TRƯỜNG CA LÒNG HẢI LÝ CỦA ĐỖ QUYÊN

THƠ BAY TRÊN PHẬN CON NGƯỜI

(Đọc Trường ca LÒNG HẢI LÝ của Đỗ Quyên.Nxb HNV 2011)

Bùi Công Thuấn

 

do-quyen.thumbnail

Nhà thơ Đỗ Quyên

 

Tôi chần chừ mãi mới viết được những dòng này, bởi, với tôi, trường ca Lòng Hải Lý của Đỗ Quyên không dễ đọc. Và cũng bởi Đỗ Quyên là một tác giả có tầm vóc một công dân toàn cầu. Anh sinh tại Hà Nội (1955); Định cư tại Canada (1996); Giảng dạy ngành Vật lý hạt nhân, Ðại học Bách khoa Hà Nội(1977-1988); Cộng tác viên khoa học Viện Dubna, Nga (1988-1990); Làm báo ở Ðức (1990-1996), ở Úc (2004-2008); ở Canada (1996-2010); Học bổng khoa học nhân văn Rockefeller 2001-2002, Trung tâm William Joiner, Mỹ.

Đỗ Quyên vừa là nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu và phê bình văn học; đồng thời là người say mê hoạt động văn học nghệ thuật. Đỗ Quyên cũng là khuôn mặt đặc sắc của văn học nghệ thuật hải ngoại Bắc Mỹ (Canada) bên cạnh những tài năng khác như Nguyễn Đức Tùng, Lưu Diệu Vân,…

  1. “THƠ THẬT KHÔNG CẦN PHÊ BÌNH”

 Thơ thật không cần phê bình”, Đỗ Quyên bảo vậy. Anh còn dội một thùng nước lạnh lên đầu các nhà phê bình muốn đọc trường ca của anh:

Ta cũng nghỉ chơi khâu làm thơ đoản

từ nay

Cứ trường ca mà nã chương một, hồi hai

Cánh phê bình

bảo đảm chỉ đọc câu đầu, đoạn kết rồi gõ máy liên hồi

phán:

Ý tưởng đầy mình, nội công chắc sẵn

Ngữ vựng, từ căn… hàng lũ hàng đàn

Gia cảnh an toàn ..”

(Đống chữ-Thân 2)

Ý của anh là, không nhà phê bình nào có đủ can đảm đọc hết tập trường ca này, họ chỉ đọc câu đầu, đoạn kết rồi phán bằng những lời tụng ca. Cũng có thể anh “dị ứng” với những nhà phê bình phong trào. Vậy thì tôi còn biết viết gì đây!

Trước khi viết về tác giả hay tác phẩm nào, tôi có thói quen tìm xem các nhà phê bình đã nói gì. Điều này cho tôi cái nhìn thoáng về đối tượng, và quan trọng hơn, tôi sẽ tránh lặp lại những gì người khác đã viết. Hơn thế, nó có thể gợi ý hay kích thích tôi tìm kiếm những điều chưa ai nhận ra. Cũng có khi đây là dịp được đối thoại với nhiều người, cọ sát với trí tuệ thời đại, được vậy thì thật thú vị. Tôi thích đọc các tác giả khó là vì vậy. Phê bình, đối với tôi, là đồng khám phá, sáng tạo với tác giả.

Trong chuyên luận 40 năm thơ hải ngoại, Văn Việt có bài giới thiệu rất hay về thơ Đỗ Quyên [1]. Bài viết cho tôi cái thú vị được thưởng thức một bản văn hay cả về nội dung và văn phong, nhưng cũng gây cho tôi những điều nghi ngại. Tác giả của Văn Việt nhận xét: “…trường ca Đỗ Quyên mô phỏng một thế giới không đặc trưng, không có cốt tủy, thậm chí không cả trung tâm không ngoại biên. Thơ ấy không dùng được vào việc gì có ích, nhưng bỏ qua không được.

Tôi tự hỏi, một người đa tài và thành đạt như nhà thơ Đỗ Quyên, đã dồn tất cả say mê tâm huyết đời mình để làm thơ, một người ý thức sâu sắc rằng: Văn chương là chữ nghĩa được con người tạo tác bằng mồ hôi và máu đào, bằng cuộc đời và có khi cả sinh mạng”[2], vậy mà thơ của người ấy lại không dùng được vào việc gì có ích, thì chẳng lẽ, sự lựa chọn con đường văn chương của Đỗ Quyền là sai hay sao? Chẳng lẽ, những lời khen thơ Đỗ Quyên chỉ là trò quảng cáo?

Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng lại có những nhận định khác. Trong buổi sinh hoạt văn nghệ hàng năm nhân dịp ra mắt tạp chí Người Việt Hải ngoại tại Vancouver, ngày 1-12-2007, Nguyễn Đức Tùng đã đọc một tham luận có những khám phá sâu sắc về trường ca Đỗ Quyên (Talawas đăng lại 2008)[3]. Ông cho rằng: Đỗ Quyên là người có kiến thức văn học uyên thâm Nhà thơ, bằng tác phẩm của mình, hay đôi khi bằng cả cuộc sống của họ, mà trong trường hợp này, một cách hết sức thận trọng, tôi muốn nhắc đến ví dụ Đỗ Quyên, giúp chúng ta ý thức về đời sống – dòng chảy của mỗi người. Người đọc tìm thấy trong thơ tiếng nói của mình, qua những khúc quanh khác nhau của cuộc đời bí ẩn mà chỉ riêng họ biết mà thôi, một tiếng nói dịu dàng nhưng nghiêm khắc, kiêu hãnh nhưng nhân từ, đem họ trở lại với cội nguồn sâu thẳm của đời sống”.

Như vậy là thơ Đỗ Quyên có ích đấy chứ, nào phải không dùng được vào việc gì có ích!

Tác giả Phi Hà ghi nhận được nhiều ý kiến nhận xét về trường ca của Đỗ Quyên [4].

Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận xét: ““Sau 1975 chúng ta đã có một mùa trường ca. Nhưng sau đó các nhà thơ của chúng ta gần như ít viết trường ca. Cho nên một cố gắng như của Trần Anh Thái ở trong nước, một cố gắng như của Đỗ Quyên ở nước ngoài là rất đáng quý và đáng được phân tích, đáng được nghiên cứu, được tiếp tục. Và tôi nghĩ cái này phải đọc chậm, sống chậm, như là Đỗ Quyên đã dành 25 năm trong 35 năm của anh ở nước ngoài để viết nên trường ca này.”

.Nhà văn Hoàng Minh Tường, chia sẻ: “Tôi có cảm giác rằng, anh Đỗ Quyên là người đích thực sinh ra để làm thơ, một người yêu thơ đến tận cùng”.

Nhà văn Văn Chinh đọc ở Đỗ Quyên điều này: “Đỗ Quyên nhắc chúng ta nhớ rằng người sáng tác phải luôn luôn ra khỏi những phạm trù quen thuộc mà các nhà thơ mới, các nhà thơ thời chống Mỹ đã làm – vì họ đã ngôn ngữ đẹp lên nhưng cũng khai thác chúng đến cũ rồi. Đỗ Quyên dùng những câu thơ của mình trong Lòng hải lý, để đo khoảng cách mà các nhà thơ đã ly thân với chính bản thân mình, với những thói quen, mà tôi nhớ có câu là phải “đả đảo đất dưới chân mình”.

Nhà phê bình Văn Giá giải thích vì sao thơ Đỗ Quyên khó đọc: “Tạm gọi trường ca Đỗ Quyên mang tính tiểu thuyết, nghĩa là hướng vào cái cá nhân đời tư, thường ngày, dở dang, không hoàn kết…(theo lý thuyết M.Bakhtin). Do đào sâu vào nội tâm cá nhân, nên bút pháp nhất quán từ đầu đến cuối là suy tưởng. Bút pháp này có cái hay, nhưng đọc cũng nặng, người đọc phải cố gắng. Chính vì thế, nếu lấy cái khung soi ngắm quen thuộc về trường ca như lâu nay thì sẽ không đọc nổi trường ca Đỗ Quyên. Vì lẽ đó có thể nói rằng: Trường ca Đỗ Quyên sẽ không dễ dàng đi vào bạn đọc Việt Nam hiện nay, nó kén chọn độc giả.”

Nguyễn Đức Tùng cũng xác nhận tính khó hiểu của thơ Đỗ Quyên: “Đối với nhiều người, thơ anh vừa dễ hiểu vừa khó hiểu, đọc từng câu thì hiểu, đọc toàn bài thì không hiểu gì cả. Như thế là vì anh đi trước độc giả quá xa, hay vì tính đặc trưng của thơ anh là vượt thoát các cố gắng giải thích?[3-đd] 

 2.TÔI ĐỌC THƠ ĐỖ QUYÊN

Xin trích một đoạn:

 …Những đùi vế vút lên

sáng lại câu thơ cổ điển

Con đường sôi âm ỉ

ngút ngã tư già

Chế ngự từng thước tấc

phố nhà chưa lấn hết

Đường biên xấu hổ

cổng thành chúm chím gót chân

Nóc nhà thờ ngang cánh chim

thánh rỏ lệ mát bàn chân lữ khách

Những đứa con thừa cha

                             chạy ra

ném

       các đụn tuyết không tan…

(Lòng Hải lý-Tám)

 

Tôi đọc và không thể hiểu. Rồi viện kinh Kim Cang mà rằng, không hiểu ấy là hiểu, mà nói hiểu,  có nghĩa là không hiểu!!! Tôi tự an ủi mình vậy! Cũng may, Đỗ Quyên bảo: “Thơ thật không cần phê bình”.

Thú thực là nhiều lần tôi định bỏ cuộc. Đọc trường ca của Đỗ Quyên vất vả quá, vất vả hơn đi cày, trầy trật hơn đánh vật. Đọc đi, đọc lại; đọc nhanh, đọc chậm, Thơ như bức tường thành chắn lối, không sao thâm nhập được vào thế giới chữ nghĩa của Đỗ Quyên. Đọc theo Thi Pháp học, tìm cái lạ hóa, tìm thủ pháp, nhạc điệu vv,… thì Thơ vỡ nát. Đọc theo lối “truyền thống”, tìm mắt thơ mà điểm, nhưng tìm hoài nào thấy đâu là mắt thơ. Thơ cứ ào ạt tuôn chảy, lớp lớp sóng dồi. Lại thay đổi cách đọc. Đọc theo Cấu trúc luậnGiải cấu trúc. Chữ nghĩa vẫn chênh vênh, vì thơ Đỗ Quyên rất lỏng lẻo về cấu trúc. Có thể đọc đọan nào trước, đoạn nào sau cũng được; đọc cả đọan hay đọc rời từng câu, vẫn có nghĩa. Đây là những câu rời:

Em bảo:

             Người đi biển không làm thơ

Anh bảo:

             Người làm thơ đi biển.

(Lòng Hải lý-Ba)

 

Em là bầu trời

cho thơ anh nở

 

Những bông hoa tươi nhờ nước mắt

                            (Đống chữ-Thân 7)

 

Không phải thơ Đỗ Quyên vừa dễ hiểu, vừa khó hiểu mà có những đọan khó hiểu và có những đoạn dễ hiểu. Những đoạn anh viết theo kiểu thơ truyền thống (Lục bát, thơ Lãng mạn) là những đoạn dễ hiểu:

Thơ ai khóc gió trên trời

Thơ em khóc lá khóc người dưới mây

Xưa em đen cả tháng ngày

Nay em trắng một đời này em thơ…

(Đống chữ-Thân 4)

Bạn có trong đời ba nỗi đau

Để riêng tận góc một lòng sâu

Lâu lâu gặp lại cho tôi nhận

Chung đỡ phần đang ở trong nhau…

               (Đống chữ-Thân 7)

Tôi căng mắt quan sát thơ Đỗ Quyên, và nhận ra điều này. Thơ Đỗ Quyên là những dòng suy nghĩ miên man, trôi đi từ việc này sang việc khác, từ ý nghĩ này sang ý nghĩ khác, và trôi rất xa nguồn. Khoảng cách những câu thơ là những liên tưởng đứt đoạn, ẩn dụ nối tiếp ẩn dụ “cái biểu đạt” dẫn lối cho “cái biểu đạt” khác, khiến người đọc không sao theo kịp. Các hình ảnh thơ liên tiếp xuất hiện, phi logic. Các con chữ thuộc những trường nghĩa khác nhau đứng liền nhau. Tư duy ngôn ngữ và và quy tắc ngữ pháp Việt bị phân rã. Thời gian, không gian, nhân vật cốt truyện tạo nên cấu trúc không tồn tại. Không có một hiện thực nào được phản ánh để người đọc có thể dùng làm hệ quy chiếu qua đó xác lập ngữ nghĩa.

Với kiểu tư duy thơ này, tôi chỉ còn trông nhờ vào kinh nghiệm đọc dựa trên lý thuyết tiếp nhận hiện đại. Tôi nhận ra Đỗ Quyên sử dụng nhiều thủ pháp của văn chương Hậu hiện đại như, chen vào các yếu tố ngẫu nhiên, phi logic, sự phân mảnh, sự phi tâm, chất diễu nhại, tính chất trò chơi, xoá nhoà ranh giới giữa nghệ thuật và đời sống thường ngày, tác phẩm tựa như một bức tranh khảm có nhiều chất liệu dị biệt…Từ đó tôi tái cấu trúc và giải cấu trúc tác phẩm, kết nối các liên tưởng, loại bỏ những yếu tố ngẫu nhiên, phi lý; giải mã các ẩn dụ, các biểu tượng (thí dụ: Đảo, đảo nắng đảo mưa, tấm-vé-đời, bàn chân, con đường, những nụ hoa không nở, ly café mồ côi…); kết tụ những mảng hiện thực bị phân mảnh; lấp đầy những khoảng trống văn bản và đọc cái nghĩa do chính mình tìm thấy trong tác phẩm. Ý nghĩa này có khi trùng với ý nghĩa của tác giả gửi trong tác phẩm, có khi khác biệt do tầm kỳ vọng (Hans Robert Jauss) của người đọc, hay do sự khác biệt của cộng đồng diễn dịch (Stanley Fish) mà người đọc mang theo khi đọc tác phẩm. Tôi đọc trường ca Lòng Hải lý như đọc một tác phẩm mở (Umberto Eco). Và Đỗ Quyên nhắc tôi rằng: Bản chất của thơ cần có mặt mà chưa cần để hiểu(Buồn muộn cùng thế kỷ, chương 3)

 Chẳng nhạn,

Trường ca Lòng Hải lý có chín đoạn thơ và một Phụ lục. Chủ thể, nhân vật Ta, khi thì độc thọai, khi đối thoại với em, với mẹ, với bạn…(thực ra đó là sự phân thân của tác giả trong một cuộc đối thoại giả định). Trải suốt trường ca là một câu chuyện (có cốt truyện, tình huống, nhân vật, thời gian, không gian), câu chuyện về hành trình thơ, về làm thơ, về số phận thơ, tương lai thơ… Câu chuyện này bị xé ra thành những giải, những chi tiết, và ngẫu nhiên quăng vào các đoạn thơ. Có khi câu viết về Thơ nằm giữa những xô bồ suy nghĩ miên man khác. Nếu không tái cấu trúc câu chuyện này, loại ra ngoài những yếu tố không nằm trong cấu trúc chính và giải cấu trúc này, người đọc sẽ hoàn toàn bị lạc trong rừng trùng trùng điệp điệp câu chữ, sẽ không sao lần được lối ra.

Cũng vậy, cả 4 trường ca trong tập Lòng Hải lý (Lòng Hải lý, Đống chữ, Buồn muộn cùng thế kỷ, Bài thơ không thuộc về ai), cũng là một câu truyện dài về Thơ, về hành trình thơ, về thân phận thơ, niềm tin vào thơ…, cho nên không phải vô tình mà Đỗ Quyên sắp xếp 4 trường ca này vào chung một tập thơ.

Câu chuyện, có điểm mở đầu, có điểm cuối:

Khởi một điểm hành trình –

Chữ của ta mang Nghĩa của đời

                                                từ đó.

(Đống chữ-Thân 1)

Điểm cuối:

Tới gần rồi,

                  điểm cuối!

Đảo mưa trong anh

                               anh nắng trong em

Đường mòn đau thêm

thổn thức lịch trình xoắn ốc

Câu thơ treo ngửa

                             nấc (Lòng Hải lý-Chín)

Và đây là câu viết về thơ treo vào giữa đoạn thơ, lơ lửng, lạc lõng, rời rạc, không kết nối giữa câu chuyện nhà thơ đang nói với bạn:

Bạn chỉ có đảo này trong địa chỉ

Còn bến kia trên bức ảnh nhộn màu

Con lộ ấy như vạn ngàn con lộ

Tiếng còi tàu không vượt tiếng còi tàu

 Bút dốc ngược thơ xuôi dòng chảy

Im lặng thay mỗi chiếc kim giờ!

Ta bỏ bạn trên các đinh địa lý –

tên những làng, núi, sông…

 3.LÒNG HẢI LÝ

 Thơ anh có nỗi buồn mênh mông của gió

Bay trên phận con người

(Bài thơ không thuộc về ai– Kết số 10)

Chắc chắn đêm nay ba về và muộn

Việt Nam một vai, thế giới một vai

Ba dành hết. Phần cho nhân loại

những mùa thu có lá rơi đầy

                  (Buồn muộn cùng thế kỷ-Chương 3)

Lòng Hải lý là tấm lòng của tác giả đối với Thơ và đối với đời. Thơ là trái tim hiện sinh như“Sóng vỗ một lần thôi/ Câu thơ hạ rồi/ và mãi”. Thơ là cuộc lãng du vô định. “Để giờ mãi lênh đênh/ Mẹ là gió/ Tình chúng mình làm sóng/ Thơ – trước mặt/  chân trời.” Thơ là niểm hoan lạc miên viễn:

Có sóng trên giấy

                          như có sóng trong lòng

Có gió bốc dưới mỗi bàn chân

                                  và trong từng ngòi bút

Mùi trang giấy viết tinh khôi

                                ngửi suốt đời không ngán”

 

Thơ là niềm đam mê mãnh liệt:

Bằng thơ anh định nghĩa đó là sự trọn vẹn của tự do

Mực cây bút đời của anh đang ứa màu cam vàng đỏ màu của mãnh liệt và đam mê cần để ngồi 12 tiếng không ăn uống không làm tình không vào hộp thư điện tử để trải kín 24 trang trường ca

                               (Buồn muộn cùng thế kỷ-chương 3)

 Người thơ có sự nhạy cảm khác thường: “Em biết thơ là bể khổ/ biết anh yêu thơ là khổ/ biết em yêu anh là khổ/ và biết anh yêu em là khổ kép khổ đơn.”

 “Có khi một câu “Chó chết!”

đã làm thơ anh quẫy muôn lần

Có khi chỉ hắt đi trong ly trà đôi hạt bụi

là con tàu thơ anh lao”

(Buồn muộn cùng thế kỷ-chương 2)

Thơ là hạnh phúc bất tử:

Theo con sông chữ nghĩa trên những chuyến đò ngang

là hạnh phúc ngắn

Hãy theo những chuyến đò dọc

để đến thác đầu ghềnh và những bãi hoang đổ ra biển đời của văn chương

để chết trong hạnh phúc bất tử

(Buồn muộn cùng thế kỷ-Chương 4)

Thơ có giá trị như chính đời sống

Người sống, đống chữ

 Người chết, đống chữ…

Những người thơ

đang sống-chết

Đi gom ngàn con chữ/ như gom ngàn cọng cỏ, nhánh lau….

Sẽ có/ trong một ngày mơ của mình

                             (Đống chữ-Chung)

Đỗ Quyên tích lũy những tấm -vé -đời làm vốn cho thơ, đó là những chặng đường đời, vui, buồn, hạnh phúc, đau khổ mà nhà thơ đã trải qua

“Mình tích thủ các tấm – vé – đời/… Buồn vui, thành bại/… Chúng lóe ánh sáng kêu gọi…/ Chúng xếp hàng nhẫn nại/ chờ nhìn tấm vé cuối…/ tấm vé chưa nằm yên/ kích nới Lòng – Hải – Lý dài them/.trên các tấm vé mới” (Lòng Hải lý- đoạn 4)

Đỗ Quyên luôn thôi thúc cách tân thơ trước sự ám ảnh về cái chết của Thơ, khi cuộc hành trình bị trì trệ, con thuyền nằm in một chỗ.

“Chết phi lâm sàng với bác sĩ

là chết lâm sàng của kẻ làm thơ và của kẻ độc hành

Đường hẹp lại khi hành nhân nằm mãi

Những con thuyền thêm một chốn bơ vơ”

(Lòng Hải lý- Sáu)

Nhà thơ hôm nay không thể viết câu chữ nghĩa địa, ý tưởng mồ mả, nhịp điệu lên đồng, chủ đề quan tài, thể loại hóa vàng hôm qua

Để nghệ thuật sống tồn”

(Bài thơ không thuộc về ai-chương 3)

Chương viết về thân phận nhà thơ (Đống chữ-Thân 5: Mộ văn) là chương đầy bi thiết, bộc lộ sự tài hoa rất mực của ngòi bút Đỗ Quyên. Bên dưới sự diễu nhại khôi hài, Đỗ Quyên dành nhiều nước mắt cho những nhà thơ vì hoàn cảnh riêng mà phải tìm cái chết để sống, để khẳng định sự tồn tại một nhân cách. Từ xưa đến nay, từ đông sang tây, bao nhiêu là cảnh thương tâm: Lý Bạch, Essenin, Nguyễn Tất Nhiên, Maiacovxki, Hemingway? Nhất Linh đã chết (hay tự chết) như thế nào?”

            Ôi những cái thời anh hùng trong tấc gang/ hèn nhục trong choáng váng…”

…Nhất Linh trước sau cũng chết

                                                như một nghi án chính trị-văn chương

Tài mệnh cho ông

chọn Chết triết học –

như con dê giữa hai bó cỏ

Gió Canada sẽ thổi lên trời xanh những tiếng khóc của em

như hôm qua mưa phùn Bắc Việt làm ướt thêm những

trang văn ông trong mắt mẹ.

Không gian ngập tràn tiếng khóc:

Những trận mưa rào Bắc Mỹ không kỳ thị

nước mắt của những người phụ nữ da mầu

Mưa dài

cho mắt ai sâu

cho vai ai nặng những chiều thiếu quê

Những người phụ nữ di dân khóc để ngày kết thúc

trong khi những người phụ nữ bản xứ làm thế cho một ngày lên

Cái bồn tắm khóc để không ai còn bứt rứt

Keyboard khóc cho dân chủ thành hình

Tờ lịch khóc thì đời mới hết những thằng đốn mạt

Chiếc bút không khóc đến khi giá nhà chưa giảm

Ngày mai không bao giờ khóc cho ngày hôm nay

Chúng ta có còn khóc sau khi Thời gian là chủ nhân ông của vũ trụ  này?

(Buồn muộn cùng thế kỷ-chương1)

Đỗ Quyên cũng khóc cho chính mình.

Cho ta khóc một hệ người

                                    người là ta rồi đó

thơ cầm ngang lòng tay

tìm đau trong ngày mai

(Đống chữ-Thân 3)

Và mong một sự hóa thân:

Thường là nhà thơ không thể tìm ra câu kết cho một bài thơ chỉ còn chờ câu kết

Muốn thân xác mình lấp vào.”(Bài thơ không thuộc về ai-Kết 16)

Thực ra đàng sau câu chuyện về Thơ, Đỗ Quyên trải lòng kín đáo và dữ dội về cuộc đời. Thơ Đỗ Quyên không phản ánh thực tại, có chăng là vài hình ảnh nơi ông đang sống hoặc vài chi tiết về gia đình (Đống chữ-Thân 8: Hôm nay đi tuyến Yonge-Spadina subway/ Tôi có Toronto với hai đường tàu điện ngầm…). Tuyệt nhiên không có hiện thực những năm ông sống ở Việt Nam, ở Nga, ở Đức…

Hiện thực trong thơ Đỗ Quyên là hiện thực tư tưởng, hiện thực hư cấu, tuy có thấp thoáng những mảnh đời thực, nhưng Đỗ Quyên chuyển hóa thành suy tư, thành nhận thức có phẩm chất triết học. Tuy vậy thơ Đỗ Quyên chưa đạt tới phẩm chất thơ tư tưởng, về căn cốt thơ Đỗ Quyên vẫn là thơ trữ tình.

Thấp thoáng trong dòng chảy trữ tình là sự lên tiếng nói. Khi là giọng sâu lắng đến tận cùng hiện sinh, khi là sự đối mặt quyết liệt với thực tại; khi là bài ca hào sảng trên đỉnh núi mây ngàn, lúc là giọng trầm thống như sóng gầm dưới đáy đại dương sâu thẳm. Đỗ Quyên lên tiếng nói về những vấn đề không thể lặng im.

Nhân loại bắt đầu vô nhân đạo

lúc mũi tên hiện đại hóa đạn chì

ngọn lao thành hỏa tiễn…

…quên cội nguồn, địa dư và sử ký

thực hành chức năng đồ tể

                                           quáng mù…

…Hãy khước từ những viên đạn

cũng như khước từ làm những viên đạn!

(Lòng Hải Lý –Bảy)

 

Thuyền nhân/ Bộ nhân/ Lâm nhân/ Tường nhân/ Phi cơ nhân

Các gan bàn chân không chứa hằng số sợ…/ …Tự – do – đi – lại

             – nhân quyền ấy thua cả súc vật quyền,

này Liên hiệp quốc!

                  (Lòng Hải lý-Bốn)

…Nhân loại bốn loại người:

sợ và không sợ Sự thật,

biết và không biết Sự thật.

Đập tảng băng tập quán, rèm chủ thuyết,

                            ô giả dối được thiêng hóa

bằng chiếc cu trần

sẽ giết tiệt cái giả Sự thật.

(Lòng Hải lý-Phụ lục)

Thi thoảng lo lo

Tôi hay nhìn lại

Nguồn Chữ nghĩa của riêng mình số lượng đến đâu

và chất lượng ra sao

Sợ nhất là bị các tính từ xấu

(độc quyền, tha hóa, xuống cấp, mị dân, tham nhũng, bê tha,

chuôm chỉa, hối lộ, lạm phát, tham ô và sến)

đòi làm cha, làm mẹ!

(Đống chữ-Thân 1)

Nếu không Tàu, chúng ta đi về đâu?

Lời hỏi lớn

như hình nước Việt

cái móc câu dưới tảng thịt Trung Hoa

Bao giờ nước mình ngẩng mặt được

không vướng một tán cờ

                   (Đống chữ-Thân 5)

 

Con chung của chúng ta với Thời gian

sẽ là những đứa trẻ vạm vỡ

của Tự do

của Bình đẳng sẽ là những đứa trẻ duyên dáng

Hoàn cầu sẽ ế các cuộc chiến tranh

cuộc chiến máu thịt hay cuộc chiến nước bọt, mồ hôi –

Tôn giáo quy về ba đạo chính: đạo Quá khứ, đạo Hiện tại, đạo Tương lai

bị lột trần truồng

triết lý, chủ nghĩa chỉ còn biết che phần kín của mình

Môi trường, Sida, Mafia và Đói cũng bị kỷ nguyên Thời gian xếp vào hàng

chuyện nhỏ

(Buồn muộn cùng thế kỷ-chương1)

Sách Việt ngữ cho tụi con tìm ở đâu ba?

Ngoài dăm cuốn Hai Bà Trưng, một Ông Gióng… con thuộc từ ngày trong nước

Em con chờ các cuốn khác

nó vẽ lên lưng voi Hai Bà cái laptop và dí vào tay Ông Gióng cell phone

Tụi sắc dân khác bạn con không có vấn nạn nước non

nặng và ê chề đến vậy

Làm người gốc Việt thật nhiều điều đáng nói

vấn đề là nói làm sao

                             (Buồn muộn cùng thế kỷ-chương3)

Tình cảm với quê hương thật sâu nặng, những tứ thơ mới lạ giàu suy tư.

Những ai không còn quê hương

Sáng thức dậy theo giờ kẻ lạ

Chiều về những con đường xa

Đêm ngủ lưng không dính đệm

 

Những ai không còn quê hương

Cầm bút viết ra chữ huyết

Gặp mặt nhau lại thấy đau

Nhìn trời không thấy đáy đâu

 

Những ai không còn quê hương

Nghe lá rơi không còn nhẹ

Mây trôi là mây không về

Nước chảy đến cùng nước cạn

 

Những ai không còn quê hương

Bàn tay xòe không hết

Trái tim cong như trời cong

Con mắt chỉ nhìn thấy đất

 

Những ai không còn quê hương

Chồng vợ cái con bầu bạn

Một đời ngơ ngác chờ

Hai chữ quê hương về lại

            (Bài thơ không thuộc về ai-Chương 2)

Thực ra, có thể tìm thấy ở mọi câu thơ của Đỗ Quyên những ẩn hiện tư tưởng. Và suy tư day dứt nhất của Đỗ Quyên là suy tư về thời gian, về nỗi cô đơn hiện sinh. Buồn muộn cùng thế kỷ là nỗi buồn thấm thía về thời gian: “Chúng mình bỏ nước/ là bỏ Thời gian/ 25 năm ngơ ngáo cái ngáo ngơ của những bài thơ không có dấu…”. Bài thơ không thuộc về ai là tiếng kêu bi thương về Thời gian, vì thơ không còn những gì đời còn, cả những ai không còn những gì đời còn…  Những tư tưởng này kết đọng từ chính đời sống của anh. Dường như Đỗ Quyên cố ý tránh né “những vấn đề nhạy cảm” về chính trị và văn hóa. Cũng có thể, anh là người đã trải nghiệm bước chân trên mọi nẻo đường đời với tư cách một công dân toàn cầu, với tư cách “Những ai không còn quê hương”, thì những vấn đề anh quan tâm sẽ không giống với nhà thơ trong nước. Chẳng hạn:

Các phê bình gia thi ca lâu nay

(hẳn rớt môn tâm thần học?)

trong thơ

không đo thành thục độ điên

Phân loại thơ phiến diện vô ngần:

thơ cách mạng, thơ tình, thơ miền Nam-miền Bắc

thơ yêu nước, thơ hải ngoại, thơ trong nước,

thơ tỉnh lẻ, thơ chiếu trên, thơ toàn quốc,

thơ dada, thơ hậu hiện đại, thơ vân vân

Thiếu: thơ điên cấp 1, thơ điên cấp 2, thơ điên cấp cứu

Gọi thế e tranh chữ của y khoa

Nay đề nghị:

    lấy đơn-vị-điên-trong-thơ là một Bùi Giáng (viết tắt: BG)

 

Tôi hiểu đây là khát vọng hội nhập toàn cầu hóa thơ Việt. Đỗ Quyên từng nhận xét thơ Việt có 21 đặc điểm, và thơ Việt còn chậm so với thế giới. Nhưng những nhà thơ trong nước đa phần không quan tâm chuyện này. Bởi thơ trong nước đựợc đặt trên một hệ tư tưởng và nghệ thuật khác, nên thơ mới được phân chia như Đỗ Quyên nhận xét.

  1. NHỮNG NỖ LỰC CÁCH TÂN THƠ VIỆT

Ở thời điểm này (2017), sự ồn ào về “cách tân” thơ Việt đã lắng xuống sau khi phong trào “thơ khó hiểu”, thơ trình diễn… của những người trẻ như Nguyễn Thúy Hằng, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Hữu Hồng Minh…đầu thế kỷ XXI đã trở thành quá khứ. Bởi người ta không thấy được những cách tân của “thơ khó hiểu” đem đến những giá trị gì? Đơn giản vì, nếu công chúng không hiểu thì ai sẽ đọc thơ? Và thật dễ hiểu khi ít năm trở lại đây, công chúng trẻ xô vào đọc những trang chưa thành văn, chữ nghĩa chỉ để mơn trớn vuốt ve cảm xúc của cái tôi thời @. Xin đọc:

“Nếu là cây

Ta muốn làm cỏ dại

Sống hoang sơ chẳng phụ thuộc đất trời

Ta nhỏ bé nhưng ngang tàng mạnh mẽ

Ta mong manh nhưng chẳng ngại đêm dài…”

(Nếu- Iris Cao)

“Chán rồi cây ạ nắng yêu mây

Còn mưa sao cứ đứng mãi chờ

Thôi thì ta biết khi mây ấm

Là lúc nắng lên mưa cúi đầu…”

(Chán-Iris Cao)

 

Tôi sẽ chỉ nói về những cái riêng của Lòng Hải lý bên cạnh thơ trong nước trước “đổi mới”. Từ đây, người đọc có thể nhận ra những đóng góp của Đỗ Quyên cho thơ Việt trong xu hướng hội nhập toàn cầu hóa.

Lòng Hải lý không “phản ánh hiện thực” như thơ Xã hội chủ nghĩa. Đỗ Quyên không bám vào kỷ niệm, không nhào nặn lại những tứ thơ về làng quê, cánh đồng, con cò, giòng sông, hay những con đường Trường sơn mùa này đẹp lắm, như thơ trong nước, kiểu thơ “ăn mày quá khứ”. Đỗ Quyên sáng tạo một “hiện thực” tư tưởng-thẩm mỹ, xin đọc:

Những ai không còn nơi hẹn

Khi cái lò gạch cũ mới rồi

Chí và Thị tối ngày ăn cơm tiệm

Nằm salon xem vidéo đời lá chuối cháo hoa xưa

Đừng vào các trang website năm sao (tốn thời gian, tiền bạc hơn cả các khách sạn năm sao)

Thị dâm không phải là thương dân yêu nước

Quan dâm không phải là vì dân chủ tự do

Xưa sau ba lần hẹn mới có thể hành động

Hẹn là hành động

Bây giờ

Như mặt trời

Mọc lên tức là chiếu sáng

                  (Bài thơ không thuộc về ai-Chương 2)

Đoạn thơ có bóng dáng của hiện thực, nhưng nếu bám vào cái hiện thực ấy để đọc thơ, thì hiện thực lập tức vuột khỏi tay người đọc. Cấu trúc logic của đọan thơ bị phá vỡ, khác hẳn với thơ trước đây lệ thuộc vào cấu trúc. Vì thế không thể kết nối logic Những ai không còn nơi hẹn với, thị dâm, quan dâm, với thương dân yêu nước, với dân chủ tự do, với mặt trời/ Mọc lên tức là chiếu sáng. Chỉ có duy nhất một chữ “hẹn” làm nhiệm vụ giữ cho đoạn thơ không phân rã. Nhưng nếu vượt qua được ngôn ngữ tường minh của văn bản, người đọc sẽ thấy tư tưởng hiện lên.

