Lm. Gioakim Đặng Đức Tuấn

&Những đóng góp mới mẻ về tư tưởng và nghệ thuật

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

Lm. Gioakim Đặng Đức Tuấn

&Những đóng góp mới mẻ về tư tưởng và nghệ thuật

(Đọc Tự tích Đức cha Thể vãn)

Bùi Công Thuấn

***

ĐỨC CHA THỂ

Thánh Stêphanô Théodore Cuénot Thể là Giám mục thừa sai Paris (1802-1861). Ngài đến Việt Nam năm 1829. Năm 1835 ngài được Đức cha Taberd truyền chức Giám mục. Ngài đã phục vụ Giáo hội Việt Nam 32 năm trong giai đoạn cấm đạo khắc nghiệt nhất của các vua nhà Nguyễn (Minh Mạng, Tự Đức). Ngài chuyên tâm đào tạo linh mục, nữ tu, thầy giảng và truyền giáo, đặc biệt là truyền giáo cho các dân tộc thiểu số miền Thượng du, dân tộc Bahnar.

 Ngày 24.10.1861, ngài đang ẩn ở nhà bà Madalena Huỳnh Thị Lưu[1] thì quân lính bao vây nhà bà. Đức cha bị bắt và bị đóng cũi đưa về tỉnh. Cơn bệnh khắc nghiệt  đã làm Đức cha kiệt sức và qua đời (14.11.1861). Sau đó, bản án trảm quyết từ Huế mới đến Bình Định. Sau đó, triều đình lại gửi ra một bản án mới ghi: “Tây dương đạo trưởng Thể đã lấn lút trong nước ta 40 năm nay. Y đã giảng đạo và lừa dối dân chúng. Bị bắt và tra hỏi, y đã thú nhận mọi tội lỗi. Lẽ ra phải đem chém đầu y bêu lên giữa chợ, nhưng vì y đã chết trong tù, ta truyền phải quăng xác y xuống sông”. Chiếu theo bản án ấy, quan Trấn thủ cho đào mồ Đức cha lên để liệng thi hài Đức cha xuống sông.

Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh [[2]]

LM. GIOAKIM ĐẶNG ĐỨC TUẤN

            Lm. Đặng Đức Tuấn (1806-1874) sống cùng thời và có mối quan hệ mật thiết với Đức cha Cuénot Thể (1802-1861). Năm 1856, ngài được Đức Giám mục Cuénot Thể truyền chức linh mục tại Tòa Giám mục Gò Thị. Do sắc chỉ “Phân sáp” của vua Tự Đức, cuối năm 1861, cha Tuấn bị triều đình bắt giữ ở Nga Mân sau cho áp giải về Huế. Nhờ các bản điều trần, cha Tuấn được triều đình cho tháp tùng sứ bộ Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia Định thương nghị với Pháp. Sau hòa nghị năm 1862, ngài về quê, làm cha sở Nước Nhỉ (nay thuộc huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định).

            Lm. Đặng Đức Tuấn và Đức cha Thể đã sống trong giai đoạn cấm đạo khốc liệt dưới triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, cũng là người chứng kiến Pháp nổ súng tại Đà Nẵng 1858 bắt đầu xâm lược nước ta.

            Khi Pháp xâm lược nước ta, về tư tưởng, giới sĩ phu Nho học chia làm ba phe: Phe chống Pháp đến cùng, tiêu biểu là Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), phe rút về ở ẩn để giữ danh tiết kẻ sĩ, tiêu biểu là Nguyễn Khuyến (1835-1919), và phe hợp tác với Pháp là Tộn Thọ Tường (1825-1877) và Hoàng Cao Khải (1850-1933).

Qua thơ văn Lm. Đặng Đức Tuấn để lại, ngài là một Lm. yêu nước, dấn thân, chống Pháp và phải đối diện với cuộc đấu tranh tư tưởng khác là sự nghi kỵ tôn giáo. Các vua nhà Nguyễn theo Nho học, nghi ngờ các vị Thừa sai phương tây tiếp tay cho Pháp xâm lược, vì thế ra lệnh cấm đạo gắt gao. Trong “Tự tích Đức cha Thể vãn”, Lm. Đặng Đức Tuấn làm rõ điều này.

TỰ TÍCH ĐỨC CHA THỂ VÃN

            Tác phẩm Tự tích Đức Cha Thể vãn gồm 498 câu lục bát và song thất lục bát. Bài vãn này được làm sau khi Đức cha Thể qua đời (1861), hẳn nhiên Lm. Đặng Đức Tuấn đã kế thừa thể “vãn” trong văn học Việt và văn học “nhà đạo” trước đó, thí dụ, Ai tư vãn của Ngọc Hân công chúa, “Inê tử đạo vãn”[[3]], và đã đọc các khúc ngâm, đọc Đoạn trường tân thanh (truyện Kiều) của Nguyễn Du (1766-1820). Đó là những tác phẩm ta có thể đối chiếu để xem xét những sáng tạo nghệ thuật và tư tưởng của tác giả.

            Lm. Đặng Đức Tuấn kế thừa Inê tử đạo vãn về cách thức viết loại truyện “hạnh các thánh”, và mục đích sáng tác để lưu truyền gương sống đạo cho đời sau.

Công danh ghi tạc bia vàng,

Trong đời có một nên gương trong trời.

Chép làm một bổn để đời,

Truyền cho thiên hạ người người học theo.”

                   (Inê tử đạo vãncâu 540-545)

Tang thương một cuộc trải qua

Trước thuật tự tích đức cha để truyền

                (Tự tích Đức cha Thể vãn. Câu 502-503)

            Như vậy, (nói bằng ngôn ngữ hôm nay) có thể xem xét Tự tích Đức cha Thể vãn như một tác phẩm truyện ký bằng thơ (viết truyện người thật việc thật), ca ngợi công đức của Đức cha Thể, mặc dù thể “Vãn” là thể văn để điếu người đã khuất.

            Là một truyện thơ Nôm, Tự tích Đức cha Thể vãn có cấu trúc khá tương đồng với Đoạn trường tân thanh.

            Mở đầu đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du nêu thuyết “Tài mệnh tương đố”, sau đó kể lại cuộc đời nàng Kiều để chứng minh cho nhận định của mình. Đoạn kết, Nguyễn Du dùng chữ Tâm của Phật giáo để hóa giải “Mệnh” và “nghiệp”

            “Trăm năm trong cõi người ta

            Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”

                        (mở đầu truyện Kiều)

Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

            (Nguyễn Du kết thúc truyện Kiều)

Lm. Đặng Đức Tuấn cũng mở đầu Tự tích Đức cha Thể vãn bằng đọan thơ triết lý về lẽ

biến dịch và kết thúc tác phẩm bằng sự kết hợp triết lý biến dịch (“Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu“) với đức tin Kitô giáo.

            Khoản đất trời đổi dời năm tháng

            Biển âm dương kẻ vãn người lai              

                        (Mở đầu Tự tích Đức cha Thể vãn )

Thế gian thường biến đổi thay,

Ngày xưa ly loạn ngày nay thái bình.

Ngửa nhờ ơn Chúa chí linh,

Tối làm nên sáng dữ sinh nên lành.

Dầu ai phá nát tan tành,

Hư thì sửa lại tốt lành cao xa.

Tang thương một cuộc trải qua,

Trước thuật tự tích Đức cha để truyền

            (Đoạn kết Tự tích Đức cha Thể vãn)

Như vậy, có sự khác biệt rất lớn về tư tưởng giữa Lm. Đặng Đức Tuấn và Nguyễn Du thể hiện trong tác phẩm. Nguyễn Du dựa vào Thiên Mệnh của Nho giáo và thuyết nghiệp quả, tu Tâm của Phật giáo (“Tâm tức Phật/ Phật tức Tâm”) để giải thích và hóa giải những nỗi tang thương ở đời. Kết thúc truyện Kiều là một nỗi ngậm ngùi cam chịu. Trái lại, Lm. Đặng Đức Tuấn dùng lẽ biến dịch (Kinh Dịch) với cái nhìn “Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu”; “bĩ cực thái lai” kết hợp với đức tin Kitô giáo (nhờ ơn Chúa chí linh) để lý giải mọi biến cố đau thương trong đời Đức cha Thể, tất cả rồi đều tốt đẹp: “Ngày xưa ly loạn ngày nay thái bình”, “Tối làm nên sáng dữ sinh nên lành”, “Hư thì sửa lại tốt lành cao xa”. Đó cũng là niềm tin của Kitô hữu: có vượt qua con đường Thánh giá mới tới được Phục sinh vinh hiển. Một cái nhìn sự vật vận động, biến đổi tích cực.

Có lúc Lm. Đặng Đức Tuấn đối lập Thiên mệnh (trời) với đức tin (Chúa cả Ba Ngôi)

            Sức phàm há mấy lăm hơi,

            Cũng liều đánh bạc với trời thử coi.

            Ngửa trông Chúa cả Ba Ngôi

            Lâm khi nguy hiểm giúp tôi tá cùng

                        (Câu 69-72.Tự tích Đức cha Thể vãn )

Tư tưởng này quán xuyến suốt tác phẩm, vì thế Lm. Đặng Đức Tuấn không phân tích nguyên nhân và thái độ bách đạo của các vua nhà Nguyễn, ngài không kết án hay oán trách chế độ chính trị đương thời, mặc dù vẫn ghi nhận cụ thể việc bắt bớ, giết hại giáo dân, đạo trưởng. Ngài dùng lẽ biến dịchđức tin Kitô giáo làm nền tảng tư tưởng để ngẫm suy hiện thực. Lm. Đặng Đức Tuấn vừa thuyết phục được vua quan đương thời, vừa vượt qua được sự nghi kỵ của nhà Nguyễn đối với các đạo trưởng (linh mục). Các bản điều trần của Lm. Đặng Đức Tuấn là một minh chứng. Những luận giải của Lm. Đặng Đức Tuấn đã làm thay đổi cái nhìn về đạo Công giáo của các đại thần Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp, kể cả vua Tự Đức.

NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN CHƯƠNG

            Yếu tố trung tâm của một tác phẩm văn học là hình tượng nhân vật. Nhân vật làm nên câu chuyện (nội dung). Nhân vật thể hiện chủ đềtư tưởng tác phẩm. Nhân vật cũng chứa đựng những đặc điểm nghệ thuật của tác giả. Nhân vật lớn làm nên tác phẩm lớn.

            1.Nhân vật trung tâm của Tự tích Đức cha Thể vãn là Đức cha Cuénot Thể (người thật việc thật). Hành trạng, cuộc đời của nhân vật này được thuật lại đúng như “chính sử” (đã thuật ở trên), nhưng xin lưu ý, nhân vật văn học khác với nguyên mẫu ngoài đời, vì đây là “nhân vật tư tưởng-thẩm mỹ”(tức là nguyên mẫu đã được tái tạo qua tư tưởng và lý tưởng thẩm mỹ của tác giả). Lm. Đặng Đức Tuấn không chỉ thuật lại (như tường thuật báo chí) về Đức cha Thể, mà còn làm sáng lên những vẻ đẹp của nhân vật Đức cha Thể ở hai góc nhìn: vẻ đẹp bên trong tâm hồn, và vẻ đẹp từ tình cảm yêu thương, gắn bó của giáo dân. Nhân vật Đức cha Thể cũng được nhìn từ phía quan quân nhà Nguyễn giữa thời bách đạo. Nói cách khác, nhân vật Đức cha Thể được xây dựng trong không gian, thời gian rộng, trong nhiều mối quan hệ xã hội của bối cảnh lịch sử chính trị Việt Nam thời các vua Minh Mạng, Tự Đức.

            Đây là vẻ đẹp bên trong của nhân vật Đức cha Thể (xin gọi tắt là Đức cha), vẻ đẹp của một lý tưởng, vẻ đẹp của một Mục tử giữa đoàn chiên. Khi bị quan quân tra hỏi về sự hiện diện của mình ở Việt Nam, Đức cha trả lời:

            “Quan quân kẻ đứng người ngồi

            Hỏi han sự tích hỏi rồi lại biên.

            Đức Cha tuy bịnh ưu phiền,

            Nhưng khi ứng đáp phân minh mọi lời.

            Rằng tôi qua đã lâu đời,

            Ước ba mươi bảy năm trời tới nay.

            Chỉ lo truyền dạy đạo ngay,

            Không làm giặc giã không hay sự đời.

            Vì vua cấm đạo Chúa Trời,

            Nên phải tàng ẩn tùy thời náu nương.

            Tuy tôi người ở viễn phương,

            Bởi lòng kính Chúa khắp thương mọi người.

            Tuổi rày đã quá sáu mươi,

            Thẳng ngay dạ thiệt chê cười mặc ai.

            Cứu người đói khát họa tai,

            Vốn không tham lợi tham tài mà qua.

            Không lòng độc dữ gian tà,

            Không làm thiệt hại nước nhà việc chi.

            Không tham danh vọng thế thì,

            Dạy người cho biết thị phi dữ lành.

            Có sao nói thật đành rành,

            Không hề nói dối nói quanh đâu là”.

                                                 (Câu 413-434)

Lm. Đặng Đức Tuấn làm rõ một vấn đề tư tưởng liên quan đến các Thừa sai thời đó.

Nhà Nguyễn nghi ngờ các Thừa sai có liên quan với Pháp trong cuộc xâm lược Việt Nam. Đức cha Thể nói rõ: ngài “Chỉ lo truyền dạy đạo ngay,/ Không làm giặc giã không hay sự đời. Ngoài ra, ngài còn cứu giúp dân nghèo: “Cứu người đói khát họa tai,…/ Dạy người cho biết thị phi dữ lành”. Tất cả mọi hoạt động của ngài không gây phương hại gì: “Không lòng độc dữ gian tà,/ Không làm thiệt hại nước nhà việc chi”.

Nói bằng ngôn ngữ bình dân, Đức cha cũng như mọi người dân, ngài là người “lương thiện” với tất cả ý nghĩa tốt đẹp nhất. “Đạo trưởng”, Thừa sai phương Tây  cũng là một người dân bình thường. Nhìn ở góc độ tôn giáo, Đức cha tỏa sáng hai điều răn quan trọng nhất của đạo Công giáo là “mến Chúa và yêu người”, chuyên tâm loan báo Tin Mừng..

                        Tuy tôi người ở viễn phương,

                                    Bởi lòng kính Chúa khắp thương mọi người

            Trong phần trần thuật, hai chi tiết làm người đọc hôm nay ngỡ ngàng là tuổi tác (Đức cha đã 60 tuổi) và thời gian phục vụ tại Việt Nam (37 năm), phải sống trốn lánh giữa thời cấm đạo. Điều ấy biểu lộ một đức tin kiên trung vô bờ bến.

            Rằng tôi qua đã lâu đời,

            Ước ba mươi bảy năm trời tới nay.

            Chỉ lo truyền dạy đạo ngay,

            Không làm giặc giã không hay sự đời.

Vì vua cấm đạo Chúa Trời,

            Nên phải tàng ẩn tùy thời náu nương.

            …

            Tuổi rày đã quá sáu mươi,

            Thẳng ngay dạ thiệt chê cười mặc ai

            Cứu người đói khát họa tai,

            Vốn không tham lợi tham tài mà qua.

            Đây là cảnh Đức cha Thể bị bắt. Lm. Đặng Đức Tuấn miêu tả phong thái Đức cha rất đẹp, rất uy nghi, và thanh thản. Ngài tỏa sáng lòng tín thác trong tay Chúa. Ngài không hề sợ hãi, cũng không phản ứng lại những bất công oan khiên triều đình nhà Nguyễn dành cho ngài. Sự xuất hiện của ngài làm quan quân “mất vía”, như thể quân dữ hoảng loạn khi đến bắt Đức Giê su (Ga 18, 6):

                        Quan cứ ông Quả mà tra

                        Đồ lễ như vậy ấy là của ai

            Chú là đạo trưởng chẳng sai,

            Kêu không sao đặng/ chối dài ai cho

            Ông Quả bởi lòng sợ lo

            Thưa rằng chẳng phải/ đôi co không hoài.

            Cho nên quan ở lại dai

            Canh giữ nghiêm nhặt ước hai ba ngày.

Đức cha thấy sự đắng cay,

            Lại thêm khát nước lâu ngày xót xa

            Ở trong lẫm lúa bước ra,

            Phú mình mặc ý Chúa Cha lo lường.

            Quan quân xem thấy Tây dương,

            Như dường mất vía như dường chiêm bao.

            Kêu la truyền báo lao xao

            Hối rân mõ trống giáo sào gậy cây.

            Kéo đoàn kéo lũ đến vây,

            Đua nhay chạy tới coi Tây thế nào.

Huyện quan thôi mới truyền rao

            Gia gông tùng giả tận cào chớ tha.

            Còn gia nhơn với chủ nhà,

            Đều đóng gông cả đem ra ngoài vườn.

                                       (Câu 373-394)

            Hình ảnh Đức cha xuất hiện ở đọan thơ trên cũng là vẻ đẹp bên ngoài của hình tượng nhân vật Đức cha Thể. Vẻ đẹp ấy thể hiện ở lòng yêu mến của giáo dân. Ngài đến, giáo dân vui, ngài đi, giáo dân bùi ngùi chờ mong. Ngài chịu bắt bớ, đóng cũi, tra vấn thì lòng giáo dân đau đớn xót xa. Ngài “về trời” thì nước mắt con dân như mưa, nỗi sầu thảm bao trùm không gian Đây là đoạn “ai điếu” Đức cha qua đời (lời giáo dân nói với Đức cha):

            Tưởng rằng một hội phong mây

            Nước non há để tớ thầy lìa nhau

            Nào hay kẻ trước người sau,

            Khỏi mười lăm bữa cha mau về trời.

            Vàng trầm sông Lệ thương ôi:

            Gió đưa ngọn thảm mưa rơi đọt sầu.

            Mắng tin giáo hữu đâu đâu,

            Ngày dài hàm lụy canh thâu đoạn trường.

            Bưng khuân lòng khiến thảm thương,

            Thương khi lâm tử cũng dường tội nhơn.

            Ngậm ngùi cảm bấy công ơn,

            Ơn còn người mất lòng hơn tơ vò.

            Nhẫn dầu núi lở biển khô,

            Biển núi khô lở công phu đá vàng.

            Phận cha rồi cuộc gian nan,

            Gian nan rồi cuộc thanh nhàn tới nơi.

            Chúng con còn ở giữa vời,

            Giữa vời biển hiểm là đời phù vân.

            Sự đời khi hiệp khi phân

            Phân ly lại hiệp xoay vần vô biên.

                                  (Câu 441-460)

            Lời “ai điếu” thể hiện mối quan hệ cha con thắm thiết, bộc bạch những nghĩ suy trăn trở về Đức cha, không kềm chế được nỗi thương đau sầu thảm ngày đêm và tỏ lộ một lòng biết ơn sâu nặng với Đức cha. Trong niềm tin Kitô giáo, người giáo dân nghĩ đến cuộc gặp lại Đức cha mai sau (giải thích bằng lẽ biến dịch), “Sự đời khi hiệp khi phân/ Phân ly lại hiệp…”.

Xin lưu ý việc tác giả dùng từ để diễn ngôn: Lời thơ là lời của “chúng con” gần gũi ân cần sâu lắng. Mối quan hệ giáo dân và chủ chăn là quan hệ “tớ thầy” (hiểu theo nghĩa Kinh thánh là mối quan hệ của Đức Giê su và các tông đồ). Tác giả dùng nhiều hình ảnh ẩn dụ giàu chất thẩm mỹ của văn chương bác học kết hợp với lời nói bình dân tạo nên một đoạn “ai điếu” vừa trang trọng vừa xúc động.

            Vàng trầm sông Lệ thương ôi:

            Gió đưa ngọn thảm mưa rơi đọt sầu

            …

            Nhẫn dầu núi lở biển khô,

            Biển khô núi lở công phu đá vàng.

Hình tượng nhân vật Đức cha Thể trở nên lớn lao vì được miêu tả trong không gian thời gian rộng lớn. Nhân vật ở giữa công chúng, ở tâm điểm của thời đại lúc ấy là cuộc bách hại tôn giáo. Nhân vật ấy điềm tĩnh, thanh thản nhưng uy nghi lẫm liệt tỏa sáng từ bên trong những phẩm chất mới mà kiểu nhân vật “đấng trượng phu, đấng nam nhi, người anh hùng” trong văn học trung đại dưới ý thức hệ phong kiến không có được. Từ Hải là nhân vật lý tưởng của Nguyễn Du, nhưng Nguyễn Du đã phải hạ một câu thơ đau đớn khi Từ Hải thất thế: “Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn”.

Trái lại hình tượng Đức cha Thể khi thất thế phải sa vào tay kẻ dữ lại lẫm liệt

Đức cha thấy sự đắng cay,

            Lại thêm khát nước lâu ngày xót xa

            Ở trong lẫm lúa bước ra,

            Phú mình mặc ý Chua Cha lo lường.

            Quan quân xem thấy Tây dương,

            Như dường mất vía như dường chiêm bao

Lm. Đặng Đức Tuấn đã đem đến cho văn học Việt đương thời một hình tượng rất mới mẻ, rất đẹp về một vị Thừa sai, đủ khả năng làm xóa đi những định kiến tôn giáo của vua quan nhà Nguyễn.

2. Văn chương với hiện thực.

Tự tích Đức cha Thể vãn là một truyện ký. Sự việc, con người, thời gian, không gian được ghi lại trung thực, nhưng Lm. Đặng Đức Tuấn đã ghi lại cái phần sáng, cái phần tốt đẹp của hiện thực, mà không tô đậm cái phần tối, phần oan khuất thương đau, không “tố cáo tội ác” mà vua nhà Nguyễn gây ra cho người Công giáo.

Đây là hình ảnh đời sống thái bình, vua nhân hậu (nhơn hoàng), Đức cha đi lại khắp nơi giảng khuyên giáo dân, từ Nghệ An đến Thừa Thiên, Nam Ngãi Bình Định Phú Yên và vào cả Sài gòn, “Bốn phương, khắp miền âu ca”.

            Đương thuở nhơn hoàng ngự ngôi.

            Ra vào thong thả lần hồi giảng khuyên.

            Nghệ An nhẫn đến Thừa Thiên,

            Nam Ngãi Bình Định Phú Yên Sài Gòn

            Khắp miền dạy dỗ các con

            Thân li cố quốc chơn mòn tha bang.

                                        (Câu 15-22)

            Ngàn trùng dặm thẳm đàng xa

            Mọi nơi đều có Đức cha cầm quờn

            Gian nan khốn khó chi sờn,

            Đạo tuy nghiêm cấm giáo nhơn phỉ nguyền.

            Ngoài trong lo việc giảng truyền,

            Bốn phương thỏa thiệp khắp miền âu ca.

            Hàng năm phong chức các cha,

            Vườn nho sum ấm, Thánh Tòa sáng danh.

                                    (Câu 159-166)

Cả khi bị bách đạo thì vẫn có nỗi vui trong sự tín thác vào Chúa:

            Đương khi bắt đạo tưng bừng,

            Mắng tin bao xiết nỗi mừng nỗi lo.

            Mừng vì Chúa đã liệu cho,

            Có đứng Vị-vồ chăn giữ giáo nhơn.

                        (Câu 63-66)

Và đây là thảm cảnh “phân sáp[4]

            Đến khi mật trát truyền ra,

Thích tự phân sáp dỡ nhà đạo nhơn.

Càng ngày sự dữ càng hơn,

Đức cha mới tính đi chơn Gò-Bồi.

Tuy rằng là chỗ mồ côi,

Làng còn để lại đặng đôi ba nhà.

Ông Quả thầy Truyền thầy Khoa,

Nghiêm Sang hai chú cũng là theo đây.

Thị Lựu góa phụ nhà nầy,

Cha con tạm ẩn tớ thầy duông thân.

Kẻ sáp đổi đi xa gần.

Kẻ còn ở lại bần thần thương tâm.

Cửa nhà dỡ phá căm căm,

Cho ai lòng sắc không cầm lụy châu

             (Câu 333-346)

Đọc đọan thơ, người đọc chỉ thấy ngậm ngùi thương cảm người giáo dân trong khổ nạn, tác giả tuyệt nhiên không truy nguyên hay “tố cáo” tội ác nhà Nguyễn gây ra cho nhân dân. Điều này có thể là, người Công giáo tin rằng mọi sự khó đều là thử thách của Chúa, là thập giá phải mang để đi đến Phục sinh; cũng có thể là, tác giả không muốn gây ra những chia rẽ lương giáo, không muốn tách người Công giáo khỏi cộng đồng dân tộc; và cũng có thể là chỗ khó của Lm. Đặng Đức Tuấn. Ngài vừa muốn thể hiện sự trung thành với nhà vua (trung quân ái quốc) vừa muốn bảo vệ đức tin Công giáo.

            Thái độ “phản ánh hiện thực” này của Lm. Đặng Đức Tuấn hoàn toàn khác với Nguyễn Du khi nhìn hiện thực “bể dâu”. Nguyễn Du chỉ thấy sự khắc nghiệt của Thiên mệnh:

                        “Gẫm hay muôn sự tại trời

                        Trời kia đã bắt làm người có thân

                        Bắt phong trần phải phong trần

                        Cho thanh cao mới được phần thanh cao”

                                                (Đoạn trường tân thanh-Nguyễn Du)

            3. Những đặc sắc nghệ thuật

            Đặc sắc nghệ thuật có ý nghĩa tư tưởng của ngòi bút Đặng Đức Tuấn đã thể hiện trong việc xây dựng nhân vật trung tâm và trong ý thức “phản ánh hiện thực” (được nêu ở trên). Người đọc còn tìm thấy nhiều điều thú vị trong nghệ thuật kiến tạo tác phẩm mà Lm. Đặng Đức Tuấn đem đến cho văn học đương thời.

            Xin nhắc lại đôi điều. Tiêu biểu cho thơ văn thời kỳ đầu của nhà Nguyễn là Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) với những bài thơ về “Chí nam nhi”[[5]]. Ông cao rao đạo trung hiếu: “Có trung hiếu nên đứng trong trời đất/ Không công danh thà nát với cỏ cây” (Phận sự làm trai). Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858), văn học Việt Nam chuyển sang nền văn học yêu nước chống Pháp mà Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là tiêu biểu. Vẫn là đạo “trung hiếu” nhưng đã mang tư tưởng chống Pháp: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;/ Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.…”(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. 1861).

