TÂM SỰ MÙA VƯỢT QUA-Thơ Khắc Đỗ

Bạn có thể đọc các bài viết chính của Bùi Công Thuấn theo link:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

Đôi điều chia sẻ về tập thơ

TÂM SỰ MÙA VƯỢT QUA

của nhà thơ Lm Khắc Đỗ

Bùi Công Thuấn

***

(Lm Khắc Đỗ)

Tập thơ Tâm sự mùa vượt qua có 36 bài, nhiều bài là trường ca Lục bát (bài Theo Thầydài 214 câu). Ở đầu mỗi bài thơ, tác giả ghi rõ địa điểm, ngày và “tâm sự” của nhân vật (dạng ghi nhật ký). Người đọc có thể đọc tâm sự của Chúa Giê su, của Philatô và phu nhân, của một môn đệ đưa Mẹ về nhà mình của Mai-Đệ-Liên, Mác-cô, Cleopas trên đường Emau của Phêrô của một môn đệ trong nhà-đóng-kín-cửa và “Tâm sự một môn đệ trong bóng tối”. Người môn đệ đó là ai?

“Con là thi sĩ đa đoan

Thầy thương chọn gọi con làm môn sinh.

Viết gì? Chỉ biết lặng thinh

Lui vào bóng tối một mình ngẫm suy.

                        (Dưới chân thập giá)

SỰ CHỌN LỰA

            Trong Lời ngỏ, tác giả cho biết mục đích sáng tác tập thơ:

 “Với ước mong chiêm ngắm và cảm nghiệm Tình Yêu tuyệt đối ấy kẻ hèn này đã lần bước theo Thầy Chí Thánh trên từng nẻo xa gần của Đường Thương Khó… nhập cuộc vào những biến cố của Mùa Lễ Vượt Qua năm ấy… đặt mình vào vị trí của những môn đệ, và đôi khi, mạn phép, đặt mình vào vị trí của Thầy Giêsu, mới có thể phần nào rung cảm với nỗi đau của Thầy, nhạy cảm với tâm tư của Thầy và đồng cảm với tấm lòng của Thầy. Những xúc cảm ấy được ghi lại qua những vần thơ đơn sơ trong tập “Tâm sự Mùa Vượt Qua” này. Trước là để làm hành trang cho bản thân chuẩn bị bước vào Tuần Thánh của Năm thánh Lòng thương xót thật sốt sắng và trang nghiêm thật nhẹ nhàng và thanh thoát. Sau là xin được chia sẻ với mọi người, như một lời mời gọi cùng nhìn lại Mùa Vượt Qua năm ấy, để sống trọn Mùa Vượt Qua năm nay và hướng đến Mùa Vượt Qua vĩnh cửu mai này”.

Như vậy nội dung của tập thơ là Con đường thương khó của Chúa Giêsu cùng với những biến cố của các môn đệ Chúa. Tác giả nhập thân vào nhân vật để nói lên “tâm sự” của các nhân vật trong cuộc.

Mục đích sáng tác thơ là “ghi lại những cảm xúc” “rung cảm với nỗi đau của Thầy, nhạy cảm với tâm tư của Thầy và đồng cảm với tấm lòng của Thầy”; để “làm hành trang cho bản thân”vàđể chia sẻ với mọi người”.

Từ mục đích sáng tác ấy, người đọc có thể nhận ra “bút pháp” của tác giả khi xem xét đối tượng sáng tác.

Những bài thơ “để chia sẻ với mọi người” được viết bằng bút pháp của “văn chương bình dân” (thể phú của vè dân gian [[1]]), dễ hiểu, lời thơ, cách diễn đạt là “khẩu ngữ” mộc mạc, tinh thần thơ phóng khoáng, không câu nệ nhiều vào thi luật, chủ yếu là kể chuyện, đưa thông tin. Xin đọc bài Biến loạn vườn khuya

Ngươc lại, những bài “làm hành trang cho bản thân” (những bài “tâm sự một môn đệ trong bóng tối”), hầu hết là thơ trữ tình, lãng mạn với bút pháp tượng trưng. Ngôn ngữ thơ là những hình ảnh tượng trưng, thơ là suy tưởng của tác giả, vắng bóng đời sống hiện thực, kiểu ngôn ngữ của thơ Lãng mạn 1930-1945, đặc biệt là thơ Hàn Mạc Tử. xin đọc các bài: Run như hơi thở chạm tơ vàng, Giờ vượt qua, Thập giá vinh quang, Máu chiều tình sử, Hừng đông, Tìm Người, Gặp Người, Phục sinh, Khách lạ đường quê.

Nhìn tổng thể, bút pháp thơ Khắc Đỗ là bút pháp “truyền thống” (văn học dân gian & Thơ Lãng mạn 30-45). Tập thơ Tâm sự mùa vượt qua không nằm trong dòng thơ “cách tân”của thơ Việt đương đại.

NHỮNG ĐẶC SẮC THI CA

          Một tác giả chỉ có thể được định vị trên văn đàn khi đem đến cho thơ ca những khám phá sáng tạo mới mẻ. Xin đọc thơ Xuân Ly Băng, thơ Lê Đình Bảng, thơ Trăng Thập Tự, thơ Sơn Ca Linh… [[2]]

Riêng về nội dung tập thơ Tâm sự mùa vượt qua, tác giả (viết Lời ngỏ), Hoàng Vũ (người viết Lời tựa) và Đạt Nhân (người viết Lời bạt) đã có những bài viết sâu sắc, tôi xin không nhắc lại.

Vậy tập thơ Tâm sự mùa vượt qua có những đặc sắc gì về tư tưởng-nghệ thuật?

1.Trường ca Lục bát kể chuyện là thế mạnh của ngòi bút Khắc Đỗ. Tôi có cảm giác tác giả có thể viết liền mạch vài trăm câu Lục bát chỉ “trong một nốt nhạc” (theo cách nói dân gian). Làm thơ Lục bát không khó, nhưng khi viết trường ca thì việc tìm vần luôn là một trở ngại, và đặc biệt người làm thơ phải có vốn từ giàu có để không lặp lại từ, để có thể diễn tả mọi tình huống, tái hiện mọi trạng thái tâm hồn và đời sống. Có vậy, đọc Lục bát mới thú vị, mới cảm nhận được hết sự phong phú, tài hoa, tinh tế của tiếng Việt, của hồn Việt.

Tôi tin rằng Khắc Đỗ có khả năng viết những truyện thơ lục bát như những truyện thơ của dân tộc (Đoạn trường tân thanh, Lục Vân Tiên, Đoạn trường vô thanh…) Văn học Công giáo đương đại chưa có tác giả nào viết truyện thơ để hội nhập với văn học dân tộc.

2. Tuy mỗi bài thơ trong tập Tâm sự mùa vượt qua là “tâm sự” của riêng một nhân vật, nhưng “tâm sự” ấy được khám phá và tái hiện trong một cấu trúc truyện kể. Điều này khiến cho thơ Khắc Đỗ mang tính “truyện” nhiều hơn tính “thơ”. Nghĩa là có hai dòng chảy song song: dòng chảy tâm trạng của nhân vật, và dòng chảy tự sự (mạch truyện kể). Việc kết hợp “hai dòng chảy “ này là tài năng kiến tạo tác phẩm của nhà thơ.

Để phục dựng dòng chảy tự sự (kể lại câu chuyện được Kinh thánh trình thuật), tác giả có khi chỉ khai thác một sự việc, ngược lại, có khi phải tổng hợp nhiều sự việc trong đời của một nhân vật (thí dụ Mai-Đệ-Liên, Phê Rô), nghĩa là phải kết hợp nhiều đoạn Kinh thánh lại với nhau theo logic tâm lý, đặt trong một không gian nghệ thuật liền mạch, tạo một cốt truyện mới, soi rọi vào đó cái nhìn mới, và sáng tạo những cách diễn đạt mới. Điều ấy đòi hỏi một năng lực sáng tạo vượt trội, tức là năng lực “làm thơ” kết hợp với năng lực dựng truyện (kể truyện, tạo bối cảnh, xây dựng tình huống, khắc họa nhân vật, chọn lựa bút pháp và đặt chủ đề…). Vì thế thơ Khắc Đỗ hoàn toàn khác với “Diễn ca”. Tác giả “Diễn ca” chỉ diễn thành thơ nguyên vẹn đoạn Kinh thánh, mà không được phóng bút theo cảm hứng sáng tạo cùa riêng mình.

Xin đọc các bài: Chuyện Bê-ta-ni,Biến loạn vườn khuya, Trước tòa sơ thẩm, Ám muội tòa đêm, Nẻo đường chân lý, Tình chung một mảnh dành riêng (tổng hợp Kinh thánh: Mt 28: 1-8; Mk 16: 1-8; Lc 24: 1-11; Ga 20:1-18

Bài Theo Thầy tổng hợp các biến cố trong đời Phêrô theo Chúa và tậm trạng của ông trong những hoàn cảnh cụ thể: Lúc Chúa sống lại, Phêrô ra mộ (Lc 24,12). Phêrô nhớ ánh mắt Chúa nhìn (Lc 22, 61), nhớ lúc Chúa gọi, vâng lời Thầy thả lưới (Lc 5,5). Nhớ lúc Chúa dẹp yên sóng (Lc 8, 22-25., Chúa cho Phêrô đi trên mặt nước (Mt 14, 27-32). Chúa gọi Phêrô: con là đá (Mt 16, 15-19). Phêrô đáp lời “Bỏ Thầy con biết theo ai” (Ga 6, 68). Nhớ lúc được theo Chúa lên núi Tabore (Mc 9, 2-10). Lại nhớ lúc chối Thầy (Mc 14, 66-72). Nhớ lúc Chúa sống lại, hiện ra, Phêrô nghe lời thầy thả lưới (Ga 21, 6-19)…

3.Thơ trữ tình của Khắc Đỗ có những phẩm chất nghệ thuật riêng. Đó là những bài được ghi chú là “Tâm sự một môn đệ trong bóng tối” (chính là tác giả). Đặc điểm “thi pháp” của nhiều bài thơ ở mảng này là kiểu thơ Lãng mạn (1930-1945), thể thơ 7 chữ, 8 chữ, sử dụng ngôn ngữ tượng trưng, thơ thiếu phẩm chất hiện thực (Máu chiều tình sử, Giọt nước mắt Thầy, Thập giá vinh quang, Gặp Người, Khách lạ đường quê, Phục Sinh). Nhiều bài viết theo phong cách thơ Hàn Mạc Tử (Run như hơi thở chạm tơ vàng, Giờ vượt qua, Hừng đồng, Tìm Người.)