Người đọc thấy rõ trong tập trường ca Lòng Hải lý một vài đặc điểm của văn chương hậu hiện đại. Nhà thơ Nguyễn Đức Tùng nhận xét: Cấu trúc, xét về toàn bộ, không phải là điểm mạnh của trường ca Đỗ Quyên. Các tác phẩm hậu hiện đại thường có cấu trúc đa chiều; nhưng đa chiều không phải là lỏng lẻo… Nói một cách dễ hiểu hơn, anh có xu hướng đi về phía chủ quan hơn là phía khách quan. Điều này thể hiện trên hai hình thức: trường ca của anh nặng về phía trữ tình, và nhân vật thu hẹp lại chỉ còn là một người, đó là người nói (speaker). Người nói hay người kể chuyện trong trường hợp này lại trùng với tác giả (author). Thứ hai là ngôn ngữ của anh, trong những đoạn thơ không thành công, nặng về tán thán, tuyên bố, kể lại, thiếu tính trực tiếp vốn là điểm mạnh trong mạch thơ Đỗ Quyên. “[6]

Tôi không rõ có phải nhà thơ Nguyễn Đức Tùng nhận diện hậu hiện đại ở xu hướng khách quan, thông qua ngôn ngữngười kể chuyện hay không? Tôi hiểu ngược lại, chính cấu trúc lỏng lẻo (như đã nói ở trên) của trường ca Lòng Hải lý là một đặc điểm hậu hiện đại. Hiện thực phân mảnh, sự xóa bỏ ranh giới giữa văn chương và đời thường, trộn lẫn thể loại, sự phi tâm hóa, ngôn ngữ xô bồ (cả thanh lẫn tục), sự giải thiêng những “đại tự sự” (Thí dụ, Đỗ Quyên diễu nhại về việc tự sát của các nhà thơ, về giá trị của thơ ca, về những chủ đề lớn như yêu nước, cách mạng, nhân đạo chủ nghĩa, tự do, nhân quyền, tôn giáo…) là dấu ấn rất đậm trong thơ Đỗ Quyên, khiến thơ Đỗ Quyên rất khác với thơ trong nước trước đổi mới. Dù vậy Đỗ Quyên biết giữ sự chừng mực cần thiết để thơ vẫn là thơ, kiểu thơ tư tưởng, không phải là “rác”. Đỗ Quyên cũng tự kềm chế diễn ngôn để tinh thần “giải thiêng” không gây sốc cho người đọc có não trạng quen ”thần tượng hóa”.

Nhân loại bốn loại người:

sợ và không sợ Sự thật,

biết và không biết Sự thật.

Đập tảng băng tập quán, rèm chủ thuyết,

                            ô giả dối được thiêng hóa

bằng chiếc cu trần

sẽ giết tiệt cái giả Sự thật.

(Lòng Hải lý-Phụ lục)

 

Đây là sự kềm chế:

Ơn ba mẹ sang đây

Con được chọn mình

chọn đất ở cho mình

Bà lẩm bẩm “Số chúng mày đỏ hơn ông cha!”

Những lời sánh so con rất ngại

Con có thời gian của con. Cha ông có của cha ông

So sánh là hủy diệt

(Buồn muộn cùng thế kỷ-chương 3)

 

  1. NHỮNG GÌ ĐỌNG LẠI

Tôi không bận tâm lắm về “truyền thống” hay hậu hiện đại trong trường ca Lòng Hải lý của Đỗ Quyên. Điều tôi tìm kiếm là trường ca này có giá trị gì về tư tưởng và nghệ thuật. Và Đỗ Quyên có thể đóng góp gì cho thơ Việt đương đại?

Viết trường ca khó, trước hết là làm sao giữ cho được giòng cảm xúc luôn trào tuôn như núi lửa phun nham thạch, giữ cho được mạch tư tưởng dũng mãnh như sóng ngầm đáy đại dương và có được một vốn từ vựng như lúa chất đầy kho. Đỗ Quyên có thừa những phẩm chất này.

Nhờ sử dụng những “thủ pháp” của văn chương hậu hiện đại, Đỗ Quyên thay đổi liên tục cách thể hiện con chữ trên văn bản; thay đổi, trộn lẫn thể loại (thơ tự do, Lục bát, thơ Lãng mạn…); thay đổi nhiều giọng điệu trần thuật; đổi vai Ta nhiều lần trong đối thoại với Em, với Mẹ, với Con, với nhà thơ tự sátcánh nhà thơ chưa tự sát, với súng đạn, thòng lọng, và với đủ loại người nhà thơ gặp trên đường Hôm nay đi tuyến Yonge-Spadina subway.

Bỏ qua nhiều đoạn triền miên suy tư về những điều riêng tư, người đọc có thể gặp được nhiều đoạn thơ hay về tứ, xúc động về tình, trăn trở về tư tưởng; và một ấn tượng rất mạnh về chủ thể trường ca: Tác giả Đỗ Quyên. Bên dưới cái lạnh lùng như băng, cái lý trí căng như thép, chất trí tuệ khô khan, là con người tình cảm, yêu tha thiết cuộc sống, bi phẫn trước bao nhiêu cảnh đời đau thương, khao khát và tràn đầy một niềm tin lao mình vào ngày mai, Sống và Thơ.

Và điều còn lại là một hồn thơ Việt thuần khiết

Chữ còn – Thơ còn

Còn tình

Là còn bạn còn ta

Còn vợ còn con còn cửa còn nhà

Dẫu có còn tha phương,

có còn ghim lòng một ngày về quê về nước

lạy mồ mẹ mả cha vái hồn cúng vía ông bà

tìm thăm khuôn trời cũ

hố rác nào xưa chứa bài thơ tình Số 1…

Để ta còn Thơ

như mái chèo đòi sông nước,

như lá đòi thu

ngoài cửa sổ hôm nay.

              (Đống chữ-Thân 1)

 

Tháng 4 năm 2017

 

________________________________

 

[1] vanviet.info/tho/bon-muoi-nam-tho-viet-hai-ngoai-46-do-quyn/

[2] Đỗ Quyên – Văn là chữ người viết mãi mà thành

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=19560

[3] http://4phuong.net/ebook/48259157/truong-ca-do-quyen.html

[4] Phi Hà – Đỗ Quyên và trường ca, những ghi nhận bước đầu:

http://trannhuong.net/tin-tuc-9520/do%CC%83-quyen-va%CC%80-truo%CC%80ng-ca-nhu%CC%83ng-ghi-nha%CC%A3n-buo%CC%81c-da%CC%80u.vhtm

[5] (Nếu- Người yêu cũ có người yêu mới-Iris Cao.tr.126.Nxb Văn học 2014, in lần thứ tư)

[6] Talawas 2008-Nguyễn Đức Tùng-Trường ca Đỗ Quyên

 

 

PGS-TS ĐỖ LAI THÚY – NHÀ PHÊ BÌNH LAI GHÉP

 

Lý luận và phê bình văn học-Diện mạo của một thời

PGS-TS ĐỖ LAI THÚY,

Nhà phê bình lai ghép

 Bùi Công Thuấn

 

 Đỗ lai Thúy

PGS-TS Đỗ Lai Thúy

 

PGS-TS Đỗ Lai Thúy là Tiến sĩ Lịch sử Văn hóa Nghệ thuật, Phó Giáo sư Văn học. Ông viết nhiều công trình về văn hóa và phê bình văn học. Lã Nguyên nhận xét: Nhìn vào nhan đề sách của Đỗ lai Thúy, độc giả có thể thấy rõ, trong hoạt động khoa học, phạm vi quan tâm của ông khá rộng, mở ra ở nhiều khu vực. Ông xuất hiện trước độc giả chủ yếu như một nhà văn hóa học. Ông có nhiều công trình nghiên cứu, phê bình văn học. Nhưng ngay ở đây, văn học chỉ là chất liệu khảo sát để ông đưa ra những kết luận về văn hóa”[1].

Tôi quan tâm đến ông với tư cách ông là nhà phê bình văn học. Ở ông, có sự lai ghép Văn hóa học với văn học, lai ghép Phân tâm học với Thi pháp học, lai ghép nghiên cứu hệ hình với cách nhìn truyền thống. Ông đề xuất nhiều ý tưởng trong đó có phương pháp phê bình ông gọi là phê bình văn học từ văn hóa: thiết nghĩ, đã đủ điều kiện lý luận để nâng cấp phê bình văn học từ văn hóa thành một phương pháp với tư cách đầy đủ…Phê bình văn học dù một tác phẩm, tác giả hay một trào lưu đều phải tìm hiểu trước tiên là hệ thống văn hóa mà tác phẩm, tác giả hay trào lưu ấy thuộc vào.”[2]

  1. NHÀ PHÊ BÌNH CÓ THAM VỌNG LẬP THUYẾT

Tác giả Lê Sử (khoa Ngữ văn- Đại học Vinh- Nghệ An) nhận xét Đỗ Lai Thúy là nhà phê bình Thi pháp học: “có thể nói Con mắt thơ là một công trình nghiên cứu phong cách các nhà Thơ Mới bằng con đường Thi pháp học… Trong phê bình, Đỗ Lai Thuý, trước hết, chứng tỏ mình là một nhà khoa học, ông đặt giả thuyết, vận dụng các nguyên lý của phê bình thi pháp học, tìm con đường, phương án giải quyết mới, xây dựng mô hình, nỗ lực vận dụng các thao tác khoa học… Mục đích là để khai phá ra những chiều kích thẩm mỹ mới của tác phẩm nghệ thuật”[3]

Lã Nguyên (PGS-TS La Khắc Hòa) thì nhận xét: “Đỗ Lai Thúy gắn bó với Phân tâm học đã hơn hai mươi năm nay và rất mực thủy chung với nó…Đỗ Lai Thúy đã góp phần đưa phân tâm học trở lại với nghiên cứu văn học Việt Nam, và ở những công trình nghiên cứu theo hướng ấy, ông đã tạo ra nhiều đột phá: Thứ nhất: Sự phát hiện phân tâm học trong chất liệu văn học. Thứ  hai: Mở ra hướng phê bình thi pháp phân tâm học.”; “Đỗ Lai Thúy tự xếp mình vào nhóm “phê bình phân tâm học văn bản[13]. Nhưng xem cách phân tích văn bản, thấy hóa ra ông vẫn trung thành với thi pháp học. Cho nên, có thể gọi phê bình phân tâm học của Đỗ Lai Thúy là phê bình Thi pháp Phân tâm học.” [1-đd] 

 GS-TS Trần Đình Sử nhận diện Đỗ Lai Thúy trong cuốn “Bút pháp của ham muốn” như sau: “Công trình này, theo tôi có thể gọi là thi pháp học phân tâm học, bởi phân tâm học là góc độ nghiên cứu, còn mục đích khám phá của tác giả là bút pháp, là thế giới nghệ thuật của thi sĩ.”[4]

Như vậy, các nhà nghiên cứu đã định vị Đỗ Lai Thúy là nhà phê bình Thi pháp Phân tâm học. Theo tôi, ông tập trung phân tâm tác giả, không phải phân tâm văn bản.

Ông cho biết, nếu như cái khác là bản mệnh của nghệ thuật, thì, quy luật tạo ra cái khác, đó là tính lai ghép. Tính lai ghép trong phê bình cũng cái độc đáo trong ngòi bút Đỗ Lai Thúy. Ông vận dụng tất cả các phương pháp phê bình để thiết lập thành mô hình tiếp cận tác phẩm. Trong cuốn “Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy”, mô hình tiếp cận của ông gồm ba bước: Tiếp cận tiền văn bản, văn bản và hậu văn bản.

Ở mỗi bước ông thực hiện như sau:

Tiếp cận tác phẩm từ tác giả: Phê bình tiểu sử học, Phê bình văn hóa-lịch sử, Phê bình xã hội học, Phê bình phân tâm học.

Tiếp cận tác phẩm từ văn bản: Phê bình phong cách học, Phê bình Thi pháp học,Phê bình Cấu trúc-Ký hiệu học,Phê bình phân tâm học, Phê bình văn học từ hệ thống văn hóa.

Tiếp cận tác phẩm từ người đọc: Phê bình theo lý thuyết tiếp nhận, Phê bình hậu/ Giải cấu trúc. Phê bình Thông diễn học, Phê bình Nữ quyển luận, Phê bình hậu thực dân, Phê bình phân tâm học.

  1. Lê Thị Thanh Tâm (ĐH KHXH&NV TPHCM) nhận xét rất hay về cách viết “lẩy triết” của Đỗ Lai Thúy: thao táclẩy triếtnhuần nhuyễn đến khó tin của tác giả khi động chạm các vấn đề tác giả, tác phẩm thơ.”; “Đằng sau (hay là phía trong) những bình luận phảng phất tinh thần triết lý của Đỗ Lai Thúy là sự chuyển hóa nhuần nhuyễn các phát ngôn triết học, tôn giáo mà tác giả đã lĩnh hội”; “Đỗ Lai Thúy đúng là người kể chuyện về số phận của nàng thơ bằng thi tứ.”; [6]

Sự nhận diện ngòi bút phê bình của Đỗ Lai Thúy không mấy khó. Đỗ Lai Thúy cũng lưu ý những giới hạn của sự định danh này. Ông nói về công việc viết phê bình văn học của mình: “…dù là ngưởi mê lý thuyết, nhưng những hiểu biết lý thuyết của tôi, chủ yếu là những tri thức ‘tiên thiên’, có tính chất siêu nghiệm, nên khi phê bình, tôi bao giờ cũng xuất phát từ thực tiễn tác phẩm, dựa vào trực giác nghệ thuật, chỉ đến khi cần xây dựng các mô hình nghiên cứu, cần khoa học, tôi mới cầu viện đến lý thuyết…”(Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy)

Nhưng nếu đọc kỹ Đỗ Lai Thúy, người đọc có thể nhận ra Đỗ Lai Thúy có một nỗ lực muốn lập thuyết trong phê bình văn học. Để thực hiện điều này, ông tập trung vào lập luận, ông cố phân tích vấn đề sao cho sâu sắc, có tính khoa học, viết đầy tự tin về mỗi luận điểm của mình (giống kiểu viết của Bakhtin, Sartre hay Derrida…), và phân tích tác phẩm minh họa cho luận thuyết. Cho nên điều mà Ts Lê Thị Thanh Tâm nhận xét rằng “Đằng sau (hay là phía trong) những bình luận phảng phất tinh thần triết lý của Đỗ Lai Thúy là sự chuyển hóa nhuần nhuyễn các phát ngôn triết học, tôn giáo mà tác giả đã lĩnh hội”, thực ra là cách viết có mục đích lập thuyết.

Tác giả Mai Anh Tuấn, người tự nhận mình là một người đọc thực dụng, khi đọc Thơ như là mỹ học của cái khác đã nhận xét về khát vọng lập thuyết của Đỗ Lai Thúy như sau:

khát vọng lập thuyết, với các bước cơ bản: đưa ra một quan niệm mỹ học của thơ, xử lí các nguồn thơ để mô hình hóa diễn trình thơ, chứng minh sự đặc sắc của thơ bằng việc khu biệt hóa những giá trị thơ ca tiêu biểu. Các đường hướng, thao tác này tập trung xoay quanh phạm trù “cái khác” – từ góc nhìn văn hóa, xã hội, triết học và nghệ thuật, đến góc nhìn mỹ học thơ ca…nhà phê bình này ý thức rất rõ việc phải hợp lí hóa, cấu trúc hóa quan điểm của mình”[7]

Chỉ cần đọc phần luận giải của Đỗ Lai Thúy về “cái Khác” thì có thể nhận ra tất cả mặt mạnh và mặt yếu về lý thuyết của ông:

“Áp dụng vào thơ, đặc biệt thơ Việt, cái Khác còn thêm một số thuộc tính cụ thể hơn. Thơ, trước kia, là một tổ chức ngôn ngữ đặc biệt, không bình thường so với văn xuôi, nhất là với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Bởi thế, thơ, tự thân nó, đã là một cái Khác. Cái Khác này đồng nghĩa với cái tiểu ngạch (nhỏ, lẻ, phụ), cho nên luôn có nguy cơ bị cái chính ngạch (to lớn, đồng bộ, chính thức) đồng hóa. Cho nên, cái Khác, một mặt phải chống lại sức hút của quyền lực trung tâm của cái chính thống và chính thức để bảo vệ sự tồn tại độc lập của mình. Mặt khác, nó phải chống lại chính bản thân nó. Bởi lẽ, cái Khác, sau một thời gian bị nghi kị, ghẻ lạnh, bắt đầu được chấp nhận, rồi quảng diễn ra đại chúng, thì đã trở thành quen mòn, không còn là khác nữa. Vì thế, để bảo vệ mình mãi là một cái Khác, thơ trong tiến trình của nó, phải luôn luôn đổi khác. Thơ Việt, mỗi lần đổi khác, ngoài sự tự thân vận động của nó, bao giờ cũng phải có sự trợ lực, nhiều khi là cú hích quyết liệt, của các yếu tố bên ngoài. Thơ Việt, bởi vậy, luôn là sự lai ghép. Nó lớn lên bằng những yếu tố ngoại sinh, tức cái Khác của cái Khác. Thậm chí, có thể nói, thơ Việt khác từ trong trứng nước, từ ở những thành phần cấu tạo nên nó

…Sự gặp gỡ giữa thơ và hệ hình hậu hiện đại không chỉ đưa cái Khác lên thành phạm trù chủ đạo của mỹ học hậu hiện đại, mà còn, quan trọng hơn, giúp ta nhận thức được chính cái Khác mới là thực chất của thơ. Bởi thế, có thể lấy cái Khác làm hệ quy chiếu để tư duy lại tiến trình thơ, từ đó, đưa ra một cái nhìn khác, một lối viết khác lịch sử thơ. Thơ Việt, cho đến nay, ít nhất có đến 11 lịch sử: 1) Thơ chữ Hán, 2) Thơ chữ Nôm, 3) Thơ quốc ngữ lúc giao thời, 4) Thơ Mới, 5) Thơ đầu kháng chiến chống Pháp, 6) Thơ Nhân văn và hậu Nhân văn, 7) Thơ thành thị miền Nam 1955 – 1975, 8) Thơ chính thống và chính thức, 9) Thơ Đổi mới và hậu Đổi mới, 10) Thơ đương đại, 11) Thơ hải ngoại…”(Thơ như là mỹ học của cái khác)

Ông ôm đồm, bao biện trong luận thuyết của mình mọi thứ lý thuyết (mà ông không ghi nguồn) chỉ để khẳng định “Chính cái khác mới là thực chất của thơ, và, có thể lấy cái Khác làm hệ quy chiếu để tư duy lại tiến trình thơ”. Có thể tìm thấy lý thuyết về Cái Khác (The Others) từ Freud, F. Saussure, trường phái Hình thức Nga, Edward Said, Derrida, Chủ nghĩa Hậu thực dân,…Vì thế cái Khác không phải là lý thuyết do Đỗ Lai Thúy đề ra. Nó cũng không phải là thực chất của thơ, càng không phải là hệ quy chiếu để tư duy lại tiến trình thơ. Khi nói đến bất cứ tác giả văn học nào (nhà thơ, nhà văn), nhà phê bình, nhà nghiên cứu luôn phải tìm ra cá tính sáng tạo của họ, phong cách của họ. Bản thân cá tính sáng tạophong cách chính là Cái Khác. Nâng vai trò của Cái Khác lên thành một lý thuyết để từ đó làm hệ quy chiếu nghiên cứu, phê bình văn học, tôi nghĩ cả về “lý thuyết và phương pháp” đều không có gì mới, mà chỉ là mượn khái niệm của người khác đề “làm mới” mình mà thôi.

Ông viết về nhiều nhà thơ trong nhiều cuốn sách khác nhau, mỗi cuốn cần có cái gì khang khác với cuốn khác. Thực ra, chỉ là khác về cách đặt tên sách. Những nhà thơ trong Bút pháp của ham muốn (Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Gia Thiều; Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Cầm) cũng khác nhau như các nhà thơ trong Thơ như là mỹ học của cái khác (Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Đình Thi, Thanh Tâm Tuyền, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Bùi Giáng). Trong Hé gương cho người đọc, Đỗ Lai Thúy cũng dùng Phân tâm học để lý giải về Nguyễn Du, như là dùng phân tâm học trong Bút pháp của ham muốn. Khi ông nhận định rằng: “Cái Khác ở thơ Thanh Tâm Tuyền là thơ tự do”thì tôi hoàn toàn không còn nghi ngời gì nữa rằng ông không hiểu thơ Thanh Tâm Tuyền. Khi nói về thơ Hậu hiện đại, ông luận: “thơ hậu hiện đại đích thực không dừng lại ở cấp độ thủ pháp, mà đã tiến tới cấp độ quan niệm thực tại. Có như vậy mới sản sinh ra được cái Khác hậu hiện đại. Một cái Khác không phải là khác biệt, khác lạ trong quan hệ với cái ngoài nó, mà là một cái Khác trong quan hệ với chính nó, mang tính tự thân, là sản phẩm của một cá nhân tự lập và tự trị. Chính cái Khác này không chỉ cứu sống cái chết của tác giả, mà còn bội nhân tác giả, vì giờ đây người đọc cũng là tác giả. Một cái Khác như vậy, hẳn không nằm sẵn trong bài thơ, cũng không nằm sẵn trong đầu tác giả, mà được sinh ra trong tiến trình bập bênh giữa tác giả, văn bản và người đọc. Thơ trở thành mỹ học của cái Khác.”Những đoạn “lập thuyết” như thế này chỉ làm người đọc hoa mắt mà thôi, vì nó vô nghĩa và buộc tôi phải nghi ngờ sự thẩm thấu các lý thuyết văn học của Đỗ Lai Thúy. Bởi làm gì có cái khác “không nằm sẵn trong bài thơ, cũng không nằm sẵn trong đầu tác giả”. Trước đó ông đã khẳng định: “thơ, tự thân nó, đã là một cái Khác “. Nói cách khác, không có tác phẩm thì làm gì có tác giả và có người đọc!

Các nhà thơ khác nhau ở kiểu tư duy nghệ thuật, ở bút pháp, phong cách, ở cách sử dụng ngôn ngữ, ở nội dung tư tưởng, ở “cái tạng” riêng…, những điều này do cá tính sáng tạo làm nên và văn hóa, thời đại chi phối. Đọc câu văn: “thơ Việt khác từ trong trứng nước, từ ở những thành phần cấu tạo nên nó…”, thực sự tôi không hiểu Đỗ Lai Thúy định nói gì. Thơ Việt khác từ trong trứng nước là khác với cái gì? Và những thành phần cấu tạo nên nó là thành phần nào? Ông định nói về sự khác biệt của 11 lịch sử thơ Việt mà ông tự xếp loại chăng (Thơ chữ Hán, thơ chữ Nôm, thơ chữ Quốc Ngữ…). Nếu vậy, cần phải xem lại tính khoa học của việc xếp loại này.

Có thể nói việc lập thuyết về “Cái Khác” của Đỗ Lai Thúy không giúp lý giải bản chất nghệ thuật của thơ ca, vậy sử dụng thuyết này (của Freud, Saussre, Said, Derrida, lý thuyết tiếp nhận), Đỗ Lai Thúy có dụng ý gì? Đỗ Lai Thúy viết: “Mỗi cái Khác làm nên một lịch sử, một lịch sử thơ./…nhìn thơ Việt dưới dạng những lịch sử thơ có thể thấy được sự phong phú, đa dạng của thơ. Mỗi lịch sử đều có ý nghĩa và giá trị của nó, kể cả các dòng thơ nhỏ, lẻ, phụ mà trong cái nhìn nhất thể hóa không đáng coi là lịch sử. Đồng thời cho thấy sự vận động đa chiều và đan xen vào nhau của một lịch sử số nhiều. Cái nhỏ, phụ như là cái Khác rồi cũng lớn lên, phổ thông hóa, không còn là cái khác nữa, nhưng lại làm điều kiện cho một cái Khác khác ra đời. Như vậy, sự khác nhau của mỗi lịch sử chỉ là ở mức độ tự phản tỉnh của nó. Với sự đa lịch sử mà không có lịch sử nào là trung tâm như vậy, thơ Việt vẫn là một tổng thể, nhưng là một tổng thể mở: tổng thể phi tổng thể.”

Đoạn văn trên giúp người đọc nhận ra Đỗ Lai Thúy muốn viết lịch sử thơ Việt theo tiêu chí của Cái Khác, đồng thời, ông cũng giải trung tâm thơ Việt. Ông ôm vào thơ Việt tất cả mọi ngọn nguồn sáng tác trong mọi không gian, thời gian (không gian địa lý, không gian xã hội, không gian văn hóa, không gian song ngữ, không gian nghệ thuật hàng xóm, không gian công cộng, không gian mạng- trong nước, hải ngoại, trung tâm, ngoại biên, cái tiểu ngạch (nhỏ, lẻ, phụ), cái chính ngạch…). Đó là cái nhìn “hợp lưu”, đa nguyên, và cái nhìn Giải trung tâm của Hậu hiện đại.

Nguyễn Mạnh Tiến trong tham luận Tọa đàm ‘Đỗ Lai Thúy và Thơ như là mỹ học của cái khác” do Khoa Viết văn – Báo chí (ĐHVH HN) tổ chức ngày 26/4/2013 nhận xét: “Hiểu theo nghĩa đó, nhà thơ cách tân thơ – làm mới thơ, vì thế phải được định nghĩa như người làm khác đi mỹ học thơ. Và vì vậy, thay vì gọi là người đổi mới thơ, từ nay, ta gọi là người đổi khác thơ. Cái khác mang tính bổ sung, vì thế, từ đây, lịch sử thơ cho phép không loại trừ bất cứ nỗ lực đổi mới/khác thơ ở trong mọi không gian thơ Việt khác nhau. Cái khác, thậm chí, còn gọi mọi nỗ lực về cùng một mâm, nằm cùng một chiếu, đôn trên vai cái chung gọi là nền văn học dân tộc.”[5-đd]. Người đọc đương thời hiểu những ý nghĩa không nói ra của cả Đỗ Lai Thúy và Nguyễn Mãnh Tiến về những thực thể thơ Việt đương đại. Nguyễn Mạnh Tiến kết thúc bài viết bằng lời kêu gọi: người ta có quyền nghi ngờ mỹ học của cái Khác, hay phương pháp hệ hình như quan niệm của Đỗ Lai Thúy. Hơn thế, tôi còn thiết tha muốn độc giả nên biết khoác cho sự đọc của mình đôi cánh của hoài nghi. Vì biết hoài nghi, đó là con đường vương đạo dẫn đến cái khác trong nhận thức…”

Sự nghi ngờ những “lý thuyết”, những nhận định của Đỗ Lai Thúy là có cơ sở. Sau đây là một trường hợp cụ thể:

Đỗ Lai Thúy đề xuất phương pháp tiếp cận văn học từ văn hóa. Ông viết: “…thiết nghĩ, đã đủ điều kiện lý luận để nâng cấp phê bình văn học từ văn hóa thành một phương pháp với tư cách đầy đủ. Phương pháp phê bình này có nhiều thuận lợi, bởi nó dẫn nhà phê bình (cũng như người đọc) đi từ cái đã biết đến cái chưa biết, từ cái biết nhiều đến cái biết ít, từ cái toàn thể đến cái bộ phận bằng con đường loại suy khoa học. Bởi lẽ, văn học với tính cách là một yếu tố của hệ thống văn hóa thì phải chịu sự chi phối hoặc sự quy định (chứ không phải quan hệ nhân quả đơn thuần của quyết định luận) của văn hóa. Phê bình văn học dù một tác phẩm, tác giả hay một trào lưu đều phải tìm hiểu trước tiên là hệ thống văn hóa mà tác phẩm, tác giả hay trào lưu ấy thuộc vào.”[8]

Mặc dù ông có dẫn Truyện Kiều, bám víu M.Bakhtin, thì những luận điểm của ông cũng bị nhà phê bình Nguyễn Hòa bẻ gẫy[9]: Từ cách Đỗ Lai Thúy đặt vấn đề không thỏa đáng, Nguyễn Hòa viết: phải chăng để luận chứng cho sự ra đời của một “phương pháp phê bình mới”, ông đã dựa trên một tiền đề lý luận – thực tiễn còn mang màu sắc chủ quan và cảm tính?”; việc Đỗ Lai Thúy Lý giải quan hệ giữa văn hóa và văn học, Nguyễn Hòa yêu cầu:tôi nghi ngờ điều Đỗ Lai Thuý cho rằng văn học: “Sáng tạo những giá trị mới cho bản thân nó và cho hệ thống. Sáng tạo lớn thì có thể dẫn tới sự thay đổi của hệ thống”. Kính mong PGS TS Đỗ Lai Thuý thử đưa ra một dẫn dụ để chứng minh trong một thời kỳ nào đó của lịch sử loài người, đã có lúc các sáng tạo văn học từng dẫn tới sự thay đổi của hệ thống văn hóa?”, rồi Nguyễn Hòa lấy làm tiếc: Thật đáng buồn, là một tác giả như PGS TS Đỗ Lai Thúy – người thường tỏ ra khá am tường về văn hóa qua một số bài viết, lại không nắm được các vấn đề lý luận – thực tiễn có tính bản chất trên đây hay sao?”; Khi Đỗ Lai Thúy đưa ra luận điểm: “cách tiếp cận văn minh. Cho đến nay loài người đã trải qua ba giai đoạn văn minh lớn, cơ bản: Văn minh gốc tự nhiên, văn minh gốc kỹ thuật và văn minh gốc con người.Nguyễn Hòa thưa lại: “Tôi đồ rằng, do chưa tìm hiểu quan hệ văn hóa – văn minh, nên PGS TS Đỗ Lai Thuý đã “gán” cho văn minh những ý nghĩa của chính văn hóa… Người ta nghiên cứu văn hóa để qua đó tìm hiểu văn minh, thì PGS TS Đỗ Lai Thuý lại đi theo chiều ngược lại, ông lấy văn minh làm “đột phá khẩu” để xem xét văn hóa.

Nguyễn Hòa kết luận: ”Thiết nghĩ, tình trạng hời hợt, cảm tính, thiếu vắng một số căn cốt lý thuyết cơ bản về đối tượng cùng những luận giải mang màu sắc “hư vô” của PGS TS Đỗ Lai Thuý mà tôi phân tích trên đây có nguồn gốc từ việc ngay ở điểm xuất phát, ông đã không xác lập một khái niệm văn hóa có tính chất công cụ, bảo đảm cho sự nghiên cứu luôn luôn nhất quán về mặt khuynh hướng. Khái niệm ấy, có thể là do ông vay mượn của người khác hay do ông tự tạo lập, thì chí ít ra nó cũng không đẩy ông tới các kiến giải nhì nhằng, lúc thì coi văn hóa có cùng cấp độ với văn minh, lúc lại “gán” cho văn minh các phẩm chất của văn hóa, không nhận thấy hệ thống xã hội cũng là bộ phận cấu thành của văn hóa, đặc biệt là “sáng tạo” ra ý tưởng oái oăm về sự xung đột và chống lại của văn học đối với văn hóa…!”;

Cuối cùng, dẫu bài viết này là khá gay gắt, tôi vẫn không thể không công bố. Bởi tôi cho rằng đã đến lúc chúng ta cần đặt mọi “phát kiến khoa học” dưới sự soi chiếu của khoa học. Một ngày mà tinh thần phản biện trong khoa học còn bị suy giảm bởi thói quen “dĩ hòa vi quý” hay nể nang thì ngày đó, chúng ta còn phải đối mặt với những sản phẩm “giả khoa học” chỉ gây cản trở, nếu không nói là làm nhiễu loạn nhận thức chung của cộng đồng nghề nghiệp và công chúng.

Không chỉ có nhà phê bình Nguyễn Hòa “phản biện” Đỗ Lai Thúy, GS-TS Trần Đình Sử cũng “phản biện” rất thẳng thắn về bài viết “Khi người đọc xuất hiện” của Đỗ Lai Thúy [10], dù trước đó ông vui mừng giới thiệu Bút pháp của ham muốn.

GS-TS Trần Đình Sử nhận định khái quát bài viết:

“Trong bài này anh Thuý muốn xác lập cơ sở lý luận cho một hệ hình phê bình văn học hiện đại, tức tiếp cận tác phẩm văn học từ phía người đọc, giới thiệu vai trò quan trọng của thông diễn học đối với nghiên cứu, phê bình văn học hôm nay. Đáng tiếc là nó có quá nhiều chỗ trái với logich khoa học và thực tế, chứng tỏ một lối làm việc (tuỳ tiện) đáng buồn…/ Quan niệm về “người đọc cổ điển” của anh là một đề xuất tuỳ tiện.”;

 “Đỗ Lai Thuý thiếu kiến thức về người đọc trung đại và hoạt động đọc của họ cho nên có nhiều chỗ sai…”

“Hai là, quan niệm cho rằng người đọc cổ điển chỉ biết đọc thụ động, họ đọc văn như là “bắt vòi sang đấy (tác phẩm) là tiếp nhận được mọi thứ theo nguyên tắc bình thông nhau” (nguyên văn của anh Thuý!) cũng khó tin. Lí thuyết của Đỗ Lai Thuý chỉ là sự suy diễn bắt nguồn từ một quan niệm tiến hoá thô thiển, thiếu hẳn tri thức và quan điểm lịch sử…”

“Điểm thứ ba. Sự đối lập người đọc cổ điển và người đọc hiện đại theo bốn điểm như trên sở dĩ không đúng chủ yếu là do Đỗ Lai Thuý, tuy trích dẫn nhiều tên tuổi nổi tiếng phương Tây, song tôi nghĩ, anh chỉ mới hiểu chung chung, chưa cụ thể về hoạt động đọc và bản chất, cơ chế của sự đọc…”

Điểm thứ 5. Đỗ Lai Thuý dựa vào lí thuyết tiếp nhận, thông diễn học, hiện tượng học để xác lập khái niệm người đọc hiện đại… Ở đây Đỗ Lai Thuý có ít nhất 3 ngộ nhận

Anh không phân biệt cái chung, cái riêng, chỗ thì đem cái chung quy cho cái riêng, chỗ thì lại đem cái riêng quy thành cái chung. Thật không có ai tư duy khoa học như Đỗ Lai Thuý.