            Lm. Đặng Đức Tuấn không nói gì đến đạo trung hiếu của Nho giáo như Nguyễn Công Trứ, cũng không đưa vào tác phẩm những sự kiện và tư tưởng chống Pháp đương thời. Lưu ý rằng, Đức cha Thể đến Việt Nam 1829 và qua đời 1861 khi Pháp chiếm ba tỉnh miền đông Nam bộ. Tại sao Lm. Đặng Đức Tuấn không đưa nhân vật của mình vào những sự kiện chính trị như thế?

Điều này chỉ có thể lý giải rằng Công giáo đứng ngoài chính trị. Đức cha Thể chỉ có một lý tưởng là:

            “Rằng tôi qua đã lâu đời,

            Ước ba mươi bảy năm trời tới nay.

            Chỉ lo truyền dạy đạo ngay,

                        Không làm giặc giã không hay sự đời

Tôi nghĩ đó là thái độ chọn lựa đúng đắn của Lm. Đặng Đức Tuấn. Tác giả xây dựng nhân vật Đức cha Thể là một Mục tử, một đấng chăn chiên lành.

Mặc dù Tự tích Đức Cha Thể vãn được viết sau truyện Kiều, nhưng Lm. Đặng Đức Tuấn không chịu ảnh hưởng nghệ thuật của Nguyễn Du. Câu thơ Lục bát của Lm. Đặng Đức Tuấn gần gũi, dân dã hơn (sử dụng nhiều thành ngữ, ca dao). Vẫn có những đoạn, những cảnh tác giả sử dụng vốn từ bác học, có lẽ để đáp ứng đối tượng độc giả có học đương thời. Và tuyệt nhiên không có sự hiện diện của điển ngữ Trung quốc như thường thấy trong truyện Kiều và Lục Vân Tiên lúc ấy.

Trong khi các tác giả văn chương chữ Nôm thời nhà Nguyễn vẫn còn sử dụng bút pháp ước lệ của văn học trung đại thì Lm. Đặng Đức Tuấn đã sử dụng bút pháp hiện thực khá hiện đại, tức là chọn tả những nét điển hình của cuộc sống, đặt nhân vật trong các mối quan hệ xã hội, qua đó gửi thông điệp về những vấn đề nhân sinh. Ngòi bút tả thực của Lm. Đặng Đức Tuấn hết sức sống động (thí dụ đoạn Đức cha bị bắt), những trang tả tình của Lm. Đặng Đức Tuấn cũng sâu sắc thấm thía. Chẳng hạn những đoạn kể về những năm thái bình với niềm hân hoan và nỗi sầu thảm trong đoạn ai điếu khi Đức cha về trời. Màu sắc thẩm mỹ cua bài vãn thật phong phú.

Trong bài vãn này không có nhân vật Tôi thuật truyện. “Cái Tôi” tác giả hòa trong các nhân vật công chúng giáo dân, nói tiếng nói của cộng đồng. Dù vậy, chất trữ tình vẫn là âm giọng chủ đạo. Điều này có thể hiểu được vì Vãn là thể loại bày tỏ tình cảm với người đã khuất. Thể loại truyện ký bằng thơ, phản ánh những vấn đề thời sự, diễn ngôn có tính tư tưởng là những đóng góp của bài Vãn vào văn học Việt đương thởi.

LM. ĐẶNG ĐỨC TUẤN-NHÀ VĂN CÔNG GIÁO

Tiến sĩ Wynn Wilcox (Western Connecticut State University, USA) gọi Lm. Đặng Đức Tuấn là nhà thơ, nhà văn và nhà sử học [[6]]. Ở lĩnh vực thơ văn, Lm. Đặng Đức Tuấn còn các tác phẩm khác như Thuật tích việc nước Nam, Tân cựu Sấm truyền lục bát kinh văn, Minh dân vệ Đạo khúc, Kim thạch giải sầu ca, Văn tế các đẳng,…Để hiểu tài năng và những đóng góp văn chương, tư tưởng của Lm. Đặng Đức Tuấn, cần có một công trình nghiên cứu sâu rộng hơn.

 Bài viết này chỉ là bước đầu khám phá văn chương của Lm. Đặng Đức Tuấn. Văn học chữ Nôm đương thời có những tác phẩm đỉnh cao như Chinh phụ ngâm khúc (1741-Đặng Trần Côn), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều 1741-1798), Ai Tư Vãn (Ngọc Hân bắc cung hoàng hậu.1792), Đoạn trường tân thanh (Nguyễn Du.1766-1820), Lục Vân Tiên (trước 1858) và Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu-1861). Các tác phẩm chữ Nôm này nằm trong hệ tư tưởng Phật, Nho, Lão, sử dụng bút pháp ước lệ của văn học trung đạị. Tự tích Đức Cha Thể vãn của Lm. Đặng Đức Tuấn lại đem đến những yếu tố tư tưởng và nghệ thuật mới. Đó là sự kết hợp triết học biến dịch với Thần học Kitô giáo, thể Vãn không chỉ là thương tiếc oán than mà có tính chất như một “truyện ký” với nhân vật, địa danh, sự việc và bối cảnh xã hội đương thời Việt Nam. Người đọc cũng tìm thấy tính “thuần Việt” trong ngôn ngữ và cách thể hiện. Tất cả hướng đến một đối thoại tư tưởng với đương thời, khi nhà Nguyễn coi Nho giáo là “chính đạo”.

Có nhìn Tự tích Đức Cha Thể vãn ở những giá trị tư tưởng và nghệ thuật ấy mới thấy những đóng góp của Lm. Đặng Đức Tuấn cho văn học Công giáo và văn học đương thời là rất quý giá.

Tháng 6/ 2023


[1] Bà này được nhắc đến với hai tên Lưu và Lựu. Ngày nay trong sách sử ở Giáo phận Qui Nhơn thống nhất gọi là bà Huỳnh Thị Lưu.

[2] Lm Đào Trung Hiệu OP-Thánh Stêphanô Théodore CUÉNOT THỂ, Giám mục thừa sai Paris (1820-1861)https://www.giaophanbaria.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/2015/11/14/thanh-stephano-theodore-cuenot-the-giam-muc-thua-sai-paris-1820-1861.html

[3] Năm 1838, trong Tự Điển Việt-La (Dictionarium Anamitico Latinum) của Jean Louis Taberd, phần phụ lục trang 110 đến 135 có in một bài thơ (vãn) tên Inê Tử đạo vãn về một vị tử đạo có tên thánh là Inê. Bài vãn gồm 562 câu, in song song với bản dịch tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Latinh.

[4] Phân sáp: Cuối tháng 7.1861 vua Tự Đức ký sắc lệnh phân sáp toàn diện, nội dung gồm năm khoản: “1- Tất cả già, lớn, bé, nam, nữ Công Giáo phải chia ra phân tán vào các làng lương không Công Giáo. 2- Các làng không Công Giáo phải nhận canh chừng theo tỉ lệ năm người lương canh một người Công Giáo. 3- Các nhà Công Giáo bị phá hủy, đất đai trao cho các người lương canh tác để nộp thuế. 4- Vợ chồng con cái phải tách biệt nhau. 5- Phải khắc chữ tả đạo ở má trái và nơi lưu đày ở má phải”.

Lm Mai Đức Vinh-Các văn kiện cấm đạo: https://catechesis.net/cac-van-kien-cam-dao-4/#:~:text=Cu%E1%BB%91i%20th%C3%A1ng%207.1861%20vua%20T%E1%BB%B1,canh%20m%E1%BB%99t%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20C%C3%B4ng%20Gi%C3%A1o.

[5] Nguyễn Công Trứ-bài thơ Chí nam nhi

https://www.thivien.net/Nguy%E1%BB%85n-C%C3%B4ng-Tr%E1%BB%A9/Ch%C3%AD-nam-nhi/poem-U1-UaldAkjbh8IvkcFlb7Q

[6]  Wynn Wilcox-A Nôm Source on Nineteenth-Century Vietnamese History: Đặng Đức Tuấn’s Thuật tích việc nước Nam. The Second International Nôm Conference June 1-2, 2006 Huế

THỂ LỆ-GIẢI VHNT ĐẤT MỚI 2023-2024

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

Trao giải Thơ Đất Mới 2022

***

Ban Văn Hóa & Ban Truyền Thông  Giáo Phận Xuân Lộc

Thể Lệ Giải

Văn Hoá Nghệ Thuật Đất Mới 2023 – 2024

Các văn kiện của Giáo hội về mục vụ văn hoá đã khơi gợi ước muốn xây dựng những giá trị văn hoá Công Giáo nơi cộng đồng dân Chúa. Vì thế, Ban Văn Hoá kết hợp cùng Ban Truyền Thông Giáo phận Xuân Lộc tổ chức giải Văn Hoá Nghệ Thuật Đất Mới 2023 – 2024 như sau:

1.Tên cuộc thi“Sáng tác Văn Hoá Nghệ Thuật ĐẤT MỚI”

2. Các chủ đề:

a. Theo định hướng mục vụ của HĐGMVN và Gp. Xuân Lộc năm 2020-2022: Gia đình hãy trở nên mái ấm của Lòng Chúa Thương Xót. Người trẻ – chứng nhân Tin mừng, thiếu nhi: cầu nguyện, hy sinh.

b. Mẹ Vô Nhiễm Núi Cúi (bảo vệ sự sống, nhân phẩm, bác ái…)

c. Ngoài ra, quý Tác giả có thể viết về: Đời Dâng hiến, loan báo Tin Mừng, bảo vệ môi trường…

3. Đối tượng dự thi:

Mọi người trong và ngoài giáo phận, Công giáo hay anh chị em Tôn giáo bạn, có nhiệt tâm với việc xây dựng văn hoá sự sống và tình thương đều có thể tham gia.

4. Thể loại:

Cuộc thi giới hạn vào các thể loại sau:

  1. Thơ: Giải chỉ nhận các tập thơ (ít nhất 5 bài trở lên). Không giới hạn số tập thơ tham gia.
  2. Truyện ngắn: Giải chỉ trao cho tập truyện ngắn, ít nhất là 3 truyện (tối thiểu 1000 chữ và tối đa 2000 chữ)
  3. Truyện dài: Mỗi tập truyện dài 3000 chữ trở lên.
  4. Kịch bản văn học (thời lượng kịch bản tối đa 20 phút)
  5. Ca khúc
  6. Ảnh nghệ thuật (thể lệ riêng)

5. Thể lệ dự thi

a. Tác phẩm dự thi phải là kết quả sáng tác của người dự thi, không sao chép từ bất cứ nguồn nào và tác phẩm chưa tham gia bất kỳ cuộc thi nào khác.

b. Một tác giả có quyền đăng ký tham gia dự thi nhiều thể loại.

c. Tác phẩm dự thi phải được đánh máy trên giấy khổ A4, font chữ là Times New Roman, cỡ chữ 13. Trong tác phẩm dự thi cần có các thông tin: tên tác giả, bút danh, địa chỉ thường trú, điện thoại, e-mail.

6. Thời gian nhận tác phẩm dự thi

2 năm: Từ ngày thông báo 11.11.2022 đến hết ngày 31.03.2024

7. Nơi nhận tác phẩm

Các tác phẩm được xem như đăng ký dự thi thành công khi tác phẩm được in ra và đính kèm file dự thi. Tác giả có thể gửi qua.

· Nhận Trực Tiếp theo địa chỉ:

Ban Văn Hoá GP Xuân Lộc – TGM Xuân Lộc,

210 Hùng Vương, Xuân Bình,

Long Khánh, Đồng Nai

Đồng thời: Tác giả gửi file qua email: vhdatmoi@gmail.com

8. Giải thưởng với tổng trị giá 191.000.000 vnđ

Thơ (Tổng: 24.000.000đ)

01 giải nhất: 8.000.000đ

01 giải nhì:  6.000.000đ

01 giải ba:  4.000.000đ

03 giải khuyến khích : 2.000.000đ

Truyện ngắn (Tổng:24.000.000đ)

01 giải nhất: 8.000.000đ

01 giải nhì: 6.000.000đ

01 giải ba: 4.000.000đ

03 giải khuyến khích : 2.000.000đ

Truyện dài, tiểu thuyết (Tổng: 42.000.000đ)

01 giải nhất: 15.000.000đ

01 giải nhì: 10.000.000đ

01 giải ba: 8.000.000đ

03 giải khuyến khích: 3.000.000đ

Ca khúc: (Tổng 24.000.000đ)

01 giải nhất: 8.000.000đ

01 giải nhì: 6.000.000đ

01 giải ba: 4.000.000đ

03 giải khuyến khích : 2.000.000đ

Kịch bản văn học (27.000.000đ)

01 giải nhất: 8.000.000đ

01 giải nhì: 6.000.000đ

01 giải ba: 4.000.000đ

03 giải khuyến khích: 3.000.000đ

***

Quy định riêng với phần thi ảnh nghệ thuật như sau:

CUỘC THI ẢNH VĂN HÓA NGHỆ THUẬT ĐẤT MỚI 2023-2024

Chủ đề: ẢNH ĐẸP CÔNG GIÁO

1. Mục đích và ý nghĩa:

Nhằm phục vụ việc Loan Báo Tin Mừng, tạo điều kiện giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, giới thiệu các sáng tác nghệ thuật đặc sắc của những thành viên MVTT  và nghệ sĩ nhiếp ảnh trong và ngoài giáo phận tham gia sáng tác các bức ảnh đẹp về Đạo Công Giáo.

Qua đó, giới thiệu đến mọi người những hình ảnh đẹp về đời sống đạo, đời sống gia đình, các kiến trúc đặc sắc, văn hóa tình thương và sự sống.

2. Tính hợp lệ của tác phẩm:

– Ảnh dự thi phải là tác phẩm của chính người đăng ký dự thi và tấm ảnh được chụp bằng các loại máy ảnh, smartphone, tablet…

– Chấp nhận ảnh đã qua xử lý nhưng không làm thay đổi nội dung và bản chất của sự việc trong bức ảnh.

– Ảnh không viền khung, không gắn Logo, họ tên và các ký hiệu trên ảnh. Không chấp nhận ảnh scan hoặc được chụp lại.

– BTC không chịu trách nhiệm về sự tranh chấp tác quyền.

 3. Quy định kỹ thuật:

Định dạng tập tin ảnh là JPEG, độ phân giải tối thiểu 300dpi. Kích thước file ảnh từ 3 Mb – 8 Mb. Đặt tên file ảnh theo mẫu: số thứ tự_họ và tên tác giả_ký hiệu file.

– Mỗi tác giả được đăng ký dự thi tối đa 5 tác phẩm và có kèm theo bài giới thiệu về nội dung của tác phẩm trong khoảng 150 ký tự bao gồm:

Tên tác giả:……………………………

Địa chỉ thương trú:………………………

Giáo xứ:…………… Hạt:……………… Giáo phận:………

Email:……………………..  ĐT:…………………

Tên tác phẩm:……………………………………

Địa điểm chụp:……………………………………….….

Thời gian chụp:……………………………………………

Giới thiệu sơ nét ý nghĩa của tác phẩm:……………………..

:……………………………………………………………….

:……………………………………………………….

Chấp nhận cả ảnh đơn và ảnh bộ.

– Ảnh đơn: Mỗi ảnh là một tác phẩm. Trong trường hợp tác giả gửi ảnh dự thi bao gồm cả ảnh đơn và ảnh bộ thì ảnh đơn không trùng với ảnh trong bộ ảnh.

– Ảnh bộ: Mỗi bộ ảnh được coi là một tác phẩm, gồm 05-08 ảnh. Ban Tổ chức khuyến khích bộ ảnh có phần chú thích (tối đa 150 từ) giới thiệu nội dung của bộ ảnh. Tác giả phải đánh số thứ tự các ảnh trong bộ ảnh từ 1 đến hết

– Các tác phẩm phạm quy sẽ bị loại khỏi Giải

– Ban Tổ chức có quyền sử dụng tác phẩm được chọn triển lãm để phục vụ cho công tác truyền thông không nhằm mục đích thương mại mà không phải trả bất cứ một khoản thù lao nào khác.

– Ban Tổ chức sẽ hủy bỏ kết quả chấm chọn, tước giải thưởng nếu phát hiện tác phẩm vi phạm bản quyền, chắp ghép.

– Ban Tổ chức dự kiến chọn từ 30 đến 50 tác phẩm ảnh trưng bày triển lãm.

– Mỗi tác giả chỉ nhận được một giải thưởng mà thôi

4. Thời gian nhận tác phẩm dự thi :

Từ sau ngày ra thông báo này 16.11.2020 đến hết ngày 31.03.2022. Nơi nhận tác phẩm Ảnh Nghệ Thuật: Anhdepconggiao.com

5. Ban Giám Khảo

– Cha GB Trần Ngọc Bảo – Phó Ban Truyền Thông và Văn Hóa Gp. Xuân Lộc

– Thầy Bùi Minh Sơn – VAPA – E.VAPA/G, EFIAP

 – Phạm Bình – AVAPA, ES.VAPA

– NSNA Bùi Viết Đồng – Chủ nhiệm CLB Nhiếp Ảnh Long Khánh

– NSNA Lò Văn Hợp – Hội VHNT Đồng Nai

6. Cơ Cấu Giải Thưởng với Tổng Trị Giá (50.000.000đ)

– 01 giải nhất: 10.000.000đ

– 02 giải nhì: 5.000.000đ

– 03 giải ba: 3.000.000đ

– 06 giải khuyến khích: 1.000.000đ

– Ảnh được chọn Triển Lãm : 300.000 đ

9. Trao giải:

Ngày 11.11.2024 tại TGM Xuân Lộc,  210 Hùng Vương, P. Xuân Bình, Tp. Long Khánh, Đồng Nai.

                           Ban Văn Hóa và  Ban Truyền Thông

                           Giáo Phận Xuân Lộc phối hợp tổ chức

                                                   (Đã ký)

                          Lm.Jos. Nguyễn Văn Quang-TB Văn hóa

                         Lm Dom. Ngô Công Sứ-TB Truyền thông

Ghi chú:

Theo yêu cầu của các tác giả tham dự giải, tôi đăng lại bản thể lệ này.

Văn bản này đã được công bố trong lễ trao giải VHNT Đất Mới, được tổ chức tại Tòa Giám mục Xuân Lộc

ngày 11/11/2022,

NHÀ VĂN ĐÀO SỸ QUANG-Những nét đẹp của một cốt cách văn chương

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

NHÀ VĂN ĐÀO SỸ QUANG

Những nét đẹp của một cốt cách văn chương

(Đọc tập truyện ngắn Bến hồng nhan của Đào Sỹ Quang. Nxb HNV quý I/ 2023)

Bùi Công Thuấn

***

Nhà văn Đào Sỹ Quang sinh năm 1954 tại Thái Nguyên. Ông hiện sống tại Tp. Biên Hòa. Ông từng là bộ đội Sư đoàn 304, chiến đấu ở chiến trường Quảng Trị năm 1972. Ngoài vết thương do đạn pháo, ông còn trải qua hai lần mổ và thay van tim. Trở về miền Bắc ông theo nghề sư phạm, giảng dạy Vật lý THPT.

Ông theo đuổi tư tưởng – nghệ thuật: “Nhân văn, nghệ thuật phải chạm đến trái tim con người”. Ông mong muốn “ độc giả bị cuốn hút vào những điều hư cấu, hạnh phúc trong nụ cười hay nước mắt”.

Tác phẩm đã xuất bản:

  1. Sự đời (tập truyện ngắn. Nxb HNV 2013).
  2. Đất và người (tập bút ký. Nxb HNV 2015).
  3. Viên đạn cuối cùng (tập truyện ngắn. Nxb Văn học 2016).
  4. Mùa tôm sú (tập truyện ngắn. Nxb Văn hóa – Văn nghệ  2017).
  5. Điều như không thể (tập truyện ngắn. Nxb HNV 2018).
  6. Trời đang vào thu (tập truyện ngắn. Nxb HNV 2019).
  7. Đối mặt (tập truyện ngắn. Nxb HNV 2019).
  8. Bến hồng nhan (tập truyện ngắn. Nxb HNV 2023).
  9. Tiểu thuyết “Ngày của những tháng năm”, bắt đầu viết năm 2019 đang hoàn chỉnh.

9 tập truyện đã xuất bản cùng với 12 giải thưởng ông đã đạt [[1]]  đủ khẳng định Đào Sỹ Quang là một cốt cách văn chương có nhiều nét đẹp, và ghi nhận sự đóng góp của ông vào sự phong phú của văn chương Đồng Nai. Tập truyện Bến hồng nhan khắc họa những đường nét của cốt cách ấy.

MỘT NGHỆ THUẬT KỂ TRUYỆN HẤP DẪN

            Đào Sỹ Quang Kể nhiều truyện hay, cái hay tinh tế, nhẹ nhàng và giàu màu sắc thẩm mỹ. Ông hướng đến nhiều vùng miền hiện thực với sự hiểu biết sâu sắc và một tấm lòng rộng mở, yêu thương. Ông đặc biệt  quan tâm đến nhân dân trong những hoàn cảnh nghiệt ngã của đời sống (chiến tranh, loạn lạc, nghèo đói). Đây là một giá trị rất đáng quý của ngòi bút Đào Sỹ Quang, bởi đó chính là cái Tâm của nhà văn. Nguyên Du viết: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Đào Sỹ Quang chủ trương: “nghệ thuật phải chạm đến trái tim con người”. Muốn vậy, trái tim nhà văn phải lan tỏa những nhịp đập yêu thương. Nguyễn Du đã trải nghiệm điều này: “Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Không có tấm lòng cùng đau với nỗi đau nhân sinh để từ đó nói tiếng nói của nhân sinh thì không thể là một nhà văn chân chính.

            Truyện Bến hồng nhan không chỉ nói về sự hy sinh của người lính ngoài chiến trường trong kháng chiến chống Mỹ (anh Phú và đồng đội) mà còn nói tiếng nói cảm thông sâu sắc với chị Tính có người yêu chết trận cùng với bao nỗi niềm giấu kín trong hòa bình.

Truyện Mẹ Nghiệp là hình ảnh vừa cảm động vừa đau thương ở trạm cứu thương của Mẹ Nghiệp Quảng Bình. Mẹ có chồng hy sinh ở Khe Sanh 1968. Mẹ có 4 người con thì người con đầu cũng chết trận. Con trai thứ hai đi bộ đội B dài, hai o sau đang ở thanh niên xung phong. Thương binh chuyển đến trạm của mẹ liên tục. Bom đạn cũng dội trên đầu. Mẹ Nghiệp nấu cháo cá chăm sóc từng người. Mẹ rất khổ với anh thương binh tâm thần đạp đổ nồi cháo cá. Mẹ kiện nhẫn chiều anh thương binh bị thương vào cổ. Anh hạch sách đòi mẹ đủ điều. Hỏi mẹ đã nấu bao nhiêu nồi cháo cho bộ đội, mẹ nói: “Trên trời có bao nhiêu ngôi sao thì tau nấu bấy nhiêu nồi cháo” (tr.169). Khi những người thương binh rời khỏi trạm mẹ Nghiệp, có tin nhà bếp của mẹ Nghiệp trúng bom. Anh thương binh (người kể chuyện) kêu lên: “Trời ơi…Thế là mẹ Nghiệp đi rồi, mẹ ơi”(tr. 1789). Đau đớn quá! Nhưng yêu thương và dũng cảm phi thường.

Đào Sỹ Quang còn dẫn người đọc theo chân một gia đình người dân tộc Tày bản địa sống ở nông trường Tân Việt Hoa, bên dãy núi Tam ở Tây Bắc, vì chiến tranh biên giới (1979) phải ly tán (Chuyện nhà tôi). Người mẹ dẫn các con chạy vào Sài gòn. Lưu lạc bơ vơ, khổ nhục, có lúc người mẹ định nhảy cầu nhưng được bà Bảy, ông Chín là người dân Đồng Nai cưu mang (Bà Bảy bán bún riêu, có chồng là công nhân hỏa xa ở ga Biên Hòa. Ông Chín là dân tập kết 1954). Các con được đi học, rồi dựng vợ gả chồng và gia đình đoàn tụ.

“Một cú nhảy” là những chuyện rất vui của tân binh Đỗ Thành Thật ở quân trường. Thật có tính lề mề và luộm thuộm. Vì hai tính này mà Thật nhiều lần bị phạt hít đất, nhảy cóc, đứng vác tăm. Đời sống quân ngũ đã rèn luyện cho anh. Sau nghĩa vụ, Đỗ Thành Thật trở về quyết tâm học Đại học để trở thành sĩ quan như bố (liệt sĩ).

Đất nước chuyển sang kinh tế thị trường, kinh tế phát triển nhưng đời sống đạo đức có nhiều mặt tha hóa. Ngòi bút Đào Sỹ Quang dẫn người đọc đi vào nhiều ngõ ngách tâm hồn con người (tác giả tập trung miêu tả nội tâm nhân vật). Ông đặc biệt khơi tung cái sự thật đằng sau mặt nạ của quan tham (truyện “Hiền cái con khỉ”), ông cũng lật tẩy cái nhơ nhớp, bẩn thỉu đằng sau sự mĩ miều, háo nhoáng của giới nghệ sĩ khi kết hợp với bọn lưu manh (truyện Lên sàn, Bố thí). Và điều đặc biệt là ông khám phá ra cái phần tốt ẩn dưới những cái xô bồ nhiễu nhương trong đời thường (Mít tơ Thọi, Quan tòa cuối cùng, Người phố tôi). Tất cả những điều ấy đề xuất phát từ tấm lòng yệu thương con người. Viết về cái xấu, kẻ xấu, ông không nặng lời phê phán. Viết về cái tốt, người tốt bị che lấp, ông xem xét nhiều mặt, tìm nhiều nhân chứng để khẳng định điều mình khám phá.

Ở vùng miền hiện thực nào, Đào Sỹ Quang cũng đứng trong nhân dân, nhận thức bằng con mắt, trí tuệ của nhân dân và nói tiếng nói của nhân dân. Ông thường viết: “Người ta nói, người ta vẫn kể (tr.70, 71, 93,). Truyện Người phố tôi gồm đủ mặt dân phố quanh cái bàn trà của vợ chồng Tâm Hoàng: Ông Phành-tổ trưởng dân phố, Tỉnh ủy viên Rụng xây cái biệt thự to tổ bố. Bà Bỉnh hâm, lão Vụ đại úy lúc nào cũng quân phục chỉnh tề. Bà Ninh gang thép chửi bọn trẻ nhố nhăng, lão giáo Tạnh lắc đầu về lối dạy học mới. Cụ Yên lưng còng góp vui bằng mấy câu Kiều, lão Canh nói nhanh như đập ruồi, thằng “cụt” kể chuyện hồi đánh Ban Mê Thuột. Lão Mị “chuyên châm chọc”, Cụ Rặc “râu dài” nói: đám ăn không ngồi rồi (tr.154).