Xin đọc:

Thượng Đế chết rồi em biết không

Trần gian đau đáu giấc mơ hồng

Hôm qua khép cửa vùi thân mộ

Giờ tử nạn này chắc chửa xong

Muôn nghìn tinh thể nháo nhào rên

Thanh khí xôn xao lẽ diệu huyền

Thinh lặng nhé em, giờ tưởng lệ

Đức Vua đương nghỉ giấc bình yên

                    (Giờ vượt qua)

Những bài “tâm sự của Chúa Giêsu” (Yêu đến cùng, Đêm hấp hối, Đường lên

 Núi Sọ, Giờ phút lâm chung, Này là Mẹ con) là những bài dù tác giả có nhập thân vào Chúa để cùngrung cảm với nỗi đau của Thầy, nhạy cảm với tâm tư của Thầy và đồng cảm với tấm lòng của Thầy”, thì người đọc cũng nhận ra giữa khát vọng sáng tạo và tác phẩm bằng câu chữ có một khoảng cách chưa vượt qua được: tác giả chỉ thuật lại Kinh thánh mà chưa khám phá được nội tâm của Chúa.

Thơ chỉ thuật lại sự việc và gợi ra một vài cảm xúc của Chúa mà chưa đi sâu vào nội tâm của Chúa: “nặng trĩu sầu bi”, “Lệ sầu vò võ trăm điều”, “Lòng Thầy khắc khoải bâng khuâng”, “Hồn con xao xuyến lệ sa hãi hùng”, “Lòng Con khắc khoải não nùng/ Buồn phiền chết được, nghìn trùng đớn đau”, “Ruột gan khổ sở dường bao/ Mồ hôi lã chã như trào máu tươi./ Chứa chan mắt lệ rã rời”; “Nặng sầu ngó lại nhân gian/ Đường lên Núi Sọ quan san một màu./ Xuôi tay… nhắm mắt… gục đầu…”; “Mọi điều hoàn tất xong xuôi/ Gồng mình kêu lớn một hơi cuối cùng”.

Để khám phá “tâm sự của Chúa Giêsu”, có lẽ người làm thơ cần soi chiếu ý thức hiện hữu của Chúa trên đường khổ giá trong nhiều chiều kích hiện sinh, sử dụng Phân tâm Hiện sinh và miêu tả “dòng ý thức”, thay vì thuật truyện và viết cảm nhận như nhiều người quen làm. Những gì thấy bên ngoài mới chỉ là hiện tượng vật lý (“buồn phiền, mồ hôi lã chã, chứa chan mắt lệ, Xuôi tay…nhắm mắt…gục đầu”).

Có khám phá nội tâm của Chúa trong các chiều kích ấy thì mới có thể rung cảm với nỗi đau của Thầy, nhạy cảm với tâm tư của Thầy và đồng cảm với tấm lòng của Thầy”.

ĐÔI ĐIỀU CHIA SẺ VỚI TÁC GIẢ

          Tập thơ Tâm sự mùa vượt qua khẳng định nhà thơ Lm Khắc Đỗ là một khuôn mặt thơ ca Công giáo có những đường nét đặc sắc, đặc biệt là những trường ca lục bát có thể phát triển thành những truyện thơ lục bát, một thể loại thơ truyền thống (Đoạn trường tân thanh, Lục Vân Tiên).

            Về thi pháp, Khắc Đỗ đóng góp vào thơ ca Công giáo sự kết hợp dòng chảy tự sựdòng chảy tâm trạng trong những trường ca giàu chất tự sự. Điều này hoàn toàn khác với thể “Diễn ca” truyền thống. Khả năng kiến tạo tác phẩm thơ của Khắc Đỗ có thể đem đến cho văn học Công giáo những tác phẩm giá trị.

            Việc “làm mới” thơ của mình để có thể hội nhập với thơ Việt đương đại có lẽ là một hướng cần được quan tâm (như những đóng góp của thơ Xuân Ly Băng, Lê Đình Bảng, Trăng Thập Tự, Sơn Ca Linh, Cao Gia An, …)

            Tháng 1/ 2024


[1] Vè dân gian: hình thức tự sự bằng văn vần, kể chuyện người thật việc thật, mang tính thời sự, tính trào phúng. Một bài vè thường ít được trau chuốt về mặt hình thức mà tập trung thể hiện nội dung được thông báo (Trần Tùng Chinh, Giáo trình văn học dân gian Việt Nam)

[2] Bùi Công Thuấn-Thơ Công giáo Việt Nam đương đại, những sáng tạo mới

  Nguồn: Bùi Công Thuấn-Văn học Công giáo Việt Nam đương đại, Nxb Hội Nhà văn, 2022

https://www.vanthoconggiao.net/2022/04/tho-ca-cong-giao-viet-nam-uong-ai-nhung.html

THƠ CHỌN

CHUYỆN BÊ-TA-NIA

Bê-ta-ni, ngày … tháng … năm …

(Tâm sự một môn đệ trong bóng tối)

***

Ngày lên hun hút tầng xanh

Ác vàng nhả giọt nắng hanh đã đầy.

Một cơn gió bụi hao gầy

Đường quê bao dấu chân Thầy đã in.

Có người viễn khách đưa tin

Vội vàng tìm Chúa, cầu xin ngậm ngùi.

Thưa rằng: “Khẩn thiết hỡi ôi!

Đường xa lặn lội khắp nơi tìm Thầy.

May sao tương ngộ chốn đây

Như cơn nắng hạn gặp ngay mưa rào!

Sự tình đau xót xiết bao

Người Thầy thương mến đương vào lâm nguy!

Bấy nay mắc bệnh nan y

Dữ nhiều lành ít cực kỳ yếu hơi.

Chạy thầy chạy thuốc khắp nơi

Vô phương cứu chữa Thầy ơi, thôi rồi!”

Hung tin vừa mới dứt lời

Bốn bề im ắng, lòng người hoang mang.

Môn sinh to nhỏ luận bàn:

“Bê-ta-ni chính tên làng thiết thân.

Nhà này là chỗ nghỉ chân

Thầy trò ta đã nhiều lần viếng thăm.

Tình sâu nghĩa nặng tháng năm

Đôi bên tri kỷ tri âm nồng nàn.

Mát-ta chị cả dịu dàng

Ma-ri thứ nữ đoan trang mặn mà.

Út nam tên gọi La-da

Phen này bạo bệnh xót xa lòng Thầy.

Chắc rằng Thầy sẽ đến ngay

Dấy niềm ai cảm, ra tay chữa lành.”

Bất ngờ Chúa bảo chung quanh:

“Bệnh này không dễ chết nhanh sớm chiều!

Nhưng vinh quang Chúa cao siêu

Tỏ nơi Thánh Tử dấu yêu từ rày.”

Án binh bất động hai ngày

Rồi sau Chúa bảo: “Hãy quay trở về!

Nào ta cùng tới Giu-đê.”

Thưa rằng: “Khốn khó mọi bề Thầy ơi!

Dại chi chuốc họa vào người

Kìa dân Do Thái chờ thời đã lâu.

Đòi phen ném đá hại nhau

Oán thù biết rõ, hơi đâu lụy phiền!”

Chúa rằng: “Bạch nhật thanh thiên

Đủ mười hai tiếng, chẳng thêm bớt gì.

Phàm ai ở giữa quang huy

Thấy nguồn ánh sáng, bước đi vững vàng.

Còn như đêm tối lên đàng

Sẽ mau vấp ngã, quáng quàng lăn quay!

La-da yên giấc giờ đây

Thầy đi đánh thức dậy ngay cho người!”

Thưa rằng: “Say giấc ngủ vùi

Qua cơn sẽ tỉnh, phục hồi như xưa!”

Biết câu bóng gió dư thừa

Một đằng thâm ý, hiểu bừa một nơi.

Chúa liền kiến giải tiếp lời:

“Bạn ta chẳng phải ngủ chơi thường tình!

Ý Thầy nói cuộc tử sinh

Anh La-da đã tường minh chết rồi!

Thầy không hiện diện kịp thời

Để anh em biết tin nơi lời Thầy.

Nào ta đến với bạn ngay!”

Tô-ma nghe vậy, khoát tay hùng hồn:

“Đi nào các bạn đồng môn

Theo Thầy sống chết vẹn tròn mới thôi!”

Đường về cảnh cũ chơi vơi

Tâm tư bổi hổi, khúc nôi dạt dào.

Vừa nghe tin Chúa ghé vào

Mát-ta vồn vã ra chào từ xa.

Rằng: “Ôi thảm thiết bao la

Em con đã chết, Thầy đà biết chưa?

Nay thành thiên cổ người xưa

Chôn trong huyệt mộ cũng vừa bốn hôm.

Thầy xem tang quyến sầu tuôn

Thân nhân phúng viếng chia buồn bấy nay.