GS-TS Trần Đình Sử kết luận: “Điều chúng tôi muón nói là làm khoa học thì không được tuỳ tiện, lại càng không được hư cấu.”

 Cả nhà phê bình Nguyễn Hòa và GS-TS Trần Đình Sử đều chỉ ra sự thiếu kiến thức, lối làm việc tùy tiện và những “sáng tạo, hư cấu” ra những ý tưởng oái oăm, tạo ra những sản phẩm giả khoa học, của Đỗ Lai Thúy khi ông muốn “lập thuyết”.

Như vậy, xét từ cách tiếp cận thơ theo hệ hình, theo tiêu chí của Cái Khác, đến cách tiếp cận văn học từ văn hóa của Đỗ Lai Thúy, nhìn ở góc độ “lập thuyết”, Đỗ Lai Thúy còn cần nhiều thời gian nghiên cứu, nghiền ngẫm hơn nữa, và nhất là đừng tự huyễn hoặc với chính mình. Rất tiếc là thời đại đã vượt qua ông rất xa.

  1. NĂNG LỰC CỦA NHÀ PHÊ BÌNH

Tôi quan tâm đến những bài phê bình văn học của Đỗ Lai Thúy. Bởi ở đó giúp tôi nhận ra tài năng của nhà phê bình.

TS Lê Thị Thanh Tâm cho rằng: phần viết về Lê Đạt (theo đánh giá của cá nhân tôi) là đáng giá nhất… Đây là phần viết tốt nhất của Đỗ Lai Thúy bởi cách viết bông phèng thuần thục và cảm nhận tinh tế tuôn chảy không bị khựng lại bởi thuyết nọ thuyết kia”[6-đd]. Lã Nguyên thì cho rằng: “Các bài Đi tìm ẩn dụ Hoàng Cầm, Đi tìm thực chất thơ Hồ Xuân Hương, Hồ Xuân Hương cọ tình vào đá là những áng văn xuất sắc nhất trong phê bình phân tâm học của Đỗ Lai Thúy”

 Đỗ Lai Thúy viết về nhiều nhà thơ (4 tập sách với trên 30 nhà thơ) sao chỉ có bài viết về Lê Đạt, Hoàng Cầm, Hồ Xuân Hương được đánh giá cao? Có thể là TS Nguyễn Thị Thanh Tâm và PGS-TS La Khắc Hòa (Lã Nguyên) chỉ chọn ra những bài hay nhất để khen theo “chuẩn” riêng của mình. Đọc bao giờ cũng là cảm nhận riêng, không ai giống ai. Tôi sẽ trực tiếp đọc những gì ông viết để tránh bị “ám thị” bởi ý kiến giới thiệu của tác giả và của những người đã đọc ông, để tái khám phá Đỗ Lai Thúy qua văn bản.

Nguyễn Du là một tác giả đã được nghiên cứu nhiều, Đỗ Lai Thúy có khám phá gì mới? Bài Nguyễn Du từ “một ai đó” đến “không ai cả”[11] chứng minh nhận định này: Nguyễn Du là một thiền sư-cư sĩ, vừa giống như mọi người, tuân theo lẽ thường tình, vừa khác với mọi người, sống theo sự giác ngộ của mình, dìm một ai đó trong không ai cả.”.

Đỗ Lai Thúy chọn bài thơ Ngã độc Kim cương thiên biến linh của Nguyễn Du để khẳng định con đường giác ngộ của ông: “Phương pháp mà Nguyễn Du chọn tu là độc tụng và chiêm nghiệm (Ngã độc Kim cương thiên biến linh = Ta đọc kinh Kim cương nghìn lượt). Đọc, đọc nữa, đọc mãi rồi sẽ sinh ra nghi tình, tức một tình trạng mâu thuẫn với lý trí, hay lẽ phải thông thường, mà không giải quyết được. Đây chính là công án thiền. Rồi hôm nào đó tình cờ gặp một duyên sống mà bỗng nhiên bừng ngộ. Nguyễn Du đã chứng ngộ như vậy khi đứng trước Đài đá phân kinh của thái tử Chiêu Minh nhà Lương.”

Nhưng do đâu Nguyễn Du tìm đến Phật để trở thành Thiền sư?, Đỗ Lai Thúy dùng phân tâm học để lý giải: “Thực ra, những mất người thân, mất điều kiện sống ổn định, mất tính vĩnh cửu của vương quyền khiến Nguyễn Du, nhìn từ phân tâm học Freud, rơi vào mặc cảm bị tước đoạt. Điều này tạo ra một trống rỗng lớn trong tâm hồn ông. Để lấp đầy khoảng trống nỗi sợ/nỗi sợ khoảng trống ấy, Nguyễn Du nhất định phải nhanh chóng trở thành một ai đó… Có thể nói, đến đây, về mặt tâm thần, Nguyễn Du chẳng những không lấp đầy được trống rỗng mà còn lún sâu vào tình trạng phân rã, hoặc phân liệt, hay khủng hoảng tâm thần. Chứng u uất, âu lo, trạng thái tâm thần bất định “đi không yên ổn, ngồi không vững vàng” là dấu hiệu của bệnh ủy hoàng (hystérie) như Trương Tửu đoán định. Đây hẳn là thời điểm Nguyễn Du tìm đến với đạo Phật,

Nhưng rồi Đỗ Lai Thúy lại hoài nghi: “Thực ra, việc Nguyễn Du đã là một thiền sư hay vẫn chỉ là một nhà nho, đến nay còn nhiều ý kiến khác nhau, kể cả ý kiến các thiền sư-học giả Vạn Hạnh”

Đỗ Lai Thúy lý giải việc làm quan của Nguyễn Du và đưa ra một nhận định làm sửng sốt những người đã đọc kinh Phật: “…ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Du, với tính cách là một thiền sư-cư sĩ, vẫn ra làm quan, vẫn sống cuộc đời quan trường như mọi người, nhưng khác mọi người ở chỗ dù tận tụy với công việc nhưng ông vẫn giữ được khoảng cách với quan trường, nghĩa là ông không ngụp lặn trong đó và không lấy sự thăng quan tiến chức làm mục đích sống của mình.”; May mắn là thiền sư-cư sĩ Nguyễn Du còn là một nghệ sĩ nữa, nên ông thấu hiểu và đầy cảm xúc với cuộc đời. Tức là bệnh ham muốn từ thuở một ai đó vẫn còn nguyên”

Thú thực là tôi không sao “nuốt trôi” những suy diễn hoàn toàn chủ quan, bịa đặt của Đỗ Lai Thúy khi ông lý giải về Nguyễn Du. Sự vận dụng Phân tâm học cùng với việc giải thích về kinh Phật, về sự giác ngộ của Nguyễn Du của Đỗ Lai Thúy là không thể chấp nhận được. Nguyễn Du bị “khủng hoảng tâm thần, có dấu hiệu của bệnh ủy hoàng (hystérie)”. Nguyễn Du đã giác ngộ mà “bệnh ham muốn từ thuở một ai đó vẫn còn nguyên” thì sao gọi là giác ngộ? Con đường giác ngộ của Phật là diệt dục điều sơ đẳng đó ai cũng biết.

Đỗ Lai Thúy gọi Bùi Giáng là “nhà thơ của các nhà thơ”[12], là “Thi sĩ-triết gia”. “Bùi Giáng ở những mười năm cuối của cùng thế kỷ ấy đã đi đầu trong việc mở ra một thời đại mới cho văn học Việt Nam, văn học hậu hiện đại”.

Đỗ Lai Thúy khám phá về Bùi Giáng: “Một trong những cách sống thể hiện sự nhất quán của thi cách và nhân cách Bùi Giáng đó là bệnh điên của thi nhân”, nhưng rồi Đỗ Lai Thúy lại tự phủ định: “chuyện Bùi Giáng có điên thật hay không. Tạm gác sang bên vấn đề bất khả giải”.

Thế nhưng Đỗ Lai Thúy lại nói khá kỹ về bệnh điên của Bùi Giáng: “Bùi Giáng, trước hết, rất ý thức về cái điên của mình”; “Bùi Giáng còn dấn thân quyết liệt vào nghề nghiệp điên. Bởi lẽ, thi nhân tìm thấy ở điên niềm hạnh phúc. “Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời”; “Điên của Bùi Giáng, bởi vậy, chính là một thái độ sống, một cách tồn tại ở đời.”;

Và Đỗ Lai Thúy kết luận: “Người điên cũng như người chứng ngộ đều cùng chung một cõi vô trí.”; “Ông như một Bồ Tát không bước hẳn vào cõi vô ngôn, vô trí mà vẫn ở lại với Lời để cứu Lời.”

Đọc bài viết của Đỗ Lai Thúy viết về Bùi Giáng. Tôi trông chờ ông giảng một bài thơ nào đó của Bùi Giáng, nhưng tuyệt nhiên không. Bài viết của Đỗ lai Thúy chỉ toàn là những nhận định võ đoán, Đỗ Lai Thúy không sao thâm nhập vào được thế giới tư tưởng và nghệ thuật của Bùi Giáng. Ngay cả luận điểm cốt lõi của bài viết là: Bùi Giáng là “thi sĩ- triết gia” cũng không được Đỗ Lai Thúy lý giải. Rất tiếc là, Bùi Giáng bị điên mà Đỗ Lai Thúy lại không dùng phân tâm học để đọc thơ ông. Đỗ Lai Thúy và Phân tâm học sẽ hòan toàn bất lực trước thơ Bùi Giáng vì thơ Bùi Giáng là thơ tư tưởng, tư tưởng của Bùi Giáng là tư tưởng của Hoa Nghiêm, cách diễn ngôn của Bùi Giáng là cách nói vô ngôn của Thiền.[13]

Hoặc rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay.”

Bùi Giáng không hề là Hậu hiện đại như Đỗ Lai Thúy cố gán ghép cho ông. Thụy Khuê cho rằng: “Bùi Giáng tìm về người thầy Nguyễn Du như một cứu cánh. Hầu như mỗi bài thơ của ông đều có ít nhất một chữ hoặc một câu của Nguyễn Du. Và cấu trúc toàn bài thường dựa vào ý một câu Kiều”[14]

Thanh Tâm Tuyền là một hiện tượng cách tân thơ ở miền Nam trước 1975. Thơ ông là một cõi riêng thách đố trí tuệ người đọc. Trong bài viết “Thanh Tâm Tuyền đi tìm tiếng nói” [15], Đỗ Lai Thúy, bằng thi pháp học, có những phát hiện tinh tế, sâu sắc về lớp vỏ chữ:

Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền để tương ứng với một thực tại vỡ vụn, rời rạc, cũng trở nên rời rạc, vỡ vụn. Thi nhân tước bỏ hầu hết những từ nối, từ gối, từ cú pháp, khiến mạch liên kết giữa chữ và chữ bục đứt, các từ rời ra. Thi nhân cũng lược bỏ các ý chuyển tiếp, các hình ảnh chuyển tiếp, khiến mạch câu, đoạn bị đứt gãy đột ngột, bất ngờ. Như vậy, các từ, các cụm từ, các câu, các hình ảnh, các ý tưởng rời nhau, trở thành những đơn vị độc lập, tự thân, đứng cạnh nhau một cách ngẫu nhiên, tự sắp xếp với nhau hoặc liên hệ với nhau một cách tình cờ…

…Ngôn ngữ thơ Thanh Tâm Tuyền, vì thế, mang tính rời rạc, tự thân, chưa có nghĩa, hoặc chỉ mang nghĩa tự điển của vật liệu…”

Bài thơ câu dài ngắn, tồn tại như những khả thể, đằng sau bài thơ được hiện hữu ấy còn thấp thoáng, ẩn khuất những bài thơ khác ở dạng tiềm/ tiền sinh. Câu thơ thì chảy tràn từ dòng trên xuống dòng dưới như những chiếc đồng hồ Dali. Còn từ thì luôn vượt thoát hấp lực của trường ngữ nghĩa nguyên thuỷ, do “trung tâm tạo nghĩa” sinh ra, để lang thang trong không gian bên ngoài trúc tìm nghĩa mới. Thơ Thanh Tâm Tuyền, vì thế, vượt qua ngữ học cấu trúc của Saussure để đến với ngữ dụng học của Witgenstein.”

Đỗ Lai Thúy cũng nhận xét về Cái Tôi, về cấu trúc thơ, về nhịp điệu thơ của Thanh Tâm Tuyền. Ông lần đến tư tưởng sáng tạo của Thanh Tâm Tuyền là: Sáng tạo, theo Thanh Tâm Tuyền, là sự nổi loạn”

 Tôi mong được đọc một bài Đỗ Lai Thúy phân tích thơ Thanh Tâm Tuyền, nhưng trong bài viết, tuy ông có dẫn chứng bài thơ Phục Sinh (để nói về Cái Tên và Cái Tôi của Thanh Tâm Tuyền), và bài Lệ đá xanh (để nói về nhịp điệu làm xô lệch cấu trúc bài thơ – nghĩa là những yếu tố hình thức thơ), ông không hề phân tích ý nghĩa bài thơ.

Tôi ngờ rằng Đỗ Lai Thúy không đọc được thơ Thanh Tâm Tuyền. Bởi thơ Thanh Tâm Tuyền là thơ tư tưởng, mỗi bài thơ là một “dòng ý thức” về hiện sinh được diễn đạt bằng nghệ thuật Siêu thực. Cái Tôi trong thơ Thanh Tâm Tuyền là Cái Tôi với dòng ý thức trôi chảy, khác với Cái Tôi trong Thơ Mới là Cái Tôi tâm trạng. Đỗ Lai Thúy chỉ lần mò ở lớp vỏ chữ của thơ, ông không sao nhập vào được dòng ý thức và nghệ thuật Siêu thực. Ông mơ hồ rằng:  “thơ Thanh Tâm Tuyền thao thiết một ý thức, ý thức hiện sinh, ý thức về thời cuộc, về tự do, về hôm nay, về một hiện thực cực thực, về thân phận nhược tiểu, về da đen, về Việt Nam và về thế giới”và sau cùng ông ca ngợi: “Thanh Tâm Tuyền cho đến nay, vẫn là một quả núi, đột khởi, sừng sững, gây kinh ngạc. Bởi, với những cấu trúc bị xô lệch, những nhịp điệu bị trôi chảy…, thơ ông đã đạt tới văn chương hiện đại giai đoạn cuối kỳ.”

 Đỗ Lai Thúy viết về Thanh Tâm Tuyền như một con người siêu hình. Ông gạt bỏ tất cả bối cảnh xã hội, thời cuộc trong đó Thanh Tâm Tuyền chìm nổi. Ông cũng bỏ luôn mảng thơ Thanh Tâm Tuyền viết trong thời gian đi cải tạo, như vậy làm sao Đỗ Lai Thúy có thể hiểu tiến trình thơ Thanh Tâm Tuyền. Thi pháp học và Phân tâm học chỉ giúp Đỗ Lai Thúy hiểu đặc điểm thơ Thanh Tâm Tuyền về ngôn ngữ, nhịp điệu, cấu trúc, còn những tầng lớp khác của cấu trúc thế giới nghệ thuật thơ Thanh Tâm Tuyền, Đỗ Lai Thúy không đọc được.

Tôi định dừng đọc Đỗ Lai Thúy ở đây, song có người khen bài Đỗ Lai Thúy viết về thơ Hoàng Cầm, tôi đành phải dành ít phút để đọc Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm [16].

Đỗ Lai Thúy nhấn vào vài luận điểm: “Về Kinh Bắc là một giấc mơ. Không chỉ do Hoàng Cầm viết trong trầm mộng, mà chính vì thi phẩm có đường nét của giấc mơ”; “Giấc mơ bao giờ cũng ẩn chứa những ham muốn vô thức”; Mặc cảm Oedipe chi phối toàn bộ tập thơ Về Kinh Bắc nói riêng và cả đời thơ Hoàng Cầm nói chung”; “Ẩn ức tình dục không được thỏa mãn của thời thơ ấu đã phổ vào thơ Hoàng Cầm”; “Lá Diêu bông là ước mơ tình dục bất hợp pháp đã chi phối suốt cả đời Hoàng Cầm”

Do đâu Hoàng Cầm có mặc cảm Oedipe, Đỗ Lai Thúy lý giải: “Hoàng Cầm là một người có tuổi thơ không bình thường. Mẹ Hoàng Cầm là một cô gái làng Bựu, một làng quan họ nổi tiếng, Ông bà lấy nhau rồi chê nhau đến hơn mười năm trời… khi Hoàng Cầm sinh ra, mẹ nhà thơ phải vượt cạn một mình, rồi cũng một mình tần tảo nuôi con… Nhà thơ đã sớm cảm nhiễm cái gia cảnh của mình… Nỗi buồn ấy thực ra là mặc cảm Oedipe, yêu mẹ ghét bố, mà nhà thơ, chưa nói bấy giờ mà ngay cả bây giờ, vẫn chưa ý thức được”

 Đỗ Lai Thúy kết luận về thơ Hoàng Cầm: “Tóm lại, Về Kinh Bắc hội đủ các yếu tố của một thi phẩm siêu thực: giấc mơ, ẩn dụ, huyền thoại, viết tự động…, nhưng vẫn chưa phải là một tác phẩm đúng nghĩa của chủ nghĩa siêu thực như ở phương Tây

Thú thực là tôi thấy Đỗ Lai Thúy áp đặt quá đáng nhận thức chủ quan của mình về thơ Hoàng Cầm. Ông sử dụng Phân tâm học một cách méo mó để giải thích vấn đề. Từ hoàn cảnh riêng cha mẹ của Hoàng Cầm ông suy ra mặc cảm Oedipe, con trai yêu mẹ, ghét bố. Từ nhận định Về Kinh Bắc là một giấc mơ, ông dẫn đến ý tưởng Giấc mơ bao giờ cũng ẩn chứa những ham muốn vô thức”; ông cho rằng “ham muốn vô thức” ấy là “Ẩn ức tình dục không được thỏa mãn của thời thơ ấu” của Hoàng Cầm…

Ai cũng biết đâu phải giấc mơ nào cũng chứa những ẩn ức tình dục! Người ta sẽ hỏi, đứa trẻ được thỏa mãn ẩn ức tình dục như thế nào? Và được thỏa mãn ẩn ức tình dục, nên trẻ con không bị buồn bực dồn nén chăng. Mặc cảm OedipeẨn ức tình dục là hai khái niệm Phân tâm học khác nhau. Mẹ Hòang Cầm một mình tảo tần nuôi con, Hòang Cầm sớm cảm nhận gia cảnh mà thương mẹ, đó là một thứ tình cảm tinh thần, đâu phải là “ẩn ức tình dục”, đâu phải mặc cảm Oedipe, con trai ghét bố khi thấy bố gần gũi âu yêm mẹ! Bố Hoàng Cầm đi xa, bỏ rơi mẹ Hoàng Cầm, làm sao có mặc cảm Oedipe được!

Đọc bài viết, Tôi tự hỏi, chẳng nhẽ Hoàng Cầm làm thơ chỉ là để thỏa mãn ẩn ức tình dục của riêng nhà thơ? Vậy đâu là giá trị những sáng tạo nghệ thuật của Hoàng Cầm đối với cộng đồng xã hội, cộng đồng văn hóa và lịch sử thơ Việt?

Tôi thực sự hoài nghi cái cách mà Đỗ Lai Thúy sử dụng phương pháp Phân tâm học. Đỗ Lai Thúy chỉ dùng thơ Hoàng Cầm làm chứng cớ cho nhận định của mình về Hoàng Cầm, tức là dùng tác phẩm như vật chứng, lời chứng để quy kết về tác giả, hơn nữa là những quy kết áp đặt, giả định, chủ quan. Một phương pháp đọc thơ như vậy, liệu có đem đến những thông tin đáng tin cậy hay không? Tất nhiên tôi không phủ định những phân tích thi pháp của Đỗ Lai Thúy trong bài này. Ông có những phát hiện thú vị. Tuy nhiên đó chỉ là những phát hiện về vỏ chữ của thơ, còn giá trị tư tưởng, sáng tạo nghệ thuật đều bị Đỗ Lai Thúy bỏ qua.

  1. KẺ THÍCH CHIA RẼ DƯ LUẬN”[17]

Đỗ Lai Thúy đã  viết về các nhà thơ: Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Gia Thiều; Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoàng Cầm (Bút pháp của ham muốn); Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Dương Khuê, Tú Xương, Tản Đà (Hé gương cho người đọc); Thế Lữ, Xuân Diệu,  Huy Cận, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Xuân Thu Nhã Tập (Mắt Thơ); Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Đình Thi, Thanh Tâm Tuyền, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Lê Đạt, Bùi Giáng, (Thơ như là mỹ học của cái khác).

Nhìn vào công trình của Đỗ Lai Thúy, Mai Anh Tuấn cho rằng Đỗ Lai Thúy “cặm cụi trục vớt những danh thi”. Đúng là Đỗ Lai Thúy viết về những nhà thơ (hầu hết) đã thành người của thiên cổ. Tôi không thấy mặt những nhà thơ đương đại, những nhà thơ trong hệ hình Hậu hiện đại nối tiếp Bùi Giáng như ông nói, chẳng hạn Nguyễn Quang Thiều, Thanh Thảo, Văn Cầm hải, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Thúy Hằng, Nguyễn Hữu Hồng Minh… Chẳng nhẽ họ không có gì cho ông đáng viết?

Lý giải điều này thế nào?

Phải chăng đó là thái độ né tránh vì ông sợ phiền phức đối với người đang sống, vì nếu ông dùng Phân tâm học để phát hiện ra những “ẩn ức tình dục” của họ như trường hợp ông viết về Hoàng Cầm. Ông kể: “khi tôi viết bài về Xuân Diệu đăng đầu tiên trên một tờ báo điện tử, con trai Huy Cận đến tận toà soạn doạ sẽ kiện Đỗ Lai Thuý vu khống Xuân Diệu, vu khống Huy Cận. Tôi bắn tin, muốn kiện cứ kiện Tô Hoài trong Cát bụi chân ai trước.”. Đỗ Lai Thuý nói vui, rằng “người làm phê bình bao giờ cũng phải có bản lĩnh, lì lợm, thậm chí, mặt dày mày dạn” [17-đd]

Đỗ Lai Thúy không viết về những nhà thơ hệ hình Hậu hiện đại theo chân Bùi Giáng, là vì ông không đọc được họ (hạn chế về năng lực và phương pháp phê bình). Trước đó, ông đã không đọc được thơ siêu thực-dòng ý thức của Thanh Tâm Tuyền và thơ vô ngôn viết theo mỹ học Thiền của Bùi Giáng thì sao ông đọc được Siêu thực của Nguyễn Quang Thiều, Thanh Thảo, làm sao ông đọc được những tác phẩm thơ bị phá vỡ cấu trúc, phá vỡ không gian, thời gian, nhân vật và thi luật, và xen vào những ngẫu nhiên, hoang tưởng, những mảnh vỡ của thơ Văn Cầm Hải, Nguyễn Thúy Hằng, Ly Hoàng Ly. Ngay cả thơ Tân hình thức của Khế Yêm mà ông khen ngợi, ông cũng không hề chạm vào…Bởi Thi pháp học và phân tâm học không giúp ông thâm nhập được vào thế giới thơ của những nhà thơ này. Cho nên ông khai quật thơ những ngưới đã chết (thời đại đã vượt qua họ) là vì vậy. Có lẽ phải chờ các nhà phê bình trẻ đến sau ông, khi họ được trang bị lý thuyết và kỹ năng bài bản hơn ông, họ thuộc thế hệ hậu hiện đại, lúc ấy may ra họ sẽ kế tục được ông.

Ông thích “chia rẽ dư luận” là vì, như GS-TS Trần Đình Sử và nhà phê bình Nguyễn Hòa nhận xét, ông “hư cấu” những lý thuyết không có cơ sở, ông đưa ra những nhận định áp đặt lên đối tượng phê bình trái với lý luận và thực tiễn (trường hợp Nguyễn Du, Hoàng Cầm chẳng hạn), và ở việc ông “xoay trục” liên tục từ Thi pháp sang Phân tâm học, rồi nghiên cứu hệ hình chuyển sang tiếp cận văn học từ văn hóa, nó lộ ra rằng chưa phương pháp phê bình nào giúp ông khám phá được bản chất, giá trị đích thực của sáng tạo nghệ thuật. Ông dùng tác phẩm làm chứng cớ để quy kết về tác giả, đó là một phương pháp phê bình đã lạc hậu lắm rồi. Ông đặt ra mô hình tiếp cận tác phẩm: Tiền văn bản-Văn bản-Hậu văn bản có vẻ “hoành tráng”, nhưng tôi không thấy ông thực hiện mô hình này trong công trình nào. TS Lê Thị Thanh tâm gọi lối viết của ông là “một lối phê bình “âm ỉ sướng”, vì ““Đỗ Lai Thúy mang đến cái sung sướng khoái trá cho người đọc qua những “chân trời” thơ tinh tế, sắc cạnh.” và nhận định về con đường của ông: “Từ kỹ năng, khả năng, đến bản năng, tài năng là con đường quá dài…” [6-đd].

Nói ông là người thích chia rẽ dư luận làm tôi nhớ đến những ý kiến “khá gay gắt” của Nguyễn Hòa, Trần Đình Sử [đd], và những lời nặng nề của Nguyễn Tôn Hiệt [18] nhận xét về ông.

Dẫu thế nào, có thể khẳng định điều này, Thi pháp học cùng với năng lực bẩm sinh (trực giác nghệ thuật) đã giúp ông khám phá được nhiều điều thú vị về nghệ thuật ngôn từ của các nhà thơ, từ đó ông có những trang viết bay bổng, giàu cảm xúc, có thể làm say mê người đọc.

Còn những điều khác…, như ông nói: “người làm phê bình bao giờ cũng phải có bản lĩnh, lì lợm, thậm chí, mặt dày mày dạn

Tháng 4.2017

_____________________

[1] Lã Nguyên-Đỗ Lai Thúy và phê bình phân tâm học Việt Nam:

https://languyensp.wordpress.com/2016/02/14/do-lai-thuy-va-phe-binh-phan-tam-hoc-viet-nam/

[2] Đỗ Lai Thý-Tiếp cận văn học từ hệ thống văn hóa:

http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/cac-binh-dien-cua-van-hoa/2956-do-lai-thuy-tiep-can-van-hoc-tu-he-thong-van-hoa.html

[3] Lê Sử-Đỗ Lai Thúy và phê bình Thi pháp học

https://www.facebook.com/permalink.php?id=316117815185932&story_fbid=316383101826070

[4] Trần Đình Sử- Đỗ Lai Thuý và bút pháp ham muốn

http://vietvan.vn/vi/bvct/id1108/Do-Lai-Thuy-va-but-phap-ham-muon/

[5] Nguyễn Mạnh TiếnChú giải ngắn về phê bình văn học Đỗ Lai Thúy và Thơ như là mỹ học của cái khác,

Tham luận tại tọa đàm: “Đỗ Lai Thúy và Thơ như là mỹ học của cái khác” do Khoa Viết văn – Báo chí (ĐHVH HN) tổ chức ngày 26/4/2013)

http://vietvan.vn/vi/bvct/id3511/Chu-giai-ngan-ve-phe-binh-van-hoc-Do-Lai-Thuy-va-Tho-nhu-la-my-hoc-cua-cai-khac/

[6] Lê Thị Thanh Tâm-Phê bình thơ xác lập đẳng cấp thưởng thức nghệ thuật          

http://vietvan.vn/vi/bvct/id3517/Phe-binh-tho-xac-lap-dang-cap-thuong-thuc-nghe-thuat-(*)/

[7] Mai Anh Tuấn- Đọc thơ như là mỹ học của cái khác.

http://vannghequandoi.com.vn/Diem-sach/Doc-Tho-nhu-la-my-hoc-cua-cai-khac-282.html

[8] Đỗ Lai Thúy-Tiếp cận văn học từ hệ thống văn hóa-Nguồn : Tạp chí VHNT số 305, tháng 11-2009

http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/cac-binh-dien-cua-van-hoa/2956-do-lai-thuy-tiep-can-van-hoc-tu-he-thong-van-hoa.html

[9] Nguyễn Hòa- PGS TS Đỗ Lai Thuý: từ những tiền đề sai đến một kết quả… đúng!?

http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/dien-dan/item/2257702-.html

[10] Trần Đình Sử- Những luận lí khó tin (Đọc Khi người đọc xuất hiện của Đỗ Lai Thuý)

https://trandinhsu.wordpress.com/2016/03/26/li-thuyet-kho-tin/

[11] Đỗ Lai Thúy- Nguyễn Du từ “một ai đó” đến “không ai cả

vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/nguyen-du-tu-mot-ai-d-den-khng-ai-ca/

[12] Đỗ Lai Thúy-Bùi Giáng, nhà thơ của các nhà thơ:

http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&News=4731&CategoryID=41

[13] Xin đọc: Bùi Công Thuấn-Bùi Giáng, ai người chia sẻ

http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=7197

[14]Thụy Khuê-Hiện tượng Bùi Giáng

http://thuykhue.free.fr/stt2/index.html

[15] Đỗ Lai Thúy-Thanh Tâm Tuyền đi tìm tiếng nói

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18198

[16] Đỗ Lai Thúy-Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cấm

http://tqtrung1010.blogspot.com/2012/09/tham-khao-o-lai-thuy-viet-ve-tho-hoang.html

[17]- Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy – Kẻ thích chia rẽ dư luận

http://www.tienphong.vn/van-nghe/nha-phe-binh-do-lai-thuy-ke-thich-chia-re-du-luan-618028.tpo

[18] Nguyễn Tôn Hiệt-Đỗ Lai Thúy và trường phái “luộc văn”

talawas.org/talaDB/showFile.php%3Fres%3D14440%26rb%3D0106+&cd=1&hl=vi&ct=clnk&gl=vn

 

 

 

GS-TS TRẦN ĐÌNH SỬ -người trí thức xã hội chủ nghĩa

Phê bình văn học-Diện mạo của một thời

GS-TS TRẦN ĐÌNH SỬ,

NGƯỜI TRÍ THỨC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Bùi Công Thuấn

trần Đình sử 2

(GS-TS Trần Đình Sử)

 

 

GS-TS Trần Đình Sử là giáo sư hàng đầu của ngành giáo dục và cũng là nhà khoa học có uy tín trong nghiên cứu văn học. Ông nổi tiếng với nhiều công trình về Thi pháp học như Thi pháp thơ Tố Hữu (1987), Giáo trình thi pháp học (1993). Thi pháp văn học trung đại (1998), Dẫn luận thi pháp học (1999), và Thi pháp truyện Kiều (2002)… Ông cũng là trưởng tiểu ban xây dựng chương trình Ngữ văn THPT của Bộ Giáo dục – Đào tạo. Do những đóng góp to lớn về giáo dục và văn học, ông đã được tặng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba, Huân chương Lao động hạng nhì, Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2000…Trong năm 2017 ông nhận Giải văn hóa Phan Chu trinh về nghiên cứu.

Tôi không đề cập đến các công trình nghiên cứu của ông vì những công trình ấy đã được khẳng định giá trị bằng những giải thưởng lớn. Tôi chỉ đề cập đến hoạt động phê bình văn học của ông và hành trình trở thành người trí thức xã hội chủ nghĩa.

Tôi viết về ông với sự quý mến, trân trọng; dù vậy, tôi cũng rất đắn đo khi viết những dòng này.

NGƯỜI TRÍ THỨC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Để hiểu một người, không gì bằng nghe chính người ấy tâm sự. Ngôn ngữ cung cấp cho người nghe thông tin về sự việc được nói đến (Cái biểu đạt không chỉ dẫn đến Cái được biểu đạt mà con dẫn đến hiện thực được nhận thức), thông tin về quyền lực của diễn ngôn, về chủ thể diễn ngôn, và hơn nữa…

GS-TS Trần Đình Sử kể về cuộc đời mình: [1]

Tôi nhớ những ngày tháng Tám năm 45, nhà tôi ở cửa Nhà Đồ, thành phố Huế, một hôm tự nhiên ba tôi đem về cờ đỏ sao vàng, đem cả gươm và dáo dài. Tôi nhớ đã cùng ba tôi đi xem vua Bảo đại thoái vị. Tôi được đỡ leo lên cột điện có dóng sắt đóng chéo rất đau chân để nhìn sang Ngọ môn. Sau này được nghe nói lại, trước khi vua thoái vị, ông Trần Huy Liệu đứng chống nạnh hai tay, chỉ khi vua đọc xong chiếu thoái vị thì ông mới đứng chắp tay, đón ấn kiếm. Sau đó thì mặt trận Huế vỡ, cả nhà tôi chuyển ra Quảng Trị. Khi thuyền qua huyện Hải Lăng giữa đêm khuya thì bị nghi là Việt gian, hai bên bờ tiếng hô râm ran, bắt Việt gian, Bắt Việt gian. Nghe tiếng hò náo loạn, Ba tôi thức dậy vội cầm giáo ra đứng ở mũi thuyền nhìn quanh xem Việt gian ở đâu. Một lúc thì biết, hoá ra người ta nghi ba tôi là Việt gian. Hàng chục người giáo mác lội ra giữa sông vây chặt khiến thuyền chúng tôi suýt chìm, và chúng tôi bị đưa lên bờ, giải về nhà lao Hải Lăng. Đồ đoàn bị tịch thu hết. Tôi bị giam cùng ba tôi trong xà lim. Tôi nghĩ mình nên hát quốc ca để họ khỏi hiểu lầm, và tôi đã hát quốc ca rất to trong đêm, nhưng không ai đoái hoài. Sáng hôm sau chúng tôi được đưa lên xe tải có dân quân mang gươm áp tải, đưa về thị xã Quảng Trị. Về tới nơi thì gặp toàn người thân, người ta xem giấy tờ và cho về nhà. Hồi ấy mà bị nghi Việt gian dễ chết như chơi. Có nơi nghe nói Việt gian, không xét xử gì hết chém liền. Thật hú vía.