NHỮNG ĐƯỜNG NÉT CHÂN DUNG

Nội dung những truyện được trình bày ở trên đã ít nhiều làm hiện lên những đường nét của một chân dung văn học có nhiều nét đẹp của Đào Sỹ Quang.

Ở chiều rất sâu của chân dung ấy là tấm lòng yêu thương con người. Cụ thể là yêu thương nhân dân, yêu thương đồng bào, đồng đội, chia sẻ những cảnh ngộ đau buồn trong chiến tranh, hoạn nạn, hòa chung niềm vui, hạnh phúc của tình người trong đoàn tụ, trong thành đạt, trong ân tình ân nghĩa (Mẹ Nghiệp, Bến hồng nhan, Chuyện nhà tôi, Một cú nhảy, Quan tòa cuối cùng). Chẳng hạn: “có người chết vì đốn cây giữa lưng chừng núi cao. Có người mang tật suốt đời”(Quan tòa cuối cùng, tr.126); “Ông thấy thương đám cửu vạn kiệt sức và bệnh” (Lên sàn. 141); “Thương lắm những người lính vận tải cáng thương binh đi trong rừng. Lúc bị bom và pháo kích của địch, họ đã quên thân mình để che chở cho thương binh” (Mẹ Nghiệp, tr.164)…những câu văn ấy chính là tấm lòng của nhà văn, cũng là những trải nghiệm của tác giả trong chiến tranh, tác giả từng là thương binh. Không có tấm lòng và trải nghiệm ấy, Đào Sỹ Quang không thể viết được những dòng văn máu thịt như vậy.

Chân dung ấy hiển hiện nét dung dị đằm thắm và trải đời. Giọng văn điềm đạm. Thấp thoáng Cái Hài, đôi khi là tiếng cười rất lạ: “Hịc hịc hịch (tiếng cười nghe tưởng âm thanh thoát ra từ ống xả chiếc xe bị nghẹt xăng”(tr.115), Truyện Mit tơ Thọi chứa nụ cười của Nam Cao khi tả Trạch Văn Đoành (truyện Đôi móng giò). Nhưng tiếng cười của Đào Sỹ Quang là tiếng cười hiền, tiếng cười của lòng bao dung. Cũng vậy, đứng trước đau khổ cùng cực, nhà văn đã khóc, và rất nhiều nước mắt đã chảy vào tim (ý của Sôlôkhôp trong Số phận con người). Nghe mẹ Nghiệp nói: “Trên trời có bao nhiêu ngôi sao thì tau nấu bấy nhiêu nồi cháo”. Câu nói của mẹ làm cho tôi òa khóc. Tôi không còn đủ can đảm nuốt nước mắt vào trong nữa “(tr.169). Nhưng đau khổ ấy không dẫn ngòi bút đến bi kịch. Truyện của Đào Sỹ Quang có nhiều hy sinh, mất mát, đau thương nhưng không kết ở bi kịch, trái lại đau khổ thăng hoa (Chuyện nhà tôi, Robin Hood đã trở về, Thưa cô con đã hiểu, Quan tòa cuối cùng…). Cả tiếng cười (Cái Hài) và tiếng khóc (Cái Bi) của Đào Sỹ Quang đều được giữ rất chừng mực, và chỉ vừa đủ chạm vào trái tim người đọc.

Trong cốt cách văn chương của Đào Sỹ Quang, nét văn hóa Bắc bộ hiện lên rất rõ. Người Bắc nói chuyện hay triết lý vặt. Đào Sỹ Quang cũng điểm những câu triết lý như vậy. Chẳng hạn, ông viết: “Kể ra tạo hóa cũng lắm trò tiêu khiển.” (tr 109); “Phàm ở đời chẳng hết tiếu lâm, mà ông nào để ý” (tr.138); “Thật, không cái dại nào giống cái dại nào” (tr. 36); Vốn từ “Bắc rặt” cũng giúp người đọc nhận ra quê miền Bắc của ông. Thí dụ: “Tôi làm vù cái thôi” (tr.11); “Rồi đêm đó tôi nằm mê thấy hai mụ đàn bà…”(tr. 28); “Thời gian đâu mà học, họa hoằn lướt mấy trang thôi” (tr. 59); Mit tơ Thọi nói: “Thôi thôi, không thèm, giờ nó có chào tớ cũng không thèm giả nhời. Tớ không chơi với loại vô học! Loại lỗng! loại mất lịch sự!(tr 113); Đào Sỹ Quang cũng dùng nhiều thành ngữ Bắc bộ: “ăn no ấm cật dậm dật mọi nơi”(tr. 9); “Của biếu là của lo, của cho là cùa nợ” (tr.37); “Đời thuở nhà ai mà…”(tr.109); “Kiến tha lâu cũng đầy tổ” (tr.126); “chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao”(tr.129). Những chi tiết ngôn ngữ riêng này của Đào Sỹ Quang làm nên cái nét riêng của ông.

Đào Sỹ Quang cũng có cách kiến tạo truyện ngắn riêng. Nhiều người viết truyện ngắn thường “thuật lại” cốt truyện thành đoạn: mở đầu là sự việc đang diễn ra ở hiện tại. Sau đó nhân vật chính (hồi tưởng) kể lại sự việc trong quá khứ (có thể là để lý giải nguyên nhân dẫn đến hiện tại). Truyện trở về hiện tại và kết thúc. Đào Sỹ Quang cấu trúc truyện của ông bằng cách dựng nhiều cảnh (theo tuyến thời gian) ở những không gian khác nhau. Mỗi cảnh miêu tả sự việc đang diễn ra ở hiện tại, đây là cách dựng truyện của tiểu thuyết. Nhà văn không “thuật lại” một truyện trong quá khứ. Nhờ thế truyện sống động và tác giả không gặp khó khi xử lý thời gian. Thí dụ truyện Mít tơ Thọi: mở đầu, tác giả giới thiệu nhân vật Thọi. Cảnh 2: chuyện Thọi đố kỵ với Sáng. Cảnh 3: Sáng giúp mua xăng cho xe của con Thọi và chào mời Thọi ở quán café. Cảnh 4: Thọi bị chó cắn phải nằm viện, Sáng đi thăm đầu tiên. Cảnh 5: Bính “Trâu điên “ đánh vợ, Thọi vào can. Cảnh 6: Thọi đến nhà Tôi chơi, nói chuyện (Giải mã những vấn đề như tại sao Thọi can Bính đánh vợ, tại sao Thọi có tên Mr, tại sao Thọi không tiếp tục đóng phim). Từ đây bộc lộ chủ đề khám phá cái tốt ẩn dưới cái xấu.

Thực hiện cách kiến tạo này, Đào Sỹ Quang thường dùng nhân vật Tôi làm ngôi kể. Tôi không phải là tác giả. Nhà văn nhập thân vào một nhân vật để kể chuyện của mình. Sự việc được nhìn từ người trong cuộc và Tôi là nhân chứng đủ để tạo được lòng tin của người đọc, rằng những gì được kể là thật. Thí dụ truyện Mẹ Nghiệp: “Tính đến hôm nay là ngày thứ 10 kể từ lúc tôi bị thương. Mảnh pháo nhỏ trúng phần mềm phía sau đùi trái, may không vào sườn…”. Nhân vật Tôi là một thương binh (cũng có thể là tác giả, vì tác giả từng bị thương ở mặt trận Quảng Trị). Ngôi kể (xưng Tôi) trong Chuyện nhà tôi là nhân vật Chu Ái Trân. Nhân vật Tớ, người kể truyện trong Một cú nhảy là tân binh Đỗ Thành Thật. Nhân vật Còm kể chuyện Mit tơ Thọi có thể là tác giả (“Còm”là bút danh khác của tác giả). Nhân vật Tôi (ngôi kể) trong Người  phố tôi là một nhân vật không tên (có lẽ là một người trong phố).

Ở một vài truyện khác, Đào Sỹ Quang cấu trúc truyện bằng sự vận động của tâm lý nhân vật (kiểu cấu trúc truyện của Nam Cao). Nội dung truyện chủ yếu là tâm trạng nhân vật. Nhân vật có thể là nhớ lại quá khứ, cũng có thể là suy nghĩ về những gì đang xảy ra ở hiện tại. Xin đọc các truyện: Lên sàn (tâm trạng của một nghệ sĩ tha hóa), Hiền cái con khỉ (tâm trạng của một quan tham), Quan tòa cuối cùng (tâm trạng của cụ Tình day dứt 60 năm vì nghi oan cho thằng Coong ăn cắp tiền). Sử dụng cách kiến tạo tác phẩm bằng cách miêu tả sự vận động tâm lý nhân vật, nhà văn “đỡ mất công” dựng lại nhiều cảnh thực như cách dựng cảnh đã trình bày ở trên.

Ở truyện Lên sàn, Đào Sỹ Quang phối hợp cả việc dựng cảnh và việc miêu tả sự vận động tâm lý nhân vật để kiến tạo tác phẩm. Nhưng do tác giả non tay hư cấu (mặc dù ông mong muốn “ độc giả bị cuốn hút vào những điều hư cấu”), việc ráp nối các cảnh thiếu logic, khiến cho kết cấu truyện trở nên lỏng lẻo, truyện không thuyết phục. Truyện Robin Hood trở về cũng gặp hạn chế này. Tác giả không dựng cảnh để giải thích lý do tại sao Chị và anh Tân chia tay, và do đâu anh Tân trở về. Đọc xong truyện, người đọc không tiếp nhận được thông điệp gì. Truyện Thưa cô con đã hiểu, lẽ ra nên kết thúc ở cảnh Trung úy cảnh sát Huỳnh Đông Trung truy bắt tội phạm mà hy sinh (ca ngợi hành động anh hùng), tác giả lại viết thêm cảnh  “Hai đứa trẻ tên Bin và Bôn tranh cãi về chú Trung và chú Vinh, ai anh hùng hơn ai. Rồi cô chủ nhiệm giải thích. Chúng nói: lớn lên sẽ làm công an”, tôi nghĩ cảnh này là thừa.

TÂM HUYẾT CỦA NHÀ VĂN

Truyện của nhà văn Đào Sỹ Quang gửi gắm rất nhiều tâm huyết. Những năm tháng ông dầm mình trong mưa bom bão đạn ở mặt trận Quảng Trị để lại sức nóng trên từng trang văn. Cùng với sức nóng của một trái tim yêu thương con người sâu nặng, văn của ông có thể chạm đến trái tim người đọc.

Dù khi đối mặt với sự khốc liệt, đau thương trong chiến tranh, hay phải chứng kiến những tha hóa của đời sống hôm nay thì ngòi bút của Đào Sỹ Quang luôn đằm thắm. Ông không viết anh hùng ca, cũng không viết bi kịch, càng không viết “hài kịch của văn học Hiện thực phê phán”. Truyện của ông luôn được kết thúc bằng sự thăng hoa, bằng tình yêu thương, sự bao dung và cái đẹp. Khi tên tham quan bị bắt đi (Hiền cái con khỉ), lẽ ra truyện đã kết thúc, song Đào Sỹ Quang khắc họa lại hình ảnh ở ngoài đường, người đàn bà còng lưng đạp chiếc xe cũ mòn cất tiếng rao: “Ai sắt vụn đồng nhôm máy hư máy cũ giấy cũ ắc quy bình điện bán mua đây”(tr.408), hình ảnh ấy giàu ý nghĩa và chứa đựng yêu thương nhiều lắm.

Đọc truyện Đào Sỹ Quang vừa thú vị vừa thấy tâm hồn mình mở ra những điếu tốt đẹp.

Tháng 6/ 2023


[1] Các giải thưởng:

1.Giải Nhì (không có Nhất) truyện ngắn của Chương trình phát huy sáng kiến sáng, tạo trong học tập và lao động tỉnh Đồng Nai năm 2001.

                2.Giải Nhì (không có Nhất) truyện ngắn của Chương trình phát huy sáng kiến sáng, tạo trong học tập và lao động tỉnh Đồng Nai năm 2005.

3.Giải C Bút ký cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật và sưu tầm về “Học tập và làm gương tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” năm 2010.

4.Giải Nhất văn xuôi cuộc thi sáng tác quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật báo chí về chủ đề “Học tập và làm gương đạo đức Hồ Chí Minh” năm 2011.

5.Giải KK tập truyện ngắn “Sự đời” của Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2013.

6.Giải C Hội thi sáng tác thơ, văn Nhà giáo và Nhà trường lần 1 năm 2014 – 2015.

7.Giải C truyện ngắn cuộc thi văn học nghệ thuật chào mừng 30 năm Đồng Nai đổi mới 1986 – 2016.

8.Giải C Văn học nghệ thuật Trịnh Hoài Đức năm 2017.

9.Giải C văn xuôi viết về Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Đồng Nai năm 2018.

10.Giải khuyến khích về cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật Đồng Nai trên đường hội nhập và phát triển 2020.

11.Giải B cuộc thi viết về “Hình tượng người chiến sĩ cảnh sát nhân dân” do Bộ công an tổ chức năm 2022.

12.Giải C cuộc thi truyên ngắn Đông Nam bộ lần II, năm 2022.

15 KHUÔN MẶT VĂN TRẺ ĐỒNG NAI

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

15 KHUÔN MẶT VĂN TRẺ ĐỒNG NAI

Bùi Công Thuấn

LỜI MỞ

Bài viết này là sự nhận dạng bước đầu một “thế hệ” văn chương Đồng Nai xuất hiện đầu thế kỷ XXI, cũng là lời chào một thế hệ mới sẽ là trụ cột, là người kế tục sự nghiệp văn chương của các thế hệ đi trước ở Đồng Nai. Nhiều chục năm qua, lãnh đạo Hội VHNT Đồng Nai nặng lòng tìm kiếm những cây bút trẻ. Đến nay (2023) Hội đã kết nạp trên 10 hội viên trẻ và có trên 20 người là cộng tác viên thường xuyên ở lĩnh vực văn học [[1]].

Đó là các tác giả thế hệ 8x và 9x: Nguyễn Huyền Quy, Lê Vũ Anh Đào, Đào Nguyên Thảo, Phương Rong, Hoàng Thị Quỳnh Trang, Huỳnh Ngọc Tuyết Cương, Lê Phan Hiếu Anh, Tống Thanh Tâm, Hoàng Thu Thảo, Đàm Minh Khôi, Lã Hoài Mai, Hoàng Phương, Nguyễn Hải Yến, Trần Hoan, Trần Thị Hiếu, Văn Ánh Ngọc, Vân Nhi, Phạm Bá Khoa, Lý Thăng Long, Võ Anh Vũ, Hoàng Phước Nguyên, Phan Gia Hưng, Nguyễn Võ Mỹ Duyên, Vy Ngân, Trần Huynh Quỳnh, Lê Nguyễn Hà Ngọc, Ngô Gia Hân, Phan Nhật Anh, Minh Anh, Đặng Huệ Linh, Lưu Thiện Vương, Nguyễn Thị Thu Ngân,…[[2]]

                                                             ***

15 KHUÔN MẶT VĂN TRẺ ĐỒNG NAI

Tôi chọn đọc 15 tác giả đã công bố nhiều tác phẩm. Những cây bút có ít tác phẩm, tôi sẽ viết về họ trong một dịp khác. Quan sát văn trẻ, tôi thấy có người đã viết hàng chục năm nhưng công bố tác phẩm rất ít. Chẳng hạn, Đào Nguyên Thảo xuất hiện từ 2003-2004, nhưng đến nay (2023), số tác phẩm in trên VNĐN không nhiều. Thực ra việc sáng tác nhiều hay ít không khẳng định giá trị của một ngòi bút. Điều quan trọng là người viết có cá tính sáng tạo độc đáo hay không, có mục đích sáng tác tiến bộ hay làm văn chương chỉ để vui chơi; và có những đóng góp gì mới mẻ về tư tưởng và nghệ thuật cho sự phát triển của văn học?

Nếu một giọt nước biển chứa cả đại dương, một giọt sương mai chứa cả bầu trời, một lát cắt thân gỗ chứa đựng cả tuổi đời của cây, thì chỉ cần một bài thơ, một truyện ngắn cũng có thể định vị được một tài năng văn học.

Xin đọc: Hoàng Thị Quỳnh Trang, Hoàng Thu Thảo, Lã Hoàng Mai, Tống Thanh Tâm, Lê Vũ Anh Đào, Huỳnh Ngọc Tuyết Cương, Lê Phan Hiếu Anh, Nguyễn Huyền Quy,  Đào Nguyên Thảo, Nguyễn Hải yến, Lý Thăng Long, Ngô Gia Hân, Nguyễn Võ Mỹ Duyên, Trịnh Khánh Linh.Đàm Minh Khôi.

1.HOÀNG THỊ QUỲNH TRANG.

Hoàng Thị Quỳnh Trang sinh năm 1993,quê Hải Dương, sống ở Đồng Nai, là giáo viên dạy Văn.

Những truyện tôi đọc được của Quỳnh Trang là truyện viết cho thiếu nhi. Quỳnh Trang có kỹ thuật viết điêu luyện, có nghệ thuật kể truyện hấp dẫn, có khám phá và sáng tạo riêng ở những đề tài tác giả quan tâm. Ngòi bút Quỳnh Trang đã chạm đến những vấn đề xã hội nhưng chưa thâm nhập sâu để đặt những vấn đề lớn của xã hội Việt Nam đương đại. Có lẽ vì viết cho thiếu nhi nên Quỳnh Trang chọn lối viết nhẹ nhàng, cốt truyện đơn giản chăng?

Tôi nghĩ, hành trình văn chương của  Hoàng Thị Quỳnh Trang sẽ là một con đường nhiều hoa đẹp.

Xin đọc:

            1. Mẹ (Truyện thiếu nhi) kể chuyện Thương và Phúc, hai đưa trẻ học lớp 2. Cả hai đều mất mẹ nhưng chúng được cha và dì (mẹ kế) yêu thương.  Cốt truyện đơn giản. Mấu chốt của truyện là cái áo vá của Phúc và mái tóc để dài của Thương. Không có tình huống bộc lộ  tính cách nhân vật. Cái chết của người mẹ hai đứa trẻ này không được miêu tả. Chủ đề mờ nhạt. Tác giả không đặt được vấn đề xã hội nào. Ý ghĩa giáo dục rất nhẹ.

            2.Mùa đông đầu tiên (Truyện thiếu nhi) kể chuyện  Cún em hỏi Cún anhRét là gì”. Khi rét về Cún em ấm áp trong lòng anh và bếp lửa của bà chủ. Truyện có ý nghĩa giáo dục nhẹ nhàng. Kỹ thuật viết điêu luyện.

            3.Chuyện “Vịt con xấu xí” (in trong tuyển tập Chạy về phía mặt trời, tr.169) còn có tên Dây cà dây muống.

Nhân vật Tôi kể chuyện. Lần đầu tiên gặp chị lúc tôi 6 tuổi, vào học lớp 1. Chị ở với cha (không có mẹ). Tôi gọi cha chị là chú. Chị hơn tôi 2 tuổi nhưng chị không đi học. Hằng ngày chú chạy xe ba gác chở hàng ngoài chợ đầu mối, mẹ tôi theo phụ giúp chú, chị thì đi lượm ve chai, còn tôi đi học”. Từ khi mẹ và tôi về ở chung với chú (tôi không có cha), chị ghét mẹ tôi, ghét cả tôi nữa…

Cuối năm lớp 1, Tôi đem sách truyện mượn ở thư viện về đọc. Một lần chị giật lấy cuốn sách của Tôi. Chị mân mê cuốn sách, lật giở từng trang nhìn những hình vẽ minh họa.

Một buổi sáng, tỉnh dậy trong cơn sốt mê man, Tôi tìm điện thoại để gọi cho mẹ. Chiếc điện thoại đã không cánh mà bay. Có lẽ là chị lấy rồi. Tôi lần tới tiệm thuốc đầu đường để mua thuốc thì bị thằng Tùng chặn lại lấy tiền. Chị xuất hiện và đánh thằng Tùng. Lúc đó chú về tới. Chú vội vã nhảy xuống xe tách hai đứa ra. Đến tối chú bắt chị qua nhà thằng Tùng “vêu” xin lỗi. Và chị lại bị chú đánh. Đêm, chị nói Tôi kể cho chị nghe chuyện con vịt thành thiên nga.

Mấy hôm sau,bố về đón Tôi đi. Từ đó Tôi về ở với bố.

Sinh nhật lần thứ 24 của tôi, bố tặng tôi một cuốn truyện cổ Andersen. Tôi vội vã mở ra đọc ngấu nghiến. Khi đọc chuyện “Chú vịt xấu xí”, Tôi lại nhớ về chị. Dưới sân có tiếng chị ve chai. Tôi chạy xuống thì cổng nhà đã đóng. Có thể là chị. Cũng có thể chỉ là một người giống chị mà thôi.

***

Chuyện “Vịt con xấu xí” là tình cảnh, là số phận của hai đứa trẻ (Tôi và chị), trong hai gia đình đổ vỡ. Tác giả không có khám phá gì về tình cảnh xã hội của cha mẹ chúng, mà chỉ ghi nhận hiện tượng trẻ mồ côi, thế nên truyện không đặt được những vấn đề xã hội. Điều lắng đọng trong lòng người đọc là tình thương yêu tác giả dành cho con trẻ.

4. Dạy Mèo đọc sách (Truyện ngắn-Tặng bé Chuột của mẹ-tuyển tập tr 164)

Chị Chuột (một cô gái 6 tuổi) dạy cho em mèo Rơm đọc sách (mèo Rơm là một con mèo). Rơm không chịu đọc. Chị Chuột dùng cách nào Rơm vẫn không chịu học. Mẹ dạy chị Chuột phải kiên nhẫn. “Bí quyết dạy mèo đọc sách là bạn phải thích đọc sách!”.

***

Lúc mới đọc truyện, tôi ngỡ chị Chuột và mèo Rơm là hai con vật. Sau mới vỡ nhẽ Chị Chuột là cô gái 6 tuổi, còn Rơm là một con mèo. Cách viết của tác giả đã gây ngộ nhận. Xưa nay con mèo tinh ranh hơn con chuột, nhân vật Mèo có thể dạy cho nhân vật Chuột. Tác giả lại hư cấu ngược lại. Truyện chỉ có ý nghĩa đơn giản. Ngòi bút của tác giả chưa đạt tới việc kiến tạo một tác phẩm có ý nghĩa tư tưởng của ngụ ngôn dân gian.

***

2.HOÀNG THU THẢO

Hoàng Thu Thảo sinh năm 2002, là sinh viên trường Đại học KHXH & NV Tp HCM

            Hoàng Thu Thảo quan tâm đến những vấn đề xã hội. Truyện của cây bút trẻ này gây được ấn tượng với người đọc ngay lần đầu tiếp cận. Viết về những vấn đề hiện thực, nhưng trang văn của Hoàng Thu Thảo còn thiếu bề dày hiện thực. Nhân vật không được khắc họa trong một bối cảnh xã hội cụ thể, không có mối quan hệ nhân sinh chi phối số phận nhân vật, vì thế truyện không đặt được những vấn đề xã hội đáng quan tâm. Thành ra, dù tác giả kể một truyện hiện thực nhưng truyện đọng lại là những cảm xúc lãng mạn. Nói cho đúng, truyện của Hoàng Thu Thảo mới chỉ là cái nhìn và cảm xúc lãng mạn của tác giả về một vài sự việc mà tác giả đã tiếp cận.

            Dù vậy, con đường văn chương của cây bút trẻ này có thể mở ra rất rộng.

            Xin đọc:

1.Góc đời sứt mẻ (Truyện ngắn).

Cô bé” học cấp 3 (tác giả gọi nhân vật là “cô bé”, cuối truyện mới biết tên cô là Minh). Xe bị bể lốp, cô phải nhờ một ông già kỳ lạ mặc áo vest ở góc đường sửa giúp. Nhưng cô không mang theo tiền. Cô hẹn ngày mai sẽ trả ông. Khi cô bé đi khỏi, ông như phiêu về một thế giới quen thuộc, trở về với những gương mặt thân yêu…Bất giác ông gọi: – Bà nó ơi, bữa nay tôi gặp lại bé con của tụi mình rồi. Con gái mình đúng là xinh đáo để, giống bà hồi trẻ lắm đó!

 Từ đó cô bé quen thân với ông và thường gặp nói chuyện với ông. Ông cho biết bà nhà ông đã mất và con gái cũng bỏ đi lâu rồi. Sau khi chị và bà ra đi, ông đã về hưu, nhưng vẫn lóc cóc ngồi vá xe nơi góc đường từ sáng mờ cho đến tối muộn”. Cô thấy thương ông, một người cô đơn.

Cô bé về nhà kể chuyện ông già vá xe cho mẹ nghe, người mẹ nghĩ: ”trong đầu tôi lại thấy thấp thoáng cái bóng cũ kĩ, như sờn bạc trong nắng gió với mái đầu pha bụi của người đàn ông ấy…”

Cô bé học sinh cấp ba giờ là sinh viên khoa Báo chí, học ở Sài Gòn. Tết cô mới về. Cô đến thăm ông. Ông ngồi bất động trên chiếc ghế mây, mắt đăm đăm về phía bàn thờ. Trên bàn thờ có hai bức di ảnh của hai người phụ nữ.

 Ông kể cho cô nghe về cái chết của con gái ông. “Chị ấy…mất ngay cái đêm trước hôn lễ chưa đầy một tuần. Tối ấy, chị đi làm về nhưng xe bị hỏng giữa đường, phải dắt bộ về nhà. Đường vắng, bọn côn đồ say rượu… đã hãm hại đời chị. Bố mẹ chồng chị biết tin, họ huỷ hôn. Chị trở nên điên loạn, suốt ngày cứ ngồi khóc rồi lại cười ngớ ngẩn. Rồi vào một đêm mưa xối xả, chị đã lìa bỏ cõi đời bằng một nhát dao đầy cay đắng…”

Minh về kể lại cho mẹ nghe.