Ví dù Thầy có ở đây

Em con đã chẳng xuôi tay lìa đời!

Thầy xin Thiên Chúa một lời

Con tin Thầy sẽ được Người ban cho.”

Chúa rằng: “Chị chớ phải lo!

Này đây em chị đến giờ tái sinh.”

Rằng: “Con vẫn cứ đinh ninh

Đến ngày sau hết, em mình sống thôi!”

Chúa rằng: “Nói chuyện xa xôi

Chính Thầy, sự sống đời đời quang uy!

Ai tin, dù có chết đi

Sẽ luôn được sống diệu kỳ vô biên.

Còn ai sống, dạ vững tin

Sẽ không phải chết triền miên ngàn đời.

Riêng phần chị có tin lời?”

Đáp rằng: “Tấc dạ không ngơi tin thờ!

Chính Thầy là Đức Ki-tô,

Là Con Thiên Chúa, Đấng vô gian trần.”

Dứt lời xác tín thành tâm

Mát-ta khấp khởi quày chân trở về.

Tìm cô em gái tỉ tê:

“Kìa Thầy đã đến, còn lề mề chi!

Thầy kêu em đấy, nhanh đi!”

Nghe xong tin báo, Ma-ri điếng người.

Ruột gan dẫu rối bời bời

Nét hoa càng tủi, càng tươi lạ lùng.

Lòng yêu vừa giận vừa mừng

Gạt mau nước mắt lưng tròng xót xa.

Những người phúng viếng ở nhà

Thấy cô đi vội, tưởng ra mộ phần.

Họ liền lũ lượt theo gần

Tìm phương an ủi vơi dần sầu đau.

Không gian ảm đạm một màu

Mong manh liễu yếu, rủ nhàu đào tơ.

Hoa xuân thổn thức dại khờ

Chúa xuân tìm gặp, hết vờ héo hon

Ma-ri mắt lệ nỉ non

Bóng Thầy hiển hiện, lòng son rã rời.

Gieo mình phục dưới chân Người

Rằng: “Ôi, nước chảy hoa trôi bẽ bàng!

Chờ ai ngày cạn tháng tàn

Mong ai cho đến muộn màng vẫn mong!

Tin Thầy biền biệt non sông

Có Thầy, hiền đệ đã không chết rồi!

Nay cơn gia biến tơi bời

Tan hoa nát ngọc, dập vùi cô thân.

Má hồng dám chịu đa truân

Những mong được chết một lần cùng em!

Lá vàng, gốc rễ còn nguyên

Lá xanh ai nỡ vội đem lìa cành!

Ngậm đau nuốt tủi thôi đành

Bại gia lệch nghiệp tan tành, Thầy ơi!

Nỗi lòng bẳn hẳn khôn vơi

Xót người ở lại, tiếc người ra đi!

Nay Thầy ghé đến làm chi

Cho ai vấn vít sầu bi đoạn trường.

Thâm tình nào phải người dưng

Em con cũng chính người thương của Thầy!

Bóng chim tăm cá bao ngày

Ngờ đâu đến cuộc sum vầy trái ngang!

Thầy ơi, châu lụy võ vàng

Giọt mừng, giọt tủi hai hàng song song…”

Mấy lời thẳng dạ ngay lòng

Nghe qua ai chẳng cảm thông sụt sùi?

Nhìn quanh thảm cảnh lệ rơi

Tâm can Chúa cũng bồi hồi xuyến xao.

Hỏi: “Chôn thi thể nơi nào?”

Thưa: “Mời Thầy đến huyệt đào mà xem!”

Bất đồ xúc cảm trào lên

Chạnh lòng Chúa khóc ướt mèm mắt môi.

Đã mang mỏng mảnh phận người

Nhân tình thế thái sao đòi vô ưu

Ngại gì một chút luyến lưu

Giường treo tiếc bạn, đàn ru xót mình!

Đầm đìa châu lụy điêu linh

Nghẹn ngào nghĩa trọng thâm tình còn đâu?

Sinh ly tử biệt mặc dầu

Chia phôi nào chẳng nặng sầu ruột gan!

Dân làng thấy Chúa khóc than

Xầm xì xuôi tính ngược bàn xôn xao:

“Ồ, Ngài thương bạn biết bao!

Nghe đâu trước đó dồi dào quyền năng.

Mắt mù chữa sáng như trăng

Lẽ nào lại để thân bằng chết non?”

Nghe qua, Chúa lại héo mòn

Xót người mệnh yểu phận dòn dở dang!

Bần thần bước tới cửa hang

Truyền đem phiến đá chắn ngang khỏi mồ.

Mát-ta thổn thức tri hô:

“Lạy Thầy tử khí uế ô nặng mùi!

Bốn hôm táng xác xong rồi.”

Chúa rằng: “Chị chẳng tin lời Thầy sao?

Vinh quang Thiên Chúa trên cao

Đến hồi tỏ hiện nhiệm mầu sáng tươi.

Cứ tin sẽ thấy diệu vời!”

Nói xong, Chúa ngước lên trời cầu xin:

“Lạy Cha quyền phép vô biên

Ơn Cha nào biết đáp đền cho cân?

Tin Cha rất mực từ nhân

Hằng nghe, đoái nhận mỗi lần Con kêu.

Lời Con thống thiết bao nhiêu

Trước cho dân chúng thoát điều thị phi.

Sau cho họ hết hoài nghi

Tin rằng Con đến cũng vì Cha sai.”

Đoạn Ngài cất tiếng hùng oai:

“La-da, chỗi dậy! Ra ngoài mau lên!”

Thinh không vừa dứt lệnh truyền

Lạ kỳ kẻ chết nhãn tiền ra ngay.

Vải còn quấn chặt chân tay

Khăn còn phủ kín mặt mày trước sau.

Chúa rằng: “Hãy tháo cởi mau

Vải băng, khăn liệm ngõ hầu anh đi.”

Trông xem phép lạ huyền vi

Người người sửng sốt quyền uy cao vời.

Phen này mục kích hẳn hoi

Phục sinh kẻ chết, chuyện chơi phải nào!

Ngán thay dư luận ồn ào

Khen chê đủ tiếng ra vào vô tư.

Tin đồn đến giới kinh sư

Họ liền bàn cách diệt trừ đối phương.

Quyết tiên hạ thủ vi cường

Khỏi lo hậu họa khôn lường từ nay.

Mưu hèn kế bẩn vạch ngay

Chờ cơ hội tới, ra tay làm liền…

…Bê-ta-ni khắp một miền

Rộn ràng yến ẩm ngày đêm tiệc mừng.

Từ hôm sự việc lạ lùng

La-da, kẻ chết cuối cùng hoàn sanh.

Ngôi làng bỗng chốc nổi danh

Kẻ lui người tới nhiệt thành đông vui

Thơ KHẮC ĐỖ 39

‘Vượt Qua’ đại lễ đến nơi

Nghe đâu Chúa trở lại chơi vài ngày.

Mát-ta bận bịu luôn tay

Cùng hai em thết đãi Thầy tiệc hoa.

Đón mừng nồng hậu thiết tha

Khách quen kéo đến chật nhà chung vui.

Hiếu kỳ lắm kẻ tìm coi

Người làm phép lạ lẫn người hoàn sinh.

Hồi lâu khai tiệc linh đình

Mát-ta bồi yến cảm tình rưng rưng.

Rằng: “Ôi nỗi nhớ niềm thương

Lời phàm sao nói tỏ tường Thầy ơi!

Ơn Thầy bát ngát trùng khơi

Vắng xa mới quý những thời kề bên.

Sự đời như giấc mơ tiên

Vàng son kỷ niệm bình yên hôm nào.

Ơn Thầy bể rộng non cao

Nghĩa tình khắng khít máu đào khác chi!

Có qua những lúc biệt ly

Mới tin yêu phút hồi quy rỡ ràng.

Có qua dâu bể bàng hoàng

Mới mong thấu hiểu thiên đàng tương thân.

Tạ Thầy cải hoán gia ân

Trái sầu tang tóc xoay vần hỷ hoan.

Áo sô cởi bỏ điêu tàn

Khoác lên lễ phục vô vàn thanh cao.

Ơn Thầy ví nặng cù lao

Kể sao cho hết, trả sao cho vừa!”

Lời vàng ý ngọc đón đưa

Ấm lòng thực khách say sưa đồng bàn.

La-da tâm khảm xốn xang

Nghĩ mình, mình lại mênh mang mừng mình!

Kể từ tử nạn tái sinh

Đã mang một món nợ tình tri âm.

Mới nghe đồn đại xa gần

Kinh sư, thượng tế mưu thâm hại Thầy.

Sợ gì vạ gió tai bay

Theo Thầy mất mạng sống này cũng theo!

Rượu trà xôm tụ mừng reo

Ma-ri dáng vẻ diễm kiều bước ra.

Mười phần rạng rỡ nét hoa

Hương xuân trong ngọc trắng ngà hình dung.

Dầu thơm nguyên chất cam tùng

Một cân hảo hạng vui mừng đem ngay.

Quỳ bên chân Chúa tra tay

Xức lên dầu quý đắm say tràn trề.

Hương thơm sực nức bốn bề

Dịu dàng lấy mái tóc thề mà lau.

Rằng: “Ôi tương ái nhiệm mầu

Tóc mai dài vắn dám đâu hững hờ!

Con quỳ đắm đuối niềm mơ

Run run thể xác, sững sờ hồn thiêng.

Tình châu nghĩa báu vô biên

Dám xin một chút dành riêng gọi là

Dầu thơm một lọ đậm đà

Lòng son một tấm mặn mà kém chi!

Lời Thầy, con vẫn ngẫm suy

Trăm muôn dầu tóc sao bì ơn sâu!