Nhà tôi ở thôn Phúc Khê, xã Triệu Sơn huyện Triệu Phong đã hai lần bị Tây lùng đốt trụi, sau đó chuyển lên chiến khu Ba lòng, ở thôn Làng Hạ, xã Triệu Nguyên. Tôi đã tham gia đội thiếu nhi cứu quốc xã, tham gia diễn kịch cương do các anh bên Ty công an tỉnh dàn dựng. Năm 1951 đi bộ ra Yên Hồ, Đức Thọ, Hà Tĩnh học ở Trại Thiếu sinh Quảng Trị, do tỉnh uỷ Quảng Trị tổ chức cho con em trong tỉnh, cùng Ngô Thảo và nhiều bạn khác. Sau năm 1954 tôi được chuyển sang trường Học sinh miền Nam, lúc đầu ở Diễn Châu, sau chuyển ra Đan Phượng, Hoài Đức rồi Tây Tựu, Thượng Cát, Từ Liêm, sau đó về Phổ thông cấp 3 Hà Nội, rồi Nguyễn Trãi 3 Cửa Bắc.

Khi ở Đức Thọ tôi đã cùng đội thiếu niên đánh trống cỗ vũ Cải cách ruộng đất, chứng kiến đấu và bắn địa chủ. Khi ra Hà Nội tôi cùng các bạn từng xe đất đắp đường Thanh Niên Hồ Tây, đắp bờ hồ Hoàn Kiếm, hồ Bảy Mẫu. Từng chứng kiến Nhân Văn Giai phẩm. Chứng kiến hợp tác hoá nông nghiệp. Vào tuyến lửa, chứng kiến chiến tranh leo thang, phá hoại của Đế quốc Mĩ. Chứng kiến ngày cả nước tang tóc khi Bác Hồ từ trần. Chứng kiến ngày vui toàn thắng, cả Hà Nội đổ ra Bờ hồ Hoàn Kiếm ăn mừng, rồi thống nhất đất nước. Chứng kiến người anh em núi liền núi sông liền sông đánh giết đồng bào biên giới phía bắc nước ta. Chứng kiến những ngày đất nước khốn khổ trong cơ chế bao cấp tem phiếu và bị cấm vận. Chứng kiến và tham gia ngày đổi mới. Chứng kiến sự sụp đổ niềm tin rồi sụp đổ hoàn toàn của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa. Chứng kiến sự sụp đổ của hàng loạt nguyên lí văn học.”

Ông trải lòng: “Nghiên cứu văn học là một ngành cực khó, không chỉ đòi hỏi năng lực nhạy bén mà còn đòi hỏi hiểu biết rất nhiều, rất toàn diện. Là một người Việt Nam lớn lên trong hai cuộc chiến tranh và những cuộc cách mạng xã hội liên tục, nghịêt ngã tôi cảm thấy thiếu thốn đủ thứ. Được sang học Trung Quốc, Liên Xô là những nước đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, là rất vinh dự, tôi vẫn thấy thiếu thốn về tư tưởng, học thuật. Là người đã nắm vững tiếng Trung, tiếng Nga, song tôi luôn đau khổ vì không biết tiếng Pháp, tỉếng Anh, tiếng Đức, chưa hiểu hết nhiều điều trong lĩnh vực mà tôi quan tâm. Tôi luôn luôn cảm thấy sự lúng túng của mình. Cảm thấy thế giới của mình còn rất hạn hẹp. “[đd]

Khi nhận Giải Văn hóa Phan Chu Trinh 2017, ông tự nhận xét về cuộc đời hoạt động nghiên cứu của mình:

Tôi là một giảng viên đại học, bắt đầu giảng dạy bộ môn lí luận văn học ở Đại học Sư phạm từ giữa những năm sáu mươi thế kỉ trước. Trong khi dạy, tôi dần dần nhận thấy tính chất công thức, sơ lược của lí thuyết theo quan điểm mĩ học Mác – Lênin thời ấy, chủ yếu dạy về quan điểm triết học và chính trị, không giúp nhiều cho người học thấy được đặc trưng, sự phong phú, vẻ đẹp cũng như giá trị văn hoá của sáng tác văn học. Nhờ tự học tiếng Nga và đọc các sách báo Nga hồi ấy, tôi thấy giới trí thức Liên xô vào thời “tan băng” đã có một bộ phận đi tìm những con đường tiếp cận mới, trong đó có thi pháp học. Các sách về phương diện này trước đó bị ngăn cấm, lúc bấy giờ đã lần lượt được in lại. Trên các tạp chí khoa học luôn có mục thi pháp, đăng tải các lí thuyết và tìm tòi mới. Do nghiên cứu lí thuyết bị cầm đoán, các nhà khoa học Nga đi vào nghiên cứu, phân tích tác phẩm, theo hướng thi pháp văn học với các tên tuổi lớn như M. Bakhtin, D. Li khachev, V. Shklovski, V. Girmunski…, cùng các nhà nghiên cứu trẻ ở Viện văn học thế giới như G. Gachev và các tác giả khác.

Thi pháp học nhấn mạnh đến nguyên tắc sáng tạo văn học lạ hoá và hư cấu, tạo ra một chỉnh thể có tính kí hiệu. Nó nghiên cứu thi pháp như hệ thống các phương thức, phương tiện tạo nên tác phẩm nghệ thuật, khẳng định tính quan niệm, tính chủ thể của sáng tác, nhận rõ sự khác biệt giữa hình tượng nghệ thuật với các hình ảnh sao chép giản đơn từ thực tế, từ đó chỉ ra nội dung, tính sáng tạo và cá tính của nghệ sĩ. Như thế thi pháp học góp phần khắc phục quan niệm phản ánh giản đơn và xã hội học dung tục, xác nhận tính

Thi pháp học là một hướng nghiên cứu mở, nó có thể dung nạp nhiều cách tiếp cận khác nhau như chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học, phân tâm học, kí hiệu học, nữ quyền luận, diễn ngôn học, xã hội học…Do đó mở rộng nghiên cứu các lí thuyết đó thì nghiên cứu thi pháp càng có thêm hiệu quả. Sau năm 90, song song với quá trình hội nhập, chúng ta tiếp thu thêm nhiều lí thuyết của phương Tây, việc ứng dụng thi pháp học đã đi vào chiều sâu. Nhiều công trình có thể không nêu tên thi pháp song thi pháp với tư cách là hệ thao tác nghiên cứu vẫn không bao giờ vắng mặt.

Bên cạnh dạy học lí luận văn học ở đại học, chúng tôi còn biên soạn chương trình và sách giáo khoa môn ngữ văn trung học phổ thông, trong đó chủ yếu là làm văn và đọc hiểu văn học. Chúng tôi nhận thấy cần thay đổi lối giảng văn cũ kĩ chủ yếu là dạy đọc chép. Trong đọc văn, chúng tôi khắc phục cách hiểu môn văn hẹp hòi chỉ là đọc các áng văn, thơ. Chúng tôi đề xuất cách hiểu văn nghĩa rộng, ngoài văn thơ là chính, học sinh còn đọc các văn bản có tính chất văn hiến, như cáo, chiếu, biểu, hịch, văn tế, các trích đoạn lịch sử, bình sử, các văn bản truyền bá khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên, văn bản báo chí. Bằng cách đó học sinh biết tiếp cận với các loại văn bản có nội hàm văn hoá của dân tộc để sau khi tốt nghiệp học sinh không xa lạ với văn hoá nước nhà và khoa học hiện đại. Chỉ tiếc là bộ môn giáo học pháp trong nhà trường còn quá cũ kĩ, chưa đáp ứng tư tưởng mới và chương trình con nặng nề. Để khắc phục sự cũ kĩ này, chúng tôi đã giới thiệu những cách tiếp cận mới như đọc hiểu văn học, các hình thức làm văn mới như biểu cảm, văn thuyết minh, nguyên tắc dạy học mới trên cơ sở lây học sinh làm trung tâm, phát triển cá tính của học sinh. Theo chúng tôi, dạy học văn học trong nhà trường không thể xa rời với văn hoá đọc…”[2]

Những chia sẻ của GS-TS Trần Đình Sử ở trên đủ để người đọc hình dung quá trình hoạt động khoa học của ông, hiểu được tâm thế và ước vọng của ông trong nghiên cứu, đồng thời cũng hiểu phần nào hiệu quả những công việc ông đã dành hết sức lực, tâm huyết để làm.

Có thể coi ông là một mẫu mực của người trí thức Xã hội chủ nghĩa. Ông đã lớn lên từ cách mạng tháng Tám 1945, trải quả quá trình dài của cách mạng Việt Nam từ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đến những ngày đổi mới. Ông đã sống và học tập trên đất nước Xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc, Liên Xô). Những năm tháng ấy cho ông nhiều trải nghiệm, nhiều nghĩ suy và rút ra được nhiều bài học cho việc nghiên cứu khoa học của mình, chẳng hạn về Nhân Văn- Giai Phẩm, về thi pháp học ở Liên Xô sau thời kỳ “tan băng”, về đổi mới lý luận văn học…

Nhà Nước cũng đã tạo cho ông nhiều thuận lợi để ông có thể hoàn thành những nhiệm vụ trí thức xã hội chủ nghĩa. Những phần thưởng lớn ông được nhận là sự tôn vinh những đóng góp của ông.

Cũng như nhiều trí thức Xã hội chủ nghĩa khác, dù trong những hoàn cảnh hết sức khó khăn của đất nước, ông đã nỗ lực vươn lên, học tập và nghiên cứu; và có những đóng góp quan trọng cho học thuật nước nhà, tạo ra những hiệu quả tích cực làm phát triển đời sống trí thức và đời sống xã hội (giáo dục) của một thời.

THI PHÁP HỌC, “HƯỚNG NGHIÊN CỨU MỞ”

Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá cao các công trình Thi pháp học của GS-TS Trần Đình Sử. [3] Tôi xin không nhắc lại, chỉ ghi nhận đôi điều:

TS Cao Thị Hồng cho rằng: Người đầu tiên xác lập được tư tưởng học thuật, đề xuất một cách đầy đủ nhất hệ thống luận điểm khoa học thi pháp học hiện đại là Trần Đình Sử. Bên cạnh đó ông còn đồng thời triển khai tư tưởng học thuật thông qua việc luận giải đánh giá các hiện tượng văn học Việt Nam từ trung đại đến hiện đại”. “Mô hình nghiên cứu của Trần Đình Sử bao gồm: quan niệm nghệ thuật về con người, không gian, thời gian nghệ thuật, hình tượng tác giả, tình tiết, kết cấu, trần thuật, ngôn ngữ thể hiện”, “Điểm đặc biệt là mô hình lý thuyết này có tính linh hoạt mềm dẻo, nó có thể bao hàm vào bản thân nó những bình diện của phong cách học, tự sự học, tu từ học, ký hiệu học, ngữ học. Theo quan niệm của mô hình này, thế giới nghệ thuật chỉ có thể được quy nạp, khái quát từ cái nền ngôn từ của văn bản, xuất phát từ những biểu hiện của ngôn từ mà rút ra.”

TS Chu Văn Sơn nhận xét về văn phong của Trần Đình Sử: “Để cho ý của mình nổi trội và áp đảo, ông [Trần Đình Sử] đã huy động tất cả những kiến văn Đông Tây Kim Cổ có được để biện bác, thuyết phục. Lời thì sắc, ý thì chắc, mạch thì chặt, hơi thì nóng. Tất cả cứ toát lên một văn phong kiêu hùng. Phải, kiêu hùng là sắc thái nổi trội trong văn Trần Đình Sử. Đọc ông, người ta thấy đó là văn của trí và chí. Phía nào cũng ngùn ngụt.”

Nhà lý luận phê bình Đỗ Minh Tuấn nói về ảnh hưởng của GS-TS Trần Đình Sử: “Có thể nói, Trần Đình Sử đã đưa Thi pháp học lên ngôi ở Việt nam ngay trước thềm đổi mới, những người bảo thủ nhất trong nghiên cứu văn học cũng không phản đối. Các GS Đặng Thai Mai, Đỗ Đức Dục rất ủng hộ, cho rẳng Trần Đình Sử đã mở ra cánh cửa mới chưa từng có ở Việt Nam, mở ra những triển vọng mới cho nghiên cứu và phê bình văn học. Trần Đình Sử đã gây ngạc nhiên thú vị cho giới nghiên cứu, giảng dạy và phê bình văn học lúc bấy giờ khi nhấc bổng thần Ăng-tê nghệ thuật khỏi mặt đất hiện thực mà vị thần này vẫn còn nguyên sức mạnh, thậm chí còn tỏ ra nhiều năng lượng hơn xưa! Thế là, liền trong mấy năm trời, các viện nghiên cứu, Hội đồng lý luận phê bình Hội nhà văn, các tổ chuyên môn của một số trường Đại học, các diễn đàn, các CLB văn học nghệ thuật mời ông đến nói chuyện và tổ chức Hội thảo về thi pháp học y như ngày nay người ta mời các nhà cảm xạ học đến trình diễn trò thôi miên, hút những chiếc thìa nĩa, những chiếc muôi múc canh bay đến dính chặt vào thân thể!”

Lã Nguyên (PGS-TS La Khắc Hòa) là người có nhiều bài viết sâu sát về GS-TS Trần Đình Sử. Ông nhận xét về cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu: “Trần Đình Sử đã chứng minh đầy thuyết phục: thơ Tố Hữu là đỉnh cao của thơ trữ tình chính trị Việt Nam…Trần Đình Sử đã đặt ra và giải quyết hàng loạt vấn đề mà trước nay nghiên cứu văn học ít quan tâm. Đó là những vấn đề như quan niệm nghệ thuật về con người, không gian và thời gian nghệ thuật, chất thơ và phương thức thể hiện”; “Tôi cho rằng, đây là một trong những hướng thi pháp học hiện đại có nhiều triển vọng nhất, bởi nó mở ra khả năng giải quyết hàng loạt vấn đề mà mĩ học nhiều thế kỉ đặt ra, nhưng chưa có câu trả lời thỏa đáng. Dĩ nhiên, nếu không có một trí tuệ sắc sảo, một tình yêu và ý thức trách nhiệm cao trước những giá trị tinh thần của dân tộc, chắc đâu cuốn Thi pháp thơ Tố Hữu đã ra mắt bạn đọc! 

Về cuốnThi pháp truyện Kiều” Lã Nguyên nhận xét, “cuốn sách của Trần Đình Sử đầy những phát hiện; phát hiện nào cũng sâu sắc góp phần nâng sự hiểu biết và trình độ cảm thụ của người đọc đối với Truyện Kiều lên một tầm cao mới”

Về cuốn “Trên đường biên của lí luận văn học của Trần Đình Sử, Lã nguyên nhận xét: Cuốn sách “là tuyển tập các tiểu luận đã được ông công bố rải rác trong vòng mươi năm trở lại đây. Tôi gọi đây là cuốn sách bàn luận về sự khủng hoảng của lí luận văn học và suy ngẫm, tìm kiếm lối thoát cho sự khủng hoảng ấy”.

PGS-TS Văn Giá kể lại những điều học được ở GS-TS Trần Đình sử: “Thế hệ chúng tôi, đọc Trần Đình Sử ngày đó vỡ ra được rất nhiều. Điều thấm thía nhất đối với chúng tôi đó là nghiên cứu văn học sao cho văn học được là văn học, tức là nhìn văn chương xuất phát từ cái nhìn nghệ thuật chứ không phải bằng cái nhìn của xã hội học hoặc chính trị thô giản. Các công trình của Trần Đình Sử đã góp phần kéo thế hệ chúng tôi và nhiều người khác ra khỏi cái vòng luẩn quẩn nội dung tư tưởng chính trị xã hội của văn học. Cái mệnh đề nổi tiếng: “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu hình thức mang tính quan niệm” của Trần Đình Sử đã thực sự tiếp sức cho hoạt động nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại nước ta.”

Những nhận xét đánh giá của các PGS-TS đã khẳng định GS-TS Trần Đình Sử mở ra khả năng giải quyết hàng loạt vấn đề mà mĩ học nhiều thế kỉ đặt ra, nhưng chưa có câu trả lời thỏa đáng. Đó là những đánh giá trân trọng và tôn vinh.

Tuy nhiên, mọi lý thuyết văn học đều có hạn chế của nó, ngay cả những lý thuyết văn học dựa trên những nền tảng triết học có giá trị (Phân tâm hiện sinh của J.P.Sartre chẳng hạn). Có lẽ sau những trải nghiệm và nghiền ngẫm, GS-TS Trần Đình Sử cũng nhận ra những giới hạn nghiên cứu lý thuyết về Thi Pháp học của ông [4]. Ông viết: “Thi pháp học là một hướng nghiên cứu mở, nó có thể dung nạp nhiều cách tiếp cận khác nhau như chủ nghĩa cấu trúc, tự sự học, phân tâm học, kí hiệu học, nữ quyền luận, diễn ngôn học, xã hội học…”; “Sau năm 90, song song với quá trình hội nhập, chúng ta tiếp thu thêm nhiều lí thuyết của phương Tây, việc ứng dụng thi pháp học đã đi vào chiều sâu. Nhiều công trình có thể không nêu tên thi pháp song thi pháp với tư cách là hệ thao tác nghiên cứu vẫn không bao giờ vắng mặt.”[đd]

            Tôi nghĩ đó là những chỉ dẫn quý báu cho những thế hệ nghiên cứu văn học đi sau ông, cũng là sự chân thành khoa học của một nhà nghiên cứu muốn các thế hệ sau tiếp tục vượt lên…

Ngày nay các nhà nghiên cứu đã chuyển hướng từ nghiên cứu Thi pháp học sang việc ứng dụng những lý thuyết khác, chẳng hạn, nghiên cứu Phân tâm học (Đỗ Lai Thý), Ký hiệu học (Lã Nguyên) làm phong phú thêm lý luận phê bình ở Việt Nam.

DẠY VĂN LÀ DẠY ĐỌC HIỂU VĂN BẢN

Nói về việc biên soạn chương trình và sách giáo khoa Ngữ Văn Phổ Thông Trung Học của GS-TS Trần Đình Sử, PGS.TS Đỗ Ngọc Thống (Phó vụ trưởng vụ giáo dục trung học (Bộ GD & ĐT), có bài Trần Đình Sử- từ một góc nhìn viết khá cặn kẽ.[5]

“Làm thế nào để có được một công chúng văn học có trình độ? Câu trả lời sẽ hết sức phiến diện nếu như không thấy hết vai trò của nhà trường; nếu không cần và không quan tâm đến việc dạy học văn ở nhà trường. Trong khi cả nhà văn và công chúng văn học đều trải qua và chịu ảnh hưởng của học vấn nhà trường. Nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường là hình thành, bồi dưỡng, nâng cao trình độ “tiếp nhận” tác phẩm văn học cho HS”…

…“CT Ngữ văn THPT năm 2002 thì quan niệm dạy văn trước hết là dạy đọc văn, hình thành và rèn luyện phương pháp, cách thức đọc-hiểu văn bản mới thực sự trở nên rõ nét và nhất quán. Người chủ trương và góp phần quan trọng trong việc khẳng định quan niệm này là GS.TS. Trần Đình Sử, trưởng tiểu ban xây dựng chương trình Ngữ văn THPT của Bộ GD&ĐT khi đó.”…

…“Dạy học đọc-hiểu tác phẩm văn chương theo tinh thần này được hiểu một cách khá toàn diện. “Đó là một quá trình bao gồm việc tiếp xúc với văn bản, thông hiểu cả nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn cũng như thấy được vai trò, tác dụng của các hình thức, biện pháp nghệ thuật ngôn từ, các thông điệp tư tưởng, tình cảm, thái độ của người viết và cả các giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Đọc hiểu là hoạt động duy nhất để học sinh tiếp xúc trực tiếp với các giá trị văn học. Đọc hiểu bắt đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình thức câu, hiểu mạch văn, bố cục và nắm được ý chính, cũng như chủ đề của tác phẩm. Lý giải những đặc sắc về nghệ thuật và ý nghĩa xã hội nhân văn của tác phẩm trong ngữ cảnh của nó. Trong quá trình học đọc, HS sẽ biết cách đọc để tích lũy kiến thức, đọc để lý giải, đọc để đánh giá và đọc sáng tạo, phát hiện. HS sẽ học cách trích câu hay, trích chi tiết, trích ý, học cách thuyết minh, thuật lại nội dung văn bản đã học”…

“…Những nét chính về quan niệm đọc-hiểu văn bản vừa nêu trên được ghi trong Chương Trình Ngữ văn THPT của Bộ GD&ĐT năm 2002, nhưng thực chất là của GS Trần Đình Sử, người chịu trách nhiệm chính trong việc khởi thảo Chương Trình Ngữ văn THPT hiện hành… Rõ ràng quan niệm này là sự triển khai, tiếp nối và nhất quán với lý luận thi pháp mà ông hiểu rất tường tận”…

Sau nhiều năm ngành giáo dục phổ thông thực hiện chương trình và sách giáo khoa do ông thực hiện, GS-TS Trần Đình Sử có lẽ đã nhận ra sự hạn chế của phương pháp dạy văn do ông đề xuất. Ông nói: “Chỉ tiếc là bộ môn giáo học pháp trong nhà trường còn quá cũ kĩ, chưa đáp ứng tư tưởng mới và chương trình con nặng nề.”

Cách kiểm chứng đúng nhất là phải xem học sinh PTTH học Ngữ văn như thế nào và đạt được kết quả gì từ chương trình và SGK do ông thực hiện? Hình như chưa có một điều tra nào cụ thể, chỉ biết rằng có nhiều tiếng kêu ca rằng học sinh chán học văn.

Thực tiễn dạy Ngữ Văn ở PTTH có nhiều vấn đề.

Nếu dạy văn là “dạy đọc hiểu văn bả” thì trên lớp thầy cô không thể thực hiện được ý tưởng này. Thí dụ, Vợ Nhặt của Kim Lân, Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyện Minh Châu, hay Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, mỗi tác phẩm chỉ có 2 tiết dạy, thầy cô dạy đọc hiểu như thế nào theo yêu cầu của GS-TS Trần Đình Sử là: “Đọc hiểu bắt đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình thức câu, hiểu mạch văn, bố cục và nắm được ý chính, cũng như chủ đề của tác phẩm. Lý giải những đặc sắc về nghệ thuật và ý nghĩa xã hội nhân văn của tác phẩm trong ngữ cảnh của nó”? Học sinh tự mình đọc ở nhà thì không thể hiểu tác phẩm. Bởi năng lực tư duy, vốn kiến thức văn hóa của học sinh không đủ để tiếp cận các kiều tư duy nghệ thuật khác nhau, với những nền văn hóa khác nhau.

Đọc hiểu văn bản đòi hỏi trình độ rất rộng về tri thức: tri thức văn hóa nhiều mặt, kết hợp với các lý thuyết văn học và phương pháp phê bình văn học (Phương pháp tiểu sử, phương pháp giáo khoa, phương pháp xã hội học Mác-xít, xã hội học văn chương của Bakhtin, Cấu trúc luận, Giải cấu trúc, Phân tâm học, lý thuyết tiếp nhận…). Ngay cả thầy cô dạy Trung Học Phổ Thông, nhiều người cũng chật vật với tác phẩm dù đã có sách giáo viên hướng dẫn.

Điều đáng nói là chương trình rất nặng nề và lạc hậu so với thời đại. Chương trình hầu như bỏ phần Lý luận văn học (Ở lớp 12 chỉ học sơ sài về Quá trình văn họcPhong cách nghệ thuật), thì sao có thể “có được một công chúng văn học có trình độ”?

Thực tiễn cho thấy mọi phương pháp dạy Văn ở THPT đều phá sản khi nỗ lực của nhà trường và học sinh học chỉ để thi tốt nghiệp.

Rất tiếc cho ý tưởng và mục đích tốt đẹp về dạy Ngữ văn ở PTTH của GS-TS Trần Đình Sử. Trong chương trình đổi mới sắp triển khai, Bộ Giáo dục-Đào tạo chuyển hướng dạy Ngữ văn PTTH sang hướng dạy 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Tôi tin rằng ý tưởng của GS-TS Trần Đình Sử vẫn giữ nguyên giá trị.

NHÀ PHÊ BÌNH LÝ THUYẾT

Ngoài 2 chuyên luận thi pháp học về thơ Tố Hữu và Truyện Kiều, (dường như?) GS-TS Trần Đình Sử rất ít viết một bài phê bình trọn vẹn về một tác phẩm theo yêu cầu ông đề xuất phương pháp đọc hiểu ở THPT. Những bài phê bình văn học của ông chỉ xuất hiện khi văn đàn có những vấn đề vướng mắc về tư tưởng-học thuật. Ông trình bày các lý thuyết văn học và trên cơ sở đó ông lý giải vấn đề có ngọn có ngành. Cách viết này có sức thuyết phục vì nó có nền tảng học thuật, và người ta tin rằng ông có thẩm quyền nói về vấn đề đó với tư cách nhà nghiên cứu văn học. Các thầy cô giáo phổ thông và các sinh viên đại học đều đặt niềm tin vào ông. Tất nhiên là bài viết của ông vượt trội về tư tưởng học thuật so với những bài viết của các nhà phê bình phong trào.

Theo quan sát của tôi, ông rất ít tham gia vào các hoạt động phê bình của thời sự văn học (phát biểu ý kiến về tác phẩm, tác giả, hiện tượng văn học đang xảy ra…). Chỉ khi có sự ồn ào về phê bình văn học, ông mới tham gia như người hướng dẫn dư luận. Xin đọc các bài viết của ông trên trang: https://trandinhsu.wordpress.com. Tôi chỉ xin lướt qua một vài bài gây được hiệu ứng nhất định trong công luận.

Về phê bình văn học, ông đã dịch bài Ba loại phê bình xấu của Đinh Phàm. Ông cũng nói về các khuynh hướng phê bình văn học hiện nay. Theo ông, Phê bình văn học hiện nay có các khuynh hướng: phê bình xã hội học, ý thức hệ, nghiên cứu văn học theo mô hình lấy nhà văn làm trung tâm, phê bình trên nền tảng văn bản văn học, Phê bình văn học truyền thông, Phê bình trường, viện và đề tài được cấp kinh phí, Phê bình khuynh hướng văn học, Phê bình văn hóa học.

Ông nhận định về phê bình văn học Việt Nam: phê bình văn học Việt Nam đang mở ra, lớn lên, nhưng không đồng đều và chậm chạp. Phê bình văn học nặng về khuynh hướng thông tin, chân dung, chào hàng, diễn giải các hiện tượng, là các hình thái phê bình tự nhiên, tự phát. Còn hiếm tác phẩm đạt đến các khuynh hướng chuyên sâu, chưa đi vào nội dung triết lí, thẩm mĩ, chưa có tầm khái quát cao đối với một nền văn học.”[6]

Ông còn viết riêng một bài về “Phê bình kiểm dịch”[7]. Sau khi lược qua lịch sử vấn đề, ông nhận định: “Các nhà quản lí quốc gia bao giờ cũng ưu tiên phát triển loại phê bình kiểm dịch”, và ông dẫn chứng ở nước ta: “Ở nhiều giai đoạn, loại phê bình kiểm dịch này cũng thịnh hành ở nước ta. Thế cho nên, hàng loạt tác phẩm, ví như Vào đời, Sắp cưới, Mùa hoa dẻ, Sương tan, Phá vây, Chuyện kể năm 2000, Miền hoang tưởng, Cây táo ông Lành, Sẹo đất, Vòng trắng, từng bị phê bình chuyên nghiệp phanh phui, lên án, xem đó là những tác phẩm “có vấn đề”, dù sau này nhìn lại hầu như chẳng có vấn đề tư tưởng quan trọng nào cả”.

Trước tình hình “rối loạn” của phê bình văn học Việt Nam đương đại, ông viết bài: Lí luận văn học- khủng hoảng và lối thoát [8]. Ông đặt vấn đề: “Đổi mới lý luận tức là hiện đại hóa ký luận”[9]. Ông đã giới thiệu: “Lý thuyết Cácnavan hoá của M.Bakhtin và tư duy tiểu thuyết hiện đại [10], giới thiệu Giải cấu trúc và nghiên cứu, phê bình văn học [11], Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm nay [12]. Nhìn lại lịch sử lý luận phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX, ông cho rằng: cần phải khắc phục cái nhìn theo tiêu chí chính trị thuần tuý, hẹp hòi, mà phải nhìn trong viễn cảnh phát triển lý luận của thòi kì hội nhập, toàn cầu hoá tri thức” [13] Ông cũng đặt vấn đề rốt ráo về một vấn đề cốt lõi của lý luận văn học cũ:Khái niệm phương pháp sáng tác trong lí luận phê bình văn học mác xít là nguỵ tạo”[14]. Ông phủ định quan điểm văn nghệ phục vụ chính trị: “xét về mặt lí thuyết, nói văn nghệ tòng thuộc chính trị, văn nghệ phục tùng chính trị là không đúng. Văn nghệ và chính trị là hai hình thái ý thức xã hội khác nhau thuộc thượng tầng kiến trúc, có chức năng vị trí khác nhau, tác động qua laị với nhau, không thể coi văn nghệ là một bộ phận (tòng thuộc) của chính trị, phục vụ chính trị được”;”Gọi văn nghệ là công cụ, vũ khí nói chung cũng không đúng.”[15] Trình bày “khoảng trống về nghĩa của văn bản” theo lý thuyết tiếp nhận, ông nói về hạn chế của Cấu trúc luận, và cho rằng: Khoảng trống về nghĩa trong văn bản tạo thành cấu trúc của văn bản vừa nói vừa không nói, vừa bộc lộ vừa che giấu, vừa thể hiện vừa tỉnh lược, là cấu tạo để mời gọi bạn tri âm tri kỉ.”[16]. Ông cũng có ý kiến về phê bình Phân tâm học của Đỗ lai Thúy, phê bình Ký hiệu học của Lã Nguyên [17].

Một trong nhiều bài viết của ông gây ra những chuyển động tư tưởng học thuật là bài: “Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại” (28.7.2013)[18]. Ông dẫn Bakhtin để nhận định rằng: “Toàn bộ văn hóa, văn học… đều tồn tại trên đường biên, đường ranh giới.”, rằng “Mọi sáng tác văn học ở trung tâm đều bắt nguồn từ ngoại biên”, và kết luận: “Quan niệm về ranh giới của Bakhtin cho ta hiểu rằng, toàn bộ sức sống văn học, nghệ thuật nằm ở đường biên. Kìm giữ văn học, nghệ thuật ở trung tâm là kìm hãm sự phát triển, sinh sôi của chúng. Quan niệm này cũng cho thấy ngoại biên hóa là quy luật khách quan của nghệ thuật và lí thuyết, phê bình.”.

Theo dõi thời sự văn học, người đọc hiểu rằng đây là bài ông viết tham gia vào cuộc tranh luận bảo vệ luận văn Nhã Thuyên. Chuyện xảy ra từ mùa hè 2013, và đặc biệt trong Hội nghị Lý luận Phê bình lần thứ 3 của Hội nhà văn Việt Nam tại Tam Đảo (4, 5/6/2013), nhà phê bình Chu Giang và GS Phong Lê đặt vấn đề phải làm việc nghiêm khắc và xử lý thích đáng đối với tác giả bản luận văn cũng như hội đồng chấm luận văn. Rất tiếc vấn đề của “luận văn Nhã Thuyên” là vấn đề chính trị, và lý thuyết về “ngoại biên hóa” hàm chứa những nội dung hàm hồ, nên dù viện dẫn Bakhtin, GS Trần Đình sử cũng không làm thay đổi được cục diện sự việc (ở đây uy quyền nhà phê bình chính trị mạnh hơn).

Nói như vậy để thấy rằng những bài viết về phê bình của GS Trần Đình Sử (dù cách viết lý luận đã rất kín nhẽ, và sử dụng rất khéo mặt nạ văn học) cũng không tránh được những phản biện khi người ta “soi“bài viết của ông ở những góc độ khác [19]. Âu cũng là mặt tích cực của việc dân chủ hóa trong học thuật và tranh luận.

Dù thế nào, người đọc vẫn thấy bóng dáng của ông vượt lên phía trước về lý luận phê bình văn học Việt Nam.

Trong Tọa đàm “Trần Đình Sử trên đường biên của lí luận văn học”[20] chiều ngày 23 tháng 1 năm 2015, Khoa Viết văn báo chí, ĐH Văn hóa HN đã tổ chức diễn ra trong 3 tiếng đồng hồ, với khoảng 60 người tham dự, ông nói: “Nền lý luận mà chúng ta đang có cũ quá rồi! Quá date rồi! Chúng ta, trong đó có tôi đã sai lầm, đã ấu trĩ, đã ngộ nhận nhiều rồi. “. Rồi ông nói vui: “Tôi là một tội đồ đã reo rắc bao nhiêu sai lầm cho bao nhiêu thế hệ sinh viên học sinh. Tôi muốn làm một việc gì đó, để sửa sai cho mình, trước hết được nói ở trong cuốn sách này”.

Tiến sĩ chuyên ngành Hán Nôm Nguyễn Xuân Diện nhận xét: “Sương tuyết đã nhuộm trắng mái đầu, Trần Đình Sử vẫn luôn đổi mới, quyết lòng tính sổ và bỏ lại phía sau những gì đã lỗi thời, lạc hậu, trì trệ và áp đặt thô thiển – mặc dù có khi chính cái đó đã mang lại danh vọng cho ông, để lên đường, chặng mới của hành trình đổi mới lý luận văn học”[đd]

Trần Đình Sử

LỜI KẾT

Tội quý mến phẩm chất trí thức và những đóng góp cùa GS-TS Trần Đình Sử trong tiến trình đổi mới lý luận phê bình văn học Việt Nam. Những người đi sau ông rồi cũng sẽ vượt lên. Bởi họ học được ở ông nhiều điều.