Người mẹ cảm thương: “Tôi nghe hơi thở mình nghẹn đắng. Cuộc đời một con người sao lắm đắng cay đến thế! Và đau thương như khiến con người ta hoá thành một kẻ điên, luôn chìm trong miền hoang hoải của hoài niệm. Tỉnh trong mơ hồ…

Con bé kể với tôi, ông đã cười nhìn nó:

– Con gái của cha, con về đấy phải không?…”

***

Tôi tóm tắt ngắn gọn truyện như vậy để thấy cấu trúc truyện gây khó cho người đọc. Mối quan hệ ông già và cô gái đã rõ, nhưng mối quan hệ giữa mẹ cô gái và ông già thì hoàn toàn không có đầu mối. Tại sao người mẹ khi nghe con kể về ông già vá xe lại “thấy thấp thoáng cái bóng cũ kĩ, với mái đầu pha bụi của người đàn ông ấy…”, và lần thứ hai, nghe con kể về thảm cảnh của ông già, người mẹ lại cảm nhận: “Tôi nghe hơi thở mình nghẹn đắng…”.(lưu ý, nhân vật người mẹ xưng Tôi ở ngôi trần thuật).Người mẹ này có quan hệ gì với ông già hay chỉ là người ngoại cuộc, nghe con kể một chuyện thương tâm thì đau xót thay?

Nếu tác giả tập trung kể về thân phận ông già và tai họa đẩy con gái ông đến cái chết, truyện sẽ hiện lên như một bi kịch.

Nhân vật là yếu tố trung tâm của tác phẩm thực hiện chủ đề. Trong truyện này, nhân vật cô bé Minh và người mẹ là thừa. Tác giả có thể trực tiếp kể chuyện ông già và cô gái.

Truyện có tới 3 người trần thuật, vì thế người đọc không thể nhận ra ai là nhân vật chính.: Tác giả kể chuyện cô bé Minh. Minh kể lại chuyện ông già cho mẹ. Và người mẹ nghe xong lại kể cho bạn đọc! Câu chuyện nào trong 3 câu chuyện là chính? Nói như thế để thấy Hoàng Thu Thảo còn rất lúng túng khi cấu trúc truyện.

Tôi ngờ rằng Hoàng Thu Thảo muốn viết một bi kịch, nhưng về kiến tạo tác phẩm, tác giả còn thiếu những kỹ năng cần thiết để đạt được mục đích sáng tác.

Cũng có thể tác giả kể truyện cô bé Minh là chính. Và cô bé ấy chính là tác giả. Câu chuyện của cô bé Minh là một “kỷ niệm” thời cấp 3. Bây giờ tác giả đã là sinh viên Đại học.

 Câu chuyện ông già kể về cái chết bi thảm của con gái chỉ là do tác giả thêm vào để tạo sự thương cảm. Sự việc diễn ra với cô gái này là phi hiện thực.

Xin đọc lại. Tác giả viết: “- Mẹ ơi, ông bảo con gái ông, chị ấy…mất ngay cái đêm trước hôn lễ chưa đầy một tuần”. “Tối ấy, chị đi làm về” và bị bọn côn đồ say rượu hại chị…Đêm…vào cái đêm mưa xối xả đó, chị đã lìa bỏ cõi đời bằng một nhát dao đầy cay đắng…”. Người đọc không thể hiểu được con gái ông già chết vào đêm nào? “Đêm trước hôn lễ một tuần” hay đêm chị đi làm về. Vậy đêm mưa xối xả là đêm nào? Xin chú ý đến các đại từ phiếm chỉ “ấy”, “đó” thay thế cho danh từ “đêm” đứng trước.

Nếu còn một tuần nữa là hôn lễ thì chị có nhiều việc phải chuẩn bị và sống gần gũi với anh. Chị đi đâu thì anh chồng sắp cưới cũng sẽ đi theo, không dễ gì để chị bị tai nạn được. Và bản thân chị, cũng có thể tự nhận định được mức độ nguy hiểm khi một mình đi làm về tối để báo cho anh chồng hoặc báo cho gia đình biết mà đón chị về. Và nếu tai nạn có xảy ra thực khiến chị bị trầm cảm, thì gia đình cũng sẽ có biện pháp giúp đỡ chị. Không thể: “Ông bà cũng chỉ biết nhìn con mà quặn thắt”.

Như vậy, không chỉ 3 nhân vật trần thuật gây khó cho người đọc mà chính cách viết văn, cách kể, cách diễn đạt thời gian, cách dùng các đại từ phiếm chỉ, sự vi phạm những nguyên tắc của Chủ nghĩa Hiện thực của Huỳnh Thanh Thảo làm rối truyện và gây khó cho người đọc thêm nữa.

2.Chốn về (truyện ngắn)

            Chốn về là tâm trạng của cô sinh viên (nhân vật xưng Tôi, cũng là nhân vật “nó”) sống xa nhà. Trời Sài gòn mưa nặng hạt. Tôi định về nhà nhưng mẹ bảo mưa đừng về, sợ nguy hiểm đường xa. “Lại một tuần nữa tôi vẫn chưa về được nhà…Nghĩ mà buồn và nhớ”.

Tôi nhớ những chuyện từ lúc còn là đứa bé 6 tuổi được bố đón lên ở trên trung đoàn với bố để học tiểu học. Nhưng bố hay đi công tác và gửi nó sang nhà các bác, các chú đồng nghiệp. Nó có một đứa bạn tện Giang. Giang không còn mẹ. Hai đứa chơi chung với nhau suốt 5 năm. Rồi Giang chuyển ra ngoài vì cha của Giang có vợ mới. Thời gian trôi, giờ nó đã trở thành một cô sinh viên sống xa nhà.

Một tiếng sấm làm Tôi choàng tình. Nơi mái hiên nhà trọ có bóng dáng hai con người, một lớn một nhỏ. Tôi đem áo mưa cho họ. Có tiếng chuông điện thoại báo tin bố mẹ sẽ lên thăm, tôi không cần phải về.

***

Mở đầu truyện là  sự việc đang diễn ra ở hiện tại, rồi nhân vật chính nhớ lại những sự việc trong quá khứ. Truyện được kết thúc ở hiện tại. Đó là  một kiểu cấu trúc truyện rất cũ. Cả truyện này chỉ là một tâm trạng nhớ của cô sinh viên sống xa nhà. Không có chủ đề. Hoàng Thu Thảo phô diễn một kiểu “văn làm dáng”. Lời bình ngoại đề kiểu Tùy bút lấn át ngôn ngữ truyện.

Xin đọc một câu: “Việc phải sống xa bố mẹ cũng dần trở thành một thói quen của nó…Nó chững chạc hơn hẳn so với những đứa bạn cùng lớp. Và, cũng nhạy cảm hơn vì trong lòng nó luôn có một khoảng nhớ, một khoảng trống trải cô đơn. Không tủi thân sao được khi mà một đứa trẻ mới chập chững lớn như nó đã phải sống xa mẹ, rồi cả bố, một mình đối mặt với nhiều thứ, rất nhiều khó khăn, trong cả học tập lẫn cuộc sống. Nhưng nó không nản, cũng không than trách điều gì, vì nó hiểu và xót xa cho những tiếng thở dài của bố mẹ khi nhìn nhau…”

Câu văn này là dòng chảy tâm trạng của nhân vật “Nó”, hay là lời bình ngoại đề của tác giả về hoàn cảnh của nhân vật “Nó”? Cứ theo dòng tâm trạng náy thì đó là suy nghĩ cảm xúc của một cô gái đã trưởng thành, biết thương nhớ, biết cô đơn,  không phải là suy nghĩ của một đứa trẻ “mới chập chững lớn”, còn hồn nhiên. Bởi vì, Nó quen sống xa cha mẹ, Nó quen đối mặt với rất nhiều thứ khó khăn. Nếu những dòng văn trên là viết về một đứa trẻ đã chững chạc thì những nỗi tủi thân của trẻ con là thừa, ngược lại nếu viết về một đứa trẻ “mới chập chững lớn” thì cái sự chững chạc, quen tự lập là không phù hợp. Cách viết như thế tôi gọi là cách viết “làm dáng” ngôn ngữ, một kiểu văn chương “sáo rỗng”.

 Trong truyện, tác giả không ghi nhận điều gì về cuộc sống của bố mẹ Tôi. Vì sao Tôi phải sống xa mẹ. Cứ theo mạch truyện thì Tôi xa nhà từ khi là đứa bé 6 tuổi cho đến khi là sinh viên. Quãng thời gian dài ấy, Tôi ở đâu, ai nuôi tôi, tôi sống thế nào? Chả nhẽ Tôi chỉ có một đứa bạn nhỏ tên Giang?

Tác giả không miêu tả nhân vật sống trong thời gian, không gian và các mối quan hệ của đời thực. Tôi chỉ là một nhân vật tâm trạng, lơ lửng, không bám víu vào hoàn cảnh và thời đại của mình. Thành ra, truyện không chuyển tải được bất cứ ý nghĩa xã hội nào, ngoài tâm trạng lãng mạn, cô đơn của Tôi.

Có lẽ đó cũng chính là tâm trạng của chính tác giả khi xa nhà ?

3.Gió- Linh hồn Phú Hội (tản văn)

Nội dung chỉ kể lại việc chụp ảnh của An và nhân vật Em trong một đoàn tham quan. Kiểu ngôn ngữ lãng mạn. Tác giả không ghi nhận được vấn đề gì của hiện thực.

4. Mùa nấm mối (viết ngắn)

Tôi kể chuyện chị Duyên. Mẹ bảo chị tội nghiệp. Sinh ra đã không được khôn lanh như người ta. Chị không học chữ được, không biết mặt đồng tiền, không biết chơi ô ăn quan, chơi u, chơi chuyền hay ca hát như bọn trẻ. Chị nói ngọng ngịu, cụt lủn, khó hiểu. Nhưng chị có tài tìm nấm mối. Cả nhà bác tôi cũng chỉ có mỗi chị là biết hái nấm. Khi chị 25 tuổi, gia đình bàn chuyện gả chồng cho chị nhưng chị không chịu. Rồi, 4 tháng sau chị lại quyết định lấy chồng, tự nguyện, vui vẻ. Chẳng ai hiểu vì sao.

Hai năm xa, tôi về thăm lại mảnh đất rẫy bạc màu tuổi thơ. Chị đang ôm thằng nhỏ đứng dưới chiếc lán nhỏ ngoài cổng. Nó đã lên hai, có đôi mắt giống hệt như chị. Chị vừa nhìn con vừa chỉ tay về phái rẫy ra chiều khoan khoái lắm…Mưa và nắng. Tôi nghe thấy mùi nấm mối.

***

Đây là một truyện ngắn kể lại cuộc đời của Chị Duyên, một nhân vật có vài đặc điểm bất thường, nhưng rồi cũng có cuộc sống bình thường, hạnh phúc.

Tôi không rõ tác giả đặt chủ đề cho truyện là gì? Hay muốn trình bày triết lý dân gian “Thánh nhân đãi kẻ khù khờ”? Chị Duyên “khù khờ” nhưng trời cho tài hái nấm mối, và dù “khù khờ”, vẫn lấy được chồng, có con trai và sống hạnh phúc.

Truyện được nhân vật Tôi kể lại. Nhân vật này chỉ là ngôi trần thuật đơn thuần, không có vai trò thể hiện chủ đề. Tác giả có thể trực tiếp kể chuyện chị Duyên mà không cần đến nhân vật Tôi. Hoàng Thu Thảo vẫn sử dụng kiểu văn “làm dáng” chữ nghĩa. Tôi nghĩ, viết về một nhân vật chân chất như chị Duyên, cũng cần một lối văn chân chất. Truyện thiếu bối cảnh xã hội nên không chuyển tại được vấn đề gì của cuộc sống. Nói cách khác, truyện chỉ là một kiểu viết lãng mạn của Cái Tôi (tác giả).

***

3. LÃ HOÀI MAI

(tên thật là Lã Thị Hồng Thuấn, là GV tại Long Khánh)

            Lã Hoài Mai có cách kể chuyện hấp dẫn, có ý thức trau chuốt ngôn ngữ văn chương. Cấu trúc truyện khéo léo. Biết khai thác những chi tiết sinh hoạt hàng ngày để hình thành một lối viết riêng. Văn chương Lã Hoài Mai có khi chạm được đến một vấn đề nào đó của hiện thực nhưng khuynh hướng tư tưởng chưa rõ, có khi nghiêng về kiểu truyện giải trí, hoặc truyện chưa toát được ảnh hưởng cùa Ký.

1.Chúng ta, những con đường. (Truyện ngắn –Cho tôi và An)

Tôi và chị là bạn. Ra trường, tôi ở lại Sài gòn, còn chị, sau 5 năm lận đận, chị trở thành “giáo viên ở một vùng quê khá buồn”. Tôi và chị dần dần rời xa nhau. Chị từ chối những lời mời của tôi. Hôm nay có giờ Triết, thầy Bùi Văn Nam Sơn nói về “Tồn tại và thời gian” của Martin Heidegger. Tôi rủ chị đi dự nhưng chị không dự được. Chị xin link để vào xem. Nhưng đến giờ Triết, tôi không thấy chị như đã hẹn. “tôi lại thấy tiếng rơi vỡ từ trong lòng mình”. Tôi định nhắn tin hỏi chị trên facebook nhưng lại thôi.

***

Kể truyện Chúng ta, những con đường,có lẽ tác giả định nói: dù là bạn thân thiết, nhưng khi vào đời, mỗi người một số phận, mỗi người một con đường riêng. Hoàn cảnh sẽ tách chúng ta rời nhau. Vì thế, rất cần sự thấu hiểu và cảm thông.

Chỉ tiếc là nhân vật Tôi chưa tìm hiểu rõ hoàn cảnh của chị và vì sao chị lại từ chối sự kết nối với Tôi?

Truyện có chất ký. Tác giả nêu cụ thể tên thầy Bùi Văn Nam Sơn, một triết gia, dịch giả nổi tiếng và có uy tín ở Việt Nam. Cấu trúc truyện mạch lạc. Mạch văn tự nhiên.

2.Cú lừa của Họa Mi. Truyện ngắn.

Chị nhớ lại những kỷ niệm với Họa Mi. Chị sắp có chuyến đi phượt bằng xe máy dịp sinh nhật mới. Chị định chọn mua đôi giày. Họa Mi nhắn tin: nó đi coi bói, “thầy phán năm nay chị không nên mua đồ thổ xúc, tức là đồ tiếp xúc nhiều với đất”. Nghe lời Họa Mi, chị không mua giày nữa. Thầy phán vậy, lỡ mua có gì trục trặc là tiêu. Hôm nay chị nhận được quà sinh nhật của Họa Mi tặng. Đó là hai đôi giày. Hóa ra lời thầy bói là trò lừa của Họa Mi. Chị đã lỡ đặt vé xe đò, lỡ mất chuyến vi vu bằng xe máy. Nhưng “Chị quằn quại với nỗi “hạnh phúc” bất ngờ”.

***

Lã Hoài Mai kể chuyện có duyên. Mạch văn tự nhiên như một chuyện đời thường. Tác giả không đặt ra vấn đề xã hội nào. Có lẽ đó là kỷ niệm của một tình bạn. Câu chữ trau chuốt. Cấu trúc rất khéo: kết hợp giữa hiện tại (Họa Mi tặng quà) và những hồi tưởng kỷ niệm của chị với Họa Mi.

3. Ở quán café những người không ngủ. tt.55

Buổi sáng, thức dậy, tôi thường phóng xe ra đi, có khi hết ngày mới về.

Má tôi hay phàn nàn và cha tôi thì hằn học, vì thế tôi ra ở riêng và thường đi xa thành phố, đi miền tây, Tây nguyên, Vũng Tàu. Trước mỗi chuyến đi, tối thứ Sáu, tôi ghé qua quán café Những người không ngủ. Quán nằm kế bên công viên và Nhà thờ Đức Bà, đẹp và sang chảnh. Tôi gọi duy nhất món trà đào, rồi đọc sách, chơi điện thoại đến khuya, có khi ngủ gục tới sáng

Lần này vào quán, tôi thấy một cậu trai lạ ngồi ở góc đối xứng với tôi. Cậu ta làm quen nhưng tôi từ chối. Tôi nói: “Tôi không có thói quen trò chuyện với người lạ”.

Và mỗi tối thứ Sáu, lúc 8 giờ, chúng tôi gặp lại nhau. Mỗi người có việc riêng. Tôi thường ngủ trước, và gục đầu lúc thì lên vai, lúc thì lên đùi cậu ấy. Nhưng đến sáng thì cậu ta luôn rời đi trước khi tôi tỉnh dậy. Tôi thường trách cậu ấy và nghĩ có khi nào tôi gặp ma, một con ma xinh trai?

Tôi rủ cậu ta đi chơi chung, nhưng tôi không biết đi đâu. Cậu ta rủ tôi về quê cậu.

Con Wave đưa chúng tôi xa thành phố. Đàn chó con đón chúng tôi bằng những tiếng sủa “nhách nhách”. Nhà cậu ta giống một căn chòi gỗ lọt thỏm giữa một vườn thanh long. Mẹ cậu đang hái hoa thanh long ở ngoài vườn. Cậu ta đặt balo lên ghế rồi nhóm hai lò, bắc cơm và nướng khô. Mùi cá muối mặn mòi làm tôi nhớ tuổi thơ gian khổ. Tôi ra ngồi bên bếp lò, cậu ta đẩy quạt cho tôi. Khói trắng cuộn lên cay xè mắt. Chiều đó tôi theo cậu ra rẫy bứt hoa thanh long. Tôi ăn tối với gia đình cậu, ngủ lại một đêm. Tối đó hai đứa ngồi ngó sao trời. Tôi nghe cậu kể về người cha. Cha cậu là bộ đội từ bắc vào nam chiến đấu. Sau chiến tranh, ông giải ngũ và ở lại. Cưới mẹ cậu được 1 năm thì ông về quê và không trở lại. “Chiến tranh mà”. Ai cũng có thể nói vậy.

Tôi trở về Sài gòn sống cuộc sống thường nhật. Tôi trở lại quán café nhiều lần nhưng cậu trai ấy không có ở đó. Gần hai tháng trời tìm kiếm cậu, tôi gần như gục ngã. Tôi tìm về căn chòi dưới cội me già của hai mẹ con cậu, nhưng không ai biết họ.

Sau ba tháng tôi trở về thăm nhà, cha tôi vẫn hằn học như trước. Tôi không bận tâm. Chiều tối, má khoe có người cho cha mấy ký khô. Má lấy bếp điện ra nướng. Tôi bất giác quẹt mồ hôi, nhớ lúc quạt lò nướng khô dưới cội me già ở nhà cậu.

***

Có lẽ tác giả muốn kể một truyện ma hiện đại, bởi cậu trai xinh ấy hiện hữu là rất thật và biến mất không để lại dấu tích cũng rất thật. Tác giả không lý giải, và không trao cho người đọc cái chìa khóa để mở cửa những bí mật của câu chuyện. Vậy kể chuyện này, tác giả muốn nói gì với người đọc? Để cảnh giác mọi người về con ma Ở quán café những người không ngủ chăng? Hay giới thiệu một mẫu người đặc biệt của thời đại? Hay nói về quan hệ giữa người với người hôm nay, quan hệ của những người không có mặt, không lưu lại bất cứ sự lưu luyến nào?

Cũng có thể tác giả chỉ kể một câu truyện giải trí như người ta thường kể chuyện ma trong đời sống hàng ngày? Vâng, là một truyện giải trí. Các nhân vật không phải là ngưởi yêu nhau, không có sự ngậm ngùi về những thảm họa sau chiến tranh, càng không có những khát vọng vươn lên của người trẻ. Họ cũng không có quan hệ đối tác làm ăn, không một chút tình nghĩa để ràng buộc nhau. Họ gặp nhau bất chợt, rồi đi chơi, và hết! Người trẻ hôm nay là vậy chăng?

Tác giả miêu tả rất tỉ mỉ những chi tiết thật cuộc sống của mình, chỉ để làm nền cho sự hư cấu về nhân vật gặp “ở quán café những người không ngủ”, và dự đóan: có thể là “một con ma xinh trai”.

Nếu tác giả khéo tay đẩy câu truyện về phía hiện thực thì truyện có thể đạt tới một ý nghĩa xã hội nào đó. Bởi vì khi Tôi thăm nhà cậu, mẹ cậu có một vườn thanh long mênh mông, nhà có đàn chó con ra đón, có bếp lửa nướng khô, có bữa cơm tối với gia đình cậu, có buổi tối ngó sao nghe cậu kể chuyện về người cha. Những chi tiết hiện thực ấy có thể dệt nên một số phận bi kịch của mẹ con cậu, cũng như bi kịch của tôi bị mẹ khó chịu phàn nàn, bị cha hằn học phải ra ở riêng và đi phượt. Nói chung là bi kịch bế tắc của người trẻ hôm nay.

 Nhưng tác giả chỉ dừng lại ở kiểu truyện giải trí, kiểu truyện ma hiện đại, kích thích tâm lý hiếu kỳ của người đọc. Tôi ngờ rằng tác giả chỉ có mục đích ghi lại một phần cuộc sống thực của chính mình?

4.Những người quê cũ (truyện ngắn-tt tr.64)

Mai “muốn viết bài về bánh tráng”, cô tìm gặp Ngo để tìm tài liệu nhưng đã muộn. Ngo nói: “Trời, phải Mai tới đây tuần trước là đươc thấy cái lò lần cuối rồi. Bữa hổm mới đập”. Bây giờ không ai tráng bánh bằng lò xây nữa. Lò điện gọn nhỏ và tiện dụng hơn.

Đó là cái lò làm bánh tráng của má Ngo. Má Ngo theo nghề bánh tráng từ thời con gái. Má tráng bánh, ba làm rẫy. Tuổi thơ của Ngo quanh quẩn từ lò bánh ra rẫy, từ rẫy về lò. Mai và Ngo là bạn học hồi nhỏ, cùng lớn lên ở Chợ Lầu, Bình Thuận. Mai viết nhiều về cánh đồng, dòng sông, bờ bãi, ngôi nhà cũ và ký ức về Chợ Lầu. 

Cuộc gặp với Ngo cho Mai được một ít tư liệu, tiếc là không có hình ảnh. Nhưng cả Tuấn (nhân vật xưng Tôi, ngôi kể) và Mai cũng không trả lời được nghề bánh tráng bắt đầu từ lúc nào? Ai là người nghĩ ra chiếc lò tráng đầu tiên?

***

Truyện ngắn này thực ra chỉ là một bài ký về việc Mai tìm tư liệu để viết về nghề bánh tráng ở Chợ Lầu, Bình Thuận. Mai đi tìm tư liệu và đã không trả lời được vấn đề chính mà cô muốn tìm hiểu: nghề bánh tráng bắt đầu từ lúc nào? Ai là người nghĩ ra chiếc lò tráng đầu tiên? Thay vào đó, tác giả kể lể nhiều chi tiết lặt vặt, nằm ngoài cốt truyện để làm đầy trang văn. Chẳng hạn, chuyện ăn sáng với bánh tráng, chuyện Mai cắt tóc quá tay bị Tôi cười; chuyện đọc văn của Mai, Tôi (Tuấn) nhớ về bờ sông bên nhà và những chiều lùa bò lội nước qua rẫy…

Cốt truyện rất đơn giản. Thừa nhân vật Tôi (cuối truyện mới được biết nhân vật xưng Tôi tên là Tuấn-ngôi kể). Phần đầu tác giả kể chuyện, phần sau nhân vật Tôi kể. Đó là sự lúng túng của tác giả khi chọn ngôi trần thuật. Ngo là nhân vật chính để Mai tìm hiểu nghề làm bánh tráng, nhưng Ngo cũng không biết gì. Má Ngo cũng chưa chắc biết. May ra những người thời bà ngoại còn nhớ được chút ít mà kể. Nhưng Mai lại không gặp được họ. Thành ra bài viết của Mai chưa hoàn thiện và truyện ngắn này cũng chưa thành một truyện ngắn. Tác giả định nói về nghề viết của Mai hay về nghề làm bánh tráng của má Ngo? Chủ đề rất mờ nhạt.

***

4.TỐNG THANH TÂM

            Trang điện tử của Hội VHNT Đồng Nai giới thiệu: Tống Thanh Tâm (bút danh khác: Lưu Châu), hội viên Ban Văn Học, Hội VNNT Đồng Nai; sinh năm 2000, hiện là sinh viên năm cuối trường Đại học Kinh tế Tài chính Tp. Hồ Chí Minh.

            Đọc 4 truyện ngắn của Tống Thanh Tâm, tôi mừng vì gặp được chất chuyên nghiệp trong trang văn của người viết văn trẻ này.

Tống Thanh Tâm có cách kiến tạo tác phẩm khá biến hóa. Có truyện miêu tả sự vận động tâm lý nhân vật kiểu truyện của Nam Cao. Có truyện viết rất hiện đại, nhẹ nhàng, trẻ trung và thường có cấu trúc đơn giản, dễ đọc. Văn giàu chất thẩm mỹ. Giọng trần thuật nữ tính chi phối cách nhìn, cách lý giải và cả sự thể hiện cảm xúc.

Tống Thanh Tâm đối mặt với những vấn đề thường nhật của xã hội hôm nay và đề xuất một cách nhìn nhân ái. Tuy vậy, tác giả mới dừng lại ở việc miêu tả hiện tượng mà chưa phân tích sâu sắc bản chất của vấn đề. Có chăng là gửi gắm một chút suy nghiệm. Vì thế truyện của Tống Thanh Tâm là truyện lãng mạn. Tôi thích cách nhìn đa diện của Tống Thanh Tâm khi quan sát một hiện tượng. Chẳng hạn:

Cùng một sự việc Lan chửa hoang (truyện Nụ cười), ông Tấn, cha của Lan, nhất mực không chấp nhận. Trái lại, Lâm, anh thanh niên nhà kế bên, lại cảm thông và tự nguyện nhận làm cha đứa con của Lan. Vì Lâm cũng là đứa trẻ bị bỏ rơi và vì anh yêu Lan.