Cho con quỳ nép tựa đầu

Tóc mây dù rối, bình dầu có vơi.

Hằng mong quấn quít chẳng rời

Bên chân Thầy, chính nguồn vui kỷ phần!”

Thấy cô hành động lần mần

Giu-đa cay cú xà tâm bất bình:

“Xét cho đạt lý thấu tình

Đúng ra đem bán đứt bình dầu đây!

Ba trăm quan lấy về ngay

Một phen bố thí thẳng tay dân nghèo.

Lời y giả tạo lèo nhèo

Mượn danh bác ái ăn theo dần dần.

Đã quen lấy cắp nhiều lần

Giữ tiền rồi biển thủ phần quỹ chung.

Chúa rằng: “Chớ cản lung tung!

Dầu thơm nàng xức biểu trưng sau này.

Dành cho ngày táng xác Thầy

Đẹp thay nghĩa cử hôm nay nàng làm!

Chung quanh sẵn kẻ bần hàn

Còn Thầy chẳng ở đến ngàn đời đâu!

Việc nàng truyền mãi về sau

Tới khi thiên hạ thắm màu Phúc Âm.

Còn nghe nhắc nhở rần rần

Hương yêu ngào ngạt, đan tâm nồng nàn.

Lưu danh muôn thuở chuyện làng…”

***

NHỜ EM, THIẾU NỮ XI-ON

Nhà Tiệc Ly, ngày … tháng … năm …

(Tâm sự Mác-cô hay người môn đệ bỏ chạy trần truồng trong Vườn Dầu)

Nhờ em, thiếu nữ Xi-on

Đưa tôi rảo bước đường mòn thánh đô.

Về thăm bờ giếng, sông hồ

Băng ngang đồng lúa, ghé vô Đền Thờ.

Lần trong sỏi đá bụi mờ

Dấu Chân Chí Thánh năm xưa vẫn còn.

Nhờ em, thiếu nữ Xi-on

Dắt tôi lai vãng đỉnh non buổi nào.

Để nghe cho thỏa ước ao

Hiến chương Bát Phúc dẫn vào trường sinh

Nhờ em kể lại sự tình

Hôm Thầy lên núi hiển vinh chói lòa.

Hoặc về tiệc cưới Ca-na

Cho xin chút rượu lúc ngà ngà say!

Nhờ em giới thiệu với Thầy

Có người môn đệ chờ ngày Vượt Qua.

Đêm nào hớt hải chạy ra

Vườn Dầu độ ấy lệ nhòa sắt son.

Nhờ em, thiếu nữ Xi-on

Mang theo vò nước hứng nguồn ân thiêng.

Chảy từ thương tích vô biên

Trào dâng phần rỗi triền miên cho đời.

Tôi về lòng bỗng rộn tươi

Còn trông lả lướt rạng ngời dáng thon.

Phải em, thiếu nữ Xi-on

Gót sen thoăn thoắt truyền loan Tin Mừng?

Cho tôi khăn gói đi cùng…

***

Run Như Hơi Thở Chạm Tơ Vàng

Con phủ phục lòng giữa ánh quang

Run như hơi thở chạm tơ vàng (*)

Tâm tư bỡ ngỡ, hồn xao động

Thổn thức, Mẹ ơi, có muộn màng?!

Con dám chi mà ngưỡng vọng cao

Ngửa trông đã thấy lệ tuôn trào

Kìa ơn vũ lộ, ôi chan chứa

Con gửi ngàn thu tiếng ngọt ngào.

Trọn tiếng Xin Vâng, Mẹ dứt lời

Thiên đàng òa vỡ phút reo vui

Không gian dồn nén niềm hoan chúc:

Tỳ nữ khiêm cung của Chúa Trời.

Mẹ là trắc bá núi Xi-on

Tỏa ngát hương thơm tận đỉnh nguồn

Bách thảo Li-băng nào dám sánh

Cung lòng Thánh Mẫu, tự Ngôi Con.

Từng chiều con ngắm Mẹ uy nghi

Miệng lưỡi trần gian biết nói gì:

Vạn mã thiên binh tràn dũng khí

Đôi vầng nhật nguyệt nét phương phi.

Từng chiều con ngắm Mẹ thông công

Thập giá Can-vê trút cạn lòng

Vạn tiễn xuyên tâm nào chẳng phải

Sầu bi lặng chết cõi thinh không

Từng chiều con hát, Mẹ khen hay

Một thuở say sưa trải tháng ngày

Hơi thở còn run, còn phủ phục

Tơ vàng bao sợi đã vương bay…

***

Mùa Chay, đọc “BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU” của Lê Đình Bảng

Bạn có thể đọc các bài viết chính của Bùi Công Thuấn theo link:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

Chúa khóc thương ai hay khóc chính mình”

        (Đọc bài thơ BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU của Lê Đình Bảng)

Bùi Công Thuấn

***

Đang là Mùa Chay, mời bạn cùng đọc.

BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC CHÚA GIÊSU

Francis Assisi Lê Đình Bảng.

Chúa kêu khát, những hai nghìn năm trước
Có ai thương, cho được giọt nước nào                
Chỉ thấy giấm chua, mật đắng, gươm đao
Chênh vênh, giữa bầu trời và mặt đất

Hai nghìn năm, những khăn choàng giấu mặt     
Gõ cửa từng nhà, nước lã ra sông
Lặn lội thân cò, con vạc, con nông
Đổ hết máu mình ra, cho đến chết

Yêu là thế. Đến tận cùng cạn kiệt                        
Đêm mịt mùng. Đêm gà gáy canh ba      
Nhọc nhằn lên Núi Sọ Golgotha
Con chiên Chúa tôi bỏ đi đâu hết

Đêm mướt máu. Đêm Vườn Dầu, thao thiết      
Chúa khóc thương ai hay khóc chính mình
Lạy Cha, lạy Cha, này những dấu đinh            
Ôi, chén đắng, làm sao con uống được

Bao nhiêu người thân, nửa đường bỏ cuộc        

Bao nhiêu dấu yêu, khấn hứa, thề bồi 
Chỉ còn đây, vàng vọt, đóa trăng soi
Ôi, chén đắng, Con làm sao uống được

Họ đón gió. Để cầm cờ, đi trước                  
Để mua vui, xem rao bán, chợ trời               
Chúa-ba-mươi-đồng- bạc- lẻ-tiền-tươi
Chúa chết tả tơi, trần truồng, nhục khổ

Ôi, cái chết đã tận cùng bằng số
Bởi những âm mưu, toan tính thấp hèn                
Bởi những chiêu trò, lòng dạ nhỏ nhen               
Đi đâu hết, những thề non, hẹn biển

Chán vạn kẻ ngồi đồng bàn, chung chén
Sao, chỉ một mình Simon quá giang           
Và Veronica tóc rối, đầu tang                     
Con cái Chúa ra người dưng nước lã                  

Lũ chúng con, phường lưu dân tụ bạ            
Hễ đông vui, xúm xít vỗ tay vào
Như bọn ăn mày đánh đổ cầu ao              
Tạt nước theo mưa, hoa trôi bèo dạt


Hơn hai nghìn năm, Chúa còn kêu khát  
Babylon ôi, liễu rũ, hoang tàn                           
Đã mấy mùa chay, tím ngắt hoa xoan
Đêm mướt máu, khát, khô hầu, bỏng họng

Tiếng kêu ấy, lạc trong vùng phủ sóng
Của những say hương, say khói, lên đồng          

Của những kiệu cờ, kèn trống, hát rong              
Tuồng tích cũ, đã cả thèm, chóng chán

Một mình Simon ghé vai, cửu vạn
Giữa cảnh phố phường biểu ngữ, pano
Vâng, thưa ngài Tổng Trấn Phi la tô         

Trước cái chết, rửa tay, là đồng loã

Người đàn bà bị lôi ra, ném đá
Ngay giữa thanh thiên bạch nhật, đông người  
Đục hay trong? Còn một bến, một nơi
Sông có khúc và người ta có lúc

Cày xới mãi, vườn chỉ ra hoa đực
Toàn lúa non, bông hạt lép, sâu rầy                
Cả mùa màng, trông bốn phía đông tây
Nửa sự thật, chẳng còn là sự thật

Khi tắt thở, Chúa vẫn còn kêu khát
Màn trong nhà thờ xé ra làm đôi…
Nghe rộn ràng những sênh bát ỉ ôi          
Bài Thương Khó Chúa Giêsu kêu khát
        (trong tập Kinh Cầu Mùa)

***

ĐÔI ĐIỀU VỀ “THƠ SUY TƯỞNG

            Bài thơ “Bài thương khó Đức Chúa Giêsu” là kiểu “Thơ suy tưởng”, khác biệt với “Thơ suy niệm” và “Thi ca cầu nguyện”, vì thế cách đọc và tiếp nhận bài thơ sẽ khác với thơ trữ tình (nhân vật tâm trạng).

            Suy niệm một bài Tin Mừng (bằng thơ hay bằng văn xuôi) là tìm hiểu, đào sâu ý nghĩa bài Tin Mừng ấy, để rút ra bài học tu đức cho cá nhân hoặc một cộng đoàn. Những dịp đọc kinh chung, cộng đoàn thường đọc một đoạn Kinh thánh, sau đó đọc một “bài suy niệm” để lĩnh hội ý nghĩa đoạn Tin Mừng, rút ra bài học đức tin và bài học hành động.

Thi ca cầu nguyện” là thơ để cầu nguyện. Sau khi đã tìm hiểu ý nghĩa Tin Mừng, người làm thơ luôn viết thêm một đoạn cầu nguyện theo chiều kích tâm linh mà mình muốn thưa với Chúa, hoặc chia sẻ với người đọc. Cầu nguyện luôn là tâm tình riêng của một cá nhân tâm sự với Chúa. Khác với lời cầu nguyện của cộng đoàn, mọi người đọc bản kinh chung.