 

Tháng 4 năm 2017

______________________________

[1] Trò chuyện cùng Giáo sư Trần Đình Sử về đời và nghề

http://vietvan.vn/vi/bvct/id1374/Tro-chuyen-cung-Giao-su-Tran-Dinh-Su-ve-doi-va-nghe/

[2] Trần Đình Sử- Diễn từ nhận Giải văn hóa Phan Chu Trinh, hạng mục nghiên cứu cùa Quỹ Văn hóa Phan Chu Trinh. https://trandinhsu.wordpress.com/2017/03/29/dien-tu-nhan-giai-cua-quy-van-hoa-phan-chau-trinh-ngay-24-3-2017/

Xem thêm video: https://www.youtube.com/watch?v=X9xA8AiQ07k

[3] Xin đọc:

Cao Thị Hồng: Trần Đình Sử với tiếp nhận thi pháp học hiện đại trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam

vandoanviet.blogspot.com/2015/01/tran-inh-su-voi-tiep-nhan-thi-phap-hoc.html

Chu Văn Sơn: Trần Đình Sử và Thi Pháp học: khoavanhoc-ngonngu.edu.vn

Lã Nguyên: Một hướng nghiên cứu có triển vọng (về chuyên luận thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử)

https://languyensp.wordpress.com/2015/07/29/mot-huong-nghien-cuu-co-trien-vong-ve-chuyen-luan-thi-phap-tho-to-huu-cua-tran-dinh-su/

Lã Nguyên: Thi pháp Truyện Kiều của Trần Đình Sử và giới hạn của những cách đọc

http://vietvan.vn/vi/bvct/id2789/Thi-phap-Truyen-Kieu-cua-Tran-Dinh-Su-va-gioi-han-cua-nhung-cach-doc/

Lã Nguyên: Trần Đình Sử và những đường biên khoa học

https://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/tran-dinh-su-va-nhung-duong-bien-khoa-hoc

     -Lã Nguyên: Việt Nam thế kỷ XX và những xu hướng lựa chọn tư tưởng văn nghệ nước ngoài

https://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/viet-nam-the-ky-xx-va-nhung-xu-huong-lua-chon-tu-tuong-van-nghe-nuoc-ngoai

     -Lã Nguyên: Lý luận, phê bình văn học Việt Nam thời hậu chiến

http://vanvn.net/tu-doi-vao-van/li-luanphe-binh-van-hoc-viet-nam-thoi-hau-chien/929

Lã Nguyên: Sự tiếp nhận các lý thuyết hiện đại phương Tây từ 1986 đến nayhttps://languyensp.wordpress.com/2016/01/29/su-tiep-nhan-cac-li-thuyet-van-nghe-hien-dai-phuong-tay-tu-1986-den-nay/

Văn Giá- Trần Đình Sử – người thồ chữ

http://tacphammoi.net/tran-dinh-su-nguoi-tho-chu_n5138.aspx

Nguyễn Khắc Phi: Chân dung Nhà giáo tiêu biểu: GS.TS.NGND TRẦN ĐÌNH SỬ

http://hnue.edu.vn/Tintuc/Tonghopthongtin/tabid/260/news/402/ChandungNhagiaotieubieuGSTSNGNDTRANDINHSU.aspx

Đỗ Minh Tuấn: Trần Đình Sử múa gươm dưới trời mưa

https://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/tran-dinh-su-mua-guom-duoi-troi-mua

[4] http://tuanbaovannghetphcm.vn/su-trao-tro-cua-thi-phap/

[5] Đỗ Ngọc Thống: http://nico-paris.com/tin-tuc-36/tran-dinh-su—tu-mot-goc-nhin.vhtm

[6] Các khuynh hướng phê bình văn học Việt Nam hiện nay:

       https://trandinhsu.wordpress.com/2013/05/31/cac-khuynh-huong-phe-binh-van-hoc-viet-nam-hien-nay/

[7] https://sites.google.com/site/vanhocviet2013/cong-trinh-moi/-trn-nh-s-ph-bnh-kim-dch

[8] ttp://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Lyluanvanhoc/tabid/104/newstab/111/Default.aspx

[9] http://www.viet-studies.net/NhaVanDoiMoi/TranDinhSu_DoiMoiLyLuan.htm

[10] http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c104/n750/Ly-thuyet-Cacnavan-hoa-cua-M-Bakhtin-va-tu-duy-tieu-thuyet-hien-dai.html

[11] https://trandinhsu.wordpress.com/2013/06/13/giai-cau-truc-va-chuyen-doi-hinh-thai-dien-ngon-trong-li-luan-phe-binh-van-hoc-trung-quoc/

[12] https://trandinhsu.wordpress.com/2013/03/04/khai-niem-dien-ngon-trong-nghien-cuu-van-hoc-hom-nay/

[13] http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=7664

[14] http://vietvan.vn/vi/bvct/id3310/Khai-niem-phuong-phap-sang-tac-trong-li-luan-phe-binh-van-hoc-mac-xit-la-nguy-tao/

[15] [12] https://trandinhsu.wordpress.com/2015/07/12/tiep-nhan-nguyen-li-van-nghe-phuc-vu-chinh-tri-o-viet-nam/

[16] http://vietvan.vn/vi/bvct/id3606/Khoang-trong-trong-van-ban-van-hoc/

[17] Đỗ Lai Thúy và cái viết của sự ham muốn:

https://trandinhsu.wordpress.com/2016/01/24/do-lai-thuy-va-cai-viet-cua-su-ham-muon/

Lã Nguyên và Phê bình ký hiệu học http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/la-nguyen-va-phe-binh-ki-hieu-hoc-2

[18] https://trandinhsu.wordpress.com/2013/07/28/ngoai-bien-hoa-trong-tien-trinh-van-hoc-viet-nam-duong-dai/

[19] Chu GiangKiểm dịch Trần Đình Sử-Tuần báo văn nghệ Tp HCM số 375

http://tuanbaovannghetphcm.vn/kiem-dich-tran-dinh-su/

(Luận chiến văn chương quyển 3- Kiểm dịch Trần Đình Sử. Nxb Văn học 2015, tr. 57-81.)

Thụy Khuê chỉ ra chỗ sai của ông: Thụy Khuê-Phê bình văn học thế kỷ XX, chương 5, phần 2: http://thuykhue.free.fr/PBVH/Chuong05-PheBinhPhanTam-2.html

[20] https://giangnamlangtu.wordpress.com/2015/01/25/tuong-thuat-toa-dam-tran-dinh-su-tren-duong-bien-cua-li-luan-van-hoc/

 

NHÀ PHÊ BÌNH LÝ THUYẾT

NHÀ PHÊ BÌNH LÝ THUYẾT

Bùi Công Thuấn

Nhà phê bình lý thuyết 2

Hàng trên: GS Nguyễn Văn Trung, Thụy Khuê, GS-TS Đỗ Lai Thúy

Hàng dưới: GS-TS Trần Đình Sử, PGS-TS La Khắc Hòa, PGS-TS Nguyễn Đăng Địêp

Nhà phê bình lý thuyết là những người giới thiệu các lý thuyết phê bình. Và cũng từ góc độ lý thuyết, họ bàn luận về những vấn văn học. Hầu hết họ là các Giáo sư, Phó Giáo sư -Tiến sĩ ở các Viện, các trường Đại học, công việc chính là nghiên cứu. Cũng có người viết phê bình văn học. Tôi không viết về những công trình nghiên cứu học thuật của họ. Tôi đọc họ với tư cách họ là nhà phê bình văn học. Với tôi, năng lực thẩm thấu và vận dụng lý thuyết là thước đo năng lực của nhà phê bình. Họ góp phần tạo nên diện mạo lý luận phê bình của một thời.

NHỮNG KHUÔN MẶT GHI ĐƯỢC DẤU ẤN

Viết về những nhà phê bình lý thuyết hôm nay, tôi chợt nhớ đến GS Nguyễn Văn Trung ở Sài gòn trước 1975. Bộ sách Lược khảo văn học (3 cuốn) của ông đến nay vẫn còn giá trị tham khảo. Đặc biệt cuốn 3. Ông dành tâm huyết giới thiệu các lý thuyết phê bình cho những nhà phê bình. Đó là các phương pháp Phê bình ấn tượng, Phê bình giáo khoa, Phê bình luân lý, phê bình tâm lý theo tính tình học và Phân tâm học; Phê bình xã hội theo Taine và Mác- xít; Phân tâm phê bình cùa Charles Mauron; Phân tâm hiện sinh của J.P.Sartre; Phân tâm vật chất của G. Bachlard; Phê bình chủ đề của J.P.Richard, Paul Weber, G. Poulet; Phê bình cơ cấu của Goldmann, R.Barthes. Nguyễn Văn Trung được coi là một nhân cách trí thức ở miền Nam trước 1975.

 Nhà nghiên cứu, biên khảo và phê bình văn học Thụy Khuê ở Pháp tiếp bước GS Nguyễn Văn Trung giới thiệu các lý thuyết phê bình văn học ở phương Tây thế kỷ XX. Do môi trường làm việc thuận lợi, cùng với thái độ nghiên cứu cẩn trọng, khoa học, Thụy Khuê cung cấp những tri thức căn bản, có hệ thống, đáng tin cậy, cho những ai muốn tìm hiểu các lý thuyết phê bình phương Tây thế kỷ XX. Không phải vô tình, trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ IV ở Tam Đảo 2016, nhà phê bình Nguyễn Hòa đã trích dẫn ý kiến của Thụy Khuê trong bài Hậu hiện đại thực chất và ảo tưởng làm cơ sở cho nhận định của mình trong bài viết về Một số lý thuyết ngoại nhận và văn học Việt nam gần đây.[a] Về những lý thuyết phê bình được dùng trong bài viết này, tôi tham khảo Thụy Khuê. Thụy Khuê có nhiều bài phê bình văn học, phạm vi quan tâm của bà rất rộng, từ văn học trước 1945 đến văn học Miền Nam (1755-1975), văn học Việt Nam ở hải ngoại và văn học trong nước đương đại. Tâm huyết của bà đối với văn học Việt Nam thật đáng quý.

Những năm gần đây (từ 2010), GS-TS Trần Đình Sử nổi lên như một khuôn mặt trí thức có uy tín học thuật. Giữa những ồn ào, xô bồ của những luồng ý kiến trái chiều, “loạn chuẩn” trên văn đàn, thì ý kiến của GS-TS Trần Đình Sử là có thẩm quyền và đáng tin cậy (?). Bởi ông là người có uy tín và ông cũng khôn ngoan giữ gìn uy tín ấy. Ông giảng dạy tại ĐH Sư phạm Hà Nội, bộ môn Lý luận văn học từ giữ những năm 1960. Ông là chủ biên chương trình và sách giáo khoa môn ngữ văn trung học phổ thông. Do những đóng góp to lớn về giáo dục và văn học, ông đã được tặng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba, Huân chương Lao động hạng nhì, Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2000…Nhìn vào vị trí của ông, người ta có thể hiểu được ảnh hưởng của ông rất rộng trong công chúng và trong học thuật. Tôi ngờ rằng, ông cũng muốn thể hiện thái độ của một trí thức trong thời đại của mình như GS Nguyễn Văn Trung trước kia ở Sài Gòn. Tuy nhiên, thân phận của ông khác GS Nguyễn Văn Trung nhiều.

Người viết lý luận phê bình có sức hấp dẫn là TS Đỗ Lai Thúy (tiến sĩ Lịch sử văn hóa Nghệ thuật, phó giáo sư văn học). Một bài viết trên Tiền phong online nhận xét Chẳng “đứa con tinh thần” nào của Đỗ Lai Thúy chào đời mà trời yên bể lặng. Thế nào cũng có giông bão ở cấp độ khác nhau. Bản thân Đỗ Lai Thúy cũng khoái khiêu khích, chia rẽ dư luận. Anh bảo, khi nào những “đứa con” của anh được thiên hạ dang tay ôm ấp, chỉ số ít quay lưng, thì lúc ấy anh giải nghệ cũng vừa” [b]. Ông đã có nhiều đứa con như thế: Mắt thơ (1992), Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực (1999), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật (2000), Nghệ thuật như là thủ pháp (2001), Chân trời có người bay (2002), Sự đỏng đảnh của phương pháp (2004), Bút pháp của ham muốn (2009), Phê bình văn học, con vật lưỡng thê ấy (2010), Thơ như là mỹ học của cái khác (2013), vẫy vào vô tận (2014)…Điều thú vị mà Đỗ Lai Thúy đem đến cho phê bình văn học đương đại là sự vận dụng nhiều lý thuyết phê bình văn học để khám phá văn học Việt Nam. Ông tự đặt ra mô hình tiếp cận tác phẩm văn học thu tóm hầu hết các lý thuyết phê bình đương đại. Mô hình tiếp cận của ông gồm ba bước: Tiếp cận tiền văn bản, văn bản và hậu văn bản. Ở mỗi bước ông thực hiện như sau: Tiếp cận tác phẩm từ tác giả: Phê bình tiểu sử học, Phê bình văn hóa-lịch sử, Phê bình xã hội học, Phê bình phân tâm học. Tiếp cận tác phẩm từ văn bản: Phê bình phong cách học, Phê bình Thi pháp học,Phê bình Cấu trúc-Ký hiệu học,Phê bình phân tâm học, Phê bình văn học từ hệ thống văn hóa. Tiếp cận tác phẩm từ người đọc: Phê bình theo lý thuyết tiếp nhận, Phê bình hậu/ Giải cấu trúc. Phê bình Thông diễn học, Phê bình Nữ quyển luận, Phê bình hậu thực dân, Phê bình phân tâm học. Gần như trên sân chơi phê bình văn học, ông một mình một ngựa “Vẫy vào vô tận”.

PGS-TS La Khắc Hòa (ĐHSP Hà Nội), người dịch và giới thiệu văn bản của nhiều tác giả nước ngoài viết về lý luận và phê bình văn học như Juri Lotman, V. B. Shklovski, Y.N.Tynhianov, Iu.V. Satin, V. I. Chiupa, A. E. Makhov, Julia Kristev. Ông tỏ ra biết nhiều. Nhưng khi bình bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử, thì những tri thức về phê bình văn học ông đã dung nạp, không giúp ích gì cho ông. Ông không sao thâm nhập được vào cấu trúc bài thơ và giải cấu trúc để phát hiện ra những nghĩa ẩn khuất, những nghĩa “bị bỏ sót”. Ông học Jakobson, săm soi vần điệu, chữ nghĩa vụn vặt. Ông cũng học Hoài Thanh, viết những dòng bay bổng những con chữ nhưng không có nghĩa. Ông gọi bài thơ là một bản tốc kí tâm trạng. Ông nói dài về lý luận nhưng hầu như chỉ lặp lại ý kiến của người khác.[c] Ở ông, giữa lý thuyết và thực hành phê bình có một khoảng cách không thể vượt qua (?)

Có thể nhận ra nhiều khuôn mặt lý luận phê bình khác với những nét riêng như: PGS-TS Nguyễn Văn Dân (Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam); TS Trần Hoài Anh (Trường ĐH Văn hóa Tp Hồ Chí Minh), người có nhiều chuyên luận về văn học miền Nam trước 1975; TS Ngô Tự Lập (Khoa Quốc tế – Đại học Quốc Gia Hà Nội); PGS-TS Phạm Quang Trung (ĐH Đà Lạt); các PGS-TS Nguyễn Đăng Điệp, Trương Đăng Dung, Trịnh Bá Đĩnh, TS Trần Thiện Khanh (Viện Văn học); TS Lê Huy Bắc, Lê Nguyên Cẩn (ĐHSP Hà Nội); Người Việt hải ngoại viết lý luận phê bình, ngoài Thụy Khuê, có thể kể đến TS Nguyễn Hưng Quốc (ĐH Victoria-Úc), Nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Quân (Victoria University, Melbourne), Nguyễn Đức Hiệp (Sydney), nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc (Cal State University và Golden West College), GS Trần Văn Đoàn (Giáo Sư Triết Học, Đại Học Quốc Gia Đài Loan), các nhà thơ Ngu Yên, Đỗ Quyên, Nguyễn Đức Tùng…

GS-TS Hồ Sỹ Vịnh (ĐH Quốc tế Sài Gòn) nhận xét: Đội ngũ các nhà lý luận – phê bình đông đảo hơn cả là ở giai đoạn 1945-2000. Phần lớn họ được đào tạo cơ bản tại các trường Đại học danh tiếng ở trong nước và nước ngoài dần dần trở thành những nhà lý luận phê bình chuyên nghiệp, trong số đó nhiều vị được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà nước.”[d]

 SỰ TIẾP THU CÁC LÝ THUYẾT PHÊ BÌNH VĂN HỌC

PGS-TS La Khắc Hòa (Lã Nguyên) viết 3 bài viết có ý nghĩa tổng thuật và nhận định vể lý luận, phê bình văn học Việt Nam. Đó là: Việt Nam thế kỷ XX và những xu hướng lựa chọn tư tưởng văn nghệ nước ngoài, Lý luận, phê bình văn học Việt Nam thời hậu chiến, và Các lý thuyết văn nghệ hiện đại phương Tây từ 1986 đến nay. Sau khi giới thiệu nhiều công trình lý luận văn học và đánh giá những tác giả tiêu biểu, ông nhận định: “Có thể khẳng định chắc chắn, trong vòng 30 năm nay, chúng ta đã dịch và giới thiệu với công chúng Việt Nam gần như tất cả những hệ thống lí luận văn nghệ hiện đại nhất của phương Tây ở thế kỉ XX. “[e]

Đúng như PGS-TS La Khắc Hòa nhận xét. Đã qua cái thời độc tôn của chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cũng qua rồi cái thời mọi lý thuyết văn học phương Tây đều bị coi là lý thuyết của giai cấp tư sản phản động. Chủ nghĩa Cấu trúc, chủ nghĩa Hậu hiện đại rất bị nghi kỵ!

Có điều, bây giờ người ta lại vồ vập mọi lý thuyết văn học, văn hóa phương Tây. Bài viết của nhà nghiên cứu dày đặc tên các tác giả nước ngoài, từ Aristote, Plato, Kant, Nietzsche, Heidegger, đến Freud, Bakhtin, Lotman, Lyotard, Derrida, Foucault, Kristeva, Lacan, Gadamer,Wolfgang Iser, Ludwig Wittgenstein, Roland Barthes, Huizinga, …

Điều này có ý nghĩa gì?

Việc giới thiệu được các lý thuyết văn học thế giới vào Việt Nam là một thành công của xu hướng dân chủ hóa trong học thuật và tư tưởng. Chắc chắn sẽ có những tác động tích cực đến lý luận và phê bình văn học ở Việt Nam. Xu hướng dân chủ hóa trong học thuật và sáng tác là một đòi hỏi mạnh mẽ nhiều chục năm qua của người sáng tác và các nhà lý luận, nhưng chỉ đến những năm gần đây giới lý luận mới dám lên tiếng trực tiếp nói về những hạn chế của lý luận phê bình Mác-xít, và yêu cầu cập nhật, đổi mới lý luận.

GS-TS Trần Đình Sử trong bài Giải cấu trúc và nghiên cứu, phê bình văn học đòi đặt lại tất cả vấn đề: “Giải cấu trúc đem lại một ý thức phản tư. Nó muốn soát xét lại tất cả, không trừ một chỗ nào, mọi nguyên lí, định lí, nguyên tắc, phương pháp, nhận định, khái niệm, làm rõ những điểm mù, tìm đến các khía cạnh mới, hợp lí. Giải cấu trúc đòi hỏi phải viết lại văn học sử, viết lại lí luận, đọc lại người trước với tinh thần khoa học, phát hiện mọi ngộ nhận, mọi thành kiến, phát hiện những nhận thức mới, chân lí mới, đưa người đọc vào những tìm tòi mới. [4]

Năm 2008, trên Talawas, Lã Nguyên kết luận bài viết Số phận lịch sử của nền lý luận văn học Xô-viết chính thống như sau: dẫu có lòng hoài cổ đến đâu thì rồi vẫn phải nhìn thẳng vào sự thật: Nền lí luận văn học chính thống ở Liên Xô trước kia đã trọn đời mãn kiếp, hoàn tất vai trò lịch sử của nó. Nhiều trang sách cũ thế là đã vĩnh viễn gấp lại. “[5]

Đổi mới, cánh cửa tiếp xúc với bên ngoài được mở rộng, cái nền lý luận cũ bị vượt qua , không còn nền tảng học thuật để xem xét các vấn đề văn học, trong khi việc tiếp thu lý luận mới còn ở dạng nguyên liệu thô, thì tất yếu dẫn đến “khủng hoảng” lý luận.

Trong bài Lý luận văn học, khủng hoảng và lối thoát, GS-TS Trần Đình Sử lý giải: Khủng hoảng là gì? Là trạng thái quá độ nặng nề từ một hình thái lí luận này chuyển sang hình thái lí luận khâc. Lí luận cũ với hệ giá trị cũ đã mất hiệu lực, nhưng chưa mất đi thật sự, lí luận mới đã được nối kết, nhưng chưa được hình thành hẳn. Trạng thái bây giờ là nửa nọ, nửa kia, cũ mới đan xen.” Ông đòi hỏi phải thay đồi: Đánh giá cuộc khủng hoảng lí luận chúng ta cần làm sáng tỏ mấy vấn đề: Trong thế giới hiện nay liệu có thể tồn tại một hình thái lí luận khép kín, độc tôn được không? Liệu có thể tồn tại một hình thái lí luận chỉ dựa vào quyền lực mà tự duy trì được các nguyên lí không? Liệu có nền lí luận văn học mà chỉ có một thứ lí luận phát triển trên cơ sở một học thuyết được tồn tại hay không? Liệu có một thứ lí luận văn học mà chỉ do các nhà lãnh đạo bao biện làm thay, không có tác giả lí luận văn học bình thường nào khác được không? Trả lời các câu hỏi ấy chúng ta sẽ thấy cuộc khủng hoảng lí luận văn học vừa qua là một dấu hiệu của sự tiến bộ rất đáng khích lệ.” [6]

PGS-TS Nguyễn Văn Dân nói đến những hạn chế trong việc tiếp thu lý thuyết văn học nước ngoài là: Chưa  chú  ý  đầy  đủ  đến  tính  khả dụng của lý thuyết, tình  trạng sai  biệt trong tiếp thu lý thuyết, tình trạng thiếu suy xét trong tiếp thu… [7] Ông nói cụ thể về việc tiếp thu Hậu hiện đại trong bài Chủ nghĩa hậu hiện đại-Tồn tại hay không tồn tại: “Nhiều người chỉ nghe người nước ngoài nói thế nào về hậu hiện đại thì nói theo như thế ấy mà không hề có ý thức rõ ràng về nó. Chẳng hạn có người khi đọc thấy một ý kiến vô căn cứ của một người nước ngoài cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại có những đặc điểm gần với chủ nghĩa Mác, thế là lấy ngay ý kiến đó làm tiêu chuẩn để phán xét hậu hiện đại mà không hề biết rằng quan điểm của một chủ soái hậu hiện đại (Francois Lyotard) lại cho rằng chủ nghĩa Mác là một “đại tự sự” cần phải xoá bỏ. Và gần đây, tôi cũng lại bắt gặp ý kiến của một tác giả Việt Nam cho rằng “chủ nghĩa hậu hiện đại chịu ảnh hưởng sâu đậm của chủ nghĩa Mác”! Điều này thật là khôi hài. Nó càng chứng tỏ trong số những người cổ xuý cho [chủ nghĩa] hậu hiện đại, có nhiều người chẳng hiểu gì về [chủ nghĩa] hậu hiện đại.[8]

Trong bài này PGS-TS Nguyễn Văn Dân phê phán trực diện GS Phương Lựu. Sau đó GS Phương Lựu đã phản hồi như sau: “Tuy có hấp thu ý kiến của học giả nước ngoài, nhưng trong nhiều năm qua, bạn Dân dồn sức vào chứng minh sự giống nhau như hệt giữa chủ nghĩa hiện đại với chủ nghĩa hậu hiện đại trên các vấn đề như phi lý tính, phi chủ thể, phi xác định .v.v… để cho rằng không có chủ nghĩa hậu hiện đại…Bạn Dân đúng là tham bác nhiều tài liệu và là người có chủ kiến, nhưng có lẽ do đọc quá nhiều, mà lại lắm chủ kiến cho nên cuối cùng không làm chủ được ý kiến của mình. Chỉ một bài viết ngắn được sửa chữa nhiều lần trong nhiều năm qua, mà ý tứ không rõ ràng nhất quán, luận chứng mâu thuẫn không trọn vẹn! Đem những thao tác tư duy như vậy để nhận xét rất trịch thượng về sách báo của đồng nghiệp trong một phần tư thế kỷ đầy những biến chuyển sôi động vừa qua, mà không hề có chút tư duy lịch sử thì làm sao mà tin được”[9]

Đúng là, qua bài Chủ nghĩa Hậu hiện đại-Tồn tại hay không tồn tại, thì chính PGS-TS Nguyễn Văn Dân mới là người chưa hiểu thấu đáo lý thuyết này. Trong bài viết, PGS-TS Nguyễn Văn Dân đưa ra những nhận định: “Người ta nói rằng chủ nghĩa hậu hiện đại là phi lý tính”; “Người ta nói chủ nghĩa hậu hiện đại là phi chủ thể, là chủ thể bị giải thể, là mang tính phân mảnh”; “Người ta cũng nói nhiều đến một đặc tính nghệ thuật có khả năng phân biệt chủ nghĩa hậu hiện đại với chủ nghĩa hiện đại, đó là sự có mặt của chủ nghĩa chiết trung mang tính kết hợp giữa hiện đại với quá khứ truyền thống trong chủ nghĩa hậu hiện đại”,…[đd]. Đọc những nhận định như thế của PGS-TS Nguyễn Văn Dân, người đọc buộc phải nghi ngờ những gì ông hiểu về Hậu hiện đại. Có lẽ ông chỉ nghe “người ta nói” chứ chưa tự mình nghiên cứu (?). Vì trong một bài nghiên cứu, tác giả không thể viết “Người ta nói rằng…” mà phải ghi nguồn, xuất xứ cụ thể. PGS-TS Nguyễn Văn Dân đã không làm được điều này. Đối chiếu với các bài viết về chủ nghĩa Hậu hiện đại của nhà nghiên cứu Thụy Khuê, Nguyễn Minh Quân, Lê Huy Bắc, Lê Nguyên Cẩn, Nguyễn Đức Hiệp, và bài Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn chương của Lewis, Barry do Hoàng Ngọc Tuấn dịch, Hoàn cảnh Hậu hiện đại cùa J.F.Lyotar, Ngân Xuyên dịch…người đọc có thể nhận ra ngay sự sai biệt trong bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân, và ý kiến của GS Phương Lựu về PGS-TS Nguyễn Văn Dân là có cơ sở. GS Phương Lựu viết: “Chỉ một bài viết ngắn được sửa chữa nhiều lần trong nhiều năm qua, mà ý tứ không rõ ràng nhất quán, luận chứng mâu thuẫn không trọn vẹn! Đem những thao tác tư duy như vậy để nhận xét rất trịch thượng về sách báo của đồng nghiệp trong một phần tư thế kỷ đầy những biến chuyển sôi động vừa qua, mà không hề có chút tư duy lịch sử thì làm sao mà tin được.”

Không kể đến việc PGS-TS Nguyễn Văn Dân hiểu chưa thấu đáo về chủ nghĩa Hậu hiện đại được nói đến ở trên, nhà phê bình Nguyễn Hòa còn cho biết: “Tỷ như với Chủ nghĩa cấu trúc trong nghiên cứu văn học, hay Phân tâm học trong phê bình chẳng hạn, muốn nhận biết thì chí ít cũng phải hiểu Chủ nghĩa cấu trúc là gì, Phân tâm học là gì… và điều này theo tôi là nằm ngoài khả năng của đa số nhà văn Việt Nam đương đại.”..[10].

Việc diễn giải một lý thuyết, một trào lưu hay một hiện tượng văn học không bao giờ bảo đảm được trung thực với văn bản gốc. Diễn giải luôn là sai biệt, bởi trước tiên là do trình độ người diễn giải hiểu vấn đề như thế nào, và diễn giải với mục đích gì. Trở lại với chủ nghĩa Hậu hiện đại, bài viết Đằng sau hậu hiện đại của Thích Thanh Thắng diễn giải Hậu hiện đại qua nhãn quan Phật giáo, rất khác với bài Triết học Hậu hiện đại với những ảnh hưởng của nó của Tạ Văn Tịnh OP (Đại chủng viện Vinh Thanh) nhìn qua nhãn qua Thiên Chúa giáo và các bài giới thiệu của Bùi Văn Nam Sơn, Lê Nguyên Cẩn, Nguyễn Đức Hiệp… [11]

Nói về Giải cấu trúc, GS-TS Trần Đình Sử nhấn mạnh: Giải cấu trúc đem lại một ý thức phản tư. Nó muốn soát xét lại tất cả, không trừ một chỗ nào, mọi nguyên lí, định lí, nguyên tắc, phương pháp, nhận định, khái niệm, làm rõ những điểm mù, tìm đến các khía cạnh mới, hợp lí. Giải cấu trúc đòi hỏi phải viết lại văn học sử, viết lại lí luận, đọc lại người trước với tinh thần khoa học, phát hiện mọi ngộ nhận, mọi thành kiến, phát hiện những nhận thức mới, chân lí mới, đưa người đọc vào những tìm tòi mới.”Thực ra GS-TS Trần Đình Sử chỉ muốn mượn Giải cấu trúc để lên tiếng đòi hỏi “xét lại” sự độc tôn của toàn bộ lý luận văn học Mác-xit ở Việt Nam nhiều chục năm qua.

Khác với GS-TS Trần Đình Sử, Lã Nguyên muốn vận dụng Giải cấu trúc vào nghiên cứu văn học, ông đề xuất tìm hiểu 5 luận điểm và trình bày cụ thể: “phân tích văn bản theo nguyên tắc giải cấu trúc nhắm vào hai mục đích: Thứ nhất: khám phá mâu thuẫn của văn bản; Thứ hai: phát hiện “nghĩa bỏ sót” bị đóng kín trong văn bản “đóng kín” trong bản thân nó.”Lã Nguyên không hề đòi hỏi phải “xét lại tất cả, không trừ một chỗ nào, mọi nguyên lí, định lí, nguyên tắc, phương pháp, nhận định, khái niệm; phải viết lại văn học sử, viết lại lí luận…” như GS-TS Trần Đình Sử.

Nguyễn Minh Quân nói về Giải cấu trúc: Giải cấu trúc không đồng nghĩa với sự phá huỷ (destruction) mà trên thực tế nó rất gần gũi với ý nghĩa của sự phân tích có từ nguyên của sự tháo gỡ; giải cấu trúc một văn bản không có nghĩa là đọc một cách ngẫu hứng, bất định và phá bỏ cấu trúc văn bản một cách tự ý, thay vào đó là sự tách rời hết sức cẩn thận những xung lực gây hấn về ý nghĩa chứa đựng trong văn bản./ Việc đọc của một nhà phê bình giải cấu trúc là một sự phản biện văn bản để làm bộc lộ những sự vô thức tiềm ẩn trong ngôn ngữ, ở những điểm mà ý nghĩa bị che khuất, có thể trở nên mâu thuẫn với những ý nghĩa bộc lộ một cách rõ ràng.,”[12]

 Diễn giải của Nguyên Minh Quân về Giải Cấu trúc cũng làm rõ sự sai biệt trong diễn giải của GS-TS Trần Đình Sử. Ta có thể hiểu, chính mục đích diễn giải quyết định việc diễn giải. GS-TS Trần Đình Sử thường mượn Bakhtin, để nói cái nguyện vọng dân chủ trong “đối thoại, đa thanh,”; “Sự đa dạng của nhiều giọng nói, với những ý thức độc lập, khác nhau, tức là sự đa âm đích thực và toàn diện”. GS-TS Trần Đình Sử nói về Ngoại biên- trung tâm là để đòi hỏi đa nguyên về nhận thức. Cách nói bao biện và đầy mâu thuẫn của ông trong bài “Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại” [13] thật khó thuyết phục. Ông khẳng định như đinh đóng cột: “một nền văn hóa sống động thì nó phải sống trên đường biên, và do đó, đa nguyên, giao tiếp, đối thoại, mỗi yếu tố văn hóa đều là sự đan bện của nhiều nguyên tố văn hóa, là đa ngữ, đa thanh.”; “vùng biên là nơi tiếp giáp, giao tiếp của nhiều thế giới, các nền văn hóa khác nhau, các nhân tố khác nhau, cho nên đó là nơi sôi động nhất, phong phú nhất.”; “Bản chất sự sống là ở ngoại biên. Quan niệm về ranh giới của Bakhtin cho ta hiểu rằng, toàn bộ sức sống văn học, nghệ thuật nằm ở đường biên. Kìm giữ văn học, nghệ thuật ở trung tâm là kìm hãm sự phát triển, sinh sôi của chúng. Quan niệm này cũng cho thấy ngoại biên hóa là quy luật khách quan của nghệ thuật và lí thuyết, phê bình.” Khi những khái niệm căn bản chưa được xác lập, thì mọi lý luận đều chông chênh. GS-TS Trần Đình Sử vô cùng lúng túng khi cố gán ghép những khái niệm“đường biên, đường ranh giới, ranh giới, biên giới, lằn ranh, giáp ranh, đường biên, sự tiếp giáp, giáp giới, các đường biên ngang dọc chồng chéo giao cắt nhau, nằm ở khắp nơi, với khái niệm “lề”, vùng biên, ngoại biên, vùng biên là nơi tiếp giáp, giao tiếp của nhiều thế giới …” Ông kết luận: ”Toàn bộ văn hóa, văn học… đều tồn tại trên đường biên, đường ranh giới.”  Nhận định này thật hàm hồ bởi vì ông không chứng minh được trong thực tiễn đời sống văn học Việt Nam và thế giới. Ông có dẫn “Các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Hồ Anh Thái”…Nhưng đây là những nhà văn và tác phẩm của họ xuất hiện trong dòng chảy chính thống, ở trung tâm, chứ không nằm trên đường biên. Những nhà văn ấy vẫn “phản ánh hiện thực”, như văn học chính thống. Thực ra trong nền kinh tế thị trường, văn học Việt Nam phát triển thành ba dòng chảy: Văn học cách mạng (văn học do Nhà nước tổ chức), văn học Dân chủ và Nhân văn, và văn học thị trường. Không có đường biên, vùng biên nào cả. Trong sự xô bồ của phê bình văn học những năm vừa qua, không phải vô tình xuất hiện bài viết: “Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại”. Giải cấu trúc bài viết (tức là xem xét các cặp đối lập nhị nguyên để tìm những ý nghĩa khuất lấp) có thể nhận ra điều này. Ấy là lúc dư luận đang ồn ào về vụ việc “Luận văn Đỗ Thị Thoan”. Trong luận văn này, Đỗ Thị Thoan dùng lý thuyết trung tâm-ngoại vi, và thuyết về cái bên Lề, cái Khác, để giải cái trung tâm, cái chính thống. Dẫn theo Derrida, Foucault, Đỗ Thị Thoan khẳng định “Sự trỗi dậy của cái bên lề – một hiện tượng có tính quy luật của vận động”. Bài viết của GS-TS Trần Đình Sử như một giải trình lý luận nhằm bênh vực Đỗ Thị Thoan. Rất tiếc bài viết tự nó đã không đứng được. Diễn ngôn của ông lộ ra nhiều điều làm cho người ta nghi ngại.