Sự thực là, ngày nay các cô con dâu không còn thực hiện trách nhiệm với cha mẹ chồng (truyện Nghịch thời). Ông ngọai của nhân vật Tôi thì thất vọng. Ông than thở: “5 thằng con trai không bằng 1 thằng”. Ông có 5 người con trai, tức là có 5 cô con dâu, nhưng không đứa con nào đỡ đần ông trông nom bà. Mẹ Tôi bị mặc cảm, con gái là “bát nước hắt đi”.  Và Tôi, sau khi tìm hiểu hoàn cảnh từng cậu mợ bên ngoại, Tôi nghĩ khác.

Trong truyện Đánh đổi, Ly là cô gái chấp nhận thân phận tiểu tam. Cô biết là mình sai, nhưng vẫn đánh đổi cuộc sống, tự do với sự xa hoa lộng lẫy. Còn nhân vật Tôi (một cô sinh viên) thì cho rằng, chuyện của người ta (chuyện của Ly), “mình không ở trong hòan cảnh của người ta thì mình cũng không có quyền gì phán xét cả”. Trái lại, bạn của Tôi là Ngọc, lại tỏ ra đồng cảm với Ly. Vì “Ngọc là người từng chịu nhiều tổn thương. Cha của cô ấy giống với người đàn ông kia”.

            Điều thú vị là Tống Thanh Tâm viết rất thuyết phục về những cái nhìn trái chiều như vậy. Sự thuyết phục ấy xuất phát từ tấm lòng yêu thương tác giả dành cho nhân vật. Nhất là những con người trong những hoàn cảnh ngặt nghèo. Vì thế truyện của Tống Thanh Tâm  có sức lưu giữ người đọc.

            Xin đọc các truyện của Tống Thanh Tâm:

(lưu ý rằng, phần tóm tắt của tôi không giữ được “chất văn” của Tống Thanh Tâm, cũng đồng nghĩa không giúp người đọc tiếp cận những giá trị thẩm mỹ của văn chương Tống Thanh Tâm. Người xưa nói “Tam sao thất bản” là vậy. Lý luận văn học hiện đại cũng khẳng định không thể tóm tắt một bài thơ, một tác phẩm văn xuôi, vì đó là một thế giới nghệ thuật).

            1.Nụ cười. (truyện ngắn)

            Hắn (tên Lâm) trở về nhà. Bây giờ hắn đã khỏe mạnh và có tiền. Hắn hy vọng ông già (người cha) sẽ tha tội cho hắn, tội bỏ nhà đi từ khi học hết lớp 10, rồi bị rủ rê sa vào hút chích. Hắn hỏi thăm cô gái hàng xóm (Lan) về cha mình, cô ta không trả lời mà có ý ghét hắn ra mặt. Ông Tấn, cha cô gái, cho biết ông già hắn đã chết vì tai biến mạch máu não. Niềm hy vọng nhỏ bé của hắn hoàn toàn lụi tắt.

Trở về nhà sinh sống, hắn xoay sở buôn bán. Ngoài bánh mì, hắn còn bán thêm trà sữa. Một lần bán hàng, hắn thấy Lan – con ông Tấn, khoác tay cùng đi với anh chàng trí thức, hắn có chút bất ngờ.

Một hôm ông Tấn phải về quê vài ngày. Ông nhờ hắn xem chừng nhà và để ý Lan dùm. Đến đêm thứ hai, Lan đi suốt đêm không về. Đến 7h sáng hôm sau, hắn mới thấy Lan mở cửa nhà. Hắn vội chạy sang. Lan òa khóc, má phải của Lan bị bầm một mảng, khóe môi còn vết máu, người run bần bật. Ngày hôm ấy, hắn nghỉ làm, ở nhà chăm sóc Lan. Lan như người mất hồn nhưng tỏ ra không thù địch với hắn nữa. Hắn gọi báo tin cho ông Tấn.

Ba tháng sau, Lan có thai, ông Tấn bắt phải bỏ. Hắn khuyên ông Tấn. Hắn nói, hắn là đứa trẻ không cha mẹ. Người ta bỏ hắn ngoài bãi, rồi cha hắn nhặt được, mang về nuôi. Hắn dè dặt nói với ông Tấn, nếu Lan không chê, hắn tình nguyện làm cha đứa bé. Một khoảng lặng vang dài, ngay cả tiếng nức nở của Lan ở trong nhà cũng im bặt. Còn hắn, hắn nghe rõ từng nhịp đập của tim mình.

Sau khi đề xuất với ông Tấn một ý tưởng bất ngờ, về đến nhà, hắn vẫn lâng lâng trong người. Hắn thương Lan bằng một mặc cảm không dám nói. Và hắn biết, đứa trẻ ấy đáng được ra đời, được yêu và thực sự được trưởng thành trong một gia đình thực thụ. Hắn mơ màng nghĩ, rồi sa vào cơn mơ. Ở đấy, vào một buổi sớm mai, hắn thấy, Lan đang tựa cửa, tay vuốt ve bụng, âu yếm nhìn hắn, nụ cười rất đỗi dịu dàng.

***

Nụ cười có cái kết đẹp của tình người và tình yêu. Lâm là đứa trẻ bị bỏ rơi nên anh đồng cảm được với đưa con bị bỏ rơi trong bụng Lan. Nhưng tình yêu của Lâm dành cho Lan  thì rất chông chênh. Lâm trở về nhà trong một thời gian ngắn, lại không tiếp cận được với Lan, thì sao có thể nảy sinh tình yêu trong Lâm, và tình yêu ấy đủ mạnh để anh tự nguyện nhận đứa con hoang của Lan. Hơn nữa đó chỉ là một tình yêu đơn phương.

Giải pháp của Lâm (cũng là của tác giả) dù có tốt, song chỉ lả giải pháp tình huống chữa cháy. Không có gì bảo đảm cho hạnh phúc lâu dài của gia đình Lâm. Bởi vì trong lòng Lan vẫn còn đó những kỷ niệm tình yêu cũ. Và vết thương tình phụ vẫn chảy máu hàng ngày khi Lan nhìn đứa con mình sinh ra. Những điều ấy chỉ ra rằng Nụ cười chỉ là một truyện lãng mạn của người viết trẻ.

2. Tỉnh giấc (Truyện ngắn)

Tỉnh dậy trong một căn phòng trắng tinh, Phương thấy mệt mỏi đến rời rạc cả chân

tay. Cô đã qua một đêm say với một người đàn ông. Cô nói với người đàn ông một cách nhẹ bẫng nhưng dứt khoát: “Mọi chuyện dừng lại ở đây”. Người đàn ông ấy là Vũ, người yêu của một cô bạn, nhưng hai người đã chấm dứt quan hệ.

Ở trong xóm lao động xô bồ, Phương lớn lên với một quãng đời cơ cực. 16 tuổi, cô

trốn nhà đi biệt. Thân con gái sống lay lắt nay chốn này mai chốn khác. 10 năm trời, nỗ lực và nỗ lực, cô mới chen vào được cái ghế kế toán viên. Phương nghĩ, 5 năm nữa, trong công ty này cô sẽ có chút vị thế, rồi lại thêm 3 năm nữa ắt sẽ là một vị trí cao hơn nhiều hiện tại.

Sếp tổng mới về nhậm chức. Hắn là một cáo già đáng gờm. Người phụ nữ nào vào tầm mắt hắn, một là phục tùng hai là ra đi. Đôi người nhận ra Phương bị hắn nhắm trúng. Hắn nói với Phương, hãy thực tế một chút, cô sẽ có tất cả những điều đó ngay bây giờ nếu biết điều. Phương đau khổ, nhưng phải chấp nhận vì chẳng còn đường nào khác.

            Đêm còn dài, cô quấn váy áo lên người và tìm đến nơi có bia rượu để giải phóng những cơn uất nghẹn. Gặp Vũ, Phương đã chủ động, “Chuyện đã xảy ra thì đương nhiên là nó sẽ tiếp diễn đúng như thế”. Khi tỉnh dậy, cô nói Vũ dừng lại. Cô sợ rằng mình sẽ tiếp tục, tiếp tục xem Vũ như một chiếc bè cứu sinh.  Hút hết điếu thuốc, Phương nói với Vũ: “Về thôi”.

Về đến nhà, biết hôm nay là thứ hai nhưng Phương vẫn thả mình trên giường và ngủ một giấc, cho đến khi điện thoại vang lên. Cô biết ai gọi. Cô trả lời “Một tiếng nữa, em sẽ có mặt ở công ty”, rồi lấy giấy bút từ ngăn kéo tủ ra, viết một cái đơn xin nghỉ việc, vốn ngay từ đầu chỉ cần vậy thôi.

***

Kết truyện, Phương xin thôi việc, đó là một cái tát vào mặt Sếp tổng. Phương giữ được mình trước mặt mọi người. Nhưng ở hiện tại, Phương lại gục ngã do chính sự yếu đuối của mình. Phương đã tự buông thả qua đêm với Vũ. Dù Phương có bảo Vũ “về thôi” đêm nay, nhưng chắc chắn cô sẽ lại tìm Vũ như “một chiếc bè cứu sinh” những đêm sau đó. Nỗi cô đơn và sự yếu đuối sẽ nhấn chìm Phương. Đúng như Phương tự thú nhận: chẳng còn đường nào khác. Phương không bán mình vào tay Sếp tổng để đổi lấy quyền lợi thì cũng tự đánh mất mình do sự buông thả. Phải chăng người trẻ hôm nay thiếu một lý tưởng sống để có sức mạnh vươn lên? Tác giả định đưa Phương về đâu? Bởi nếu trong đời thực, cô nhân viên trẻ nào cũng như Phương thì cuộc sống này sẽ đi về đâu? Tỉnh giấc vì thế chỉ là một truyện lãng mạn.

Tỉnh thức có cốt truyện đơn giản, chưa đủ tầm vóc là một truyện tư tưởng. Mở đầu và kết truyện (ở hiện tại), Phương tỉnh giấc và bảo Vũ “về thôi”. Giữa truyện là hồi tưởng của Phương về quá khứ của mình. Phần hồi tưởng quá khứ là phần chính khiến cho cấu trúc truyện bị lệch. Người đọc muốn biết tâm hồn Phương ở hiện tại thế nào và cô sẽ làm gì trong tương lai để thoát khỏi sự bế tắc khi cô bỏ việc. Trước đó, cô mất 10 năm mới chen được chân nhân viên kế toán và cần 8 năm nữa mới có thể ngoi lên. Liệu Phương có đủ kiên nhẫn bắt đầu lại 18 năm nữa để thực hiện ước vọng của mình?

            3.Nghịch thời (truyện ngắn)

            Tôi (nhân vật tên Thanh) về thăm ngoại. Nhà ngoại ở đối diện bờ đê, ngay sau ấy là sông Lam (không biết có phải sông Lam từ Lào chảy qua Nghệ An đổ ra biển Đông?). Tôi rạng rỡ. Ông kinh ngạc về tôi. Bà gầy yếu và không nhận ra tôi. Một năm tròn rồi ôngmột mình chăm sóc bà từ miếng ăn đến giấc ngủ. Bà là người vợ hiền, chưa bao giờ làm trái ý ông, chỉ trừ việc giải thoát mẹ tôi khỏi người chồng đầu tiên. Người ấy bị thọt, lại rượu chè cờ bạc và vũ phu. Mẹ tôi bị đánh dã man phải bỏ nhà đi, bà ngoại cho ít tiền và bảo mẹ tôi bỏ quê mà đi, càng xa càng tốt. Thế là mẹ tôi bỏ đi từ đấy. Ông ngoại nghiêm khắc với bà nhưng về già ông lại chăm sóc bà.

            Trong những ngày về thăm quê, tôi chỉ lẩn quẩn ngoài bờ đê và trong nhà ngoại. Tôi hỏi ông những điều lặt vặt. Ông có vẻ chiều chuộng tôi, khác hẳn với trước kia, ông không ưng gì tôi, mà ông thương mấy anh bên cậu tôi. Đêm về ông thường hay nói về đời người: “5 thằng lại không bằng 1 thằng mà”. Hóa ra ông có 5 cô con dâu nhưng chẳng cô nào đỡ đần ông chăm sóc bà. Tôi đâm ra tò mò đến ngứa dạ ngứa gan về các cậu bên ngoại.

            Hôm sau, tôi cùng mẹ đi thăm các cậu, các anh bên ngoại. Đúng là không một cô con dâu nào của ông muốn chăm mẹ chồng, vì thế ông cũng không muốn phiền và Tôi cũng thôi không nói gì.

            Đến ngày đi, tôi vẫn rạng rỡ, ôm ông bà. Mẹ tôi không nỡ rời ông bà. Lúc an vị trên xe, mẹ khóc vì nghĩ rằng ông vẫn xem mẹ là “bát nước hắt đi”. Tôi thì không nghĩ thế. Ông không muốn mẹ phải bỏ thành thị mà về thực hiện cái trách nhiệm mà theo ông là của 5 nhà kia.

***

            Nghịch thời có cốt truyện đơn giản. Nội dung chỉ là chuyến về thăm ngoại của Tôi, ở chơi vài ngày rồi trở về. Tôi chứng kiến sự việc ông ngoại chăm bà từ miếng cơm giấc ngủ. Tác giả muốn đánh đổ cái định kiến trọng nam khinh nữ vẫn còn trong đầu của các ông bố bà mẹ già. Ngày nay, có con trai, dù là 5 người như ông ngoại Tôi, cũng không nhờ cậy được ai lúc cha mẹ về già. Trong khi mẹ Tôi, dù thương ông bà đứt ruột, vẫn bị coi là “bát nước hắt đi”. Còn Tôi (Thanh), Tôi không nghĩ như mẹ và ông ngoại.

            Đọc truyện này, tôi không rõ tác giả sẽ giải quyết vấn đề thế nào? Khi không nhờ cậy được 5 con trai (và 5 con dâu) và gạt con gái đi, ông ngoại sẽ sống ra sao? Chẳng lẽ ông cam chịu cô độc và chỉ biết than thở: “5 thằng lại không bằng 1 thằng mà”! Cách kết lửng này buộc người đọc phải tìm một giải pháp cho nhân vật, và đó cũng là dư âm của một câu chuyện lãng mạn.

Tống Thanh Tâm đã đặt một vấn đề đáng quan tâm của xã hội Việt Nam hôm nay. Chỉ tiếc, tác giả đã không giải quyết được vấn đề của hiện thực. (Nói cho đúng, nhà văn là người đặt vấn đề, còn giải quyết vấn đề là trách nhiệm của xã hội). Cô dâu ngày nay không còn ý thức “làm dâu”. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã lạc hậu. Cha mẹ già tưởng rằng có con trai thì được nhờ. Thực tế, có đến 10 con trai cũng chưa chắc nhờ được đứa nào, vì chúng còn lo cho vợ con. Bây giờ con cái đề cao sự tự lập, đời ai nấy tự lo, không cần biết bố mẹ về già sống thế nào. Đó là bi kịch tuyệt vọng của nhiều gia đình khi văn hóa truyền thống Việt bị lật đổ bởi lối sống thực dụng chủ nghĩa phương Tây!

            4.Đánh đổi (truyện ngắn).

            Ở dãy nhà trọ này, tôi và Ngọc (sinh viên) thường thức khuya đến 2-3 giờ sáng. Ở phòng đối diện, chị Ly cũng giờ này mới về. Ly là một phụ nữ đẹp, là đối tượng các cuộc “họp bàn tròn” của mấy bà cô trong khu này. Tôi và Ngọc tự hỏi, Ly làm gì mà lắm tiền thế không biết.

Có tiếng gõ cửa? Ai lại gõ cửa giờ này?- là Ly. Bà ta ăn mặc đúng là “hồ ly”: Chiếc đầm đỏ dài chạm gót, một tà váy xẻ cao đến tận bắp đùi, bờ vai trần đẹp như tạc, tay nhấc điều thuốc xuống thả nhẹ một làn khói. Ly trả lại chúng tôi hai gói mì mượn hôm qua và tặng lại món gà nướng. Tôi chưa kịp từ chối thì Ngọc đã ra cửa nhận ngay. Tôi và Ngọc tranh cãi về việc Ngọc nhận thịt gà của Ly, bởi tôi nghĩ, “chẳng ai cho không cái gì bao giờ, biết đâu ngày nào chúng tôi phải giúp chị ta việc gì đó để trả lại gà nướng mà chị cho chúng tôi hôm nay”.

            Chuyện ấy đến nhanh thôi. Bọn người lạ mặt xuất hiện. Chúng mặc đồ đen, mặt bịt, kín cổ xăm trổ đeo xích bạc. Cả xóm cảnh giác. Tầm 1 giờ sáng hôm qua, Ly tiễn một ông khách. Mấy gã bịt mặt xuất hiện đập phá nhà chị. Khi dân phòng đến thì đã muộn. Tôi thu dọn nhà còn Ngọc giúp chị ta. Đêm ấy Ly ở lại phòng chúng tôi và kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời chị.

            Người đàn ông đêm qua là tình đầu của chị nhưng anh ta đã có vợ, một người giàu có. Anh ta chu cấp cho chị và hẹn hò với chị hàng tháng ở căn biệt thự ngoại ô. Do hoàn cảnh khó khăn, cha bệnh, mẹ mất, em còn đi học, chị đã sống dựa vào ông ta. Và rồi không gì qua mặt được các bà vợ. Chị biết mình sai. Chị đã đánh đổi cuộc sống, tự do của mình lẫy sự xa hoa lộng lẫy. Chị nhấn mạnh hoàn cảnh của mình để tìm sự đồng cảm. “Tôi nghĩ mình không ở trong hòan cảnh của người ta thì mình cũng không có quyền gì phán xét cả”. “Ngọc là người từng chịu nhiếu tổn thương. Cha của cô ấy giống với người đàn ông kia. Cho nên kh Ngọc lo lắng cho chị ta, còn cho phép chị ta ngủ tại phòng chúng tôi đêm qua.Tôi đã muốn cạn hết lời”.

            “Thôi dù sao cũng là chuyện của người ta. Tôi và Ngọc cứ yên ổn tiếp tục cuộc sống sinh viên của mình thôi”.

***

            Đánh đổi có cốt truyện đơn giản. Do mất ngủ, hai cô sinh viên chứng kiến chị Ly ở phòng trọ đối diện bị bọn xã hội đen đập phá (đánh ghen). Chị ta mong được thông cảm. Nhân vật Tôi cho rằng, đó là chuyện của người ta, mình không có quyền gì phán xét cả, cứ yên ổn tiếp tục cuộc sống sinh viên của mình thôi.

            Tống Thanh Tâm có cách viết sống động và thông minh. Tác giả tập trung miêu tả hiện tượng (tiểu tam), và để nhân vật tự trình bày quan điểm của mình. Tác giả không đào sâu lý giải bản chất của vấn đề. Truyện phản ánh một thực tại: thân phận “tiểu tam” trong xã hội hôm nay khi các giá trị đạo đức không đã sụp đổ. Con người hôm nay chấp nhận đánh đổi tất cả, ngay cả hai người yêu nhau cũng lợi dụng nhau. Người ngoài cuộc không cần quan tâm chuyện riêng của họ .

            Kể chuyện của Ly và phân tích thái độ của hai cô sinh viên chứng kiến sự việc Ly bị đánh ghen, Tống Thanh Tâm sẽ giải quyết vấn đề thế nào? Phải chăng Ly sẽ tiếp tục làm “tiểu tam”? Phải chăng, mọi người cũng giống như hai cô sinh viên trong truyện, không cần quan tâm đến người khác.

Rõ ràng là, tinh thần cộng đồng và đạo đức xã hội truyền thống đã hoàn toàn sụp đổ trước lối sống vật chất và văn hóa phương Tây (chủ nghĩa hưởng thụ và chủ nghĩa cá nhân vị kỷ) mà người trẻ hôm nay đã nhiễm phải. Vấn đề được Tống Thanh Tâm đặt ra buộc người đọc phải suy gẫm.

***

5.LÊ VŨ ANH ĐÀO

            Lê Vũ Anh Đào sinh năm 1987, hiện là Biên kịch tự do.

            Là một cây bút văn xuôi chuyên nghiệp, bước đầu, Lê Vũ Anh Đào đã chạm được vào những vấn đề của hiện thực. Trang văn có khả năng đánh động suy nghĩ của người đọc. Tuy vậy, đôi chỗ trong xây dựng cốt truyện hoặc miêu tả hiện thực, Lê Vũ Anh Đào còn vi phạm những nguyên tắc của Chủ nghĩa Hiện thực.

            Xin đọc:

1.Yêu thương ngày cũ (truyện ngắn).

            Hiên nhận được thiệp cưới của Phan gửi từ Pleiku, báo tin sắp lấy vợ. Tim Hiên bỗng nhói đau. Ba năm rồi, Hiên nhớ về Phan với những cái nhoi nhói nơi ngực trái, với những cơn đau đến ngạt thở nhưng không có những giọt nước mắt. Vậy mà hôm nay Hiên khóc trong đau đớn, khóc thật to. Rồi Hiên thiếp đi trong nước mắt.

Ngày hôm ấy đi làm ở công ty, Hiên lặng lẽ một mình. Buổi trưa ở phòng ăn, Khoa lặng lẽ ngồi ăn cùng cô. Khoa là đàn anh học trên Hiên một khóa ở trường đại học. Hiên và anh giờ làm khác công ty nhưng lại chung một tòa nhà. Hiên hay ăn cơm trưa và đi cà phê cùng anh. Buổi tối Khoa lại đến thăm và hỏi han. Khoa ở lại cho đến khi Hiên ngủ say rồi mới về.

Hiên xuống sân bay Pleiku vào buổi chiều thứ sáu. Cô đón xe qua Kontum tìm về Mái ấm Vinh Sơn gần nhà thờ gỗ Kon R’Bang. Tuổi thơ của Hiên và Phan ở đây. Hiên và Phan là hai đứa trẻ mồ côi, gặp nhau khi Hiên vừa học xong lớp một, gắn với nhau như hình với bóng. Lên cấp 3, Hiên và Phan chuyển qua Pleiku học. Hiên thi vào chuyên Văn còn Phan vào chuyên Anh. Lớp hai đứa vẫn dính lấy nhau. Học xong cấp ba, Hiên học Báo chí dưới Sài Gòn, Phan học Cao đẳng Sư phạm, anh muốn trở về mái ấm dạy cho các em. Hiện anh đang dạy ở làng trẻ SOS ở Pleiku, vợ sắp cưới của anh cũng dạy ở đó. 3 năm rồi Hiên mới trở lại nơi này.

Phan đón mọi người sang Pleiku dự đám cưới của anh. Buối tối, Phan rủ Hiên đi uống cà phê, nhưng Hiên muốn đi bar. Hiên đã uống nhiều lắm, càng uống càng thấy buồn. Hiên muốn nổi loạn. Phan chở Hiên ra công viên thành phố, Hiên ngồi ngoan ngoãn bên cạnh anh. Hiên thổ lộc tình cảm nhưng Phan nói, trong thâm tâm anh từ khi gặp Hiên, anh chỉ coi Hiên là em gái. Hiên thút thít sau lưng Phan suốt đoạn đường về. Phan đưa Hiên về tận phòng ngủ trong mái ấm …

Tiếng chim hót, tiếng cười nói râm ran đã đánh thức Hiên. Cô ra phụ mọi người đưa đồ đạc lên xe. Phan mỉm cười chào Hiên như chẳng có trận khóc lóc tỏ tình tối qua. Khoa xuất hiện làm Hiên kinh ngạc. Mọi người đi trước, bỏ lại Hiên với Khoa.

Hiên cùng Khoa dự lễ cưới trong nhà thờ gỗ. Hiên cầu nguyện cho Phan và gia đình anh mãi hạnh phúc. Nghe những lời thề nguyện hai người dành cho nhau, lòng cô chợt thấy ấm áp lạ thường. Như tìm một sự đồng cảm, cô nhích lại gần Khoa, đưa tay ra nhẹ nhàng nắm lấy tay anh, anh ngập ngừng rồi xiết chặt bàn tay, giữ tay cô ấm áp trong tay mình.

***

Yêu thương ngày cũlà chuyện tình đơn phương của Hiên. Sự bùng nổ của tâm hồn Hiên trong đêm bên Phan là có thể hiểu được. Cô vào bar, uống nhiều rượu, muốn nổi loạn và tự bộc lộ tình yêu với Phan. Bởi ba năm xa cách Phan, Hiên đã kìm nén những tình cảm ấy. Và nếu đi quá đà, Hiên sẽ gặp bi kịch.

Nhưng tác giả đã kết thúc “có hậu” khi để Khoa “xiết chặt bàn tay, giữ tay cô ấm áp trong tay mình” lúc hai người dự lễ cưới của Phan trong nhà thờ gỗ. Điều này là kết quả một nền giáo dục từ các sơ (Soeur) mà Hiên và Phan đã tiếp nhận khi là trẻ mồ côi trong mái ấm. Phan có lý tưởng. Anh chọn học Sư phạm đễ trở về dạy các em.

Phan và Hiên còn là những người có đức tin. Phan nói với Hiên, “hãy mở lòng ra đón nhận tình cảm của người khác, hãy bỏ đi những tự ti, mặc cảm thì sẽ có người yêu thương cô thật lòng thôi”. Và Hiên đã được Khoa đón nhận. Tôi cho rằng đó là một tư tưởng tích cực của Lê Vũ Anh Đào trong truyện tình này.

2. Một chuyện không cười nổi

Vợ chồng anh (tác giả chỉ dùng đại từ phiếm chỉ “anh” để gọi nhân vật) cưới nhau được hơn một năm. Lúc mới cưới, nàng nói với anh cho nàng một năm tự do rồi tính đường con cái.

Một năm trôi qua. Công việc của anh vẫn ì ạch với mức lương lúc ban đầu. Nàng thì ngày càng trẻ đẹp và thành công. Những chuyến công tác dài ngày trong nước, quốc tế cứ cuốn lấy nàng. Anh muốn có con. Nàng thở dài ngao ngán: Kinh tế chưa ổn định, không nên có con!

Để vui nhà vui cửa, nàng mang về nhà một con chó, loại chó xù, lông trắng. Nàng gọi nó là Sam và chăm sóc nó như con. Ngày trước, mỗi lần nàng đi công tác, ngày nào nhớ thì nàng gọi điện hỏi thăm anh. Bây giờ, nàng đi công tác, anh phải gửi nó đến khách sạn chăm sóc cho chó, phải cập nhật thường xuyên tin tức của nó cho nàng. Anh thấy mình bị cho ra rìa thật sự.