“Thơ suy tưởng” (thuật ngữ phê bình văn học) là thơ trình bày nhận thức của tác giả về một vấn đề xã hội nào đó. “Nhận thức” là hành trình tư tưởng, từ quan sát hiện tượng đến khám phá bản chất của vấn đề và bày tỏ thái độ. Về đặc điểm thi pháp, Thơ suy tưởng là thơ Trữ tìnhchính luận. Ngôn ngữ thơ là lời nói trực tiếp, chỉ có một nghĩa tường minh, khác với ngôn ngữ hình tượng đa nghĩa của thơ trữ tình. Những tác giả làm thơ suy tưởng nổi tiếng ở Việt Nam là Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy…[[1]].

Giá trị của thơ suy tưởng là ở những nhận thức mới mẻ, nhà thơ nói được những chân lý của cộng đồng, và nói một cách hùng biện (mời nghe nhà thơ Nguyễn Duy tự đọc bài thơ Đánh thức tiềm lực).

            Khi xác lập bài thơ “Bài thương khó Đức Chúa Giêsu” của Lê Đình Bảng là kiểu “Thơ suy tưởng”, tôi muốn định vị hai điều: Thơ Lê Đình Bảng đa dạng về kiểu loại (Lê Đình Bảng không chỉ có “thơ trữ tình”), và thơ Lê Đình Bảng hội nhập được trong dòng chảy thơ ca dân tộc đương đại. Xin lưu ý, sau 1945, trong hành trình thơ Việt, “thơ suy tưởng” tạo nên một dòng chảy riêng, mạnh mẽ, có những đỉnh cao. Lê Đình Bảng là một nhà thơ Công giáo cũng có mặt trong dòng chảy ấy, với khí sắc riêng.

Những “lời mở” trên đây chỉ là chuẩn bị tâm thế tiếp nhận khi đọc một kiểu loại thơ khác của Lê Đình Bảng, để hưởng thụ được một sắc màu tài năng khác về nghệ thuật thơ của ông; không để mình bị đóng đinh nhận thức về một hồn thơ chỉ vào một kiểu loại nghệ thuật. Bởi phong cách của ông là phóng túng, không chịu trói buộc trong bất cứ những định kiến nghệ thuật nào.

Và như thế, việc đọc “thơ suy tưởng”(thơ của lý trí, trí tuệ, tư tưởng) sẽ rất khác với cách đọc “thơ trữ tình” (kiểu thơ tâm trạng).

            Nhà thơ Lê Đình Bảng gặp nhiều cái khó khi khai thác đề tài “BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC CHÚA GIÊSU”.

Trước hết là, Chúa nhật Lễ Lá và ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, giáo dân đã được nghe đoạn Tin Mừng thuật lại cuôc khổ nạn của Chúa Giêsu. Và họ đã nghe nhiều lần trong một đời người (tính từ 10 tuổi đến 70 tuổi dự lễ ở nhà thờ mùa Phục Sinh). Vì thế họ đã thuộc lòng Kinh thánh và những gì Giáo hội dạy qua lời giảng của các cha sở. Vậy nhà thơ sẽ “nhận thức” được điều gì mới mẻ về “Bài thương khó của Chúa Giêsu” khác với lời dạy của Linh mục, nhưng không được trái với tín lý? Đây là yêu cầu của việc sáng tạo. Sáng tạo nghệ thuật là làm ra Cái Đẹp Mới.

Thứ hai là: nếu không “suy niệm”(để rút ra bài học), không “cầu nguyện”(để nói chuyện với Chúa), thì nhà thơ sẽ viết điều gì để vửa bảo đảm chất “Thánh” của Tin Mừng, lại vừa đặt ra những vấn đề cho thế giới trần tục hôm nay?

Ta có thể hình dung được sự kết hợp giữa hai thế giới, thế giới Kinh Thánh cách nay hơn 2000 năm, cụ thể là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, Chúa Giêsu hấp hối trên thập giá, và thế giới trần tục hôm nay, với những biến đổi chóng mặt, những trào lưu độc hại làm tha hóa con người, dìm con người trong “địa ngục trần gian”. Có hòa mình vào hai thế giới ấy cùng một lúc người đọc mới có thể đồng nhận thức với tác giả.

DIÊN NGÔN CỦA LÊ ĐÌNH BẢNG

TRONG “BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC CHÚA GIÊSU

                Bài thơ “Bài thương khó Đức Giêsu” là nhận thức và diễn ngôn về “tiếng kêu”(cũng là “di ngôn”) của Chúa trên thập giá trong giờ phút hấp hối:

 Tin Mừng (Ga 19, 28:30) ghi nhận: “Sau đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: Ta khát! Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người. Nhắp xong, Đức Giê-su nói: Thế là đã hoàn tất! Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí”. 

Ở đọan Kinh thánh này, nhà thơ Lê Đình Bảng chỉ nhận thức di ngôn “Ta khát!” của Chúa. Mở đầu là luận đề “Chúa kêu khát, những hai nghìn năm trước”. Khi triển khai hệ thống ý tưởng, nhà thơ nhắc lại: “Hơn hai nghìn năm, Chúa còn kêu khát”. Và kết thúc bài thơ, tác giả nhắc lại mạnh mẽ hơn: “Khi tắt thở, Chúa vẫn còn kêu khát”.

Như vậy luận đề của bài thơ là, Chúa kêu“Ta khát!”, Con người đáp lại tiếng Chúa thế nào:

 “Ta khát!”/ Có ai thương, cho được giọt nước nào”.           

Và đây là hệ thống lập luận.

Có hai mạch thơ cùng chảy: tác giả tái hiện hình ảnh Con người và thái độ của họ ở 2000 năm trước và Con người trong lịch sử chảy đến hôm nay.

Hai ngàn năm trước, tất cả đều vô cảm trước tiếng Chúa kêu, Con người bỏ Chúa mà đi. Không ai cho Chúa “giọt nước tình thương” nào.

“Chúa kêu khát, những hai nghìn năm trước
Có ai thương, cho được giọt nước nào                

Chỉ thấy giấm chua, mật đắng, gươm đao…

“…Đêm mịt mùng. Đêm gà gáy canh ba

Nhọc nhằn lên Núi Sọ Golgotha
Con chiên Chúa tôi bỏ đi đâu hết

“…Chán vạn kẻ ngồi đồng bàn, chung chén
Sao, chỉ một mình Simon quá giang           

Và Veronica tóc rối, đầu tang                     

Con cái Chúa ra người dưng nước lã” …

…Một mình Simon ghé vai, cửu vạn
Giữa cảnh phố phường biểu ngữ, pano
Vâng, thưa ngài Tổng Trấn Phi la tô         

Trước cái chết, rửa tay, là đồng loã”

Chúa kêu khát, người ta cho Chúa uống giấm chua. Trong đêm Chúa bị bắt, đêm mịt mùng, Phê rô chối Chúa lúc gà gáy canh ba. Đường lên Núi Sọ.chỉ một mình Simon vác đỡ thánh giá Chúa, chỉ một mình Veronica trao khăn cho Chúa lau mặt, trong cuộc luận tội của Phi la-tô, ông ta rửa tay chối tội đồng lõa với đám đông giết Chúa. Chúa đơn độc trong đêm bị bắt, đơn độc trong cuộc luận tội, đơn độc trên đường vác thập giá và đơn độc trên thập giá “Chênh vênh, giữa bầu trời và mặt đất”.

Hai ngàn năm trước, nào “có ai thương” Chúa trong cuộc khổ nạn?Ba lần Chúa kêu khát, hai lần Chúa đối diện với “Chén đắng”:“Ôi, chén đắng, làm sao con uống được” và “Ôi, chén đắng, Con làm sao uống được”. Đó là tiếng kêu thương thê thiết khi một mình Chúa đối diện với “chén đắng”, nỗi cô đơn hiện sinh bao trùm. Con chiên Chúa tôi bỏ đi đâu hết”/ Con cái Chúa ra người dưng nước lã”. Tiếng Chúa kêu làm rung động khắp vũ trụ nhân sinh, vượt qua thời gian đến tận đáy tâm hồn nhân loại hôm nay. Nghệ thuật trùng điệp của thơ có sức cộng hưởng, làm vang lêntiếng nói thiết tha, đau đớn của nhà thơ trước thực tại lòng người vô cảm, bội bạc đối với tình yêu Thiên Chúa, trước hình ảnh Chúa đơn độc trong cuộc khổ nạn.

Đoạn thơ gợi ra (không dựng lại bối cảnh) con đường khổ nạn của Chúa từ khi Chúa bị bắt trong Vườn Dầu, đến khi hập hối. Và hơn thế, nhà thơ nhận thức toàn cảnh thái độ của Con người trước tiếng kêu của Chúa, dù đó là những môn đệ thân yêu (Phê rô), hay “Chán vạn kẻ ngồi đồng bàn, chung chén”với Chúa, hoặc trong “đêm mịt mùng” hay “Giữa cảnh phố phường biểu ngữ, pano” và cả nơi công đường của Philato. Ở đâu Chúa cũng đơn độc một thân phận hiện sinh trước những bội bạc của Con người. Nhà thơ thốt lên: Cả một thời đại ác tâm, bội bạc, trước tiếng kêu của Chúa. Họ có đáp lại, nhưng không phải là “giọt nước tinh thương” mà là “giấm chua, mật đắng, gươm đao”. Duy nhất có Simon và Veronica còn chút thương tình với Chúa, và người đàn bà ngoại tình bị lôi ra ném đá được Chúa cứu khỏi tội chết, là người biết cảm kích trước tình thương của Chúa..