Vì thế thật khó cho những người viết phê bình muốn tìm hiểu bản gốc lý thuyết để có thể vận dụng thực hành. Nếu cứ tin vào sự diễn giải của các nhà phê bình lý thuyết, người viết phê bình rất dễ lầm lạc, và tình trạng sai lệch vẫn đang diễn ra. Các nhà phê bình lý thuyết bước đầu mới chỉ giới thiệu được lý thuyết văn học và phê bình văn học. Con đường phía trước còn dài.

TRÔNG ĐỢI GÌ Ở NHỮNG NHÀ PHÊ BÌNH LÝ THUYẾT?

Trong Hội thảo “Nghiên cứu – phê bình văn học hiện naydiễn ra trong ngày 12/01/2012 tại Viện Văn học, nhà phê bình trẻ Ngô Hương Giang đặt ra vấn đề rằng, phải chăng nền phê bình của chúng ta “…đang là nô lệ của lý thuyết và nô lệ của chính mình?”[đd].

Thực ra đó là thói sùng ngoại và bệnh phô trương kiến thức. Từ bệnh sùng ngoại, coi các lý thuyết phương Tây là chân lý tuyệt đối, và tôn sùng các nhà lý luận phương Tây như các vị “thánh”,  dẫn đến sự nô lệ ý thức chỉ trong gang tấc.

Vấn đề của các nhà phê bình lý thuyết Việt Nam là sự sai biệt trong tiếp thu và diễn giải các lý thuyết văn học, cùng với sự hạn chế trong việc ứng dụng lý thuyết để xem xét văn học Việt Nam.

Chưa một nhà phê bình lý thuyết Việt Nam nào tự mình khám phá ra một lý thuyết văn học mới, cũng chưa có ai đi sâu vào một lý thuyết và từ đó khám phá ra vấn đề mới. Hãy quan sát Trường phái Hình thức Nga. Những thành viên như Boris Eichenbaum, Ossip Brik, Iouri Tynianov, Roman Jakobson, Viktor Chklovski và Boris Tomachevski, mỗi người có khám phá riêng của mình, góp chung vào làm phong phú lý thuyết của cả trường phái. Bakhtin khởi đi từ phương pháp Hình Thức nhưng ông lại chủ trương một nền xã hội học văn chương và trở thành lý thuyết gia về tiểu thuyết. Cũng là phê bình Ký hiệu học, Umberto Eco nói đến Tác phẩm mở, còn Roland Barthes lại nó đến “Độ không của lối viết”…Các nhà lập thuyết phương Tây liên tục đào sâu nhận thức, khám phá những khía cạnh mới của vấn đề, từ đó đề xuất những nhận thức mới. Họ có tài lý luận thuyết phục người đọc, đồng thời chính họ thực hành lý thuyết của mình. Bakhtin đưa ra lý thuyết đối thoạiđa âm trong tiểu thuyết khi ông phân tích các tác phẩm của Dostoïevski. Ở Pháp, J.P.Sartre viết rất sâu sắc về văn chương. Ông đề ra phê bình Phân tâm hiện sinh và chính ông đã phân tâm hiện sinh Baudelaire. Cũng vậy, R. Barthes viết tác phẩm S/Z phân tích truyện ngắn Sarrasine của Balzac như một mẫu mực trong việc nghiên cứu và thực hành phương pháp phê bình Ký hiệu học

Cũng chưa có nhà phê bình lý thuyết Việt Nam nào nhận ra những lỗ hổng của lý thuyết văn học và phê bình văn học phương Tây để phản biện và đề xuất một nhận thức sâu sắc hơn. Chẳng hạn, Ngôn ngữ học của Ferdinand de Saussure cho rằng ký hiệu ngôn ngữ không nối kết một sự vật với tên gọi của nó mà nối kết một ý niệm với một hình ảnh có âm hưởng (tiếng nói). Cái biểu đạt là chữ/ tiếng. Cái được biểu đạt là nghĩa (ý niệm trong đầu). Mối liên lạc giữa Cái biểu đạt (chữ) và Cái được biểu đạt (ý niệm trong đầu) là rất bất kỳ. Ký hiệu ngôn ngữ chỉ là một hình thức diễn đạt. Từ đây, người ta nói đến Cái biểu đạt không dẫn đến Cái được biểu đạt, mà dẫn đến Cái biểu đạt khác, vô tận, và chúng ta sẽ không bao giờ vươn tới được Cái được biểu đạt cuối cùng …

Hiện tượng học của Husserl cho biết: Đối tượng bao giờ cũng là đối tượng cho một ý thức, và ý thức bao giờ cũng là ý thức về một cái gì. Cái ý niệm trong đầu ta chính là một cái gì trong hiện thực được nhận thức. Vì thế ý niệm luôn dẫn đến một cái gì trong hiện thực. Cho nên khi ý niệm được ghi lại bằng một ký hiệu (tiếng nói/chữ viết), thì ký hiệu đó luôn dẫn ta về hiện thực. Phải có vật thể gọi là “bàn”ở trước mặt, thì trong đầu ta mới có ý niệm “bàn”, sau đó, ý niệm “bàn” đó được diễn đạt ra thành tiếng/ chữ viết là “bàn”. Và khi nói hay nghe nói tiếng “bàn” ta hình dung ra ngay một cái bàn trong hiện thực. Các nhà ngữ học và lý luận và phê bình văn học theo F. Saussure đã bỏ mất hoàn toàn phần ý thức về hiện thực này, từ đó phủ định mối quan hệ của văn văn học với hiện thực. Bởi vì Cái biểu đạt luôn dẫn đến Cái biểu đạt khác, không dẫn đến hiện thực. Bakhtin đã bác bỏ Hình thức luận Nga. Ông cho rằng không thể chỉ chú ý đến câu chữ (Cái biểu đạt) mà không xét đến con người đã tạo dựng câu chữ đó (thực thể xã hội tạo nên ý thức). Sartre coi con người là ý thức, dự phóng. Nó luôn phóng mình về phía trước. Nhà phê bình cần tìm ra sự lựa chọn tiên thiên và tìm xem nhà văn định hướng tới cái gì.

Bao giờ thì những nhà phê bình lý thuyết Việt Nam có khả năng như Bakhtin hay Sartre?

Lý thuyết văn học và phê bình văn học là do các nhà lý thuyết đề ra để giải thích văn học.  Mỗi người qua thực nghiệm một số trường hợp cụ thể, từ đó khái quát lên thành nhận thức, vì thế lý thuyết của họ có một phần chân lý, nhưng không lý thuyết nào có khả năng lý giải được mọi vấn đề văn học. Điều quan trọng đối với nhà phê bình lý thuyết không phải là diễn giải lại lý thuyết ấy mà vận dụng lý thuyết để giải thích đời sống văn học đương đại Việt Nam. Khi các nhà phê bình lý thuyết văn học ở Việt Nam phủ định lý luận văn học Mác-xít, phủ định Chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì cũng đồng nghĩa phủ định nền văn học được xây dựng trên nền tảng tư tưởng ấy. Tôi chưa đọc được bài viết hay công trình nào sử dụng các lý thuyết mới để đánh giá văn học kháng chiến chống Pháp hay chống Mỹ, và đánh giá cả dòng văn học Nhân văn và Dân chủ sau chiến tranh. Liệu có thể đem quan niệm trò chơi văn học vào những sáng tác chống Pháp và chống Mỹ được không? Vì thế, đến nay, đã hơn 40 năm, vẫn chưa có những đánh giá thống nhất cho một bộ văn học sử Việt Nam từ 1975 đến 2015.

Bao giờ thì các nhà phê bình lý thuyết trả được món nợ này với thời đại văn học của chính mình?

Nhiều nhà phê bình lý thuyết đã bắt đầu nhận ra sự bất cập trong các lý thuyết văn học phương Tây khi áp dụng vào phê bình văn học Việt nam, họ cho rằng lý thuyết văn học phương Tây là để áp dụng cho văn học phương Tây. Họ đề ra trách nhiệm xây dựng một nền lý luận và phê bình văn học Việt nam, phù hợp với thực tiễn Văn học Việt Nam. Thế nhưng về lý luận, họ mắc kẹt. Bởi không thể kết hợp quan niệm văn học của cha ông xưa (văn học phong kiến) với các quan điểm văn học của Đảng (từ 1945 đến nay), rồi trộn với các lý thuyết văn học tư sản đương đại thành một thứ lý luận văn học gọi là lý luận văn học Việt Nam được hiện đại, tiên tiến. Lý luận phải được nghiên cứu từ thực tiễn sáng tạo, mà văn học Việt Nam từ 1945 đến nay, một bộ phận lớn vẫn được sáng tác bằng phương pháp Hiện thực xã hội chủ nghĩa, phục vụ trực tiếp các nhiệm vụ cách mạng của từng thời kỳ. Chỉ từ 1986 đến nay mới xuất hiện dòng văn học Nhân Văn và Dân chủ sáng tác dưới những quan điểm văn chương khác. Vậy muốn xây dựng một nền lý luận và phê bình văn học mới thì phải dựa trên những sáng tác văn học được viết bằng Chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nếu sử dụng những lý thuyết khác, chắc chắn sẽ dẫn đến sai lạc. “Hãy đọc lời ai điều cho một giai đọan văn nghệ minh họa” của Nguyễn Minh Châu và bài Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua” của Hoàng Ngọc Hiến là những góc nhìn khác về văn học 1945-1975 đã gây ra những phả ứng dữ dội vì bị coi là phủ định văn học cách mạng.

Việc có hai hội đồng khoa học đánh giá rất khác nhau về Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn của học viên Đỗ Thị Thoan, ĐHSP Hà Nội năm 2010; và việc các nhà phê bình lý thuyết không sao đưa ra được các chuẩn mực đánh giá tác phẩm khi văn đàn có sự “loạn chuẩn” là biểu hiện rõ nhất sự bất cập của phê bình lý thuyết đối với đời sống văn học. Trong Tuyển tập Lý luận phê bình văn học 1945-2015 (70 năm) của Hội Nhà Văn Việt Nam, có bài của 130 tác giả thuộc nhiều thế hệ phê bình nhưng chỉ có khoảng 10 bài viết về văn học sau “đổi mới”, còn lại là viết về văn học quá khứ: Truyện Kiều, Cung oán ngân khúc, Ca dao, thơ Hồ Xuân Hương, Thiếu sơn,Tự Lực Văn Đoàn, tập thơ Từ Ấy, , Nhật Ký Trong tù, Xuân Diệu, Vũ Trọng Phụng, Hải Triều, Chế Lan Viên, Nước Nga, Sếc-Xpia, Các-Mác, Lỗ Tấn, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân, Thâm Tâm, Nguyên Hồng, Chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa hiện thực, suy nghĩ về tứ thơ, Nguyễn Thi, Nguyễn Hiến Lê, Claude Lévi-Strauss Quang Dũng,… điều này cho thấy các nhà phê bình lý thuyết xa rời đời sống hiện thực của văn học đương đại như thế nào.

Bao giờ các nhà phê bình lý thuyết mới gỡ mình khỏi những mắc kẹt của lý thuyết để thực sự tự mình tìm lấy một lối đi vào tác phẩm đạt đến việc đánh giá đúng văn học Việt Nam mấy chục năm qua? Tôi trộm nghĩ, phải vài thế hệ nữa các nhà phê bình lý thuyết mới làm được (?)

THAY LỜI KẾT

Trường phái Hình Thức Nga chỉ chú ý đến những giá trị nội tại của chất liệu văn chương, họ tìm kiếm tính văn chương. Họ làm việc trực tiếp trên chữ nghĩa, xác định nghệ thuật là một thủ pháp. Trong khi phê bình Ký hiệu học lại tập chú vào việc tìm hiểu quá sáng tạo của người nghệ sĩ, tìm hiểu cấu trúc tác phẩm, và tìm hiểu sự tiếp nhận của độc giả. Phê bình Phân tâm hiện sinh của Sartre lại khám phá sự chọn lựa tiên thiên của người nghệ sĩ khi sáng tạo. Nói một cách tổng quát, lý thuyết văn học và phê bình văn học đi từ tác giả đến tác phẩm, rồi từ tác phẩm đến người đọc. Yếu tố trung tâm là tác phẩm. Nhưng hình như các nhà lý thuyết coi tác phẩm là một đối tượng siêu hình. Và họ lại để lộ ra một lỗ hổng nữa. Trong các lý thuyết mới, họ không xác lập thế nào là một tác phẩm hay, một tác phẩm giá trị và giá trị của một tác phẩm văn chương là gì. Họ cũng không quan tâm đến điều này là, tại sao trên thế giới nhiều tác phẩm bị cấm phổ biến (thí dụ: Cuốn Những vần thơ của quỷ Satan. Tác giả Salman Rushdie bị truy sát); cũng không xem xét tác phẩm từ mục đích sáng tác (thí dụ, tác phẩm của các nhà văn cách mạng) và mục đích sử dụng (văn chương giải trí), thế nên, ở Việt Nam, Nỗi buồn chiến tranh được đánh giá khác với phương Tây khi họ dịch tác phẩm này. Năm 2017 tác phẩm này cũng không được trao giải thưởng Nhà nước, dù nó rất “nổi tiếng”.

Chân lý là cụ thể, không có chân lý siêu hình. Những gì là chân lý của phương Tây thì khác với cái chân lý phương Đông. Vì thế trước hết cần phải Giải cấu trúc những Đại tự sự (lý thuyết phê bình phương Tây), Giải cấu trúc cái tư duy vọng ngoại trước khi xây dựng nền lý luận, phê bình văn học Việt Nam. Tôi nghĩ các nhà phê bình lý thuyết đều hiểu rõ điều này. Vấn đề còn lại là…

Tháng 4. 2017

Nguồn: Bùi Công Thuấn: Lý luận và phê bình văn học-Diện mạo của một thời

____________

 [a] Nguyễn HòaMột số lý thuyết ngoại nhập và văn học Việt Nam gần đây

http://vanvn.net/ong-kinh-phe-binh/mot-so-ly-thuyet-ngoai-nhap-va-van-hoc-viet-nam-gan-day/457

[b] Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy – Kẻ thích chia rẽ dư luận

http://www.tienphong.vn/van-nghe/nha-phe-binh-do-lai-thuy-ke-thich-chia-re-du-luan-618028.tpo

[c] Lã Nguyên-“Đây thôn Vỹ Dạ-Bản tốc ký tâm trạng và khát vọng ngàn đời

https://caulacbovanhoc2015.wordpress.com/2016/05/20/day-thon-vi-da-ban-toc-ky-tam-trang-va-khat-vong-ngan-doi/

[d] Hồ Sỹ Vịnh-Toàn cảnh lý luận phê bình văn học thế kỷ XX

http://hanamtv.vn/?modul=letter&sub=view&lg=1&list=31&cid=8&nid=31

[e] Lã Nguyễn:

https://languyensp.wordpress.com/2016/01/29/su-tiep-nhan-cac-li-thuyet-van-nghe-hien-dai-phuong-tay-tu-1986-den-nay/

https://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/viet-nam-the-ky-xx-va-nhung-xu-huong-lua-chon-tu-tuong-van-nghe-nuoc-ngoai

http://vanvn.net/tu-doi-vao-van/li-luanphe-binh-van-hoc-viet-nam-thoi-hau-chien/929

[4] Xin đọc các bài:

https://trandinhsu.wordpress.com/2013/06/13/giai-cau-truc-va-chuyen-doi-hinh-thai-dien-ngon-trong-li-luan-phe-binh-van-hoc-trung-quoc/

Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa (Nguyễn Minh Châu)

Về một đặc điểm của văn học nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua (Hoàng Ngọc Hiến)

Khái niệm phương pháp sáng tác trong lí luận phê bình văn học mác xít là nguỵ tạo (Trần Đình Sử)

[5] www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=14521&rb=0106

[6] Trần Đình Sử-Lí luận văn học- khủng hoảng và lối thoát

http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/Lyluanvanhoc/tabid/104/newstab/111/Default.aspx

[7] Nguyễn Văn Dân-Tình hình tiếp thu các lý thuyết văn học của thế giới từ ngày đổi mới đến nay:

http://vci.vnu.edu.vn/an-pham/tinh-hinh-tiep-thu-cac-ly-thuyet-van-hoc-cua-the-gioi-tu-ngay-doi-moi-den-nay.html

[8] Nguyễn Văn Dân-Chủ nghĩa hậu hiện đại-Tồn tại hay không tồn tại:

http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/vhh-cac-truong-phai-trao-luu/2097-nguy-n-van-dan-ch-nghia-h-u-hi-n-d-i-t-n-t-i-hay-khong-t-n-t-i.html

[9] Phương Lựu-Đôi lời trao đổi lại với bạn Nguyễn Văn Dân:

https://nhavantphcm.com.vn/tac-pham-chon-loc/nghien-cuu-phe-binh/phuong-luu-trao-doi-voi-nguyen-van-dan.html

[10] http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/ly_luan-phe_binh_van_hoc_va_cac_van_nan-4.html

[11]Thích Thanh Thắng: http://huongsenviet.blogspot.com/2007/12/ng-sau-hu-hin-i.html

      Tạ Văn Tịnh OP: http://daichungvienvinhthanh.com/triet-hoc-hau-hien-dai-va-nhung-anh-huong-cua-no/

      Bùi Văn Nam Sơn: www.amvc.free.fr.

      Lê Nguyên Cẩn (ĐHSP Hà Nội): http://vhnt.org.vn/tin-tuc/sach-hay-nen-doc/29243/mot-cach-nhan-dien-ly-thuyet-van-hoc-hau-hien-dai

      Nguyễn Đức Hiệp (Sydney): http://www.husc.edu.vn/khoavan/articles.php?article_id=499

[12] Nguyễn Minh Quân: www.tienve.org/home/viet/viewVietJournals.do?action=viewArtwork&artworkId

[13] Trần Đình Sử: https://trandinhsu.wordpress.com/2013/07/28/ngoai-bien-hoa-trong-tien-trinh-van-hoc-viet-nam-duong-dai/

__________________________

PHỤ LỤC

(Thống kê những tác giả nổi bật)

Những người viết phê bình văn học Việt Nam hiện nay không thể không biết đến các tên tuổi đã góp phần làm nên diện mạo phê bình của một thời, và hơn thế, họ đã góp phần thúc đẩy phê bình văn học Việt Nam từ Chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa tiếp cận với phê bình văn học thế giới đương đại.

Nhà biên khảo Thụy Khuê ở Paris, chia sẻ với nhà phê bình trẻ điều này: Chỉ có sự làm việc và học hỏi sẽ giúp ta làm nên sức mạnh của riêng mình, giúp ta xây dựng một ngành phê bình riêng, có nhã độ và minh triết Á Đông./ Đường còn dài, sớm cũng phải nửa thế kỷ nữa, bởi hiện giờ chúng ta đang ở mức độ sao chép tất cả những gì người Tây phương viết mà không kiểm chứng lại và chúng ta chưa thực sự có ý kiến, có tiếng nói của riêng mình./ Chúc bạn thượng lộ bình an.”. Đó là lời kết trong loạt bài Thụy Khuê giới thiệu các lý thuyết phê bình văn học thế kỷ XX ở Phương Tây. Loạt bài này được viết từ 2005 đến 2016:

Phê bình cũ, phê bình mới

Phê bình phân tâm học

Trường phái Hình thức Nga

Những nhà Cấu trúc Nga

Bakhtin và xã hội học văn chương

Trường phái Bác ngữ học Đức

Phê bình ý thức: Marcel Raymond, Geogers Poulet,

Phê bình phân tâm tưởng tượng vật chất: Gaston Bachelard,

Phê bình phân tâm hiện sinh: Jean-Paul Sartre;

Maurice Blanchot với lý thuyết về sự im lặng của văn chương (vô thể)

Phê bình ký hiệu học: Umberto Eco, Roland Barthes

Hậu hiện đại của Jean-François Lyotard trong cuốn Điều kiện hậu hiện đại

Những năm đầu thế kỷ XXI, TS Nguyễn Hưng Quốc ở Úc cũng giới thiệu khái quát các lý thuyết văn học:

Hình thức luận của Nga (Formalism)

Phê Bình Mới của Anh và Mỹ (New Criticism)

Cấu trúc luận (Structuralism)

Hậu cấu trúc luận / Giải cấu trúc (Poststructuralism/Deconstruction)

Các lý thuyết Mác-xít (Marxist Theories)

Thuyết người đọc (Reader Theory)

Phân tâm học (Psychoanalysis)

Nữ quyền luận (Feminism)

Thuyết lệch pha (Queer Theory)

Chủ nghĩa hậu thực dân (Postcolonialism)

Chủ nghĩa hậu hiện đại (Postmodernism)

Chủ nghĩa tân duy sử (New Historicism) và Chủ nghĩa duy vật văn hoá

(Cultural Materialism)

Nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Quân (Victoria University, Melbourne) có các tiểu luận: Chủ nghĩa hậu hiện đại: những khái niệm căn bản (Văn nghệ quân đội đăng lại 2012). Lý thuyết và phê bình văn học đương đại: từ cấu trúc luận đến giải cấu  trúc (2001). Liên văn bản – sự triển hạn đến vô cùng của tác phẩm văn học (2001). Về văn học hypertext.

Nhà thơ Ngu Yên có chuyên luận Ý Thức Về Ký Hiệu Học

Nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc (Cal State University và Golden West College) có các tiểu luận: Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước, 1975-1995 (1996). Trịnh Công Sơn / Ngôn Ngữ & Những Ám Ảnh Nghệ Thuật (2005). Ngôn Ngữ và Văn Hóa Việt Nam (giáo trình đại học.1992). Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam (1954–1975): Phẩm Tính và Ý NghĩaTruyện ngắn, mỹ học của cái vụt qua. Dịch thuật (văn học) trong bối cảnh toàn cầu hóa: Một số chiến lược diễn dịch & những hệ hình mới. Cái đẹp của ngôn ngữ & nét hậu hiện đại trong khả thể (2015). Về tính vũ đoán trong viết, đọc, và thẩm thức văn chương (2009). Vấn đề thẩm thức một tác phẩm nghệ thuật (2009)

 PGS-TS Nguyễn Đăng Điệp (Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam) có các chuyên luận và bài viết: Giọng điệu trong thơ trữ tình (2002), Tự sự học, tập 1 (viết chung) 2004; Thi pháp học ở Việt Nam (đồng chủ biên- 2010). Buồn vui phê bình văn học hôm nay (2012). Thơ mới từ góc nhìn sinh thái học văn hóa (2014). Thơ và người đọc trong kỷ nguyên toàn cầu hóa – Nguyễn Đăng Điệp (2015) Kinh tế thị trường, xã hội tiêu dùng và văn học đại chúng (2016)

 PGS-TS Trịnh Bá Đĩnh (Viện Văn học) có các chuyên luận và bài viết: N.I.Konrad: Giải thích văn bản và so sánh văn học (2007). Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, (2002). Tiếp cận văn học Việt nam từ các lý thuyết phương Tây (2011). Phê bình văn học Việt Nam hiện đại, Tuyển tập phê bình, (2011). Lịch sử lí luận phê bình văn học Việt Nam, Chuyên khảo (2012). Cấu trúc văn bản nghệ thuật của Yu.M. Lotman (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch ra tiếng Việt. 2004). Các lý thuyết thi pháp học cấu trúc (Tạp chí Văn học 2002). Nhận diện lý luận phê bình văn học hiện nay.

PGS-TS Trương Đăng Dung (Nguyên Phó viện trưởng Viện Văn học: 1995-2010) có các chuyên luận và bài viết: Từ văn bản đến tác phẩm văn học (1998). Tác phẩm văn học như là quá trình (2004). Về đặc trưng của phản ảnh nghệ thuật trong mĩ học C.Caudwell và G. Lukacs (1990.) C.Caudwell: Ảo ảnh và hiện thực, (Trương Đăng Dung dịch.  2000) Những đặc điểm của hệ thống lí luận văn học macxít thế kỉ XX. (2001). Hai mô hình lí luận trên một vấn đề (2001.) Tri thức và ngôn ngữ trong tinh thần hậu hiện đại (2012). Văn bản là gì? (Trương Đăng Dung dịch Paul Ricoeur. 2016) Văn bản văn học và sự bất ổn của nghĩa. Những giới hạn của lý thuyết văn học nước ngoài ở Việt Nam. 2017

GS-TS Trần Đình Sử (Đại học Sư phạm Hà Nội) có các chuyên luận và bài viết: Lí luận văn học soạn chung với Phương Lựu 1986. Thi pháp thơ Tố Hữu, 1987. Thi pháp Truyện Kiều, 2002. Dẫn luận thi pháp học (2004). Giáo trình Lí luận văn học tập 2; 2008. Trên đường biên của Lý luận văn học” (2015).

Các bài viết:

Giải cấu trúc và nghiên cứu, phê bình văn học hôm nay (2010),

Cần đưa khái niệm phương pháp sáng tác ra khỏi hệ thống lí luận phê bình văn                                                                                        học ở Việt Nam (2012),

Khái niệm phương pháp sáng tác trong lí luận phê bình văn học mác xít là nguỵ tạo. (2012),

Lí luận văn học nước ngoài hiện nay và phương hướng biên soạn giáo trình               lí luận văn học ở Việt Nam trong tương lai (2012)

Quan niệm diễn ngôn như là yếu tố siêu ngôn ngữ của nghiên cứu văn học(2012)                                                                                                         

 Lý thuyết Cácnavan hoá của M.Bakhtin và tư duy tiểu thuyết hiện đại;

Các khuynh hướng phê bình văn học Việt Nam hiện nay (2013)

Phê bình văn học chuyên nghiệp – một cái nhìn lịch sử (2013)

Toàn cảnh thi pháp học (2013)

Khoảng trống trong văn bản học (2013)

Lí luận văn học – khủng hoảng và lối thoát (2013- đăng lại trên vanviet 2017)

Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại (2013)

Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm nay (2013)

Bản chất xã hội, thẩm mĩ của diễn ngôn văn học (2013)

Bước ngoặt diễn ngôn và sự đổi thay hệ hình nghiên cứu văn học (2014),

Lí luận văn học Việt Nam hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hóa – triển vọng và thách thức (2014),

Tiếp nhận phương pháp luận xã hội học Mác xít trong nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam trước 1986 (2015),

Mã và giải mã trong văn học (2015,

Khái niệm sự kiện trong Tự sự học hiện đại (2015),

Tác phẩm văn học như  là kí hiệu nghệ thuật (2016,

Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học hiện nay…

PGS-TS Nguyễn Văn Dân (Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) có các chuyên luận và bài viết: Lý luận văn học so sánh (1998).         Chủ nghĩa hiện đại trong văn học nghệ thuật (2013).

Bài viết:

Góp phần tìm hiểu phương pháp cấu trúc 2009

Sức sống dai dẳng của kỹ thuật “dòng chảy ý thức” 2010

Đừng làm rối trí người đọc. 2010

Giới hạn của vai trò người đọc. 2011

Chủ nghĩa Biểu hiện 2011

Chủ nghĩa Hậu hiện đại-Tồn tại hay không tồn tại 2011

Đi tìm một hiện thực khác bằng con đường siêu thực 2012

Xu hướng duy khoa học của chủ nghĩa lập thể 2012

Cuộc cách mạng của chủ nghĩa trừu tượng. 2012

Nguy cơ rối loạn hệ thống lý luận trong nghiên cứu văn học nghệ thuật 2012

Cần hiểu thủ pháp lạ hoá như thế nào?

Dấu ấn phương tây trong văn học Việt Nam hiện đại – vài nhận xét tổng quan,

Các lý thuyết nghiên cứu văn học và tính khả dụng. 2016

           Tư duy lý luận văn học Đông – Tây và ảnh hưởng của nó đến lý luận văn học

                                                                                                       Việt Nam hiện đại.

          Phê bình dưới sự dẫn dắt của lý luận hay áp đặt định kiến?…

 PGS-TS Phạm Quang Trung (Trường Đại học Đà Lạt) có các chuyên luận và bài viết:

Tiếp cận giá trị văn chương (lý luận, phê bình – 1995); Lý luận trước chân trời mở (lý luận – 1998);  Lặng lẽ giữa trang văn (lý luận, phê bình – 1998); Nhà văn Xuân Thiều như tôi được biết (phê bình – 1999);  Thổ cẩm dệt bằng thơ (phê bình – 1999); Sống với văn chương cùng thời (lý luận, phê bình – 2000); Thức cùng trang viết (lý luận, phê bình – 2003); Đến từ con chữ (lý luận, phê bình) – 2007; Ai tri âm đó (lý luận, phê bình – 2009); Hồn cây sắc núi (lý luận, phê bình – 2010); Mỹ học (Giáo trình Đại học – 2010); Quan niệm văn chương cổ Việt Nam – Từ một góc nhìn (chuyên luận – 2011); Nhắp chuột cùng mạng văn chương (phê bình – 2011); Nghệ thuật của ngôn từ (lý luận, phê bình – 2013)…

Bài viết:

Chung quanh khái niệm “tầm đón nhận” của H. Jauss. 2010

Chung quanh quan niệm mô thức của Northrop Frye. 2013

Tác phẩm văn chương như một sinh thể tinh thần

Tiến trình hiện đại hóa phê bình văn chương Việt Nam thế kỷ XX

Nên tiếp nhận tác phẩm văn chương như thế nào?

PGS-TS La Khắc Hòa (Lã Nguyên-ĐHSP Hà Nội) dịch và giới thiệu nhiều tài liệu về lý luận và phê bình văn học:

M.Bakhtin và học thuyết thể loại văn học,

Các lý thuyết diễn ngôn hiện đại: Kinh nghiệm phân loại– O.F. Rusakova

Văn bản-Liên văn bản-Lí thuyết liên văn bản- G.K. Kosikov

Kí hiệu học văn hóa và khái niệm văn bản- Juri Lotman

Lý thuyết kể chuyện của Y. M. Lotman

Lí thuyết tự sự theo hướng tiến hóa luận của V. B. Shklovski

Lý thuyết tiến hóa văn học của Y.N.Tynhianov

Tân Tu từ học- Iu.V. Satin 

Trần thuật học như là khoa học phân tích diễn ngôn trần thuật V.I. Chiupa

Trò chơi (trong văn học)- A.E. Makhov

O.M.Freidenberg và Tự sự học theo hướng Di truyền luận

Bốn nhận xét ngắn về nền tảng triết học và cơ sở phương pháp luận của Chủ

                                                                                                     nghĩa Cấu trúc

Mĩ học Mác-xít phương Tây trong nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam từ 1986

                                                                                                                  đến nay

Kết cấu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ- Juri Lotman

Lí luận văn nghệ Mác-xít Việt Nam-nhìn từ bản gốc.

Số phận lịch sử của nền lý luận văn học Xô-viết chính thống.

Một nền thi pháp học sụp đổ-Julia Kristeva

Thay đổi khung tri thức và mô hình lí thuyết là tiền đề nâng cao hiệu quả của

                                                         hoạt động nghiên cứu, phê bình văn học.

 

TS Trần Hoài Anh (Trường Đại học Văn hóa Tp Hồ Chí Minh) có các chuyên luận và bài viết:

Lý luận – Phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954 -1975 (2009).

Thơ – Quan niệm và Cảm nhận (tiểu luận phê bình- 2010)

Văn học nhìn từ Văn hóa (tiểu luận phê bình-2012)

Bài viết:

Về khuynh hướng phê bình hiện sinh ở đô thị miền Nam 1954-1975

Vấn đề ứng dụng phân tâm học vào phê bình văn học ở đô thị miền nam 1954-1975

Nhà văn trong quan niệm của lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975

Quan niệm về Tác phẩm văn học của lý luận – phê bình văn học đô thị miền Nam 1954-1975

Quan Niệm Về Thơ Trong Lý Luận Phê Bình Văn Học Đô Thị Miền Nam 1954 – 1975

Từ lý luận – phê bình văn học miền Nam trước 1975 nghĩ về sự đổi mới lý luận – phê bình văn học dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa 

Quan hệ văn học và tôn giáo ở miền Nam trước năm 1975

TS Ngô Tự Lập (Khoa Quốc tế – ĐHQG Hà Nội) có các chuyên luận và bài viết:

Những đường bay của mê lộ. 1999

Văn chương như là quá trình dụng điển. 2008 

Ba cách hiểu về Hậu hiện đại. 2013

Để tránh những cuộc tỷ thí với cối xay gió. 2007

Giải kiến tạo là gì?