Anh thắc mắc, tại sao vợ anh có thể yêu thương, chăm sóc một con chó nhỏ chu đáo, mà không chịu chăm sóc một đứa con do chính nàng sinh ra. Nàng bảo, có con phải mang nặng đẻ đau, rồi phải ẵm ngửa, bú mớm cả năm trời? Biết bao nhiêu thứ phải lo. Mà phải lo đến suốt đời.

Dạo gần đây, nàng đi công tác nhiều hơn và ít quan tâm đến nó. Anh mừng vì nghĩ nàng sẽ dồn tình cảm của nàng cho anh. Con chó hình như cũng cảm nhận được sự bớt quan tâm của nàng nên khó chịu.

Nàng càng ngày càng đi làm về muộn, đôi khi còn cáu gắt và than mệt mỏi vì công việc. Sáng hôm đó, anh đang ngon giấc thì có tiếng con chó sủa liên hồi. Con chó bị xích và cứ nhìn ra cổng mà sủa. Anh mới mở xích cổ cho nó. Nó lao thẳng vào nhà, lên cầu thang, vào phòng ngủ và xộc thẳng đến tủ quần áo của vợ chồng anh. Anh mở toang hai cánh cửa tủ ra. Mấy bộ váy hàng hiệu và cái vali của nàng không còn trong tủ.

Anh tìm thấy tờ giất nhỏ nàng để lại: “Anh à, em không thể ở bên anh nữa. Em đã có thai nhưng không phải là con của anh. Em đã yêu người đàn ông khác và người này mới thật sự cho em cảm thấy an toàn, được che chở, được dựa dẫm. Anh đừng đi tìm em, em sẽ gửi hồ sơ ly hôn sớm cho anh. Anh chăm sóc Sam giùm em, em đang có thai nên không thể mang nó theo được. Xin lỗi anh!”

Vậy là anh bị vợ bỏ. Một thằng đàn ông không thể lo cho vợ ngay cả cảm giác được an toàn, che chở. Một thằng đàn ông muốn có con nhưng vợ lại có con với người khác. Con chó còn nhận ra được sự phản bội của nàng mà anh lại không hiểu. Anh quàng tay ôm lấy con chó, khóc nấc lên. Còn nó kêu những tiếng ư ư yếu ớt trong cổ họng.

***

Đọc truyện này, tôi ngậm ngùi mà không biết nên chia sẻ điều gì? Trách nàng ư? Hay trách anh như tác giả đã lý giải. Anh bị vợ bỏ vì không thể lo cho vợ, không thể đem đến cho nàng sự an toàn, được che chở.

Tôi thầm nghĩ, nếu tất cả những người đàn ông Việt Nam không đáp ứng nhu cầu sống “sang chảnh” cho vợ đều bị vợ bỏ, thì xã hội Việt Nam sẽ thế nào nhỉ. Và khi gia đình đổ vỡ, sẽ gây ra bao thảm cảnh khác. Tôi có cảm giác rằng tác giả chỉ trình bày một hiện tượng riêng lẻ chứ không phản ánh một xu hướng sống thực dụng (trend) của thời đại.

Đúng là khi Việt Nam mở cửa hội nhập toàn cầu hóa, thì Chủ nghĩa Thực dụng, Chủ nghĩa Cá nhân vị kỷ, Chủ nghĩa hưởng thụ tràn vào. Nó có gây ra những hậu quả đau lòng. Nhưng người Việt Nam, trong bản chất, vẫn có ý thức giữ gìn nề nếp đạo đức, thuần phong mỹ tục của cha ông. Vợ chồng đồng cam cộng khổ, yêu quý con cái và nỗ lực làm việc để xây dựng một gia đình hạnh phúc.

Hình tượng nhân vật Anh (người chồng) bị tác giả dồn vào ngõ cụt và chịu bó tay, đành ôm con chó của vợ mà khóc.

Sao tác giả lại đặt anh ta bên cạnh con chó và kết luận anh ta không bằng con chó? Con chó còn nhận ra vợ anh phản bội, còn anh thì không! Điều đó có quá đáng không? Thực tế người đàn ông này không đến nỗi thụ động và “khờ” như thế. Anh ta có tội tình gì? Anh vẫn đi làm, chỉ là lương không cao. Anh ta cũng tôn trọng công việc nhiếu quan hệ của vợ, sở thích nuôi chó của vợ. Anh ta mong có đứa con, mong một gia đình hạnh phúc. Chẳng lẽ những khát vọng đó là sai. Việc chị vợ có thai với người khác chẳng lẽ là lỗi của anh? Chẳng lẽ chị ta đúng cả về đạo đức và luật pháp? Và nhan đề của truyện hình như lại làm tổn thương đến lòng nhân ái. Chẳng lẽ chúng ta lại cười trên sự đau khổ của anh chàng bị vợ bỏ hay sao? (như thể cười anh chồng khờ trong truyện “Làm theo vợ dặn”?)

Lê Vũ Anh Đào đã vi phạm những nguyên tắc của Chủ nghĩa Hiện thực khi để ngòi bút đi quá đà như thế.

3.Vụ án hai con gà.

            Minh và Nhiên đi học về thì Hùng, em trai Nhiên, báo tin Minh và Nhiên sẽ không được đi học chung nữa.  Hai gia đình tuyệt giao vì hai bà mẹ cãi nhau chuyện mất gà.

            Minh và Nhiên là đôi bạn từ cấp 1 qua cấp 2 phổ thông và cấp 3 chuyên Văn. Hàng ngày Minh chở Nhiên đi học. Đến nay cả hai sắp thi Đại học. Hai nhà thân thiết với nhau, hai mẹ như chị em ruột thịt. Minh và Nhiên cũng gần gũi bên nhau. Bạn bè trong lớp, trong xóm cặp đôi.

            Buổi tối, Nhiên chờ tin nhắn của Minh. Minh nói nhà Minh có mất con gà. Nhiên cũng nói với Minh nhà Nhiên cũng mất gà. Hai nhà ở sát nhau, phía trước có rào, phía sau thì thông nhau, gà thả chung vườn. Minh và Nhiên không biết phải giải quyết thế nào.

            Hôm sau, khi hai mẹ đi chợ, Minh và Nhiên đi tìm gà. Cả hai tìm khắp vườn nhưng không thấy. Hai bạn ngồi bên nhau thất vọng. Rồi Hùng báo tin tìm thấy gà. Hai đứa chạy đến. Bên trong chỗ mấy cành muồng gẫy gập xuống đất, hai con gà mái đang nằm cạnh nhau trong một cái ổ lá. Hùng vạch một cánh gà lên, phía dưới là những quả trứng to tròn.

            Khi hai bà đi chợ về thì thấy mọi người tập trung ở sân nhà Nhiên. Hùng và Minh từ sau nhà ra, hai anh em bưng một cái thúng đặt hai con gà mái đang nằm cạnh nhau ấp chung gần ba chục quả trứng. Một vài câu nói vui, mọi người cùng cười, xóa đi không khí gượng gạo của hai bà mẹ. Lúc này hai bà mẹ cầm tay nhau nói lời xin lỗi. Hai con gà mái được chia trứng về nhà để ấp. Minh và Nhiên vui mừng. Tối nay hai bà mẹ lại họp nhau chuẩn bị lo tết như mọi năm. Tiếng nhạc ờ nhà Nhiên và nhà Hùng vang lên. Xuân ơi, xuân đã về.

            ***

            Truyện này dành cho lứa tuổi học trò. Nhưng tôi không rõ tác giả hướng đến đối tượng cụ thể nào. Nếu là học sinh cấp 3 thì lứa tuổi này tâm lý đã “người lớn”, truyện “trẻ con” này sẽ không hấp dẫn. Nhưng nếu truyện dành cho trẻ cấp 1, cấp 2 thì những chi tiết “nhạy cảm” của tuổi lớn có thể gây ảnh hưởng.

Đôi chỗ tôi băn khoăn về tình chân thực của sự việc. Hai bà mẹ thân nhau như ruột thịt thì không thể vì con gà mà mất tình nghĩa xóm giềng. Gà mái đẻ trứng hàng ngày, các mẹ biết ngay, không chờ đến khi có 30 trứng, gà ấp mà không biết. Hơn nữa, vườn cà phê không thể rộng qúa sức tìm kiếm của hai bà mẹ. Cho nên việc mất gà và tìm thấy gà chỉ là cái cớ để tác giả nêu bài học về sự hòa thuận và sự cẩn trọng của người lớn. Làm cha mẹ không được để ảnh hưởng đến trẻ.

Có lẽ chú ý đến ý nghĩa giáo dục mà tác giả bỏ qua những yêu cầu của ngòi bút hiện thực chăng?

6. HUỲNH NGỌC TUYẾT CƯƠNG,

Huỳnh Ngọc Tuyết Cương sinh năm 1993, hiệ là giáo viên ở Nhơn Trạch.

Tôi đã đọc được một ít bài thơ của Huỳnh Ngọc Tuyết Cương, các bài: Trong ánh mắt sông, Đi chợ cuối năm, Về với cuối năm. Tâm sự với đường hoa, Xuân rụng, Mưa xuân, Ngủ lại nhà quê, Thăm bà, Mẹ tôi, Tìm, Ký ức, Đợi, Điền dã. Tôi cũng đã đọc những nhận xét về thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương của tác giả trẻ Huyền Quy (Đồng Nai), của nhà văn Hoàng Ngọc Điệp (PCT Hội VHNT Đồng Nai), bài nhận xét về văn trẻ của TS Đỗ Anh Vũ trên báo Văn nghệ (số 25+26/ 2022) nhân Hội nghị Những Người Viết Văn Trẻ toàn quốc lần thứ 10 tại Đà Nẵng (18&19/6.2022). Có thể nói, với những gì đã viết, Huỳnh Ngọc Tuyết Cương là một tác giả trẻ Đồng Nai đã ghi được dấu ấn trên văn đàn.

TS Đỗ Anh Vũ nhận xét [[3]]: “Tuyết Cương thường dồn nén những hình ảnh độc đáo,

những ý thơ lạ vào phần cuối mỗi tác phẩm để tạo dư âm:

Tưởng đi nghiêng ngả núi rừng

Ngờ đâu mẹ đứng sau lưng đỡ mình

      (Tâm sự với đường hoa)”.

Huyền Quy nhận xét: “Nhìn chung, ngôn ngữ trong thơ Tuyết Cương có những sự chuyển mình đầy kỳ ảo, như sự biến thiên không ngừng của nghệ thuật trong dòng chảy thời gian. Tác phẩm anh viết, hầu như không tuân theo một quy luật hay xu hướng cụ thể nào. Tự thân những bài thơ đã mang trong mình sứ mệnh cao cả: đi tìm giá trị của chân – thiện – mỹ, thể hiện cái tinh tế, nhạy cảm, mong manh từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ và những trăn trở ưu tư của một người làm thơ với con người và cuộc đời.”

Có lẽ, Huyền Quy đã đọc thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương như tiếp cận thơ của một  “thiên tài” “đầy kỳ ảo” “với sứ mệnh cao cả”. Điều ấy dễ gây cho người trẻ những ảo tưởng. Lưu ý rằng, Huỳnh Ngọc Tuyết Cương mới chỉ viết được một số bài, trong đó, bài Điền dã (đăng trên Thanh Niên 22/10/2017) có khả năng đứng được.

Nhà thơ Đàm Chu Văn[[4]], bằng trải nghiệm của mình, ghi nhận: “Với Huỳnh Ngọc Tuyết Cương sự tìm tòi còn tiếp tục nhưng đáng mừng đã có những thành quả bước đầu!”. Quả thực không dễ dàng một cây bút trẻ mới xuất hiện lại có thể được công chúng văn học kỳ vọng.

Đọc thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương, tôi ghi nhận vài đặc điểm nổi trội.

1.Mỗi bài thơ đều có những tứ thơ lạ dù đề tài và nội dung quen thuộc. Huỳnh Ngọc Tuyết Cương có nỗ lực tìm cách thể hiện mới.

Ngoài hiên mưa tí tách

Ngỡ mẹ về đêm đông

Tay rót buồn ra cốc

Lại uống vào trong lòng…

            (Nhớ)

2.Thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương là thơ tự tình có chút suy tư. Nghệ thuật thơ nằm trong thi pháp thơ truyền thống: Kết hợp kiểu ngôn ngữ biểu cảm của Ca dao với cấu trúc trữ tình của thơ Lãng mạn (1930-1945). Cái Tôi trữ tình là trung tâm, nội dung thơ là dòng chảy tâm trạng. Huỳnh Ngọc Tuyết Cương không có những cách tân của Thơ Trẻ đầu thế kỷ XXI (như Văn Cầm Hải, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Nguyễn Thúy Hằng, Ly Hoàng Ly…).

Đây là một bài tiêu biểu:

Ngủ lại quê nhà

Một đêm ngủ lại nhà quê

Tiếng con dế khóc ngoài đê gọi chào.

Cuộn thân cho võng buộc vào

Bây giờ ai buộc yếm đào cho em.

Cây hời hợt bảo tôi đem

Một hai lá nhớ ủ nem tình trường.

Gió vờn tóc, chảy mềm sương

Sương lan lạnh tím vết thương hình hài.

Tôi giờ chìm hết đêm nay

Chết đi mới biết còn ai thương mình.

Nhân vật trữ tình Tôi cô đơn hoang lạnh trong đêm. Tôi nằm cuộn mình trong võng, nói chuyện với con dế kêu ngoài đê, nói chuyện với cây, với gió, với sương. Tôi nhớ và trăn trở nỗi buồn tình yêu (như Tôi độc thoại trong bài Tương tư của Nguyễn Bính), và một chút thương thân (ai thương mình). Bài thơ mang đặc điểm tư duy của thơ trữ tình lãng mạn. Cái Tôi chiếm cả không gian thơ. Tôi đang lắng nghe tâm trạng mình, đối thoại với chính mình và thiên nhiên. Không gian ấy không có bóng dáng đời sống xã hội, không có những mối quan hệ của con người trong cuộc đời thực. Ngôn ngữ thơ là sự kết hợp lời thơ mộc mạc ca dao với hình ảnh ẩn dụ tượng trưng của thơ Lãng Mạn (hai câu kết hoàn toàn là ẩn dụ), chất liệu thơ có kết nối liên văn bản với ý tứ của ca dao (võng, yếm đào).

Bài thơ Điền dã hội tụ nhiều đặc điểm “thi pháp” thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương.

1.Về đồng một sớm sương gầy

Ai trong hư ảo cuốc trầy ban mai

Lá như đôi mắt người say

Nửa rơi về đất, nửa bay về trời.

Xa trông chợt thoáng rạng ngời
Ai đang ngồi đốt những lời của đêm.
Bỏ lòng lạc giữa đường êm
Vững tâm vì đá… đã mềm vì tay.

2. Tôi về một sớm tháng hai
Hương xuân còn níu mong vai thêm đầy.
Người thì lội giữa bùn lầy
Khom lưng nhặt mảnh trăng gầy tối qua.
Người thì tay bí, tay hoa
Gánh lên phố thị đổi ba đồng tình.
Người thì hồn gửi công trình
Viết vào ngói mới bóng đình cây đa.
Cụ thì ngồi kể phong ba
Nhà quê còn ấm tách trà từ tâm!

3. Tôi về lỡ nhịp trăng rằm
Tháng tư mắc võng ve nằm hát rong.
Nhà cao điểm bức tranh đồng
Hương cơm ủ bởi tấm lòng mưa sa.
Đường giờ nhựa ấm câu ca
Gió rong chơi vẫn thiết tha cánh diều.
Qua sông ai bỏ câu Kiều
Trong tôi mãi vẹn một chiều sao Hôm.
Trở về lục lại rạ rơm
Câu thơ chạm phải hương thơm cá đồng.

Hiện thực đồng quê được ghi nhận qua tâm trạng của Tôi, và đọng lại “trong Tôi” những nghĩ suy khá mới mẻ. Tác giả về đồng vào một sớm sương tháng hai. Từ xa đã trông thấy ai đó đang ngồi đốt lửa tâm sự (đốt những lời của đêm). Hương xuân còn đâu đây (Hương xuân còn níu). Cảnh quê hiện ra khá sinh động: Người thì lội giữa bùn lầy, người khom lưng nhặt. Người thì tay bí, tay hoa/ gánh lên phố thị đổi ba đồng. Người đang làm công trình. Có cụ ngồi kể phong ba bên tách trà từ tâm.

Cảnh quê giờ đã thay đổi nhiều, đã no ấm (Hương cơm ủ), hoan ca (Đường giờ nhựa ấm câu ca), thảnh thơi (Gió rong chơi vẫn thiết tha cánh diều). Nhà cao, đường nhựa, không còn trăng rằm (Tôi về lỡ nhịp), không còn tiếng ve, không còn ai nhớ câu Kiều. Riêng tác giả vẫn lưu giữ thời nghèo khó (lục lại rạ rơm) và ấp ủ chất men quê (hương thơm cá đồng).

Tất cả hiện thực ấy thay vì được miêu tả bằng ngôn ngữ biểu cảm của ca dao, lại được kết hợp với ngôn ngữ ẩn dụ tượng trưng của thơ Lãng mạn, tạo nên sự mới lạ đột ngột:

Xa trông chợt thoáng rạng ngời

Ai đang ngồi đốt những lời của đêm

Trong tứ thơ này, “Xa trông chợt thoáng rạng ngời/ Ai đang ngồi đốt” là ngôn ngữ biểu cảm của ca dao, nhưng ý nghĩa của câu thơ được chuyển rất nhanh sang ngôn ngữ ẩn dụ: “đốt những lời của đêm”, nhờ thế tứ thơ có thêm nhiều tầng nghĩa.

Hoặc:

Người thì tay bí, tay hoa

Gánh lên phố thị đổi ba đồng tình.

Bài thơ kết bằng một hình ảnh ẩn dụ, gói ghém được tình quê sâu nặng, có sức khơi gợi trong lòng người đọc những âm vang của sự cộng hưởng tình quê:

Trở về lục lại rạ rơm
Câu thơ chạm phải hương thơm cá đồng.

3.Thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương ấp ủ một tình quê dân dã. Sâu đậm là tình yêu thương xót xa với bà, với mẹ cha (Thăm bà, Mẹ tôi, Tâm sự với đường hoa). Quê hương là hồn thơ bao trùm không gian thời gian, thấp thoáng nhưng cô đặc, bàng bạc nhưng cụ thể  (Ngủ lại quê nhà, Tìm đâu, ); Dù viết đề tài nào, nhân vật trữ tình luôn trăn trở đời nghèo (Xuân rụng), ngậm ngùi nỗi đời dại khôn (Tìm), và trầm trầm một nỗi buồn xa nhà (Con giờ trên đất khách/ Xin đời được chút danh/ Đêm nay buồn tỉnh giấc/ Thèm tiếng mẹ dỗ dành-Nhớ).

Những tình cảm gia đình, quê hương như thế được thể hiện bằng nghệ thuật thơ truyền thống, khiến cho người đọc có thể thâm nhập vào thơ và đồng cảm ngay với tác giả. Vẫn là Lục bát đậm chất dân gian. Chất liệu thơ là một miền quê nghèo, hiu hắt, một không gian có hương vị xa xưa: “dòng sông vẫn chậm rãi”, “Con đò ai chầm chậm”, “Chợ vắng chân người”, “Tiếng rao gầy guộc”, “Tìm đâu khói bếp cơm khê chấm cà”, “Tiếng con dế khóc ngoài đê”; “bóng đình cây đa”, “rong chơi cánh diều”, “mắc võng nằm hát”, “hương thơm cá đồng”.  “Bó rau chiều mưa Mẹ gánh về”; “Ngoài thềm rụng chiếc hoa son”,“bên bếp lửa ai ngồi”; Mẹ tôi: gánh sức ra đồng, ngày đêm cơ hàn, mồ hôi thấm, tay nứt chỉ rã rời, chay sần, đời âm u, phong ba, bao nhiêu là nước mắtGiọng thơ là giọng trữ tình hướng nội gần gũi, giọng của chủ thể (Cái Tôi) tự tình chiếm lĩnh toàn bộ bài thơ. Giọng thơ này dễ gặp gỡ với điệu tâm hồn lãng mạn của người đọc.

4.Ngoài những mới lạ về sử dụng ngôn ngữ, thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương có

 mùi vị rất cũ. Tình yêu quê hương, tình gia đình đã là nguồn cảm hứng thơ Việt từ rất xa xưa. Thí dụ bài Đồng chí (1948) của Chính Hữu, Nhà tôi (1949) của Yên Thao. Tác giả vẫn khai thác chất liệu một miền quê nghèo khó, chân lấm tay bùn, nhặt nhạnh lấy vài ba đồng…Không có gì mới cả trong tư tưởng và thi pháp.

Người thì lội giữa bùn lầy
Khom lưng nhặt mảnh trăng gầy tối qua.
Người thì tay bí, tay hoa
Gánh lên phố thị đổi ba đồng tình.
                        (Điền dã)

“Than nghèo” cũng là một chủ đề quen thuộc trong thơ ca truyền thống.

            Về với cuối năm

            Trở về quê…với cuối năm

            Mang theo khó nhọc thăng trầm trên vai

            Nói gì đây chỉ trắng tay?

            Cuộc đời úp ngửa rủi may đã từng

            Môi khô nếm một vị mừng

            Lòng quen mất mát nên lừng khừng vui

            Nói sao để bớt ngậm ngùi?

            Khi theo cơm áo về vùi áo cơm

            Vẫn còn nguyên vẹn cái ôm

            Mùa xuân ở dưới cọng rơm, đâm chồi!

            May mà tứ thơ kết bài còn một chút hy vọng, như thể “bĩ cực, thái lai”.

            5.Tôi muốn tìm trong thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương hình tượng một người bà, một người mẹ mang vẻ đẹp và sức mạnh Việt Nam như Mẹ Suốt (thơ Tố Hữu), người bà bán trứng ở ga Lèn (Đò Lèn -thơ Nguyễn Duy), nhưng không có. Tôi cũng muốn tìm những vỉa tầng văn hóa quê hương trong thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương, nhưng không có- những vỉa tầng phong phú lịch sử, địa lý, văn hóa Việt làm nên những trang thơ bất hủ của Nguyễn Khoa Điềm (phần V: Đất Nước-trường ca Mặt đường khát vọng). Tôi cũng muốn tìm cái không gian của một miền quê đầy mật ngọt tâm hồn làm nên thơ Nguyễn Bính ngày xưa (Mưa xuân II; Tết của mẹ tôi, Thư gửi thày mẹ, Hết bướm vàng…), nhưng Huỳnh Ngọc Tuyết Cương chưa quan tâm. Và thử tìm một bài thơ giàu suy tưởng như thơ Chế Lan Viên, Nguyễn Đình thi ngày trước, Huỳnh Ngọc Tuyết Cương cũng chưa thử bút. So sánh thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương với thơ của những nhà thơ tài danh đi trước là một so sánh khập khiễng và không công bằng. Nhưng dẫu thế nào, người làm thơ đi sau phải vượt qua người đi trước bằng những khám phá sáng tạo mới mẻ, thì mới có cơ may ngồi vào chiếu thơ của làng thơ Việt.  Con đường thơ của Huỳnh Ngọc Tuyết Cương còn rất dài ở phía trước, và nhận xét của nhà thơ Đàm Chu Văn là đáng suy gẫm: “Với Huỳnh Ngọc Tuyết Cương sự tìm tòi còn tiếp tục nhưng đáng mừng đã có những thành quả bước đầu!”.

            Vâng “đáng mừng”, vì Văn nghệ Đồng Nai đã xuất hiện một khuôn mặt thơ trẻ, người sẽ nhận lấy trách nhiệm kế tục sự nghiệp của các thế hệ đi trước (Lê Thanh Xuân, Lê Đăng Kháng, Đàm Chu Văn, Đỗ Minh Dương, Nguyễn Đức Phước, Trần Ngọc Tuấn…), “đáng mừng” vì thơ Đồng Nai đã có những nhân tố mới về nghệ thuật. Và chúng ta có quyền hy vọng.

***

7.LÊ PHAN HIẾU ANH

Lê Phan Hiếu Anh sinh năm 1999, đang học Thạc sĩ tại Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh, là hội viên Hội VHNT Đồng Nai.

Tôi đã đọc 40 bài thơ của Lê Phan Hiếu Anh đăng trên Thiven.net.

               (https://www.thivien.net/L%C3%AA-Phan-Hi%E1%BA%BFu-Anh/author–n16aGXVq7-dtrrOjuRf2g),

40 bài thơ đủ để nhận dạng một khuôn mặt thơ trẻ Đồng Nai.

            1.Thơ Lê Phan Hiếu Anh có hai mảng để tài chính: thơ tình yêu và thơ trải nghiệm thế sự. Nhân vật trữ tình Tôi là chủ thể của cả hai đề tài này. Tôi nghĩ suy và bày tỏ cảm xúc. Cái Tôi ấy cũng chính là tác giả được ghi dấu bằng những hoàn cảnh riêng.

Xin đọc
Ngốc nghếch ơi

.    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .

Ngốc nghếch ơi, tôi yêu nàng tha thiết
Muốn một lần nhìn thẳng vòm mắt sâu
Nhưng tôi nào dám, chẳng biết vì đâu
Tôi yêu nàng, mà lời không dám ngỏ.

Tôi yêu nàng, ấp ủ từng hơi thở
Giọng nhẹ nhàng bẽn lẽn trọ vào tim
Để thế giới còn lại là lặng im
Chắc vì vậy, nên hồn tôi cô độc.

Tôi yêu nàng khi gặp nàng ngồi khóc
Một mình bên hàng liễu rũ buồn theo
Tôi chợt muốn làm vạt gió trong veo
Hôn lên má, khe khẽ gạt nước mắt.

Ngốc nghếch ơi, tôi thấy lòng quạnh thắt
Khi trông nàng cười đùa với người ta
Ôi nhìn kìa, suối tóc huyền thướt tha
Sẽ đẹp hơn nếu được tôi kề cạnh.
.    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .
“Ngốc nghếch ơi!” là một bài thơ tình yêu. Nhân vật Tôi trải lòng mình. Tôi biết nàng

 “chẳng bao giờ yêu tôi”. Nhưng Tôi lại yêu nàng tha thiết. Tôi không dám nhìn thẳng vào mắt nàng, không dám ngỏ lời. Nàng ngồi khóc/ Một mình bên hàng liễu rũ buồn, tôi muốn Hôn lên má, khe khẽ gạt nước mắt cho nàng. Trông nàng cười đùa với người ta, tôi thấy lòng quặn thắt. Hôm nàng bệnh, tay gầy hanh hao, tôi thấy lòng canh cánh. Nàng ho mà lồng ngực tôi cay xé. Nàng chẳng bao giờ để ý mà tôi cứ yêu nàng tha thiết, Ngốc nghếch ơi!