Ở thời đại của Chúa (cách nay hơn 2000 năm), con người như vậy, còn Con người hôm nay đối với tiếng Chúa kêu, họ đáp lại thế nào?

Lũ chúng con, phường lưu dân tụ bạ            
Hễ đông vui, xúm xít vỗ tay vào
Như bọn ăn mày đánh đổ cầu ao              
Tạt nước theo mưa, hoa trôi bèo dạt

Hơn hai nghìn năm, Chúa còn kêu khát  
Babylon ôi, liễu rũ, hoang tàn                            

Đã mấy mùa chay, tím ngắt hoa xoan
Đêm mướt máu, khát, khô hầu, bỏng họng

Tiếng kêu ấy, lạc trong vùng phủ sóng
Của những say hương, say khói, lên đồng          

Của những kiệu cờ, kèn trống, hát rong              
Tuồng tích cũ, đã cả thèm, chóng chán
 

Nhà thơ nhận ra: “Hơn hai nghìn năm, Chúa còn kêu khát” “Tiếng kêu ấy,

lạc trong vùng phủ sóng”. Nghĩa là, Chúa vẫn kêu suốt hơn hai nghìn năm lịch sử, nhưng tiếng Chúa bị lạc mất giữa Con người.

Ở đoạn thơ này, nhà thơ vừa vạch trần hiện thực vừa lên tiếng phê phán rất mạnh mẽ thực tại lòng người. Con người trong hai ngàn năm qua, và con người hôm nay chỉ là phường lưu dân tụ bạ, “khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai” (nghĩa là bọn lợi dụng Chúa rồi bỏ Chúa, chẳng hạn, bọn theo Chúa để có cái ăn như trình thuật của Kinh thánh). Tiếng Chúa kêu lạc trong những “cơn say” của con người hôm nay. Ngôn ngữ thơ từ bút pháp hiện thực chuyển sang hình ảnh tượng trưng để khái quát về thái độ của loài người đối với tiếng Chúa kêu: “Của những say hương, say khói, lên đồng/ Của những kiệu cờ, kèn trống, hát rong/ Tuồng tích cũ, đã cả thèm, chóng chán”.

Vì ngôn ngữ trượng trưng của thơ có sức khái quát, có sức gợi ra những liên tưởng mà tác giả muốn người đọc cùng chia sẻ, tôi mơ hồ thấy điều này: ngày nay con người “say” nhiều thứ, say tiền, say tình, say địa vị chức tước, say tham vọng, say những hào nhoáng hình thức, say Chủ nghĩa thực dụng, say với Cái Tôi cá nhân vị kỷ và say cả tội ác, …say đến độ thần thánh hóa sự dữ thành lễ hội (‘hương, khói, lên đồng, kiệu cờ, kèn trống, hát rong”). Ngày ngày báo chí đăng không biết bao nhiêu là tệ nạn của nền văn minh sự chết. Thế nhưng trong những lễ hội thật (ở Việt Nam có rất nhiều lễ hội văn hóa, lễ hội tôn giáo), con người hôm nay chỉ là bọn “cả thèm chóng chán”, sôi nổi đấy nhưng cũng vô tâm đây. Họ dự lễ hội như xem trò diễn “tuồng tích cũ” không còn hấp dẫn.

Đâu đây thấp thoáng bóng dáng thái độ của một bộ phận con chiên Chúa trong nhà thờ:

Khi tắt thở, Chúa vẫn còn kêu khát
Màn trong nhà thờ xé ra làm đôi…
Nghe rộn ràng những sênh bát ỉ ôi

     Hai câu thơ đầu tưởng như tác giả tường thuật trang nghiêm. Tiếng Chúa kêu mạnh mẽ đến nỗi “Màn trong nhà thờ xé ra làm đôi”, nhưng ngược lại, trong nhà thờ không ai nghe tiếng Chúa, mà “rộn ràng những sênh bát ỉ ôi”, nơi đang diễn “tuồng tích cũ”. Câu thơ thứ hai: “Màn trong nhà thờ xé ra làm đôi” là sự phẫn nộ của Chúa trước sự vô tâm, giả hình của Con người. Tứ thơ thật bi tráng và mới lạ.

            Như vậy, luận đề của“Bài thương khó Đức Giêsu” là: Chúa kêu “Ta khát”, nhưng trong suốt hai ngàn năm đến nay, không được Con người đáp lại, và, “Hơn hai nghìn năm, Chúa còn kêu khát”.  “Bài thương khó của Chúa” không chỉ là khổ nạn thân xác phải chịu, mà còn là nỗi đau thương bi tráng, tuyệt vọng trước sự thờ ơ, sự bỏ rơi Chúa của Con người: “Chúa kêu khát, những hai nghìn năm trước/ Có ai thương, cho được giọt nước nào”. Không có ai cả! Sự vô tâm bội bạc của nhân gian và nỗi cô đơn tuyệt vọng của Chúa rợn ngợp, bao trùm không gian, bao trùm thời gian, bao cả trùm lịch sử. Đây là một khám phá sâu sắc về tư tưởng của thơ Lê Đình Bảng.             

            Để làm nổi bật “sự thương khó” của Chúa trước sự vô tâm bội bạc của Con người, tác giả vẽ nên những cảnh sắc buồn ảm đạm để khắc họa và tô đậm sự cô đơn tột cùng của Chúa. Đặc biệt là sự tương phản giữa tình yêu vô biên của Chúa với sự vô tâm của con người.

Tác giả nhập thân vào Chúa, nói tiếng nội tâm của Chúa, khám phá hiện sinh về “nhân tính” của Chúa, nhận thức và chia sẻ nỗi đau của Chúa bị con người bỏ rơi, nhận thức cách thức Chúa đối mặt với cái chết (Hiện sinh quy tửBeing toward death-Heidegger). Thơ nghiêng về kiểu thơ tư tưởng.

Hai nghìn năm, những khăn choàng giấu mặt     
Gõ cửa từng nhà, nước lã ra sông
Lặn lội thân cò, con vạc, con nông
Đổ hết máu mình ra, cho đến chết

Yêu là thế. Đến tận cùng cạn kiệt                        
Đêm mịt mùng. Đêm gà gáy canh ba      
Nhọc nhằn lên Núi Sọ Golgotha
Con chiên Chúa tôi bỏ đi đâu hết

Đêm mướt máu. Đêm Vườn Dầu, thao thiết      

Chúa khóc thương ai hay khóc chính mình
Lạy Cha, lạy Cha, này những dấu đinh            
Ôi, chén đắng, làm sao con uống được

Bao nhiêu người thân, nửa đường bỏ cuộc        

Bao nhiêu dấu yêu, khấn hứa, thề bồi 
Chỉ còn đây, vàng vọt, đóa trăng soi
Ôi, chén đắng, Con làm sao uống được

Trong tột cùng cùng nỗi cô đơn, khi “Con chiên Chúa tôi bỏ đi đâu hết”, Chúa kêu lên: “Ôi, chén đắng, Con làm sao uống được”. Tác giả (nhắc lại 2 lần: “làm sao con uống được/ Con làm sao uống được”) để tô đậm nỗi bi thương của Chúa trong thân phận con người hiện sinh suốt trường kỳ lịch sử đi tìm sự thấu hiểu, cảm thông. Dù đã “Gõ cửa từng nhà”, nhưng Chúa hoài công, chẳng khác gì “nước lã ra sông”, dù Chúa đã “Lặn lội thân cò, con vạc, con nông/ Đổ hết máu mình ra, cho đến chết” cũng không tìm được một người cùng thức với Chúa trong đêm Vườn Dầu? Chúa nói với ông Phê-rô: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?” (Mt 26, 40). Và nhìn Chúa “mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22, 44), nhà thơ nhận thức “Chúa khóc thương ai hay khóc chính mình”. Thực sự là con người trần gian không đủ sức cảm nhận nỗi bi thương tột cùng, nỗi cô đơn đến tuyệt vọng và ý thức hiện sinh bi tráng về cái chết mà Chúa đang đối mặt. “Ôi, chén đắng, Con làm sao uống được!”

Đây là một dụng ý khám phá tư tưởng của nhà thơ. Lê Đình Bảng không hề nhắc đến “thần tính Thiên Chúa” của Đức Giêsu, mặc dù Kinh thánh có nói rất rõ: khi Chúa xao xuyến, “Bấy giờ có thiên sứ tự trời hiện đến tăng sức cho Người”(Mc 22:43). Chúa nói với người đã chém đứt tai tên đầy tớ khi Người bị bắt: “Hay anh tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy hơn mười hai đạo binh thiên thần! Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng nghiệm sao được? Vì theo đó, mọi sự phải xảy ra như vậy” (Mt 26, 53-54). Lê Đình Bảng khám phá Con người hiện sinh của Chúa, để soi chiếu khám phá con người tại thế của chính mình và của nhân loại, có vậy mới cảm được “cơn xao xuyến bồi hồi” (Lc 22,44) của Chúa trước cuộc tử nạn, mới thấy được tầm vóc lớn lao của ơn Cứu Độ mà Đức Giêsu hiến thân cho nhân loại.