Lý luận văn học: Từ những hệ hình quy chiếu bất bình đẳng đến một cách tiếp cận tổng thể. (Lời nói đầu cuốn “Văn chương như là quá trình dụng điển”)

Nhóm Bakhtin những vị tiền bối của chủ nghĩa hậu hiện đại (Ngô Tự Lập-Ngô Minh Thùy)

Chủ nghĩa Marx và triết học ngôn ngữ” của V. N. Voloshinov

– Ngô Tự Lập dịch 2015

Lời trong đời sống và lời trong thơ, các vấn đề của thi pháp xã hội học

-Voloshinov -Ngô Tự Lập dịch 2016

 

GS Trần Văn Đoàn (Giáo Sư Triết Học, ĐHQG Đài Loan) Tác giả trên 15 tập sách chuyên khảo và hơn 150 luận văn nghiên cứu khoa học viết bằng Việt, Trung, Anh, Đức, Pháp và Ý ngữ.

Thông Diễn Học và Khoa Học Xã Hội Nhân Văn (2004). Hậu Hiện Đại Thuyết (Hà Nội, 2005).

 

TS Trần Thiện Khanh (Viện Văn học)

Phân tâm học với văn học (in chung – 2014)

Các tham luận trong một hội thảo:

Hội thảo “Nghiên cứu – phê bình văn học hiện nay” diễn ra trong ngày 12/01/2012 tại Viện Văn học. Các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đến từ Viện thông tin KHXH, Viện nghiên cứu Văn hóa, Đại học KHXH và NV- ĐHQG, Đại học Văn hóa, Đại học Sư phạm II, Đại học Vinh, Đại học Sư phạm Huế, Đại học Khoa học Huế, Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

“Các tham luận đã đề cập đến những vấn đề thời sự của nghiên cứu, phê bình và dịch thuật văn học ở nước ta hiện nay: Phê bình văn học dưới những thiết chế truyền thông của Ths. Phan Tuấn Anh (Đại học khoa học Huế), Những tranh luận về văn xuôi hư cấu lịch sử và sự chuyển biến của tư duy lịch sử hiện nay của Ths. Đỗ Hải Ninh (Viện Văn học), Tình hình nghiên cứu, phê bình, dịch thuật văn học Nga tại Việt Nam những năm gần đây của Ths. Đỗ Thị Hường (Viện Văn học), Trước sự nô lệ của lý thuyết (Con đường thử thách của phê bình văn học Việt Nam) của Ths. Ngô Hương Giang (Đại học khoa học Huế), Cấu trúc luận trong nghiên cứu biểu tượng: từ ký hiệu học đến nhân học biểu tượng của TS. Đinh Hồng Hải (Viện nghiên cứu Văn hóa), Khái niệm tác giả hàm ẩn trong lý thuyết tu từ học tiểu thuyết của Ths. Cao Kim Lan (Viện Văn học), Vài nét về việc nhìn lại lý thuyết văn học ở Pháp của Ths. Cao Việt Dũng (Viện Văn học), Phê bình văn học Việt Nam hiện nay: một số thách thức và giải pháp, Đỗ Văn Hiểu, Trường ĐHSP Hà Nội (NCS. Viện Văn học, Đại học Nhân dân Trung Quốc); Phê bình tương tác, Đoàn Minh Tâm, Tạp chí Văn nghệ Quân đội; “Trò chơi ngôn ngữ” và phê bình văn học: (trường hợp phê bình thơ Nôm Hồ Xuân Hương của Trần Thanh Mại và Xuân Diệu), Hoàng Phong Tuấn, NCS. Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh; Phê bình – người đọc tiền phong, Khánh Phương, nhà phê bình văn học; Có một “diễn ngôn” phê bình văn học hiện nay hay không? Nguyễn Chí Hoan, Báo Văn nghệ; Về mối quan hệ giữa dịch thuật và nghiên cứu văn học ở Việt Nam, Nguyễn Duy Bình, Viện nghiên cứu văn hóa, Đại học Vinh; Lê Tuyên trong cái nhìn mơ mộng (Hay là phê bình hiện tượng học văn học tại Việt Nam), Nguyễn Mạnh Tiến, Viện Văn học; Vài nét về lý luận phê bình văn học nữ quyền phương Tây, phương Đông – nghiên cứu văn chương nữ Việt Nam, Nguyễn Thị Hiền, Viện thông tin khoa học xã hội, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam; Vài suy nghĩ về đặc trưng của văn chương và chỗ đứng của nhà phê bình, Nguyễn Văn Thuấn, Đại học Sư phạm Huế; Phê bình – nhìn từ gốc, Phạm Xuân Thạch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; Điều kiện hậu hiện đại của văn học Việt Nam, Phùng Gia Thế, Đại học Sư phạm Hà Nội II; Người đọc – vị quyền của nhà phê bình trước thị trường dư luận, Vũ Thị Thu Hà, Viện Văn học; Truyện ngắn đương đại Việt Nam – những đổi mới tư duy thể loại, Lê Dục Tú, Viện Văn học;…Số lượng tham luận và những vấn đề được đặt ra từ các tham luận này cho thấy sự phong phú, đa dạng của các vấn đề nghiên cứu, phê bình và dịch thuật.”[1]

Nguyễn Hồng Dũng-ĐH Huế thống kê tác phẩm viết về chuyên đề [chủ nghĩa] Hậu hiện đại được:

Năm 1991 bài tiểu luận Vài suy nghĩ về cái gọi là tiểu thuyết hậu hiện đại của Antonio Blach, nhà phê bình Tây Ban Nha. Năm 1997, có bài tiểu luận Về chủ nghĩa hậu hiện đại của Jonh Verhaar (Lộc Phương Thủy dịch). Năm 1998, tcó bài viết Những giớihạn của phạm trù tác giả trong văn học hậu hiện đại của Viliam Marcok (Lại Nguyên Ân dịch). Từ năm 2000 trở đi: Công trình Lý thuyết văn chương hậu hiện đại của Niall Lucy (Nguyễn Thị Ngọc Nhung dịch). Năm 2003, công trình Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20 do I.P.Ilin và E.A.Tzurganova chủ biên (những người dịch: Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân). Cũng vào năm 2003, chuyên luận Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn học Âu châu thế kỷ XX (1900 – 1959) của R.M.Alberes (Vũ Đình Lưu dịch). Năm 2003 Nhà xuất bản Hội nhà văn và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây đã phát hành bộ sách 2 tập: Tập 1: Văn học hậu hiện đại thế giới – Những vấn đề lý thuyết (Lại Nguyên Ân, Đoàn Tử Huyến biên soạn), tập 2: Truyện ngắn hậu hiện đại thế giới (Lê Huy Bắc tuyển chọn, giới thiệu). Năm 2004, công trình Phê bình – lý luận văn học Anh Mỹ (3 tập) do Lê Huy Bắc biên soạn. Cũng trong năm 2004, tập tiểu luận Đi tìm sự thật biết cười của Umberto Eco (Vũ Ngọc Thăng dịch). Năm 2006, Đỗ Lai Thúy biên soạn và giới thiệu cuốn Theo vết chân những người khổng lồ Tân Guylivơ phiêu lưu ký về các lý thuyết văn hóa. Cuốn sách có 2 bài về hậu hiện đại: Phân tích văn hóa theo thuyết hậu hiện đại của Steven Seidman và Phê phán hậu hiện đại và hậu cấu trúc của Buckminster Fuller (đều do Thiệu Bích Hường dịch). Năm 2008, cuốn Hoàn cảnh hậu hiện đại của Jean Francois Lyotard, Nhà xuất bản Tri thức (Ngân Xuyên dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính)  Trong năm này, còn có bài viết Tiểu thuyết chính trị hậu hiện đại của Stephen Baker, in trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 5 (Phạm Phương Chi dịch). Năm 2008, còn có các cuốn Nguy cơ của Dan Gardner, (Ngọc Trung và Kiều Vân dịch); Kỷ nguyên hỗn loạn – Những cuộc khám phá trong lòng thế giới mới của Alan Greenspan (nhóm dịch Nguyễn Hồng Quang); Thế giới phẳng – Tóm lược lịch sử thế giới thế kỷ XXI của Thomas l.Friedman (nhóm dịch Thái Quang A); Hiện đại hóa và Hậu hiện đại hóa của Ronald Inglehart, (Nguyễn Thị Phương Mai, Nguyễn Chí Tình, Nguyễn Mạnh Trường dịch, Vũ Thị Minh Chi hiệu đính). Từ những năm 2009 đến 2013, đáng chú ý nhất là các cuốn Nóng, Phẳng, Chật của Thomas Friedman (Nguyễn Hằng dịch); Súng, Vi trùng và Thép – Định mệnh của các xã hội loài người của Jared Diamond (Trần Tiễn Cao Đăng dịch); Nhận diện quyền lực của Noam Chomsky (Hoàng Văn Vân dịch, Đinh Hoàng Thắng hiệu đính); Nietzsche và triết học của Gilles Deleuze (Nguyễn Thị Từ Huy dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu dính); Hướng đến kỉ nguyên hậu nhà nước phúc lợi do Tom G. Palmer (Chủ biên), …[2]

____________

[1] Nhận diện nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay.

http://toquoc.vn/doi-song-van-hoc/nhan-dien-nghien-cuu-phe-binh-van-hoc-hien-nay-104715.html

[2] lib.husc.edu.vn/…/TC%20KHOA%20HOC%20VA%20CONG%20NGHE/…/1.2.%20…

TS CHU VĂN SƠN và PHÊ BÌNH VĂN HỌC

Lý luận và phê bình văn học- Diện mạo của một thời

TS CHU VĂN SƠN

Bùi Công Thuấn

Chu Văn Sơn

TS Chu Văn Sơn

 

TS Chu Văn Sơn là giảng viên khoa Văn Đại học sư phạm Hà Nội. Học trò ca ngợi ông trên báo là “người thầy tài hoa, nhà phê bình tài hoa, nhà văn tài hoa “[1]. Những lời tụng ca này quá đủ vinh quang cho một đời cầm bút. Bởi trong văn chương, rất hiếm người tài hoa. Văn học Việt Nam đương đại chỉ có mình Nguyễn Tuân xứng với sự vinh danh này.

Trong những bài phê bình, TS Chu Văn Sơn có nhiều phát hiện tinh tế, sâu sắc, có cách viết bay bổng nghệ sĩ, và một giọng văn riêng, vừa gần gũi bình dân vừa thanh lịch.

Tôi đọc bài ông viết và xin được chia sẻ đôi điều về phê bình

  1. Đàn ghita của Lorca (thơ Thanh Thảo)[2]

Bài giảng bình Đàn ghi ta của Lorca, thơ Thanh Thảo của TS Chu Văn sơn là một bài viết khá công phu. Tôi không lặp lại nội dung những gì ông viết. Chỉ ghi nhận đôi điều.

TS Chu Văn Sơn nỗ lực giải mã bài thơ, nhưng ông sa vào các chi tiết mà không phát hiện ra bút pháp chính của bài thơ là bút pháp Siêu thực. Bút pháp Siêu thực sử dụng những hình ảnh tượng trưng, phi logic, hoang tưởng, ngẫu nhiên. Nếu đọc và giảng bình bài thơ theo kiểu nhận thức lý trí logic thì sẽ không thể hiểu. Chính ông cũng tự nhận rằng: “đọc kĩ hơn thì thấy hình như có một nghĩa lý nào đó hay hay, chứ không hẳn chỉ là những con âm rỗng nghĩa. Nhưng thực hư ra sao, thì cứ tù mà tù mù …”.

Ông đã đọc kỹ hơn mà vẫn thấy “tù mà tù mù”, nghĩa là không sao hiểu được ý nghĩa của những hình ảnh, những câu, những chữ nói điều gì. Bởi đó là hình ảnh siêu thực. ”Cái biểu đạt” không dẫn về “Cái được biểu đạt”, cũng không dẫn tới một “Cái biểu đạt khác”, vì thế ông không thể suy diễn, dù là những ấn tượng cảm tính. Cánh cửa nghệ thuật đóng chặt trước mặt ông, giống như Hoài Thanh ngày xưa bất lực trước thơ của Xuân Thu Nhã Tập. Ông càng suy đóan thì lại càng chông chênh. Ông hoài nghi ngay cả điều ông khẳng định. Ông viết: Mà cũng không chỉ vay cấu trúc thuộc văn bản khúc ca, anh còn mượn cả lối diễn tấu ca khúc để làm giàu cho hình thức thơ nữa. Đàn ghi-ta của Lorca là một “ca” như thế chăng?”

Trong bài viết của ông có rất nhiều câu hỏi hoài nghi như vậy (không phải là câu hỏi tu từ):

Gốc gác âm nhạc của chúng, đôi khi, chỉ còn là kí ức xa xăm. Đó phải chăng cũng là một kiểu hoà nhập tiếp biến?”;

ngôn ngữ của nhạc, cấu trúc của ca khúc sẽ bắc những nhịp cầu tương giao để hồn kẻ hậu sinh nói lời đồng điệu với bậc tiền nhân của xứ sở Tây ban cầm. Ngón ấy chẳng tương thích sao ?”;

Nhờ đó, hình tượng Lorca và suy cảm Thanh Thảo đã nói chung một thứ tiếng là dòng thi liệu đã trộn vào nhau đó. Thì tương giao, tâm giao cũng còn là thế chứ sao ?”;

 “Có phải câu ấy được viết theo lối “nghệ thuật sắp đặt” không, mà cứ đơn giản y như đặt hai hình ảnh bên nhau : giọt nước mắt – vầng trăng thế thôi ?”;

Vì không thể thâm nhập được vào cấu trúc thơ, ông đã bỏ qua những câu thơ, đoạn thơ rất hay. Đây là một đoạn ông né tránh:

                         “tiếng ghi -ta nâu

                          bầu trời cô gái ấy

                          tiếng ghi -ta lá xanh biết mấy

                          tiếng ghi -ta tròn bọt nư­ớc vỡ tan

                          tiếng ghi -ta ròng ròng

                          máu chảy

                  

                          không ai chôn cất tiếng đàn

                          tiếng đàn như­ cỏ mọc hoang

                          giọt nư­ớc mắt vầng trăng

                          long lanh trong đáy giếng…”

 

Xin đọc một đoạn ông bình tán câu cuối đoạn thơ trên:

“Riêng cái câu giọt nư­ớc mắt vầng trăng trong đoạn bày tỏ nỗi đau xót và tiếc thương trước cái chết hết sức thương tâm của Lorca mà lời thơ kết hợp cả trượng trưng thơ Đường với tượng trưng Thơ Mới :

                          không ai chôn cất tiếng đàn/

                         tiếng đàn như­ cỏ mọc hoang

                         giọt nư­ớc mắt vầng trăng

              long lanh trong đáy giếng

cũng thấy được vẻ súc tích của nó. Có phải câu ấy được viết theo lối “nghệ thuật sắp đặt” không, mà cứ đơn giản y như đặt hai hình ảnh bên nhau : giọt nước mắt – vầng trăng thế thôi ?”

Thú thực, khi mới đọc bài thơ này trong tập Khối vuông Rubic, tôi thấy cái chuỗi kia là một nét lạ, nhưng nhác nghĩ : lại một trò “tân hình thức” đây. Cha Thanh Thảo này cũng bày đặt gớm. Nhưng đọc kĩ hơn thì thấy hình như có một nghĩa lý nào đó hay hay, chứ không hẳn chỉ là những con âm rỗng nghĩa. Nhưng thực hư ra sao, thì cứ tù mà tù mù…”

Lưu ý rằng, hai câu thơ này đi cặp đôi với nhau mới tạo nghĩa, nhưng ông bỏ mất câu sau: “giọt nư­ớc mắt vầng trăng/ long lanh trong đáy giếng”.

 Trong đoạn bình thơ trên, Chu Văn Sơn còn lộ ra điều này. Ông đã không hiểu đoạn thơ được viết bằng bút pháp Siêu thực, mà còn gán cho đoạn thơ là thơ “Tân hình thức”, “nghệ thuật sắp đặt”. Nghĩa là ông không biết gì về hai thể thơ này (Thơ Tân hình thức và nghệ thuật sắp đặt”) mà cứ viết bừa cho nó ra vẻ “uyên bác” và hiện đại!

Nói về bài thơ này và nghệ thuật Siêu thực thì dài dòng, xin chia sẻ với ông và bạn đọc bài BCT viết về Đàn ghita của Lorca đăng trên báo Giáo dục và Thời đại số 144, ngày 17.6.2013, hoặc xin đọc theo link dưới đây [3]

Đoạn văn sau đây là đặc trưng phong cách ngôn ngữ của Chu Văn Sơn. Ông nhận xét về Thanh thảo: ”Còn để viết thơ ngắn, lắm khi anh lại giật tạm cấu trúc của ca khúc. Có lúc thì đem về lai ghép để tạo ra một diện mạo mới. Cũng có lúc lại làm theo kiểu biến đổi gen mà tạo ra giống mới. Nhiều bài thơ ngắn được anh tổ chức khá ngon lành theo thể thức của bài hát. Dáng của chúng nhang nhác như những ca-khúc-thơ.”.

Tôi nghĩ cách viết ấy thiếu tính văn chương và hoàn toàn vắng bóng lý luận văn học, vì không dựa trên bất cứ lý thuyết văn học nào cả, ấy là chưa kể những phép so sánh không tạo ra nghĩa học thuật nào. Làm gì có loại thơ “làm theo kiểu biến đổi gen mà tạo ra giống mới”!

  1. Nguyễn Minh Châu và thi pháp “gói rào” trong Chiếc thuyền ngoài xa [4]

Bài viết này TS Chu Văn Sơn cũng có nhiều phát hiện tinh tế, sâu sắc, thú vị. Người đọc có thể nhận ra sự say sưa của ông khi nói về truyện ngắn này. Ông cũng bắt chước Nguyễn Tuân “chế” ra những từ mới, hoặc mượn cách nói bình dân cho có “tính quần chúng” như: Thi pháp gói rào. Đây là hư chiêu đã đến mức quái chiêu. Nói dzậy mà không phải dzậy. Hư chiêu khác của Nguyễn Minh Châu tạm gọi là “bâng quơ hóa”. “quán tính chữ”,  Một chiêu khác của Nguyễn Minh Châu là “vu hồi chữ”…Những cách nói năng này làm nên “phong cách ngôn ngữ” của Chu Văn Sơn, tôi xin không bàn đến, vì phong cách thuộc về “cái tạng” trời sinh của người viết

Tôi không nói về nội dung và giá trị của bài viết mà chỉ xin chia sẻ về cách ông giải mã truyện ngắn này.

Về cấu trúc truyện, Chiếc thuyền ngoài xa có 2 câu chuyện: Chuyện nghệ sĩ Phùng đi chụp ảnh, và chuyện bạo hành trong gia đình người đàn bà hàng chài mà Phùng chứng kiến và kể lại. Mỗi câu truyện có 1 chủ đề riêng. Hai câu truyện ghép lại tạo nên chủ đề thứ ba. Đây là điều đáng nói và phải làm rõ, nhưng Chu Văn Sơn đã không làm được.

Chiếc thuyền ngoài xa được xây dựng bằng nhiều tình huống liên tiếp dẫn đến chủ đề: Tình huống 1, bất ngờ Phùng chụp được bức ảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa. Tình huống 2, bất ngờ Phùng chứng kiến cảnh bạo hành của người đàn ông và người đàn bà chài, họ ở trên con thuyền ấy, bước lên bờ, ngay trước mặt chỗ Phùng đứng. Tình huống 3, Phủng chứng kiến cảnh bạo hành lần thứ hai dữ dội hơn. Tình huống 4, bất ngờ ở tòa án khi Phùng nghe người đàn bà chài nói về hoàn cảnh của mình. Tình huống 5, trong đêm bất ngờ cơn bão ập đến và Phùng chứng kiến một chiếc thuyền ngoài xa đang chống chọi trong sóng gió. Và tình huống 6 (tình huống cuối), Phùng thấy người đàn bà từ bức ảnh trong tờ lịch treo tường bước ra hòa vào đám đông. Sáu tình huống liên tiếp nhau giúp Phùng và người đọc khám phá vấn đề, và sau cùng nhận ra chủ đề.

Chu Văn Sơn chỉ thấy có 1 cốt truyện và 1 tình huống là: “Đọc truyện này, có lẽ ai cũng bị hút vào câu chuyện gia đình hàng chài và xem nó là hạt nhân duy nhất rồi, những tình tiết khác chỉ là râu ria. Theo đó, tình huống truyện được xác định là một tình thế, cụ thể là tình thế nghịch lí. Một người vợ tốt mà luôn bị chồng hành hạ; luôn bị hành hạ dã man mà luôn từ chối mọi can ngăn; cả đời bị bạo hành mà một mực gắn bó với kẻ bạo hành; thà bị bỏ tù chứ nhất quyết không bỏ kẻ hành hạ mình; chồng đánh vợ, con đánh bố; bị chồng đánh đập đau đớn thì nín thinh, nhìn con đánh bố vì che chở mình lại van xin khóc lóc Một cuộc sống như thế còn gì nghịch lí hơn?”

Rõ ràng Chu Văn Sơn không hiểu yếu tố “tình huống” trong cấu trúc truyện là gì. Ông gọi tình huống “là một tình thế”, từ đây dẫn đến nhầm lẫn trong suốt bài viết.

Chu Văn Sơn viết tiếp: “Lùi xa một chút sẽ thấy chuyện gia đình này lại nằm lọt thỏm trong một cái khung rộng hơn: Chuyến đi thực tế tới làng chài miền duyên hải của nghệ sĩ Phùng. Đây mới là sự kiện trùm lên cả thiên truyện. Bình thường, việc kể bắt đầu bằng một chuyến công tác chỉ là phần dựng, tạo không khí, nghĩa là một phần rất phụ nhằm dẫn vào phần chính . Nhưng đây không thế. Phần tưởng phụ, hóa ra không hề phụ.”

Chu Văn Sơn đã không nhận ra việc Phùng đi chụp ảnh là một câu truyện, có mở đầu, có kết thúc riêng và có chủ đề riêng. Đây không phải “là một sự kiện bao trùm lên cả thiên truyện”. Một câu truyện có cấu trúc riêng, có chủ đề, tư tưởng riêng. Một sự kiện không có những giá trị này, sự kiện chỉ là chỉ là một hoàn cảnh, một tình huống góp phần tạo nên câu truyện. Sai lầm này của Chu Văn Sơn khiến cho việc đọc tác phẩm của ông, dù có chỉ ra nhiều “chiêu, hư chiêu, quái chiêu” trong “thi pháp” của Nguyễn Minh Châu cũng không lý giải được đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm. Dù đã dài dòng và hết sức lúng túng luận giải bao biện, Chu Văn Sơn vẫn khẳng định: “Chiếc thuyền ngoài xa trước hết được ẩn kín trong một cốt truyện với một kiểu tình huống”. Ông không biết mình đã đi sai đường trong hành trình khám phá tác phẩm này.

Đoạn kết truyện là đoạn rất hay về nghệ thuật nhưng Chu Văn Sơn không đọc được. Đoạn kết hoàn tất câu chuyện đi chụp ảnh của Phùng, tạo nên 1 chủ đề. Đoạn kết cũng liên kết câu truyện của Phùng và của người đàn bà hàng chài, tạo nên chủ đề thứ 3, sau chủ đề về bạo hành gia đình. Đọan kết này mượn một mô típ trong truyện dân gian Bích câu kỳ ngộ [5], người thiếu nữ đẹp từ trong tranh bước ra, gặp gỡ và chung sống với Tú Uyên. Đọan kết này học cách viết cảm tưởng về câu chuyện như Sôlôkhốp viết cảm tưởng về câu chuyện của Sôcôlốp trong Số phận con người. Nguyễn Minh Châu đã có một sự tổng hợp khá sâu sắc về nghệ thuật trong phần kết này. Mọi ý tưởng, mọi chủ đề đều sáng lên từ đoạn kết này. Rất tiếc Chu Văn Sơn không hề động bút đến một chữ nào của đọan này, thành ra bài viết của Chu Văn Sơn chưa đi tới đích.

Ông viết rất dài, biện luận rất nhiều, xoay trở đủ bốn phương tám hướng, nhưng vẫn không sao khám phá ra cấu trúc tác phẩm để giải cấu trúc tìm ra những nghĩa ẩn mật, những nghĩa bị bỏ sót (thí dụ ý nghĩa của đoạn kết). Tôi ngờ rằng ông không có học thuật gì khi viết phê bình, có lẽ ông giống Hoài Thanh, viết phê bình bằng trực giác cảm tính, vậy thôi.

  1. Nhận xét luận văn thạc sĩ Ngữ văn”

TS Chu Văn Sơn (ĐHSP Hà Nội) là người phản biện trong hội đồng chấm Luận văn Thạc sĩ khoa học (lần I) cho học viên Đỗ Thị Thoan. Đề tài: “Vị trí kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa”. Sau biện giải trình bày ý kiến nhận xét của mình, ông kết luận: “Học viên xứng đáng nhận học vị Thạc sĩ Ngữ Văn. Trân trọng đề nghị hội đồng thông qua

Sau đây là văn bản nhận xét của ông về bản luận văn này:

NHẬN XÉT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Đề tài: Vị trí kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa.

Học viên: Đỗ Thị Thoan

Người phản biện: TS Chu Văn Sơn

  1. Về ý nghĩa đề tài. Trong đời sống văn học đương đại, vấn đề “chính thống”-”bàng thống”, “trong luồng”-”ngoài luồng”, “trung tâm”-”ngoại vi”/”ngoại biên”/ “bên lề”-”ngoài lề”, “dòng nổi”-“dòng chìm, “phụ lưu”-“chủ lưu”…mới được đặt ra như một trong những điểm nóng, một vấn đề nhạy cảm, một xoáy nước của mối quan tâm xã hội. Nó nảy sinh từ nghệ thuật nhưng không dừng lại ở nghệ thuật. Nó là vấn đề thân phận của những xu hướng sáng tạo, nhìn từ nghệ thuật. Nó là vấn đề vị thế của những nhóm sáng tạo trong sân chơi văn hóa, nhìn từ văn hóa. Nó là vấn đề bình đẳng dân chủ nhìn từ xã hội. Và cuối cùng là vấn đề quyền lợi/ quyền lực, nhìn từ góc độ chính trị. Vì thế đây là vấn đề phức tạp. Rút dây dễ động rừng. Nhưng giải quyết được vấn đề này thì ý nghĩa của nó không dừng lại ở chuyện văn chương. Mà sẽ có những tác động tích cực đối với hệ thống xã hội nói chung. Việc lựa chọn đề tài này đòi hỏi người viết phải có một tinh thần can đảm, xông xáo, dấn thân, liều mình nữa (nghĩa là tinh thần tiền vệ, tiền phong), sau đó mới là những hành trang khác như lý thuyết hiện đại-những lý thuyết không thuần túy văn chương hay văn hóa- và một tư duy sắc xảo. Vì thế tôi đánh giá đây lả một đề tài có ý nghĩa khoa học.
  2. Học viên đã là cây bút khá trưởng thành trước khi làm thạc sĩ, vì thế những thước đo thông thường để đánh giá một bản luận văn, không thích hợp với việc đánh giá bản luận văn này. Tôi coi trọng hai vấn đề: 1/ Quan niệm của học viên. 2/ Cách làm của học viên. Để triển khai đề tài như thế này, nếu người viết không có một quan niệm đúng đắn và chắc chắn về giá trị thì rất khó tránh khỏi sự chệch choạc và việc luận giải dù thông minh đến đâu cũng khó có được sự thuyết phục. Cụ thể là quan niệm về cái Tục và vị thế của một nhóm sáng tạo. Tôi cho rằng học viên đã có được sự tỉnh táo khi, về căn bản, không coi cái Tục của nhóm Mở Miệng như một giá trị đáng ghi nhận mà như một vũ khí dùng để bộc lộ những quan điểm của họ. Theo tôi, quan niệm như vậy là chấp nhận được. Cách làm của học viên là vừa vận dụng lý thuyết mới về văn hóa để nhìn nhận, vừa huy động sự sắc xảo của mình để lý sự và nhất là sự nhiệt thành của mình để khẳng định. Tôi cho đây là cách làm có thể khiến những người cùng quan điểm ủng hộ.
  3. Về năng lực của học viên bộc lộ quan bản luận văn này: Năng lực báo chí rất mạnh đã chi phối từ nhãn quan đến tư liệu và các thao tác làm việc. Trong triển khai có thể thấy tính phê bình trội hơn nghiên cứu, tính chất đấu tranh xã hội mạnh mẽ hơn luận giải văn hóa, sự sắc xảo của lý trí mạnh hơn sự tinh tế của mỹ cảm, và giọng “lý sự búa xua” đầy tính chủ quan luôn có xu hướng áp đảo. Đây là những mặt mạnh và cả những nhược tật trong năng lực của học viên
  4. Nhìn chung, bản luận văn cho thấy tác giả là người có tài trong học thuật văn chương, nếu chịu khó khắc phục những phía thái quá, trong giọng điệu, trong nhãn quan thì sẽ toàn diện và có triển vọng đi xa trên con đường học thuật. Học viên xứng đáng nhận học vị thạc sĩ Ngữ văn. Trân trọng đề nghị hội đồng thông qua.

Hà nội ngày 01 tháng 12 năm 2010.”[6]

Qua bản nhận xét phản biện này, TS Chu Văn Sơn có những nhận xét xác đáng về năng lực, điểm mạnh và nhược tật trong năng lực của học viên Đỗ Thị Thoan. Ông cũng đã khôn ngoan nhắc nhở Đỗ Thị Thoan về tính “nhạy cảm” của đề tài: “đây là vấn đề phức tạp. Rút dây dễ động rừng”. Tuy nhiên ông không nói rõ “động rừng” là đụng chạm đến điều gì, đụng chạm với ai? Và ông cũng né tránh bày tỏ thái độ khi viết: “Tôi cho đây là cách làm có thể khiến những người cùng quan điểm ủng hộ.”Người đọc không biết ông có ủng hộ hay không. Nhưng kết luận văn bản này thì mọi chuyện đã rõ: “Học viên xứng đáng nhận học vị thạc sĩ Ngữ văn. Trân trọng đề nghị hội đồng thông qua.”

Tôi ngạc nhiên vì văn bản có tiêu đề là Nhận xét luận văn thạc sĩ Ngữ văn, nhưng nội dung lại tập trung vào năng lực của người viết luận văn rằng:bản luận văn cho thấy tác giả là người có tài trong học thuật văn chương… Học viên xứng đáng nhận học vị thạc sĩ Ngữ văn.

TS Chu Văn Sơn không có một lời nào nhận xét, đánh giá nội dung luận văn. Ông cũng né tránh không giải quyết vấn đề đặt ra là, luận văn:”giải quyết được vấn đề này thì ý nghĩa của nó không dừng lại ở chuyện văn chương. Mà sẽ có những tác động tích cực đối với hệ thống xã hội nói chung”. Ông không cho biết luận văn có giải quyết được vấn đề hay không, và giải quyết được đến đâu. Ông chỉ nói rất sơ sài về quan niệm của tác giả luận văn “không coi cái Tục của nhóm Mở Miệng như một giá trị đáng ghi nhận mà như một vũ khí dùng để bộc lộ những quan điểm của họ”. Tôi ngờ rằng ông chưa đọc thơ của nhóm Mở Miệng, và chỉ đọc thấp thoáng luận văn.  Với những ấn tượng tốt về Đỗ Thị Thoan, rồi ông viết một bản nhận xét “lạc đề” như ở trên.

Nội dung của Luận văn không phải chỉ là cái Tục của nhóm Mở Miệng. Vấn đề của luận văn này là sự thất bại của Đỗ Thị Thoan trong việc ứng dụng một lý thuyết văn hóa để đấu tranh giành chỗ đứng cho nhóm Mở Miệng.[7] Đỗ Thị Thoan không ngừng nói về Mở Miệng như là cách tân, cách mạng.

Vấn đề của luận văn này còn là vấn đề diễn ngôn. Đỗ Thị Thoạn chọn đứng về phiá cái Lề, cùng với những người bên Lề (nhóm Mở Miệng), dùng lý thuyết “Trung tâm-ngoại vi” để “giải” cái trung tâm, cái chính thống, để lật đổ cái chính thống già cỗi, cản trở sự tiến lên của văn học, của xã hội. Đỗ Thị Thoan viết:

Quá trình ngoại vi hóa (marginalization), như một hệ quả của nỗ lực giải trung tâm, trở thành cách mà cái ngoại vi, cái bên lề lựa chọn để chống lại sự trấn áp và tiêu diệt của trung tâm, cũng là cách để cái bên lề tồn tại như một cái khác (Other) với chính kinh nghiệm bên lề của nó. Cái bên Lề xuất hiện đòi làm cách mạng khi cái trung tâm trở nên cỗi già…

“…Nhìn trên diện rộng, giải trung tâm trong văn học Việt Nam cũng đồng nghĩa với quá trình ngoại vi hóa, hay ngoại vi hóa là để giải trung tâm văn học dòng chính, giải trung tâm cái chính thống”; “…[cái chính thống] có một nghĩa là thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng...; Hội Nhà Văn, báo Văn Nghệ, nhà xuất bản Nhà nước. Chính thống trong nhiều năm là nói theo ý thức hệ chính thống. Nó trở nên già cỗi và trở thành lực cản”…

“…Chính nhờ vào sự chơi tự do của tác giả và của người đọc mà ngôn ngữ thơ có thể mở nghĩa tái định nghĩa cái đã có, nhất là những cái đã và đang có nguy cơ biến thành chân lý, thành thiết chế, như thiết chế của niềm tin tuổi trẻ [về thời hoa đỏ, về lựa chọn chẳng hạn], thiết chế về thơ, thiết chế về quá khứ dân tộc, về Hồ Chí Minh, về lý tưởngTất cả những tín điều đó được khai thác, bị tra vấn và hoài nghi – và lật đổnhất là lật đổ với tiếng cười, thì đó chẳng phải cái làm nên sức sống của thơ, chẳng phải là nỗ lực không mệt mỏi của nghệ thuật?