Bài thơ là dòng chảy tâm trạng qua những hồi ức tình yêu. Nhân vật Tôi phơi bày những cảm xúc đã trải qua (lòng không dám, lòng quặn thắt, lòng canh cánh, ngực cay xé) và nhận ra mình ngốc nghếch như trẻ con.

            Miêu tả dòng chảy tâm trạng của Cái Tôi là đặc trưng của thơ trữ tình Lãng mạn. Gọi là Lãng mạn vì nội dung thơ không đặt trên bối cảnh xã hội, Tôi không có quan hệ xã hội với mọi người, Tôi không đặt những vấn đề nhân sinh. Chỉ có Tôi đối thoại với Tôi và sống trong tâm trạng của chính mình.

Thơ tình yêu của Lê Phan Hiếu Anh diễn tả nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau của Cái Tôi. Đó là một cuộc tình đơn phương. Có khi là những kỷ niệm ấm áp (Sapa của chúng ta), nhưng đa phần là nhớ (Mưa viễn xứ), là tình buồn như “Tiễn bước người sang ngang” (Giao thừa); có khi hờn trách (Dốc xưa), và tự trách mình (Ngốc nghếch ơi), có khi cay đắng (Đơn phương), tận đáy tâm hồn là nỗi ngậm ngùi đau đớn (Mục ruỗng)…

Tôi thương em chân chất
Ngỡ ngọt như đường mật
đắng đến tận cùng.
            (Đơn phương)

Bốn mươi ngày anh mục nát chơ vơ
Như xác nhớ rỉa đời trong mộ huyệt
Ngày vừa tắt, hay tình anh vừa chết
Trong tim em còn đọng mảnh khăn tang?

                        (Bốn mươi ngày)

Kết thúc một cuộc tình đơn phương
Những câu thơ cũng trống rỗng linh hồn
Ta chạm vào xác thịt
Rờn rợn vết mực thời gian mục ruỗng

.    .     .    .   .   .    .    .    .    .    .    .    .    .

Ta nhìn đời bằng cái nhìn sâu hoắm
Thấy nụ cười lẩn khuất lặng thầm đau
Thấy lời nói giảo hoạt từ chân chất
Thấy bắt tay như bấu rách mặt người
Thấy cái ôm dìu nhau vào xa lạ
Nụ hôn hờ hững buốt ngày ấm áp.
.    .     .    .   .   .    .    .    .    .    .    .    .    .

Đầu ta chạm nắp quan tài

                   (Mục ruỗng)

Kết thúc một cuộc tình đơn phương mà người thơ thấy đầu mình chạm nóc quan

 tài (nghĩa là người thơ đã chết, quan tài đóng nắp), thì người đọc có thể hiểu Tôi đau khổ và tuyệt vọng thề nào. Trong mắt nhìn của Tôi, tất cả những cử chỉ tình thân (nụ cười, lới nói, cái bắt tay, cái ôm, nụ hôn) đều trở nên xa lạ hờ hững đau đớn.

            Đó là thơ tình của Lê Phan Hiếu Anh. Và nếu chỉ có vậy, Lê Phan Hiếu Anh không thể tự khẳng định tài năng mình. Bởi vì, thơ tình ấy rất cũ. Bạn đọc Việt Nam đã đọc thơ tình Lãng mạn (1930-1945) của Xuân Diệu, Nguyễn Bính…; đã đọc thơ tình kháng chiến của Quang Dũng (Đôi mắt người Sơn Tây…), Vũ Cao (Núi đôi), Giang Nam (Quê hương), Xuân Quỳnh (Sóng…). Ở miền Nam trước 1975, thơ tình Nguyên Sa, Phạm Thiên Thư, Du Tử Lê, Nguyễn Tất Nhiên đã làm say mê nhiều thế hệ. Tình ca Phạm Duy, Trịnh Công Sơn (Ca từ của Trịnh Công Sơn là thơ)…đến nay vẫn có sức thu hút người trẻ (Các quán café nhạc Trịnh ở Hà Nội, Đà Lạt vẫn rất đông khách nghe nhạc lịch lãm). Đó là những đỉnh thi sơn bất hủ về thơ tình yêu, người làm thơ đi sau phải khác họ, phải mới hơn họ và vượt qua họ về tư tưởng và nghệ thuật thì may ra…

2.Thơ Lê Phan Hiếu Anh là tiếng nói của Cái Tôi hôm nay. Đó là Cái Tôi cô đơn (Từ một quán café, Độc ẩm), Cái Tôi buồn triền miên, ngán ngẩm cuộc đời (Ngổn ngang, Nhật ký sống chậm), Cái Tôi trăn trở (Con rối) đau vật vã với những vấp ngã, Cái Tôi tự quan sát mình và sống vô cảm (Tạ lỗi với những nàng thơ, Xe buýt sớm chủ nhật, Nghe nói chiều nay mưa; Tang lễ).

Chiều rơi
lặng lẽ niềm riêng
Ngàn thông rũ lá vào đêm thở dài…

                        (Dốc xưa)

Chân đi chưa hết một ngày
Vấp giọt đắng đời ngã trầy thanh xuân

                        (Đi xa)

Về đồng cỏ tâm hồn tôi thao thức,
Những men đau vật vã nhàu mơ thực
Tôi ngà ngà ngã hẫng vào ngực xưa

                        (Hương tàn)

Chiều thu Sài Gòn trơ trọi
Khô róc tay kẻ ăn mày
Chén đất sao thật thà quá:
Lạch cạch toàn điều chua cay!

            (Ngổn ngang)

Xin đọc

Xe buýt sớm chủ nhật

Sớm Chủ Nhật lặng thầm trên chuyến buýt
Không bon chen, hối hả như thường ngày
Những trẻ trai ngả lưng còng ghế thẳng
Lật mặt báo
Miệng nhấp dòng chua ngoa

Sớm Chủ Nhật
Ai thổi nhoè khói thuốc
Khoả nhập nhùng hun hút bảng nội quy
Chiếc điện thoại lầm lì trong tay bấm
Vỡ hồi chuông đợi ngón mòn hồi âm

Sớm Chủ Nhật
Đánh rơi dài tiếng thở
Trả một tuần dồn ứ chuyện phù du
Người lên xuống nằng nặng rơi nhịp bước
Cửa tự động niêm phong qua bến chờ?

Sớm Chủ Nhật
Người quay quắt theo guồng bánh
Từng cây số đếm màu mắt xanh, mờ
Cú phanh gấp làm giật mình trí thức
Những kẻ câm ngơ ngác độc-thoại-nhau…

Bài thơ ghi nhận khung cảnh trên một chuyến xe buýt sớm chủ nhật: Những trẻ trai ngả lưng còng ghế thẳng. Lật mặt báo. Ai thổi nhoè khói thuốc. Người bấm điện thoại mòn ngón tay. Có tiếng thở dài. Người lên xuống nhịp bước nặng nề. Cửa tự động niêm phong. Cú phanh gấp làm giật mình. Những kẻ câm ngơ ngác độc-thoại-nhau…

Đó là một bức tranh xã hội thu nhỏ. Và chỉ có vậy, không có bất cứ một hiện tượng nào đáng quan tâm, trong khi hiện thực Việt Nam hôm nay có bao điều thơ cần lên tiếng…

Hiện thực trên xe buýt bày ra có vẻ khách quan, nhưng thực ra chỉ là ảo ảnh qua nhận thức chủ quan của Cái Tôi. Tâm trạng Tôi che khuất bản chất của hiện thực. Tôi thấy những trai trẻ lưng còng ngả mình trên ghế đọc báo sau một tuần dồn ứ công việc (thực ra lưng họ thẳng không phải lưng còng như Tôi thấy). Người bấm điện thoại thì “lầm lì”. Nhìn thấy một người “lầm lì” chỉ là cảm nhận chủ quan. Ai đó thổi khói thuốc làm nhòe cả bảng nội quy trên xe. Kẻ vô ý thức ấy lại không được ai nhắc nhở? Nhìn những người lên xuống xe, Tôi cảm nhận bước chân họ nặng nề rơi, cánh cửa xe tự động đóng lại (máy móc). Động từ “rơi” được lặp lại, nhất mạnh tình trạng mất kiểm soát, con người không còn chủ động. Xe cứ chạy qua từng cây số. Những người còn lại trên xe, trong mắt nhìn của Tôi, họ là những kẻ câm. Thực ra là họ im lặng, họ tự trọng và tôn trọng người khác xung quanh, không phải họ câm.

Nhân vật Tôi nhìn thấy, một thế giới vô cảm, ở đó không có quan hệ tình thân nào giữa người với người. Tất cả là những kẻ câm, mất ý thức về thực tại, vận hành như robot (chỉ khi xe phanh gấp mới họ mới giật mình ngơ ngác).

Quả là nhân vật Tôi đã nhìn hiện thực ở một góc nhìn rất hẹp, cái nhìn của Cái Tôi tự kỷ. Nếu cái nhìn ấy trở thành ý thức sáng tạo của tác giả, thì làm sao văn học có thể đạt đựơc “giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng con người” như nghị quyết 23/BCT yêu cầu.

 May mà Cái Tôi trong thơ Lê Phan Hiếu Anh còn tiềm ẩn một chút trăn trở xã hội (Tổ quốc từ giấc mơ đứa trẻ, Vấn đáp cho thời của tôi), còn lắng đọng một chút tình quê (Về quê, Sapa của chúng ta). Những bài thơ ở mảng thơ này có ánh lên những cảm nghĩ riêng, khá mới mẻ. Đó là niềm hy vọng của thơ.

Hãy nhìn tổ quốc bằng giấc mơ của đứa trẻ, sẽ thấy đẹp hơn.

…Những ánh mắt đồng bào nhìn nhau
Ngân ngấn lệ đoàn viên ngày Giải Phóng Miền Nam ruột thịt
Người kéo cờ hoa, nhẹ buông thép súng
Vĩ tuyến mười bảy đón mừng biển chân qua.

Tôi bừng dậy, chạm khoảng chiều trắng buốt ngàn anh linh run rủi
Ở ngoài kia, từng nhịp cầu hối hả dệt thêm xanh trang ngày
Hôm nay về, không là “anh”, chẳng là “tôi”,
Mà chỉ còn “chúng ta” cùng Dân tộc – Tổ quốc.

Và đứa trẻ vô ý nép mình trong góc tối
Xin đừng mải ghim trong lòng hờn dỗi, chua ngoa
Vì không là “anh”, chẳng là “tôi”,
Mà chỉ có chúng ta – lòng yêu nước ngàn năm tự giải phóng cho mình
!

                         (Tổ quốc từ giấc mơ đứa trẻ)

– Ba ơi, cờ đỏ sắc son
Dang tay ôm những người con Lạc Hồng
Bắc – Nam sum họp một lòng
Sau chia cách, vẫn là đồng bào ta.

            (Đối ẩm với thiên thu)
Tôi tạm xa những bán mua
Về quê tắm lại cơn mưa thiếu thời
Đẫm trong câu hát ru hời
Vị xoài mẹ sắc ngọt môi đến giờ.

Tôi về thăm lại giấc mơ
Bâng khuâng viết vội câu thơ nghĩa tình
Gói lại sau những đăng trình
Nụ cười nhẹ chớm giữa bình minh lên.

                              (Về quê)

Tôi nghĩ, nếu Lê Phan Hiếu Anh thóat ra khỏi Cái Tôi tự kỷ, đặt thơ của mình vào

dòng chảy mãnh liệt của lịch sử của dân tộc, chia sẻ những nỗi niềm của mọi phận người trong thời toàn cầu hóa và khắc họa cho được vóc dáng con người Việt Nam đương đại (nhưng thơ kháng chiến đã tạc được tượng đài Dáng đứng Việt Nam), thì thơ Lê Phan Hiếu Anh sẽ vượt lên trước so với những người làm thơ thuộc thế hệ của anh.

8.NGUYỄN HUYỀN QUY

            Nguyễn Huyền Quy (có khi bút danh chỉ là Huyền Quy) sinh năm 1986, hiện là ủy viên Ban Chấp hành Hội VHNT Đồng Nai.

            Cách đây đã lâu, khi đọc hai bài thơ Hồn quêEm xưa, tôi rất thích giọng thơ và kiểu tư duy nghệ thuật của Huyền Quy. Tôi nghĩ, cây bút trẻ này giàu nội lực và sẽ đi xa. Nhưng khi viết chuyên luận này, tôi tìm mãi chỉ thấy chùm thơ (7 bài) của Huyền Quy đăng trên vanvn.net (Chùm thơ này cũng được giới thiệu trên trang web của Hội VHNT Đồng Nai): Hồn quê, em xưa, Sang mùa, Bây giờ Daklua, Chàng kỵ sĩ lên 3, Quà sinh nhật con, Ru con, Tóc ngắn, Như em đợi anh.Con thuyền của mẹ, và truyện ngắn Cô Huệ. Tôi lục tìm tạp chí Văn nghệ Đồng Nai những năm gần đây (2019, 2020, 2021, 2022), Huyền Quy cũng chỉ có bấy nhiêu bài, kể cả trong tuyển tập Chạy về phía mặt trời (Tuyển tập sáng tác VHNT trẻ Đồng Nai 2021) cũng chỉ có hai bài đăng lại. Tôi ngạc nhiên về sự ít ỏi tác phẩm của Huyền Quy. Cây bút này bận chuyện gia đình, chuyện chồng con mà ít viết chăng? Hay việc sáng tác văn chương chỉ là một chút vui của người trẻ?

Huyền Quy nói với con:

Chẳng phải nhà thơ

càng không phải là cây viết có nghề cứ đặt bút xuống là để lại cho đời những bài ca bất hủ

Mẹ chỉ là một trong ngàn vạn những người phụ nữ

Như nữ sĩ Xuân Quỳnh từ xưa từng tự hào nói với một nửa thế giới còn lại đang vững vàng, mạnh mẽ ngoài kia

“Một người đàn bà bình thường không tên tuổi

Quen với việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày

Mẹ sinh chị, rồi sinh con từ khi dồi dào sức trẻ

Bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu tin yêu từ mẹ

Truyền cả cho các con…”

            (Quà sinh nhật con)

Như vậy thì đã rõ, Huyền Quy dành hết yêu thương, niềm tin và hy vọng cho con. Văn

chương không phải là mối quan tâm của Huyền Quy (?). Có lẽ nhà văn Hoàng Ngọc Điệp nói đúng về thực trạng của các tác giả trẻ Đồng Nai: “Văn học ở đâu muốn xung phong, phát triển, kế tục thì đều dựa vào người viết trẻ. Thời gian qua, Đồng Nai đã và đang bổ sung lực lượng sáng tác này. Tuy nhiên, với nhiều lý do vừa chủ quan vừa khách quan, người trẻ ít quan tâm đến đời sống văn học”. Đó là điều đáng tiếc. Văn chương đòi hỏi tâm huyết, văn chương là chuyện gan ruột. Nếu người viết không dấn thân cho văn chương thì không thể gặt hái được quả ngọt.

            Dù sao Huyền Quy cũng đã hiện diện với tư cách là một tác giả trẻ Đồng Nai, vậy thơ Huyền Quy khẳng định điều gì với tư cách này?

            1.Thơ Huyền Quy

            Mười (10) bài thơ của Huyền Quy tập trung vào hai đề tài: Tình yêu thương chồng con và tình quê.

Những bài Chàng kỵ sĩ lên 3, Quà sinh nhật con, Ru con, Con thuyền của mẹ, Tóc ngắn, Như em đợi anh là tiếng nói rất riêng tư của Huyền Quy với con và với chồng. Những bài thơ này có giọng đằm thắm, chân tình, giọng nói nhẹ nhàng chia sẻ, có suy nghĩ chín chắn sâu sắc. Tiếng thơ thể hiện một tình yêu nồng nàn, một tình yêu chiếm lĩnh tất cả tâm hồn và sự sống của người thơ, và tâm hồn ấy tràn đầy hạnh phúc.

Dù vậy, đó là những chuyện riêng tư của cá nhân, những chuyện ấy chỉ dành cho cá nhân người trong cuộc. Bạn đọc thơ nếu có đọc, cũng chỉ là để hiểu một hồn thơ, để nhận diện một giọng điệu, tìm kiếm điều mới mẻ về nghệ thuật của một tài năng. Bởi những chuyện Huyền Quy nói với con, với chồng, bất cứ người phụ nữ nào đã trải qua, cũng nói với con như thế, cũng chia sẻ với chồng như thế; thành ra, nội dung thơ của Huyền Quy không có gì mới (nếu không nói là rất cũ).

Sáng tạo nghệ thuật là làm ra cái thẩm mỹ mới. Không làm ra cái mới thì đó không phải là sáng tạo. Những câu thơ nói về tình mẫu tử như thế này đã thành truyện thống trong suy nghĩ của mọi thời.

Tình mẫu tử xưa và nay

Mỗi thời đại một cách bày tỏ khác

Nhưng vẫn thiêng liêng, dào dạt

Tự bao đời!

            (Ru con)

Dù đề tài về chồng con là những thổ lộ “tâm huyết”, nhưng thơ Huyền Quy viết cho

 con cũng có bài rất gượng ép, không thơ.

Xin đọc:

Con thuyền của mẹ

                         (Cho con Duệ Trí)

Chiếc xe mẹ tựa con thuyền

Con như ngọn gió tựa miền tương lai

Đi từ lớp một, lớp hai

Thuyền xe mẹ chở ngày ngày hằng mong

Một vùng ấm áp sau lưng

Cho con ánh sáng dặm đường lớn khôn

Mai ngày ra với nước non

Nhẹ tênh thuyền mẹ khuất chìm trời mây

            Về gieo vần, bài thơ này có 4 cặp lục bát nhưng có đến 3 cặp sai về vần luật. Đây là những vần không chuẩn: câu 3&4: hai/ ngày. Câu 4&5: mong/ lưng. Câu 5&6: lưng/ đường. Câu 7&8: non/ chìm. Nhưng chỗ sai vần luật như thế làm hỏng thanh nhạc, làm mất đi sự mượt mà duyên dáng của Lục bát. Điều này là cố ý của tác giả vì không tìm được vần hay vì một lý do nào khác? Tôi không nghĩ tác giả làm thơ Lục bát theo quán tính mà bỏ qua thi luật?

Về dùng từ, từ “xe mẹ; thuyền xe mẹ”nghĩa không rõ.” “xe mẹ”có nghĩa là chiếc xe của mẹ, hay mẹ là chiếc xe chở con? Câu thơ: “Chiếc xe mẹ tựa con thuyền” đọc theo nhịp 2/2/2 của Lục bát là: Chiếc xe /mẹ tựa/ con thuyền” sẽ không có nghĩa. Không thể đọc “Chiếc xe mẹ”, bởi sai nhậc luật, và nghĩa của cụm từ này sẽ gợi ra xe mẹ, xe con (tức là xe lớn xe nhỏ, như thuyền mẹthuyền con).

Về tu từ, so sánh: “Con như ngọn gió” là một so sánh không đồng bộ với so sánh ở câu trước: xe của mẹ tựa con thuyền. “xe mẹ”chở conkhông thể chuyển thành “chở gió”?

Từ “tựa” ở câu thứ hai là lặp từ, nhưng lại không ổn về nghĩa:

Con như ngọn gió tựa miền tương lai

 Ở câu thứ nhất, “tựa” có nghĩa là giống như. Ở câu thứ hai, nếu “tựa” cũng có nghĩa là giống như, thì sẽ lặp nghĩa của từ “như” đứng trước”: “Con như ngọn gió tựa miền tương lai”. Vậy chữ “tựa” thứ hai này nghĩa là gì? Chắc chắn không phải là “giống như” mà là “tựa vào, dựa vào, nương tựa”? Nếu vậy, câu thơ có nghĩa “con…nhương tựa miền tương lai” sẽ trở nên vô nghĩa.

            Cách diễn đạt của câu thơ sau đây không thuyết phục:

Một vùng ấm áp sau lưng

Cho con ánh sáng dặm đường lớn khôn

            “Vùng ấm áp sau lưng” là vùng lưng mẹ hay đó là con (con tựa vào làm ấm lưng mẹ)? Vậy cái gì “cho con ánh sáng”? Con ngồi sau lưng mẹ, tấm lưng mẹ che khuất tầm mắt con, lưng mẹ không thể cho con ánh sáng. Nếu “một vùng ấm áp sau lưng” là con, thì con không thể tự cho mình ánh sáng! Câu thơ có vẻ phô trương vì dùng những từ “đao to búa lớn”: “một vùng, dặm trường, ánh sáng”. Nhưng ý nghĩa câu thơ lại trở nên sáo rỗng bởi chính tác giả đã không xác định nghĩa thật của câu thơ.

Với tư cách người đọc, tôi hiều câu thơ như thế này: Con ngồi sau lưng mẹ, được mẹ che chở nên con ấm áp, tình thương yêu của mẹ rộng lớn bao bọc lấy con như một vùng miền bao la. Mẹ chở con đi, mẹ chính là ánh sáng soi dặm đường tương lai con lớn khôn. Bởi mẹ đã trải nghiệm đường đời, đã hiểu những gập ghềnh khúc khuỷu đèo dốc, con ngồi sau mẹ sẽ an lành.

Về tứ thơi, câu thơ kết là một hình ảnh ẩn dụ:

Mai ngày ra với nước non

Nhẹ tênh thuyền mẹ khuất chìm trời mây

Tôi hiểu nghĩa câu thơ thế này: mai ngày, khi con đã trưởng thành ra ngoài đời thì “thuyền mẹ nhẹ tênh”(mẹ nhẹ trách nhiệm nuôi dạy con) và bay vút cao (mẹ hạnh phúc vô vàn như bay bổng trên chín tầng mây. Cụm từ “khuất chìm trong mây trời” cũng có thể hiểu theo nghĩa khác. “Khuất chìm” là mất, là chết, là qua đời, là về trời. Nếu vậy, câu thơ sẽ có nghĩa: mai ngày khi con ra đời hòa mình với nước non, thì mẹ cũng nhắm mắt nhẹ nhàng (vì hoàn thành trách nhiệm nuôi dạy con).

Nếu đọc lướt câu thơ, người đọc có thể chấp nhận ý nghĩa như trên. Song ở câu thơ kết, tác giả chỉ dùng từ “thuyền mẹ” mà không dùng từ “thuyền xe mẹ”. Xin lưu ý, trong cả bài thơ, “thuyền” chỉ là ý so sánh, là ảo, không phải là một con thuyền vật chất.  “Xe” của mẹ chở con hàng ngày mới là thực, mới làm nên nội dung bài thơ. “Thuyền” có thể chìm, còn xe thì không thể “chìm”. Cho nên tứ thơ: “thuyền mẹ khuất chìm trời mây” không logic về nghĩa. Tôi ngờ rằng Nguyễn Huyền Quy muốn vay mượn tứ thơ của Lý Bạch (701-762) khi nhà thơ này tiễn Mạnh Hạo Nhiên. Lý Bạch đứng đó nhìn con thuyền của Mạnh Hạo Nhiên mãi tận trời xanh: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”(Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng-Lý Bạch).

 Như vậy, cả bài thơ là sự gượng ép về ý, tứ, vần luật, dùng từ và tu từ. Lời thơ không diễn được ý, hình thức nghệ thuật không tải được nội dung. Có lẽ tác giả chưa dụng công cho thơ Lục bát chăng? Hay chỉ làm thơ phong trào theo quán tính?

***

Những bài thơ quê hương của Huyền Quy có khí sắc hơn và có khả năng neo đậu

 trong lòng người đọc hơn.

            Xin đọc

            Hồn quê

                        Trông lên bóng xế chiều hôm

                        Vẳng nghe như tiếng ao chuôm vọng về

                        Giật mình chợt tỉnh giấc mê

                        Thênh thang đi giữa đường quê ngày nào

            `           Thuở còn đi bắt cào cào

                        Tiếng cười giòn giã lẫn vào rạ rơm

                        Đường cày đất mới còn thơm

                        Cay nồng sống mũi đậm hương quê mùa

                        Ngày xưa nhớ mấy cho vừa

                        Vui cùng thóc lúa ngọn cờ bông lau

                        Bây giờ chú cuội về đâu

                        Trông lên chỉ thấy đỉnh đầu nhà cao

            Một bài lục bát dễ thương. Nội dung (thông tin) không có gì đặc biệt. Tác giả chỉ ghi lại những kỷ niệm tuổi thơ và một chút nuối tiếc về ngày xưa. Đó là những ngày còn thơ đi bắt cào cào ngoài đồng, cảm nhận được mùi đất đồng mới cày và niềm vui ngày mùa thóc lúa. Bây giờ không còn thấy chú Cuội ngồi gốc cây đa những đêm trăng sáng, bởi nhà lầu cao đã che khuất.

            Với nội dung đơn sơ như vậy thì bài thơ hấp dẫn người đọc ở những yếu tố kiến tạo nào của tác phẩm?

            Thơ hay là ở hồn thơ. Thơ mà vô hồn thì không thành thơ. Bài thơ hiện ra một hồn thơ trẻ trung, trong veo, đầy ắp niềm vui thênh thang, mở rộng cả không gian và thời gian.

Nhân vật trữ tình luôn “trông lên”: “Trông lên bóng xế chiều hôm”; “Trông lên chỉ thấy đỉnh đầu nhà cao”. Người trẻ thường “trông lên” với nhiều ước vọng và không ít mơ mộng, nhưng nhà thơ thì “trông lên” để khám phá Cái Đẹp. Khi nói về sự vận động của buổi chiều-hoàng hôn, người ta thường viết “hoàng hôn xuống” (chiều xuống). Bà huyện Thanh Quan: “Bước tới Đèo Ngang bóng xế”(Qua Đèo Ngang);  Huy Cận: “Nắng xuống trời lên sâu chót vót.” (Tràng giang). Chuyển động ngược chiều “lên/ xuống” trong câu thơ: “Trông lên/ bóng xế chiều hôm”gây ấn tượng ngay lập tức khi người đọc tiếp cận bài thơ. Và câu thơ cuối, bây giờ không có trăng, không có chú Cuội, nhưng bầu trời (thơ) vẫn rất sáng bởi từ “trông lên”hướng tâm hồn người đọc lên bầu trời đầy trăng sao.