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (hiện là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam) đã cảm nhận hiện sinh về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu bằng những câu thơ óng ánh châu ngọc và bằng một tâm tình thành kính vô hạn:

“Hỡi Chúa Trời, con quỳ dưới chân người, con gánh trên lưng con bóng tối khổng

 lồ

Đôi môi con run rẩy chạm vào những ngón chân Người giá lạnh nhưng những

giọt máu chảy từ bàn tay bị đóng đinh của Người từng giọt, từng giọt rơi xuống ngực con rực sáng và nóng ấm vô tận

Cây thập giá nơi Người bị đóng đinh trong đêm sừng sững dựng lên cái Cây Ánh

Sáng vĩ đại nhất trên thế gian này…

Để khi bóng tối ập xuống cố dìm con tận đáy của sợ hãi, của cơn đói dục vọng

 thì ngôn ngữ Người ban cho con rực rỡ hiện lên

Giống những ngọn đèn Người vẫn thắp đêm đêm từ thuở trái đất sinh ra và sáng

 mãi, sáng mãi lặng im để con quỳ xuống vừa khóc vừa hát

Trong triệu triệu, triệu triệu tiếng chuông rung lên trên những thánh đường nơi người đã lướt qua ánh sáng ngập tràn” (Chương 2- Dưới cái cây ánh sáng)

Khám phá về con người hiện sinh của Chúa, Nikos Kazantzakis (Triết gia, nhà văn, nhà viết kịch Hy Lạp) viết trong đoạn mở đầu cuốn The Last Temptation of Christ (Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa) như sau:

Phần nhân tính của Chúa mang tính nhân bản sâu sắc giúp chúng ta hiểu Ngài và yêu Ngài, theo đuổi Nỗi Khổ Hình của Chúa như của chính chúng ta. Nếu Ngài không mang trong mình yếu tố nhân tính ấm áp này Ngài sẽ không bao giờ có thể đạt tới tâm tư của chúng ta với sự chắc chắn và dịu dàng như vậy. Ngài sẽ không thể trở thành mẫu mực cho cuộc sống chúng ta…” (Nxb Đồng Nai 1988, tr.7).

Như vậy, cả Nikos Kazantzakis, Nguyễn Quang Thiều và Lê Đình Bảng đều khám phá “nhân tính” của Chúa trong con người tại thế đối mặt với tử sinh, để từ đó nhận ra Ngài là “mẫu mực cho cuộc sống chúng ta,…chúng ta thấy là chúng ta không lẻ loi trong cuộc đời: Ngài đang đấu tranh bên cạnh chúng ta” (Nikos Kazantzakis-đã dẫn).

Những nhận thức hiện sinh của Lê Đình Bảng về “Bài thương khó của Đức Giêsu” đã đưa thơ Lê Đình Bảng hòa vào dòng chảy tư tưởng thơ Việt (Nguyễn Quang Thiều) và tư tưởng văn chương thế giới (Nikos Kazantzakis).

NGHỆ THUẬT THƠ SUY TƯỞNG CỦA LÊ ĐÌNH BẢNG

1.Hình tượng nhân vật

Trong thơ suy tưởng thường chỉ có một nhân vật (tác giả) là chủ thể nhận thức, suy tưởng và diễn ngôn. Bài thơ được cấu trúc theo kiểu Chính luận (lập luận), dùng ngôn ngữ đơn nghĩa, phát ngôn trực tiếp.

“Nước chúng ta

Nước của những người không bao giờ khuất

            (Đất nước-Nguyễn Đình Thi)

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể…”

            (Đất nước-Nguyễn Khoa Điềm)

Lê Đình Bảng cũng mở đầu bằng một góc nhìn cá nhân:

Chúa kêu khát, những hai nghìn năm trước

Có ai thương, cho được giọt nước nào

Lê Đình Bảng kiến tạo thơ theo cấu trúc logic-nghị luận, nhưng đồng thời lồng vào đó là cấu trúc hình tượng (kiểu cấu trúc kép).Bài thơ có 3 nhân vật, xuất hiện nối tiếp nhau, được vẽ ra trong những bối cảnh và thời gian khác nhau. Nhân vật thứ nhất là tác giả, người vừa quan sát, nhận thức hiện thực, vừa kể chuyện vừa bày tỏ thái độ, quán xuyến suốt cả bài thơ. Nhân vật thứ hai là Đức Giêsu, người khám phá hiện sinh, đối tượng nhận thức của nhân vật thứ nhất, đối tượng tác giả muốn người đọc chiêm ngưỡng, nhận thức và nghĩ suy. Nhân vật thứ ba là: “Lũ chúng con”, đại diện cho con người hôm nay, tự lên tiếng, tự đánh gia, cũng là tự nhận thức và diễn ngôn. Ba nhân vật với những sắc thái tư tưởng-thẩm mỹ khác nhau, tạo nên thế giới nghệ thuật thơ suy tưởng rất riêng của Lê Đình Bảng.

            Tác giả (nhân vật thứ nhất), không hiện diện trực tiếp trong bài thơ, nhưng lên tiếng trực tiếp với người và đưa ra nhận định về từng trường hợp cụ thể. Nhiệm vụ cốt lõi của nhân vật này là lý giải luận đề: nghe Chúa kêu “Ta khát”, thì thái độ của con người thế nào? Tác giả trả lời: con người thờ ơ, vô cảm, bội bạc, bỏ Chúa mà đi. Cả lịch sử hai nghìn năm Chúa không tìm được một người chia sẻ, trái lại, “Hai nghìn năm, những khăn choàng giấu mặt”; “Họ đón gió. Để cầm cờ, đi trước/ Để mua vui, xem rao bán, chợ trời”. Chúa chết vì “những âm mưu, toan tính thấp hèn / Bởi những chiêu trò, lòng dạ nhỏ nhen “ của họ. Và vì thế

Hơn hai nghìn năm, Chúa còn kêu khát  
Babylon ôi, liễu rũ, hoang tàn                           

Đã mấy mùa chay, tím ngắt hoa xoan
Đêm mướt máu, khát, khô hầu, bỏng họng

               Nhân vật thứ nhất (tác giả) phơi bày những sự thật ấy, phơi bày triệt để, lộn trái lương tâm Con người, để  thức tỉnh họ. Nghe tiếng Chúa kêu, con người phải làm gì cụ thể để đáp lại tiếng Chúa (như Simon, như Veronica, như người phụ nữ ngoại tình bị ném đá được Chúa cứu thoát). Sự khác biệt của thơ suy tưởng Lê Đình Bảng với “Thơ suy niệm” và “Thơ ca cầu nguyện” là ở chỗ, tác giả không đưa ra bài học đạo đức nào để dạy dỗ người đọc, mà để người đọc cùng nhận thức và tự hồi tâm.

            Nhân vật thứ hai (Đức Giêsu) tâm sự với Chúa Cha về sứ mệnh “Cứu độ nhân loại”. Tác giả tái hiện lại hình ảnh Đức Giêsu trong Vườn Dầu: “Đêm mướt máu. Đêm Vườn Dầu, thao thiết / Chúa khóc thương ai hay khóc chính mình”, giữa cô quạnh, Ngài kêu lên thê thiết: “Lạy Cha, lạy ChaÔi, chén đắng, làm sao con uống được/ Ôi, chén đắng, làm sao con uống được”. [Xin đọc trình thuật của Mathêu: “Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha“(Mt 26, 39).]. Tác giả khám phá hiện sinh về sự yếu đuối trong nhân tính của Đức Giêsu trước sứ mệnh Cứu độ nhân lọai và sự tuyệt vọng của Ngài trước thái độ bội bạc của con người. “Lạy Cha, lạy ChaÔi, chén đắng, làm sao con uống được/ Ôi, chén đắng, làm sao con uống được”.

            Nhân vật thứ ba là “con người hôm nay”. Đây là kiểu nhân vật tập thể mà tác giả nhập thân, đại diện, tự nhận thức và nhân danh để diễn ngôn:

Lũ chúng con, phường lưu dân tụ bạ            
Hễ đông vui, xúm xít vỗ tay vào
Như bọn ăn mày đánh đổ cầu ao              
Tạt nước theo mưa, hoa trôi bèo dạt

Khổ thơ dùng ngôn ngữ bình dân đương đại, dùng nhiều thành ngữ để khắc họa

 chân dung thấp hèn con người hôm nay và thái độ bội bạc của họ trước tiếng kêu của Chúa. Những đại từ chỉ trống “lũ, phường, bọn” hàm ý khinh miệt. Lũ chúng con chỉ là phường lưu dân tụ tập bậy bạ, “khi vui thì vỗ tay vào”, đến khi thấy Chúa bị bắt đưa đi giết thì chạy cho xa. Chẳng được tích sự gì cho Chúa. Giống như bọn ăn mày nghèo kiết, xin được ít gạo lại đánh đổ ở cầu ao, thế là xong, lại bị không. Tệ hơn thế, lũ chúng con còn là bọn hùa theo tội ác “tát nước theo mưa”, như thể đám dân chúng hùa theo đòi tha Baraba mà đóng đinh Giêsu (Mt 27, 20-23).

Trong cái phường lưu dân bậy bạ ấy, tìm đâu được một người đáp lại tiếng Chúa kêu “Ta khát”:

Gõ cửa từng nhà, nước lã ra sông
Lặn lội thân cò, con vạc, con nông…

…Cày xới mãi, vườn chỉ ra hoa đực
Toàn lúa non, bông hạt lép, sâu rầy                

Cả mùa màng, trông bốn phía đông tây
Nửa sự thật, chẳng còn là sự thật”

Hình ảnh thơ đậm màu sắc thẩm mỹ ca dao, nhưng mang ý nghĩa biểu tượng và hàm nghĩa tư tưởng: “Nửa sự thật, chẳng còn là sự thật”.                   

            Ba nhân vật, mỗi hình tượng có giá trị thẩm mỹ riêng, có sức gây ấn tượng riêng, chứa đựng những ẩn ý tư tưởng riêng, nhưng cả ba hợp lại trong một tổng thể Chính luận-Trữ tình-Tư tưởng, tạo nên một tác phẩm nghệ thuật đa thanh. Kiểu nhân vật này là một đóng góp mới mẻ của Lê Đình Bảng vào thơ Suy tưởng-chính luận Việt đương đại.