 Tại sao TS Chu Văn Sơn lại không chú ý đến diễn ngôn của Đỗ Thị Thoan? TS Chu Văn Sơn nhận xét rằng Đỗ Thị Thoan là người “có một tinh thần can đảm, xông xáo, dấn thân, liều mình nữa”. J.P.Sartre nói về “văn học dấn thân” như thế này: « Nhà văn dấn thân biết chữ nghĩa… là những ‘khẩu súng đã nạp đạn’. Nếu hắn nói ra là hắn bắn…”. Diễn ngôn của Đỗ Thị Thoan bắn vào ai thì đã rõ.

Vì thế luận văn không chỉ là luận văn, mà còn là chính thái độ hành động của người viết. TS Chu Văn Sơn đã không phản biện nội dung luận văn, cũng không phản biện thái độ diễn ngôn của tác giả. TS còn né tránh “vấn đề phức tạp, rút dây dễ động rừng”.

Tôi cho rằng văn bản phản biện này không giúp ích gì cho học viên Đỗ Thị Thoan, làm “mù” thêm hội đồng chấm giải.

  1. Lời chia sẻ

Tôi đã đọc ba bài viết về ba thể loại khác nhau của TS Chu Văn Sơn: Thơ, truyện và Luận văn. Ông có những nhận xét, phát hiện tinh tế, sâu sắc. Ông cũng có những trang văn đầy say mê, khoáng đạt, tung tẩy ngòi bút đến tận cùng cảm hứng của mình (cái mà có người gọi là tài hoa). Những điều ấy làm nên phong cách và giá tri trang văn của ông. Nhưng ông cũng bộc lộ những “hạn chế chết người” trong nghiên cứu và phê bình như đã phân tích ở trên. Tôi nghĩ trang văn của ông cần giá trị học thuật hơn là sự bay bổng của trực giác cảm tính được viết dựa vào năng khiếu trời cho của ông. Nhưng có lẽ là rất khó, vì ông không thể vượt qua cái bóng của chính mình!

Tháng 4. 2017

______________

[1] Hồ Tấn Nguyên MinhTài hoa Chu Văn Sơn:

http://vanvn.net/chan-dung-van/tai-hoa-chu-van-son/471

[2] http://buithanhvinh.blogspot.com/2011/08/chu-van-son-binh-bai-tho-ghi-ta-cua.html

[3] Bùi Công Thuấn-Đàn ghita của Lorca:

https://buicongthuan.wordpress.com/2017/04/04/dan-ghita-cua-lorca-thanh-thao/

[4] Chu Văn Sơn- Nguyễn Minh Châu và thi pháp “gói rào” trong Chiếc thuyền ngoài xa:

http://www.nguyendinhminh.net/index.php/tu-lieu-van-hoc/phe-binh-van-hoc/133-nguyn-minh-chau-va-thi-phap-goi-rao-trong-chic-thuyn-ngoai-xa-chu-vn-sn-

[5] Bích câu kỳ ngộ- http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=20693

[6] TS Chu Văn Sơn-Nhận xét luận văn thạc sĩ Ngữ văn

https://junglepoetry.wordpress.com/2014/03/30/ho-so-bao-ve-luan-van-2010/

[7] Xem thêm bài viết của Bùi Công Thuấn: LUẬN VĂN NHÃ THUYÊN”, Hay sự thất bại của việc vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu?: https://buicongthuan.wordpress.com/2017/03/03/luan-van-nha-thuyen-hay-su-that-bai-cua-viec-van-dung-ly-thuyet-trong-nghien-cuu/

 

 

 

ĐÀN GHITA CỦA LORCA-Thanh Thảo

ĐÀN GUITAR CỦA LORCA

Bui Công Thuấn

200px-Lorca

1.Federico García Lorca (5 /6 /1898 – 19 /8 /1936) – nhà thơ, nhà soạn kịch lớn nhất của Tây Ban Nha thế kỉ XX. Ông sinh ở thị trấn Fuente Vaqueros, tỉnh Granada, học và hoạt động nghệ thuật ở thủ đô Madrid. Tháng 8/1936, ông bị bọn dân vệ của Franco chặn bắt rồi xử bắn mà không xét xử. Cái chết của ông vẫn còn nhiều bí ẩn. Lúc sinh thời, ông nói với mọi người ước nguyện của mình

Khi tôi chết,/

 Hãy chôn tôi với cây đàn ghita /

 Dưới cát

 

Khi tôi chết,

Giữa hàng cam

Và cây bạc hà

 

Khi tôi chết,

Hãy chôn tôi, nếu các anh em mong muốn

Trong chiếc chong chóng

.

Khi tôi chết,

      (Lorca Ghi Nhớ (Memento) -Trích trong tập Thơ Federico Garcia Lorca-Đan Tâm dịch)

 

Đàn Guitar của Lorca là bài thơ của Thanh Thảo được chọn dạy trong chương trình lớp 12. Hệ thống hình ảnh Siêu thực của bài thơ gây khó cho thầy cô và học sinh. Bởi học sinh đã quen học với các tác phẩm viết theo bút pháp Hiện Thực. Việc giải mã bài thơ vẫn còn trong quá trình tìm kiếm những ý nghĩa có thể chấp nhận được, song để nói cho mạch lạc, thuyết phục về bài thơ, còn cần sự đóng góp ý kiến của nhiều bạn đọc.

ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA

(Thanh Thảo)

                                                                    Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn

Ph.G.Lor-ca

 

những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li-la-li-la-li-la

đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn

 

Tây Ban Nha

hát nghêu ngao

bỗng kinh hoàng

áo choàng bê bết đỏ

Lor-ca bị điệu về bãi bắn

chàng đi như người mộng du

 

tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

tiếng ghi ta ròng ròng

máu chảy

 

không ai chôn cất tiếng đàn

tiếng đàn như cỏ mọc hoang

giọt nước mắt vầng trăng

long lanh trong đáy giếng

 

đường chỉ tay đã đứt

dòng sông rộng vô cùng

Lor-ca bơi sang ngang

trên chiếc ghi ta màu bạc

 

chàng ném lá bùa cô gái Di-gan

vào xoáy nước

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt

 

li-la-li-la-li-la…

 

Lorca nói với mọi người,”Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”.Tất nhiên là bọn dân vệ Franco chẳng chôn cây đàn nào theo Lorca, chúng vùi xác ông trong mộ huyệt mà chúng bắt ông đào trước đó. Thanh Thảo dẫn lời Lorca để đặt nhan đề cho bài thơ của mình là Đàn Ghita của Lorca, nhưng trong suốt bài thơ, Thanh Thảo chỉ khai thác tiếng đàn ghita. Li-la- li-la –Li-la / tiếng ghi ta nâu/ tiêng ghita lá xanh/; tiếng ghita ròng ròng…Độ vênh thông tin này tạo ra ẩn nghĩa gì?

Đàn ghita mà Lorca đòi được chôn theo không phải là cây đàn Tây Ban Cầm 6 giây, mà chính là nghệ thuật của TBN. Ở Tây Ban Nha, đàn ghita, điệu nhảy Flamenco, và đầu bò tót là những môn nghệ thuật và thể thao mang đặc trưng TBN. Nhà thơ Hoàng Hưng cho biết :” thơ Lorca nổi bật lên xu hướng trở về khai thác dân ca, tìm lại những truyện thơ trữ tình và lịch sử còn lưu truyền trên miệng người dân quê tỉnh lẻ. Thế hệ thơ anh đã tìm thấy ở anh người mang sứ mệnh đẹp đẽ: Tìm lại tâm hồn Tây Ban Nha đang có nguy cơ bị quên lãng, nối kết cái truyền thống với cái thời đại.”(nguồn: http://hoangphongtuan.wordpress.com)

Như vậy, Thanh Thảo nói về  Đàn Ghita của Lorca nói về Lorca, trong mối quan hệ với dân tộc và thời đại của ông. Bài thơ Ghi Nhớ của Lorca nói rõ, ông muốn được an nghỉ trong thiên nhiên hiền hoà TBN (trong cát, cây cam, cây bạc hà,) cùng với nghệ thuật TBN (đàn ghita).

Đặc điểm ngôn ngữ đầu tiên của bài thơ là việc khai thác chất liệu tiếng đàn. Có khi là âm thanh trực tiếp li-la-li-a-li-la (câu 3 và câu kết), khi được hình tượng hoá : Tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan (câu 16). Nhìn theo cấu trúc bài thơ, “tiếng ghita” trở thành bè nền cho cả bài thơ, và không nhất thiết phải mang nghĩa tường minh. Trên bè nền ấy, thời đại và hình ảnh Lorca hiện ra. Các câu thơ không được viết hoa ở đầu câu khiến bài thơ như một bản văn xuôi viết xuống dòng, điều ấy lưu ý người đọc khi tiếp cận với bài thơ là tiếp cận với một văn bản tự sự. Thanh Thảo kể  câu chuyện về Lorca và qua đó bày tỏ cảm nghĩ bằng một hệ thống hình ảnh Tượng Trưng và Siêu Thực.(2)

 2.Lorca lúc sinh thời

 Những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

Li-la-li-la-li-la

đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn

Câu thơ không có chủ ngữ, hình tượng nhân vật trở nên không thể xác định, không thể nắm bắt, nhờ đó  thơ trở nên đa nghiã,  ý nghĩa để mở. Cấu trúc logic của khổ thơ bị phá vỡ, khiến cho việc đọc thơ bằng logic lý trí trở nên không thể. Trái lại cần cảm nhận theo trực giác, và giải mã hệ thống hình ảnh, bởi nghĩa của văn bản nằm trong cấu trúc khổ thơ.

Như đã phân tích ở trên, ta không bận tâm đến những câu viết về tiếng đàn. Tiếng đàn ở câu 1 và câu 3 chỉ làm nền, và có nhiệm vụ phá vỡ cấu trúc logic của khổ thơ. Ta quan tâm đến những hình ảnh tượng trưng khác.

áo choàng đỏ là hình ảnh đặc trưng trong những trường đấu bò tót. Người thi đấu dùng áo choàng đỏ để dẫn dụ con bò. Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt không còn là một cuộc đấu bò tót nữa mà có sự chuyển nghĩa. Nước TBN đang trong những cuộc đấu tranh quyết liệt, máu lửa (đỏ gắt). Tiếng đàn li-la-li-la-li-la như thôi thúc. Xin chú ý, âm thanh li-la-li-la-li-la được viết nối liền.

 Trên nền của bối cảnh xã hội TBN như vậy, hình ảnh Lorca hiện lên :” đi lang thang về miền đơn độc”. Đó là hành trình nghệ thuật và hành trình chiến đấu của Lorca. Trong cuộc cách tân nghệ thuật mà ông khởi xướng, ông đã đi một mình. “đi lang thang về miền đơn độc/ với vầng trăng chếnh choáng”.vầng trăng”gợi ra cái đẹp, đó là là nghệ thuật. “Chếnh choáng” là trạng thái say. “Vần trăng chếnh choáng” là trạng thái say mê nghệ thuật, nhưng Lorca đơn độc. Nhà thơ Hoàng Hưng cho biết, Lorca đưa ra ý niệm duende : ” Còn duende, đó là cái phải đánh thức từ trong tận cùng sâu thẳm của máu ta, nó đốt cháy máu ta, nó “vứt bỏ thứ hình học êm đềm ta học được, nó đập vỡ các bút pháp”, nó là “quyền lực chứ không phải cấu trúc, cuộc chiến đấu chứ không phải tư duy”, nó là cái mà Goethe đã nói đến: “Quyền lực bí mật mà mọi người đều cảm thấy nhưng không triết gia nào giải thích được”, nó là “tinh thần của đất”. Và Lorca cho rằng nghệ thuật của Tây Ban Nha là nghệ thuật của duende”(đd)

“Trên yên ngựa” có thể là khách lữ hành, cũng có thể là người chiến sĩ. “Yên ngựa mỏi mòn” là người ngồi trên yên ngựa đã lâu, người đã mỏi, yên đã mòn. Có lẽ để chỉ cuộc chiến đấu lâu dài của Lorca. Lorca là người chiến sĩ đấu tranh cho tự do, bị lực lượng cánh hữu coi là kẻ thù, “bởi vì ngòi bút của Lorca đã gây ra nhiều thiệt hại hơn những người khác dùng súng”. Lorca chưa thấy cái kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh chống phát xít Franco, nhưng ông đã trở thành nạn nhân của chúng. Ông Bị bọn tướng lĩnh phản bội nền Cộng hoà bắt giữ ngày 17-8-1936, thi thể anh được tìm thấy trong đống xác 15.000 người bị bắn ngày 19-8 trên miệng một vực sâu ở ngoại vi thành phố. Granada (Hoàng Hưng-đd)

Khổ thơ chỉ vẽ ra mơ hồ, thấp thoáng hình ảnh Lorca, với cảm giác ngậm ngùi, không gian trước mặt như vô vọng.  Lorca đi lang thang về miền đơn độc. Hình ảnh thơ hoàn toàn phi hiện thực, bởi không có bất cứ một chi tiết nào của đời sống hiện thực của Lorca được ghi lại, ngoài hình ảnh tượng trưng:” Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt”. Sinh thời, Lorca đã hoạt động rất tích cực. Lorca lên thủ đô Madrid học Đại học và làm quen với Gregorio Martínez Sierra, và viết vở kịch đầu tiên El maleficio de la mariposa (Yêu thuật của bướm) và dựng vở kịch này. Năm 1929 Lorca sang New York, ông viết tập thơ Poeta en Nueva York (Nhà thơ ở New York, 1931) và hai vở kịch El público (Công chúng, 1931) và Así que pasen cinco años (Khi nào hết 5 năm, 1931). Lorca quay trở lại Tây Ban Nha khi nước này bắt đầu thiết lập chính thể cộng hoà. Năm 1931 được mời làm giám đốc nhà hát sinh viên La Barraca. Thời kỳ này ông viết nhiều vở kịch nổi tiếng như: Bodas de sangre (Đám cưới máu); Yerma (Yerma); La casa de Bernarda Alba (Ngôi nhà của Bernarda Alba)…

Hình ảnh Lorca đi lang thang về miền đơn độc là cách cảm nhận riêng của Thanh Thảo (Ấy là chúng ta đứng trên lập trường của chủ nghĩa hiện thực)

3.Hình ảnh  cái chết của Lorca

Tây Ban Nha

 hát nghêu ngao

bỗng kinh hoàng

áo choáng bê bết đỏ

Lorca bị điệu về bãi bắn

Chàng đi như người mộng du

 Cấu trúc đoạn thơ vẫn được sắp xếp để phá vỡ tính logic của nhân thức. Nếu đọc theo thứ tự từ trên xuống, câu thơ sẽ là : “Tây Ban Nha/ hát nghêu ngao/ bỗng kinh hoàng”. TBN là nước TBN, không thể hát nghêu ngao. Phải là ai đó hát nghêu ngao. Và đang hát nghêu ngao, thì không thể bỗng kinh hoàng. Khổ thơ có thể sắp xếp lại thế này

Tây Ban Nha

 bỗng kinh hoàng

Lorca bị điệu về bãi bắn

áo choàng bê bết đỏ

(Chàng vừa đi vừa ) hát nghêu ngao

(Chàng đi ) như người mộng du

 Nhưng nếu sắp xếp lại như trên, đoạn thơ chỉ còn là một đoạn  kể chuyện theo logic nhận thức, một mẩu tin, với chỉ một nghĩa tường minh. Đoạn sắp xếp lại không còn gây được ấn tượng, mất tính đa nghĩa, và không còn là thơ.

Thanh Thảo muốn nhấn mạnh đến thái độ kinh hoàng của nước TBN trước cái chết dữ dội của Lorca do bọn dân vệ Franco gây ra. Áo choàng đỏ gắt là hình ảnh người chiến đấu. Áo choáng bê bết đỏ, hình ảnh Lorca bị bắn. Thái độ cuả Lorca là không bận tâm đến cái chết. Vẫn là người nghệ sĩ, người đã viết những dòng Ghi Nhớ. Chàng vẫn hát nghêu ngaođi như người mộng du.

Ở đoạn thơ này, Thanh Thảo đã tưởng tượng ra cảnh Lorca bị xử bắn theo cảm quan Siêu thực của mình.Theo Gibson, có những chỉ dấu rằng, trước khi ra lệnh hành quyết Lorca, Valdés đã hội ý với General Queipo de Llano, lãnh đạo tối cao của lực lượng nổi dậy ở Andalusia. Lorca được đưa tới ngôi làng của Víznar cùng với những nạn nhân khác. Sau một đêm ở đó trong một nhà tù tạm bợ, Lorca được chở bằng xe tải xuống con đường dẫn vào làng kế cận. Ông bị bắn ở đó, trước lúc mặt trời mọc, và được chôn bên cạnh một cây olive. Cái chết của Lorca là một trong hàng ngàn cuộc hành quyết ở Granada trong những ngày ngay trước cuộc Chiến Tranh Dân Sự”

Đoạn tường thuật của Gibson và đoạn thơ của Thanh Thảo viết về cái chết của Lorca có sự khác biệt gì? Bản tin của Gibson thoả mãn trí hiểu của người đọc về những uẩn khúc quanh cái chết của Lorca, không mang cảm xúc nghệ thuật nào. Trái lại Thanh Thảo đã vẽ ra một Lorca cụ thể.  TBN bỗng kinh hoàng về cái chết dữ dội của Lorca, nhưng Lorca vẫn bình thản. Sự tương phản ấy tạo ra ấn tượng tư tưởng và nghệ thuật. Thanh Thảo ca ngợi Lorca như một hình tượng anh hùng.

Tây Ban Nha

 bỗng kinh hoàng

áo choáng bê bết đỏ

4.Sau cái chết cuả Lorca

tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gài ấy

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

tiếng ghi ta ròng ròng

máu chảy

 Khổ thơ gây được ấn tượng mạnh cả về ý nghĩa tư tưởng và nghệ thuật bởi tiếng ghita được hình tượng hoá. Tiếng ghi ta nâu / tiếng ghi ta lá xanh / tiếng ghi ta tròn / tiếng ghi ta ròng ròng. Người đọc không chỉ nghe thấy âm thanh vật lý của tiếng ghita, mà còn nhìn thấy hình ảnh, màu sắc và tính chất của tiếng ghi ta. Rất lạ so với tiếng đàn thực, và so với những cách miêu tả tiếng đàn từ xưa tới nay (Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, tiếng đàn của Thuý Kiều được Nguyễn Du tả trong Đoạn Trường Tân Thanh)

 

Nếu cứ bám vào văn bản mà giải nhiã, người đọc sẽ bế tắc. Thí dụ, tiếng ghi ta nâu nghĩa là gì? Nhìn sâu vào cấu trúc văn bản, đặt các chữ “tiêng ghi ta” tách hẳn ra, như một bè nền (tức là không cần giải nghĩa), những chữ còn lại sẽ mang ý nghĩa thực

tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gái ấy

 Câu này sẽ trở thành “Tiếng ghi ta- Bầu trời cô gái ấy (màu) nâu”. Cụm từ “bầu trời màu nâu” có thể giải thích. Sau cái chết của Lorca, bầu trời nơi cô gái người yêu Lorca bao trùm bởi màu nâu, tức là màu buồn ảm đạm. Nói các khác, nỗi buồn ảm đạm bao trùm cả bầu trời tâm hồn cô gái người yêu của Lorca. Theo cách giải mã ấy ta có thể đọc nghĩa khổ thơ. Thanh Thảo nói về bầu khí xã hội TBN sau cái chết của Lorca. Cuộc sống vẫn sinh sôi, phải chăng sự hy sinh của Lorca làm cho cuộc sống trở nên mạnh mẽ hơn (“lá xanh biết mấy”), nhưng có một sự mất mát không cứu vãn được (Cái gì vỡ còn có thể hàn gắn, “bọt nước vỡ tan” chỉ còn lại hư không), cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục, vẫn quyết liệt máu lửa (“ròng ròng”/ “máu chảy”)

Cảm nhận như thế, Thanh Thảo đã miêu tả được tầm vóc và ảnh hưởng của Lorca đối với thời đại của ông. Hình tượng Lorca lớn lên thêm một bước so với trước đó. Ở một góc  nhìn khác,

Thanh Thảo cảm nhận

Không ai chôn cất tiếng đàn

Tiếng đàn như cỏ mọc hoang

Giọt nước mắt vầng trăng

Long lanh trong đáy giếng

Thanh Thảo dùng chữ : Không ai chôn cất tiếng đàn/ Tiếng đàn như cỏ mọc hoang, không phải là “không ai chôn cất cây đàn ghita của Lorca”. Đó là sự phân biệt rất tế nhị. Có thể đó là tiếng kêu gọi cách tân nghệ thuật của Lorca “tìm lại tâm hồn Tây Ban Nha đang có nguy cơ bị quên lãng”, có thể là tiếng kêu thươngcủa Lorca về thân phận con người. Xin đọc bài Lorca viết về Ghita, đó không còn là tiếng đàn , mà là tiếng khóc.

Đàn Guitar

Tiếng than khóc của  đàn
bắt đầu.
Những ly thuỷ tinh bình minh
bị tan vỡ.
Tiếng than khóc của đàn
bắt đầu.
Hãm thanh vô ích.
Không thể nào
tắt được.
Đàn khóc, đều đều
như nước khóc, như gió khóc trên tuyết rơi.
Không thể nào
tắt được.
Đàn khóc cho những gì
đã xa khuất.
Cát của phương Nam ấm áp
nguyện cầu cho trà mi trắng.
Đàn khóc, như một mũi tên
không có mục tiêu,
(như) hoàng hôn khôngcó bình minh,
loài quyện điểu đầu tiên chết
trên cành.
Đàn ơi!
Xé tim
bằng năm lưỡi gươm.

            (Lorca)

Dù hiểu cách nào, người đọc  đều có thể nhận ra sự chia sẻ của Thanh Thảo với Lorca về những suy tư và ước vọng Lorca muốn làm cho dân tộc mình, và xa hơn Lorca suy tư về những vấn đề sâu xa của nhân loại. Nhà thơ Hoàng Hưng nhận xét về thơ Lorca :”Từ cuộc tranh chấp vĩnh hằng không thể hoà giải giữa sự sống – cái chết, những khao khát không bao giờ thoả mãn, những cái đích không bao giờ đạt được… sự bất lực của phận người sinh ra nỗi buồn chất chứa thơ anh, nỗi buồn có trăm biến dạng: Thất vọng, ưu phiền, xa vắng, đắm chìm, cô tịch…”

 Không ai chôn cất tiếng đàn

Tiếng đàn như cỏ mọc hoang

Tiếng nói ấy, tiếng thơ ấy, sau khi Lorca chết đã không có người kết thừa. Hình ảnh so sánh “như cỏ mọc hoang” diễn tả được nỗi buồn trước sự hoang phế của những “cái đích không bao giờ đạt được” của Lorca. Tình cảm của Thanh Thảo dành cho Lorca đọng lại ở tứ thơ này

Giọt nước mắt vầng trăng

Long lanh trong đáy giếng

Đây là môt tứ thơ hay khi cảm nhận bằng trực giác, nhưng ý nghĩa cụ thể thế nào thì không dễ trình bày tường minh. Xin nghe một đoạn Thanh Thảo trao đổi với độc giả:

Hỏi : Trong bài có nhiều hình ảnh gợi cảm: “tiếng đàn bọt nước”, “vầng trăng chếnh choáng”, “yên ngựa mỏi mòn”…Vì sao Thanh Thảo lại dùng những hình dung từ này? Ý nghĩa của những hình ảnh đó trong việc thể hiện chủ đề?

 Thanh Thảo: Anh hỏi tôi thì tôi biết hỏi ai ? Thực ra, tôi cũng dùng những “hình dung từ” ấy một cách tình cờ thôi, hoàn toàn không cố ý. Tôi vẫn làm thơ như vậy, không cố ý, không “mài giũa ngôn từ”. Những liên hệ (nếu có) giữa các tổ hợp từ ấy trong bài thơ đều gắn một cách vô thức với số phận Lorca. Những “chếnh choáng”, ” mỏi mòn”, “bọt nước” dường như có gần xa ám ảnh cuộc đời Lorca, chúng ám cả vào thi ca của Ông

 Hỏi : Câu thơ “”

Giọt nước mắt vầng trăng
         long lanh trong đáy giếng
Xin Nhà thơ cho vài lời gợi mở để độc giả có thể hiểu thêm hai câu thơ rất đẹp trên?

 Thanh Thảo : Cảm ơn anh! Nếu anh thấy đẹp, nghĩa là hai câu thơ ấy có thể đẹp. Mà đã đẹp rồi thì không thể cắt nghĩa, không nên cắt nghĩa.  (4)

Tác giả phủ định việc cắt nghĩa tứ thơ, cắt nghĩa cái đẹp, ấy là nói về phương diện cảm thụ nghệ thuật. Cảm thụ lý tính buộc ta phải hiểu, bởi “vô tri bất mộ” (không hiểu thì không yêu mến, một người mù thì không thể cảm nhận cái đẹp của bức tranh).  Ta hãy thử giải mã những hỉnh ảnh từ “vô thức” ấy của tác giả xem sao, bắt đầu từ cấu trúc ngôn ngữ.

Không thể có nghĩa nếu câu thơ viết là “Giọt nước mắt của vầng trăng”. Cũng không thể viết “Giọt nước mắt và vầng trăng” bởi hai danh từ đứng trước và sau từ “và” phải tương đương nhau cả về ngữ pháp và nghĩa.  Chỉ có thể viết : Giọt nước mắt/ long lanh trong đáy giếngvầng trăng/ long lanh trong đáy giếng. Hai câu có cấu trúc ngữ pháp chồng lên nhau tạo nên sự đa nghĩa. Đọc liên văn bản, ta mơ hồ liên tưởng đến Trương Chi – Mị Nương, và Mỵ Châu – Trọng Thuỷ. Khi giọt nước mắt Mỵ Nương rơi xuống, ly ngọc của Trương Chi đã vỡ tan những ước mơ hạnh phúc. Và khi đem ngọc từ những con trai ăn máu của Mỵ Châu ở ngoài biển, về rửa ở giếng Trọng Thuỷ, ngọc trở nên long lanh. Nếu liên tưởng như thế, tứ thơ của Thanh Thảo hiện lên sâu sắc một tình xót thương. Tiếng sáo là cầu nối trong tình yêu Trương Chi-Mỵ Nương , ngọc trai là cầu nối trong tình yêu Mỵ Châu -Trọng Thuỷ. Có thể hai hình ảnh này để lại ấn tượng tạo nên tứ thơ của Thanh Thảo, trong đó trăng là cầu nối. Tôi tin rằng điều ấy có thể, bởi với bất cứ người Việt Nam yêu văn chương nào, đều có trong sâu thẳm hồn mình câu chuyện Trương Chi-Mỵ Nương, đều yêu mến và sự cảm thông cho những lứa đôi yêu nhau mà ước vọng không thành. Để rồi hình ảnh ấy, như từ vô thức của nhà thơ Thanh Thảo, hiện về.

giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng

đọng lại nỗi xót thương sâu thẳm Thanh Thảo dành cho Lorca

 4.Lorca thanh thản ra đi

đường chỉ tay đã đứt

dòng sông rộng vô cùng

Lorca bơi sang ngang

trên chiếc ghita màu bạc

 

chàng ném lá bùa cô gái Digan

 vào xoáy nước

chàng ném trái tim mình

vào lặng yên bất chợt

 

li-la li-la li-la

Thanh Thảo sáng tạo một hệ thống hình ảnh ẩn dụ để suy tư về sự ra đi cuả Lorca. Đường chỉ tay đứt  là số mệnh đã hết (chết). Trên bàn tay, chỗ đường sinh mệnh đứt, là thời điểm số mệnh đã dứt. Chỉ ngưới sống mới cần đeo bùa hộ mạng, người đã chết, chẳng cần lá bùa ấy nữa. Chàng ném lá buà vào xoáy nước. Tất nhiên là xoáy nước sẽ cuốn mất không còn đâu tăm dạng. chàng ném trái tim mình vào lặng im, cũng cùng một nghĩa, chỉ cái chết. Bởi trái tim là sự sống, ném trái tim vào lặng yên chỉ sự yên nghỉ. Với Thanh Thảo, cũng như cảm nhận của chính Lorca, cái chết của ông như một tất yếu không khác được khi Lực Lượng Cánh Hữu đã coi ông là kẻ thù và quyết tâm tiêu diệt ông. Ông đã trở vế quê Granada dù biết rằng sẽ rất nguy hiểm. Và ông đã ra đi ở nơi gần quê hương mình.

dòng sông rộng vô cùng/ Lorca bơi sang ngang/ trên chiếc ghita màu bạc là tư thế Lorca vượt qua cõi tử sinh. Đây là một hình ảnh Siêu Thực, khó có thể hiểu Thanh Thảo định nói gì qua hình ảnh“chiếc ghita màu bạc”. Nhưng hình ảnh dòng sông và hình ảnh Lorca bơi sang ngang là ẩn dụ quen thuộc. Trong ngôn ngữ Phật giáo, đến bờ bên kia (Đáo bỉ ngạn) chỉ sự giác ngộ. Thanh Thảo lý giải thế nào về cái chết của Lorca? Tất nhiên nhà thơ đã không nhìn cái chết ấy theo chính kiến xã hội như Lực Lượng Cánh Hữu thời ấy. Cũng không nhìn theo chiều tôn giáo, sau khi chết thì linh hồn Lorca sẽ về đâu. Thanh Thảo chỉ nói, Lorca bơi qua sông, vào lặng yên bất chợt, như một tất yếu, đơn độc. Phải chăng Thanh Thảo suy niệm về hiện sinh? Rõ ràng Thanh Thảo không tạc tượng đài Lorca như một người anh hùng (như Lê Anh Xuân viết về anh Giải Phóng Quân trong bài Dáng Đứng Việt Nam), cũng không có bất cứ liên tưởng “thu hoạch” nào trong tương quan Lorca với nhà thơ Việt Nam đương đại, khi nhà thơ Việt Nam nhiều người đã ngã xuống với tư thế người chiến sĩ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ (Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ…). Thanh Thảo viết về sự ngậm ngùi, vắng lặng. Lorca băng tới phía trước, bỏ lại tất cả, ném lại tất cả.

5.Đọc bài thơ Siêu Thực

Đàn ghita của Lorca lạ so với thơ Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa (1945-1975) nhưng thực ra không mới trong thơ Việt Nam đương đại. Điều đặc sắc là Thanh Thảo sáng tạo được những tứ thơ đẹp, và cách cảm thụ thơ “đẹp” không cần phân tích. “Nếu anh thấy đẹp, nghĩa là hai câu thơ ấy có thể đẹp. Mà đã đẹp rồi thì không thể cắt nghĩa, không nên cắt nghĩa” bởi cái đẹp là tổng thể. Bông hồng chỉ đẹp khi đó là một bông hoa nở trên cành, nếu tách từng nhánh hoa để xem bông hồng đẹp ở chỗ nào thì cái đẹp (bông hoa) sẽ tan nát. Cách cảm thụ này đòi hỏi người đọc phải có trực giác thẩm mỹ và trình độ thưởng lãm, và có sự đồng điệu với tác giả. Thực ra “đẹp” hay “xấu” là cảm thụ chủ quan. Bông hồng tự nó không đẹp hay xấu. Cho nên Thanh Thảo mới đặt điều kiện: “Nếu anh thấy đẹp, nghĩa là hai câu thơ ấy có thể đẹp”. Nhà thơ rất tế nhị khi đặt điều kiện “nếu”, và đưa ra một giả định “có thể đẹp”. Thanh Thảo nhường quyền cho những bạn đọc “không thấy đẹp”, và bài thơ “có thể không đẹp”. Tiếp nhận đương đại chấp nhận rộng rãi mọi cách giải mã và cảm thụ tác phẩm. Tuy vậy, cách cảm thụ của một cá nhân không thể vượt ra ngoài những chuẩn mực văn hoá và chuẩn mực về cái đẹp của cộng đồng.

 Tháng 3.2013

 

__________________________________________

 

(1) Nguồn tiếng Anh : García Lorca’s central themes are love, pride, passion and violent death, which also marked his own life. The Spanish Civil was began in 1936 and García Lorca was seen by the right-wing forces as an enemy. Lorca “had done more damage with his pen than others with their guns.”

Về cái chết của Lorca : Lorca was dragged into a field at the foot of the Sierra Nevada Mountains, shot, and thrown into an unmarked grave (mộ huyệt)- he was driven in a lorry down the road to the next village, and was shot there, sometime before sunrise, and buried beside an olive tree.

 

(2) Chủ nghĩa Siêu Thực (Sách Giáo Viên tr. 170):  Chủ nghiã Siêu Thực ( Le surrealism ) xuất hiện vào năm 1922. Châu Âu vưà trải qua thế chiến I. các giá trị đạo đức và tinh thần truyền thống có nguy cơ sụp đổ. Cá nhân trở nên trần trụi. Họ chạy trốn vào giấc mơ, đi tìm cái hiện thực khác, cao hơn , nằm ngoài cái hiện thực đang tồn tại.

Hệ thống quan điểm mỹ học gồm :

1.Đề cao ngẫu hứng trong thế giới vô thức

  1. Đề cao hỗn độn, phi logic. Vứt bỏ sự phân tíc logic, phá vỡ khuôn mẫu đạo đức, tôn giaó, cùng với suy luận lý tính. Chỉ tin vào trực giác, giấc mơ, ảo giác,linh cảm bản năng và sự tiên tri. Gạt bỏ mọi quy tắc ngữ pháp, không tuân thủ cú pháp, không dùng chấm câu. Đề cao liên tưởng cá nhân , hướng tới hồn nhiên cuả thế giới trẻ thơ

3.Phá vỡ ngăn cách chủ thể khách thể. Họ biến chủ thể thành khách thể. Làm thơ bằng thị giác ( thay vì thính giác ( nhạc điệu, âm vận )

(3) According to Gibson, “there are indications that, before he gave the order to execute Lorca, Valdés was in touch with General Queipo de Llano, supreme commander of the rebel forces in Andalusia.”The poet was taken to the village of Víznar, together with other victims. After spending the night there in an improvised jail, he was driven in a lorry down the road to the next village, and was shot there, sometime before sunrise, and buried beside an olive tree. Lorca’s death was one of thousands of executions in Granada in the early days of the Civil War.

(4) http://phanthanhvan.vnweblogs.com/post/8200/107738