. Xin so sánh văn học kháng chiến (1946-1954) với văn học trước 1945 thì thấy rõ. Văn học Việt Nam 1986-2016 vẫn “phản ánh hiện thực”, vẫn có tác phẩm viết theo quán tính chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa, và có những tác phẩm phản ánh mặt hiện thực mà văn học cách mạng và kháng chiến không nói đến (Thời của Thánh thần, Ba người khác, Mảnh vỡ của mảnh vỡ…). Những tác phẩm này không viết theo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ngay cả những tác phẩm viết theo những bút pháp khác như Siêu thực, Hiện thực huyền ảo, Hậu hiện đại cũng đã là cũ so với thế giới. Chủ nghĩa Siêu thực ra đời với tuyên ngôn của A. Breton từ 1929. Thơ Siêu thực Việt Nam đã khởi đi từ Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Xuân Thu nhã tập trước 1945. Giai đoạn đổi mới, Thanh Thảo hay Nguyễn Quang Thiều có viết Siêu thực thì cũng đã đi sau rất xa so với Thanh Tâm Tuyền ở miền Nam trước 1975. Rõ rang văn học 1986-2016 chỉ đổi khác so với trước đó.

Tôi đồng ý nhiều điểm trong tổng kết hội nghị của nhà thơ Hữu Thỉnh. Văn học 1986-2016 giải phóng tiềm năng sáng tạo của nhà văn, có được một đội ngũ đông đảo, dù vẫn còn trong một dàn đồng ca nhưng mỗi người đang cố gắng hát giọng riêng. Văn học 30 năm đổi mới (1986-2016) đang từng bước hiện đại hóa để hội nhập với thế giới. Chúng ta vẫn chưa có những tác phẩm đỉnh cao, và còn phải chờ đợi những thế hệ nhà văn nối tiếp.

01 tháng 07.2016

_________________________________

https://www.facebook.com/nguyenan.lai/posts/10208242867688221?pnref=story