2. Màu sắc của ngôn ngữ thơ

Nếu bạn quen đọc thơ trữ tình của Lê Đình Bảng với ngôn ngữ mượt mà bay

bổng, “lời lời như châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”(Nguyễn Du, Đoạn trường tân thanh, câu 1156) thì sẽ bị “sốc” khi tiếp cận với ngôn ngữ trần trụi, đời thường, cách nói năng theo kiểu  “chợ trời” đương đại của bài thơ này.

                Họ đón gió. Để cầm cờ, đi trước                  
                Để mua vui, xem rao bán, chợ trời               
                Chúa-ba-mươi-đồng- bạc- lẻ-tiền-tươi
                Chúa chết tả tơi, trần truồng, nhục khổ

                Ôi, cái chết đã tận cùng bằng số
                Bởi những âm mưu, toan tính thấp hèn               
                Bởi những chiêu trò, lòng dạ nhỏ nhen               
                Đi đâu hết, những thề non, hẹn biển

Vấn đề là tại sao Lê Đình Bảng thay đổi kiểu ngôn ngữ khác hoàn toàn với ngôn ngữ thơ trữ tình của ông?

Phải chăng nhà thơ cũng là một người mà “Ở ăn thì nết cũng hayNói điều ràng buộc thì tay cũng già” (Nguyễn Du, Đoạn trường tân thanh, câu 2534). Nói về sự bội bạc của con người với tiếng kêu “Ta khát” của Đức Giêsu, thì không thể nói bằng ngôn ngữ hoa mỹ, đẹp lãng mạn, mà phải dùng loại ngôn ngữ chắc như gạch đá, dộng thẳng vào tim, may ra mới lay động được chúng.

Khi tắt thở, Chúa vẫn còn kêu khát
Màn trong nhà thờ xé ra làm đôi…
Nghe rộn ràng những sênh bát ỉ ôi 

Câu thơ bộc lộ tất cả sự phẫn nộ của Chúa với bọn giả hình. Tài năng của Lê Đình

Bảng là dùng câu Kinh thánh diễn tả sự rung chuyển trời đất khi Đức Giêsu tắt thở “Và kìa, bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung” (Mt 27, 51), để diễn tả sự phẫn nộ của Chúa trước sự thờ ơ, giả hình của con Chúa trong nhà thờ: “Màn trong nhà thờ xé ra làm đôi…Nghe rộn ràng những sênh bát ỉ ôi”. Người đọc cảm nhận đượcđộ phê phán sâu sắc của câu thơ là từ hình tượng thẩm mỹ của ngôn ngữ (tức là ngôn ngữ thơ), dù nhà thơ có dùng lời ăn tiếng nói đời thường đương đại. Cũng có thể Lê Đình Bảng muốn dùng ngôn ngữ hôm nay để nói với người hôm nay: nói thẳng, nói thật, lộn trái lương tâm phường bội phản, bọn giả hình, bạc ác, không cần phải tượng trưng, hoa mỹ.

            Một sắc thái khác của ngôn ngữ thơ Lê Đình Bảng trong bài thơ này là những tứ thơ dân dã ca dao được chuyển hóa thành những nhận thức tư tưởng. Vẻ đẹp của đồng quê Việt Nam, của đời sống người nông dân hiện lên diễm tuyệt trong thơ Lê Đình Bảng trước đây, giờ mang màu sắc ngược lại

Hai nghìn năm, những khăn choàng giấu mặt     
Gõ cửa từng nhà, nước lã ra sông
Lặn lội thân cò, con vạc, con nông
Đổ hết máu mình ra, cho đến chết

Cày xới mãi, vườn chỉ ra hoa đực
Toàn lúa non, bông hạt lép, sâu rầy                

Cả mùa màng, trông bốn phía đông tây
Nửa sự thật, chẳng còn là sự thật

            Những hình ảnh biểu cảm của ca dao trong những câu thơ trên không còn mang nghĩa hiện thực mà trở thành biểu tượng tư tưởng. Chúa gõ của từng nhà, Chúa lặn lội như thân cò, con vạc, con nông, “Đổ hết máu mình ra, cho đến chết”, nhưng không tìm thấy ai cho Chúa “giọt nước tình thương”. Liên tiếp những hình ảnh đồng áng Việt hiện lên: cả bốn phía đông tây, mùa màng, dù đã cày xới mãi, vẫn chỉ thu được hoa đực, lúa non, hạt lép, sâu rầy, nghĩa là không thu hoạch được gì. Chúa đã “cày xới mãi”, đã “trông bốn phía động tây” nhưng không tìm thấy đâu một mầm sống của “giọt nước tình thương”. Một sự vô vọng rất cụ thể và một nỗi đau buồn mênh mông.

Sự chuyển nghĩa của ca dao dân dã Việt thành không gian tư tưởng Kinh thánh này có nhiều ý nghĩa. Nhà thơ đem Chúa đến từng nhà, cày xới trên khắp cánh đồng, vô vọng đứng trông và tìm kiếm. Chúa gánh lấy tâm trạng, khát vọng cuộc sống của người nông dân Việt, không gian Việt hòa vào không gian Kinh thánh, thật mới lạ và kỳ diệu (tuy có thể gây sốc cho người không quen đọc thơ đạo). Nhà thơ Lê Đình Bảng nỗ lực đưa thơ ca Công giáo vào dòng chảy của thơ ca dân tộc; đó cũng là sự khám phá sáng tạo riêng của nhà thơ về nghệ thuật và tư tưởng, đem đến những trường ngữ nghĩa và màu sắc thẩm mỹ mới cho ngôn ngữ dân tộc, mà tưởng chừng như thứ ngôn ngữ ấy đã cạn kiệt năng lương thi ca.

ĐỌC “BÀI THƯƠNG KHÓ ĐỨC CHÚA GIÊSU” CỦA LÊ ĐÌNH BẢNG, BẠN ĐỌC NGHĨ GÌ?

Nhà thơ Lê Đình Bảng không suy niệm Kinh thánh để rút ra bài học đạo đức kêu gọi người đọc “hãy sám hối” trở về, “phải gục đầu” ăn năn trước “Bài thương khó của Đức Giêsu”. Ông chỉ đặt vấn đề nhận thức: “Chúa kêu khát, những hai nghìn năm trước/ Có ai thương, cho được giọt nước nào”. Và bạn tự trả lời tiếng kêu ấy của Chúa bằng những “giọt nước tình thương”.

Hãy làm những việc cụ thể như Simon, như Veronica, như người đàn bà bị ném đá được Chúa cứu khỏi tội chết. Đừng như Philatô; hay bọn “đón gió trở cờ”, bọn “tát nước theo mưa”! Làm sao để cảm nhận, để chia sẻ nỗi cô đơn, tuyệt vọng của Chúa trong Vườn Dầu vì yêu nhân loại, nhưng lại bị nhân loại bỏ rơi.

Bạn hãy đặt linh hồn mình đối diện với Chúa đang hấp hối trên thập giá và đáp lại tiếng Chúa: “Ta khát!”.

Đêm mướt máu. Đêm Vườn Dầu, thao thiết      
Chúa khóc thương ai hay khóc chính mình.

            Xin mạn phép nhà thơ mở một ngoặc đơn ở đây. Hơn hai ngàn năm qua, “tiếng kêu” “Ta khát!” của Chúa đã được con Chúa đáp lời trong khắp thiên hạ. Tính đến 31/12/2021 trên thế giới đã có 1.375.852.000 người theo Chúa, có 407. 872 linh mục, 608.958 nữ tu [[2]]. Ở Việt Nam [[3]], trong thế kỷ 18 và 19, đã có khoảng từ 130.000 đến 300.000 giáo dân bị giết vì đạo, họ đã lấy máu mình làm chứng cho đức tin. Và tôi hình dung ra, nơi Thiên quốc Đức Giê-su nói với những người theo Chúa: “Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Mt, 19:28).

Mùa Chay 2024

***


[1] Xin đọc

Chế Lan Viên: Làm Hamlet ở Việt Nam: https://www.thivien.net/Ch%E1%BA%BF-Lan-Vi%C3%AAn/L%C3%A0m-H%C4%83m-let-%E1%BB%9F-Vi%E1%BB%87t-Nam/poem-5owcmTJjeuNNEmhnfvzrw

Nguyễn Đình Thi: Đất Nước: https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-%C4%90%C3%ACnh-Thi/%C4%90%E1%BA%A5t-n%C6%B0%E1%BB%9Bc/poem-YFWZ8afu7g2IoLevX1_E2Q

Nguyễn Khoa Điềm: Mặt đường khát vọng: https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Khoa-%C4%90i%E1%BB%81m/M%E1%BA%B7t-%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng-kh%C3%A1t-v%E1%BB%8Dng-1974/group-K-KPc0BUQdzcRKS-f2QraA

Nguyễn Duy: Đánh thức tiềm lực: https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-Duy/%C4%90%C3%A1nh-th%E1%BB%A9c-ti%E1%BB%81m-l%E1%BB%B1c/poem-REQKF1MQ8Xtvv6p38vcXyg

[2] Thông kê của giáo hội Công giáo năm 2023

https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thong-ke-giao-hoi-cong-giao-nam-2023-52864

[3] Tóm lược tiểu sử các thánh tử đạo Việt Nam

https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tom-luoc-tieu-su-cac-thanh-tu-dao-viet-nam-31171#:~:text=Trong%20th%E1%BA%BF%20k%E1%BB%B7%2018%20v%C3%A0,t%E1%BB%99i%20hay%20b%E1%BB%8B%20l%C6%B0u%20%C4%91%C3%A0y.