            Trong cái không gian rộng mở ấy, hồn thơ đầy ắp niềm vui: Niềm vui của những thanh âm quen thuộc (tiếng ao chuôm vọng về). Thực ra, đó là tiếng ếch nhái từ bờ ao, vũng nước kêu ran khi trời nhá nhem tối, thứ âm thanh “đặc sản” của đồng quê, một loại nhạc đồng quê có sức ám ảnh. Niềm vui của những “tiếng cười giòn giã” trên đồng. Đồng quê của Huyền Quy là một đồng quê vui, không phải là một đồng quê lam lũ như thể “Cày đồng đang buổi ban trưa/ Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”. Cái đồng quê ấy gần lắm, nồng ấm lắm, vì mùi hương của đường cày đất mới làm “cay nồng sống mũi”. Cảm nhận tình quê bằng mùi đất đường cày thơm là một cảm nhận hết sức mới mẻ.

Và đặc biệt là niềm vui thóc lúa: “Ngày xưa nhớ mấy cho vừa/ Vui cùng thóc lúa ngọn cờ bông lau”. Chỉ những ai ở thôn quê, khi mùa về, gặt hái và gánh lúa về, đập lúa, phơi thóc, rê thóc cho sạch, phơi thóc vàng trong nắng tươi, chân đi đảo lúa cho mau khô, mới có thể cảm hết niềm hạnh phúc no ấm trong câu thơ: “Vui cùng thóc lúa ngọn cờ bông lau”.

Người lớn có niều vui no ấm, trẻ con có niềm vui trẻ con. “ngọn cờ bông lau” gợi ra trò chơi trẻ con tụ tập đánh trận cờ lau. Truyền thuyết kể rằng, lúc còn nhỏ, Đinh Bộ Lĩnh (vua nhà Đinh) cùng với bọn trẻ chăn trâu thường dùng cờ lau tập trận. Ngày nay ở cố đô Hoa Lư, Ninh Bình, có lễ hội Trường Yên. Trong lễ hội có trò chơi tập trận cờ lau để tưởng nhớ vua Đinh ngày xưa. Như vậy câu thơ: “Vui cùng thóc lúa ngọn cờ bông lau”là niềm vui của cả người lớn và trẻ con, niềm vui của hiện tại (được mùa) và niềm vui của một lịch sử hào hùng.

Nhưng ở quê, còn bao nhiêu niềm vui trong những đêm trăng sáng: Trẻ con có những câu chuyện về chú Cuội ngồi gốc cây đa, những trò chơi đếm sao: “Một ông sao sáng/ hai ông sáng sao”, trò chơi “năm/ mười”…được nghe các cụ già kể chuyện. Trong đêm trăng sáng, người dân quê vẫn có thể làm việc và trẻ con vui chơi. Bây giờ ở thành phố, nhà lầu cao che khuất trăng, không còn thấy được chú Cuội huyền thoại ngày xưa nữa. Bày tỏ niềm nhớ tiếc chú Cuội cũng là gợi ra trong lòng người đọc những nét đẹp hồn nhiên miền quê, Cái Đẹp của văn hóa của dân tộc.

Bài thơ thể hiện sự gắn bó sâu nặng của Huyền Quy với quê hương mình. Hồn thơ vui, trong trẻo, trẻ trung, “nhìn lên” của nhân vật trữ tình cộng hưởng làm thức dậy bao cảm xúc về quê hương trong lòng người đọc. Xin lưu ý, tuy là thơ trữ tình nhưng tuyệt nhiên không hề xuất hiện nhân vật xưng Tôi trong bài thơ. Nhân vật ấy đã hòa vào thời gian, không gian, sinh hoạt, lịch sử và văn hóa của quê hương mình. Thơ trở thành tiếng nói chung của con người quê hương, không còn là tiếng nói của Cái Tôi hướng nội như thơ của nhiều cây bút trẻ khác.

            Đọc bài thơ Hồn Quê để thấy Huyền Quy là một người trẻ làm thơ có những tố chất rất đẹp có thể viết những bài thơ hay. Rất tiếc Huyền Quy đã không phát huy và làm giàu có thêm vốn liếng tài năng của mình. Thay vì hướng ra cộng đồng, hướng ra không gian rộng lớn của dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa, Huyền Quy lại trở về gia đình nhỏ của mình, trò chuyện với chồng, với con hết sức riêng tư, vì thế thơ Huyền Quy đã bị cắt lìa với nguồn nuôi dưỡng vĩnh cửu là quê hương, dân tộc, lịch sử, văn hóa…

            Văn chương là sự lên tiếng nói bằng những mã nghệ thuật. Trước hết, đó là tiếng nói của Cái Tôi của người trong cuộc. Nếu Cái Tôi này mang phẩm chất công dân, đặt những vấn đề của cộng đồng, thì Cái Tôi ấy trở thành Cái Ta chung. Sự thật là, văn chương chỉ tồn tại được khi nhà văn lên tiếng nói thay cho mọi người trên nền tư tưởng yêu nước, chủ nghĩa nhân văn và những truyền thống văn hóa dân tộc. Bình Ngô Đại Cáo (Nguyễn Trãi) là bản hùng ca của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống quân Minh xâm lược. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu) là khúc ca bi tráng ca về tấm lòng yêu nước chống Pháp của các nghĩa quân Cần Giuộc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật) là lời hoan ca của người lính chống Mỹ: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:/ Chỉ cần trong xe có một trái tim.”…Văn chương là như vậy. Nhà văn hướng về thực tại rộng lớn ngoài kia và lên tiếng nói thay cho mọi người về những vấn đề tồn sinh của dân tộc và nhân loại, những vấn đề mà “dân đen, con đỏ” không thể lên tiếng. Nếu văn chương chỉ là tiếng nói của Tôi, về gia đình nhỏ bé của Tôi, như Chế Lan Viên đã tự bạch: ”Lũ chúng tôi ngủ trong giường chiếu hẹp/ Giấc mơ con đè nát cuộc đời con/ Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp/…một mái nhà yên rủ bóng xuống…”, thì văn chương ấy có ích gì cho ai?

***

2.Kịch ngắn: Cũng là hạnh phúc (VNĐN năm thứ 43, tháng 5/2022) 

Nghệ sĩ nhiếp ảnh Tuấn Hùng báo cho người yêu là Thư việc anh tham gia chống dịch. Thư quyết liệt ngăn cản nhưng không được.

Bố Thư là ông Thái cũng ngăn cản Thư gắn bó với Hùng Ông nói: “thấy khó khăn nguy hiểm là xông vào như con thiêu thân không cần biết sống chết thế nào. Người ta lo chạy cho xa, tìm chỗ an toàn mà trú ẩn còn chưa ăn ai, lại đâm đầu vào chảo lửa. Con thấy nó có bình thường không đã nào”. Nhưng Thư lại bênh vực Hùng.

Ông Thái nằm viện mấy tuần. Lúc ra viện, còn đang ở cổng bệnh viện, ông Thái nói với Thư đã tìm cho cô một người chống tốt, người đã chăm sóc ông suốt thời gian nằm viện. Lúc ấy Hùng đến, Thư giới thiệu Hùng với bố. Ông Thái nhận ra Hùng chính là người đã chăm sóc ông và là người ông quyết định chọn cho Thư. Ông vui mừng và an tâm có được rể quý.

***

Đây là kịch phong trào, cổ vũ tinh thần chống dịch Coivid. Lồng ghép chuyện tình yêu vào việc chống dịch Covid để tạo một kịch bản có mâu thuẫn kịch, phát triển mâu thuẫn và gỡ nút kịch là một thành công của Huyền Quy.

Tuy vậy, việc gỡ nút kịch (tức là hóa giải mâu thuẫn) chưa thật logic. Tình huống ông Thái vồ vập chuyện gả chồng cho Thư ngay khi còn đang ở cổng bệnh viện là tình huống không thuyết phục, khiến Thư phải gạt đi: “Thôi thôi bố ơi! Mình cứ về nhà đi đã! Kén chồng cho con mà bố chọn nhanh như mua bó rau ngoài chợ ấy!”. Việc ông Thái không nhận ra Hùng cũng là “giả”. Tuấn Hùng là người “có đến nhà một vài lần”. Nhưng suốt mấy tuần nằm viện, ông Thái được Hùng chăm sóc, vậy mà ông lại không nhận ra Hùng? Còn Thái, chắc chắn anh biết ông Thái, nhưng sao anh không liên lạc với Thư. Cũng vậy, khi cha nằm viện dài ngày sao Thư không báo cho Hùng biết? Chính tác giả đã bỏ qua những mối quan hệ hiện thực ấy khiến cho việc cởi nút kịch ở cảnh IV trở nên giả tạo. Bởi vì có sự bẽ bàng giữa các nhân vật. Bẽ bàng vì Thư không biết Hùng đã chăm sóc bố mình ở bệnh viện. Ông Thái bẽ bàng vì người yêu của con gái ông, người mà ông phản đối, lại là người chăm sóc ông mà ông không biết. Tình huống kết thúc vở kịch ngỡ là đẹp, nhưng lại biến ông Thái thành một ông già ngớ ngẩn của thế kỷ XXI.

Hành động kịch trong kịch bản Cũng là hạnh phúc còn hạn chế. Kịch bản chỉ có lời thoại, không có hành động. Nếu trên sân khấu, nhân vật chỉ nói, mà không có hành động, thì đó là một vở kịch chết. Tuấn Hùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhưng anh không có hành động chụp ảnh nào trong bệnh viện về đội ngũ y bác sĩ chống dịch. Trái lại, Hùng lại chăm sóc ông Thái suốt mấy tuần. Tác giả kịch bản cũng không dựng cảnh Hùng chăm sóc ông Thái, thành ra những gì mà ông Thái nói tốt về Hùng, khán giả không được nhìn thấy hành động cụ thể của Hùng trên sân khấu. Nội dung kịch trở nên “rỗng”.

Kịch bảnCũng là hạnh phúc” có ngôn ngữ nặng về tuyên truyền chống dịch, dễ tạo ra sự phản cảm. Người xem biết ngay đây là tiểu phầm phong trào, làm nhiệm vụ tuyên truyền, không phải là một cảnh đời thực được nghệ thuất hóa đáng biểu dương.

Xin lưu ý rằng, lời thoại trong kịch bản phải thực hiện nhiều chức năng: chức năng kể chuyện (kịch không có nhân vật trần thuật), chức năng tạo bối cảnh, thời gian, không gian (kịch không có tả cảnh thiên nhiên, tả bối cảnh xã hội); chức năng khắc họa tính cách nhân vật (kịch không có miêu tả ngoại hình, nội tâm nhân vật, tất cả thông qua lời thoại mà khán giả biết anh ta là người thế nào); chức năng tạo phong cách tác phẩm (Hài kịch hay bi kịch, chính kịch hay kịch lich sử…). Ngôn ngữ kịch trong Cũng là hạnh phúc chưa thực hiện được đầy đủ những chức năng này. Thành ra, người đọc kịch bản không thể hình dung ra hình dáng, trang phục, gia cảnh, nhân thân, môi trường xã hội của các nhân vật là thế nào.

Tôi nghĩ kịch bản này cần được chăm chút hơn về phần nghệ thuật, đặc biệt là cấu trúc kịch bản, tình huống, hành động kịch và lời thoại.

***

  3.Truyện ngắn Cô Huệ (tuyển tập Chạy về phía mặt trời. tr.150).

Ở xóm Đào, nhà tôi và nhà cô Huệ ở sát cạnh nhau. Vợ chồng cô Huệ, chú Long không có con. Hai nhà thường có những chuyện xích mích. Chú Long thường để rác chảy dồn xuống nhà tôi hoặc chú Long nhổ bật gốc dậu cúc tần bố tôi trồng làm ranh giữa hai nhà. Xóm Đào nhà nào cũng có vườn cây ăn quả, nhà cô Huệ hay bị bọn nhóc hái trộm. Nghi tôi là thủ phạm, chú Long nhiều lần rình cả đêm. Không bắt được gì, chú quay sang nhà tôi chửi đổng.

Rồi một hôm bếp nhà cô Huệ bị cháy, bố tôi chạy sang cứu giúp. Kể từ đó hai nhà trở nên thân thiết như anh em một nhà.

Tôi lớn lên trong tình yêu thương của hai gia đình. Thiếu điểm vào ĐHSP 1 Hà Nội, Tôi vào Nam học nguyện vọng 2. Cô Huệ tặng Tôi chiếc đồng hồ làm kỷ niệm. Suốt mấy năm đi học xe, mỗi lần Tôi về nhà, cô lại dấm dúi cho Tôi ít tiền. Tôi học năm cuối thì mẹ Tôi đột ngột qua đời vì cảm mạo. Ra trường, Tôi ở lại miền Nam xin việc. Mẹ Tôi mất ít lâu thì chú Long ung thư gan qua đời. Tôi về cùng cô Huệ lo đám tang cho chú. Sau đam tang, mọi người khuyên bố con Tôi đón cô Huệ về ở chung. Bố chỉ im lặng. Cô Huệ cũng nhất mực từ chối. Cô không sang ở cùng chúng Tôi nhưng ngày ngày vẫn sang cơm nước, dọn dẹp cho bố Tôi rồi lại về. Tôi cảm thấy yên tâm phó thác việc trông nom bố Tôi cho cô.

Ngày Tôi lấy chồng, không còn mẹ nhưng Tôi có bố và cô Huệ dắt tay lên bục hôn lễ. Vài năm sau vợ chồng Tôi mua được căn nhà cấp 4 nho nhỏ. Đôi ba năm Tôi lại về quê ăn tết thăm nội ngoại. Chúng Tôi hạnh phúc khi thấy nhà cửa bố Tôi ngăn nắp gọn gàng như khi mẹ còn sống. Bọn trẻ được “bà ngoại” Huệ yêu thương chiều chuộng. Trên bàn thờ tổ tiên, di ảnh mẹ Tôi nhìn chúng Tôi cười âu yếm mãn nguyện.

           ***

Truyện ngắn Cô Huệ, nói cho đúng, là một bài ký. Tác giả thuật lại theo thứ tự thời gian những sự việc, con người liên quan đến nhân vật Tôi, ngoài cha mẹ, còn có cô Huệ, người ở bênh cạnh nhà Tôi.

Gọi là Ký vì tác giả không đặt được vấn đề gì (chủ đề), không xây dựng được hình tượng nhân vật. Cô Huệ chỉ được Tôi nhìn qua dáng vẻ, hành động bên ngoài mà không được khám phá thế giới bên trong. Người đọc không biết cô suy nghĩ, nhận thức, có tình cảm gì biểu hiện qua những hành động, đặc biệt là việc tự nguyện chăm sóc cha Tôi. Nhân vật này cũng không có số phận. Giả như, nếu tác giả muốn nói “số phận” cô là vô sinh, không có con, sinh ra để phục vụ đàn ông (chồng và cha của nhân vật Tôi), thì tác giả cũng phải lý giải do đâu có “số phận” như vậy, và làm thế nào để vượt qua số phận ấy?

Nếu tác giả muốn ca ngợi Cô Huệ, thì “truyện” chỉ là sự biểu dương “người tốt việc tốt”: Cô Huệ cho Tôi đồng hồ khi Tôi vào Nam học Đại học, dấm dúi cho Tôi ít tiền mỗi lần Tôi về thăm nhà, và thay Tôi chăm sóc bố Tôi một cách tự nguyện suốt thời gian Tôi đi học và lấy chồng ở lại miền Nam. Đó là tình làng nghĩa xóm của người ở quê.

            Nhân vật Tôi là người kể chuyện, người chứng kiến sự việc và tham gia vào truyện như một nhân vật chính. Nhân vật này một người hoàn toàn xa lạ với văn hóa truyền thống ở miền quê.

Tôi chỉ nhận và thụ hưởng mọi thành quả của người khác mà không làm gì để thực hiện trách nhiệm đạo lý của mình. Thí dụ, Cô Huệ cho Tôi quà và cho tiền mỗi khi tôi về thăm nhà, nhưng Tôi lại không có quà miền Nam cho cô! (văn hóa Việt ngầm quy định người đi xa về phải có quà cho người thân để bộc lộ tình cảm với người ở nhà). Việc chăm sóc cha mẹ là bổn phận và trách nhiệm của con cái. Tôi được cha mẹ lo cho vào Nam ăn học, tốt nghiệp, rồi lập gia đình, có nhà, có con và ở lại trong Nam, còn việc chăm sóc người cha cô độc ở quê lại giao khoán cho cô Huệ, một người hàng xóm bên cạnh. Không rõ nhân vật Tôi (người con này) ý thức thế nào về đạo lý làm con mà bỏ mặc người cha như vậy? Từ trước đến sau, Tôi chỉ lo cho Tôi, cho hạnh phúc của cá nhân Tôi, ngoài ra, không bận tâm đến ai, kể cả cha mẹ. Đúng là một “điển hình” cho người trẻ thời toàn cầu hóa, sống thực dụng với Chủ nghĩa cá nhân vị kỷ.

Đây là tậm trạng Tôi khi về thăm nhà, lúc đã có chồng con: “Tôi lại ngập chìm trong cảm giác sung sướng, hạnh phúc của ngày thơ bé, khi thấy nhà cửa ngăn nắp gọn gàng như khi mẹ còn sống…Không khí đoàn tụ ấm cúng hạnh phúc vô cùng. Bàn thờ tổ tiên của nhà tôi luôn được chăm sóc kỹ, trong bức di ảnh, mẹ âu yếm nhìn chúng tôi nở nụ cười mãn nguyện”. Người đọc không tìm thấy một chút tình cảm biết ơn nào của Tôi đối với cô Huệ. Không có giờ phút nào Tôi ngồi bên cô Huệ để tâm tình, chia sẻ và cám ơn cô. Ai sắp xếp thu dọn nhà cửa của cha Tôi ngăn nắp? Ai chăm sóc kỹ bàn thờ tổ tiên của gia đình Tôi? Chẳng lẽ cô Huệ là Ôsin? Và sau này, có lẽ khi người cha chết, Tôi cũng sẽ lại giao khoán việc lo hậu sự của cha cho cô Huệ. Thử hỏi, đạo lý truyền thống của người Việt mà con cái phải thực hiện, Tôi để ở đâu?

Nói như thế để thấy rằng Huyền Quy còn cần nhiều thời gian để kiến tạo một truyện ngắn giàu phẩm chất nghệ thuật có giá trị “bảo vệ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc”như yêu cầu của Đảng (Nghị quyết 23 BCT).

Đọc thơ, truyện và kịch bản của Nguyễn Huyền Quy, người đọc có thể nhận ra tác giả này có nhiều tài năng, song ý thức sáng tạo chưa thật rõ nét: “văn nghệ sĩ bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân dân, bảo vệ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc…”; hướng đến mục tiêu: “xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, hay sáng tác văn học chỉ là để thể hiện những tình cảm cá nhân đối với gia đình của mình?

Để viết được một tác phẩm có cốt cách văn chương, Nguyễn Huyền Quy mới chỉ bước những bước khởi đầu của một hành trình còn rất dài ở phía trước.

4.Chân dung văn nghệ sĩ Đồng Nai

Tôi đã đọc được một ít bài bạn viết về chân dung văn nghệ sĩ Đồng Nai [[5]] của Huyền Quy. Thật thú vị! Bởi sự công phu trong cách viết, thú vị về văn phong giàu chất tùy bút, và thú vị hơn ở tầm tri thức về các bộ môn nghệ thuật (âm nhạc, văn chương, nhiếp ảnh, biên kịch…) mà tác giả sở hữu để viết bài. Không phải cây bút trẻ nào cũng có được những năng lực như thế trên trang văn.

            Bài viết tâm huyết về nhạc sĩ Cao Hồng Sơn khá chuyên sâu về Âm nhạc. Bài viết về Vũ Thiên Vũ là một tùy bút mượt mà cảm xúc. Bài viết về Hoàng Tiến Điểm có cái nhìn sâu sắc về giá trị tác phẩm của ông. Bài viết về nhạc sĩ Đoàn Quang Trung lại tìm đến cội nguốn âm nhạc của ông là hát Chầu Văn của ông nội và cây đàn Nhị của cha anh. Bài viết về nhà văn Dương Đức Khánh có tìm hiểu sâu sắc về cuộc đời trôi dạt của tác giả.

            Nội dung thông tin trong bài viết về các văn nghệ sĩ là khá phong phú, khả tín và giúp ích cho việc hiểu tác giả. Ngoài việc thông tin, Huyền Quy còn khẳng định các tài năng nghệ thuật của tỉnh nhà. Ngôn ngữ của Huyền Quy khá trau chuốt, mềm mại, chứa đựng tình cảm quý mến, trân trọng, hiểu biết và tôn vinh. Người đọc vừa thú vị với cái hay cái lạ và giá trị khả tín của bài viết, vừa yêu mến một tài năng trẻ. Kiểu bài chân dung văn nghệ sĩ của Huyền đã trở thành một “giá trị” riêng trong gia tài văn chương của Huyền Quy. Nếu được tập hợp để in thành sách, thì đó là một đóng góp đáng quý của Huyền Quy cho Văn nghệ Đồng Nai. Bởi ở Đồng Nai, viết chân dung văn nghệ sĩ chỉ có một mình nhà thơ Trần Ngọc Tuấn.

9. ĐÀO NGUYÊN THẢO 

Đào Nguyên Thảo sinh năm 1987, xuất hiện từ những năm 2003-2004 trong tập san Dưới mái trường, là hội viênHội VHNT Đồng Nai lúc 18 tuổi. Khi tôi đọc hai tác phẩm của Đào Nguyên Thảo: bài thơ Em trả cho đời sự dịu dàng thẳm sâu (VNĐN số 53 tháng 3 & 4/ 2010, tr.73) và truyện ngắn Hoàng hôn muộn (VNĐN số 58, tháng 1 & 2/ 2011, tr.67), tôi thầm nghĩ tác giả trẻ này có khả năng đi xa trên con đường văn chương.

Nhưng từ đó đến nay (20 năm từ khi xuất hiện), khi tôi viết chuyên luận này, tôi chỉ tìm được thêm vài bài thơ của Đào Nguyên Thảo trên Văn nghệ Đồng Nai. Cũng không có trang web nào đăng bài của tác giả này. Điều này làm tôi đắn đo khi chọn viết về một tác giả trẻ và suy nghĩ về hành trình văn chương của người viết trẻ. Tại sao trong 20 năm, Đào Nguyên Thảo lại viết ít vậy? Phải chăng văn chương không phải là con đường Thảo chọn lựa? Thành ra, suy nghĩ ban đầu của tôi về con đường văn chương của Đào Nguyên Thảo đã không diễn ra trong hiện thực.

Xin đọc.

Hoàng hôn muộn-truyện ngắn

(Nguồn: VNĐN số 58, tháng 1&2/ 2011, tr.67)

Sau kỳ thi cuối khóa, Nguyên được ba mẹ cho một chuyến đi xa. Ba muốn Nguyên đi Thái Lan và mẹ muốn Nguyên đi một vòng đất nước. Nhưng Nguyên quyết định đi Đà lạt. Vì Đà Lạt vô cùng lạ lẫm đối với cô. Suốt 4 năm học Đại học, cô chìm vào thế giới của riêng mình: âm nhạc cổ điển và tiểu thuyết và Nguyên chưa trải qua một mối tình sinh viên nào.

Linh đón Nguyên ở sân bay. Linh là bạn thân ngày xưa. Lên Đại học, Nguyên học ở Sài gòn còn Linh lên Đà Lạt. Linh nói, tối nay sẽ làm lễ “ra mắt” bạn trai của Linh với Nguyên. Nguyên nghĩ, Có lẽ là Huy, người học trên Linh 2 khóa mà Linh thường tâm sự.

Thời tiết Đà Lạt thật tuyệt. Nguyên đi dạo phố và dừng chân ở đồi thông. Một thanh niên đến nhờ Nguyên ngồi làm mẫu cho anh vẽ tranh. Nguyên đồng ý cho anh ta 50 phút. Khi tiếng chuông đồng hồ trên tháp cổ điểm 7 tiếng, Nguyên hốt hoảng chạy về khách sạn vì trễ hẹn với Linh. Cô đã ngồi làm mẫu gần 2 giờ.

Buổi lễ “ra mắt” tối hôm ấy, anh chàng Huy của Linh lại đúng là anh thanh niên họa sĩ Nguyên gặp buổi chiều. Nhưng cả hai làm như không quen biết nhau. Ba người nói chuyện vui vẻ. Linh nói với Nguyên, cô có việc phải đi Nha Trang vài hôm để chuẩn bị cho một dự án mới. Cô nhờ Huy thay cô đưa Nguyên đi chơi vài nơi ở Đalạt. Huy nhận lời. “Chỉ có gió biết rằng, đêm ấy, cả Nguyên và Huy đều không sao ngủ được…đồi thông xanh vẫn cứ rì rào”.

Biết Nguyên sắp về Sài gòn, mấy lần Huy gọi điện cho Nguyên nhưng không được. Chiều nay tan sở, anh lại ra đồi thông. Nguyên đang ở đó. Hai người ôm hôn nhau thắm thiết. Họ biết, họ đã yêu nhau từ phút đầu tiên gặp mặt. Nhưng họ cũng biết họ gặp nhau đã quá muộn. Nguyên ôm mặt khóc. Trở về Sài gòn, đêm đêm Nguyên khóc bên cửa sổ. Tâm hồn cô đã ở lại nơi đồi thông xanh ấy.

Ba năm sau Nguyên trở lại Đà Lạt, nhưng không tìm Linh. Sau một năm ngày Nguyên trở về Sài gòn, Linh và Huy chia tay. Nghĩ mình là kẻ phá vỡ hạnh phúc của bạn, Nguyên giận Huy. Cô cố quên Huy. Linh theo chồng đi định cư ở nước ngoài.

Lần này lên Đà Lạt, Nguyên hướng dẫn một đoàn khách nước ngoài tham quan. Sau khi đi một vài nơi, một vị khách đề nghị đi xem phòng triển lãm tranh. Họ vào phòng tranh “Ráng chiều”. Ở đây Nguyên gặp bức tranh quen kỳ lạ. Bức tranh vẽ cô gái ngồi giữa đồi thông khi chiều buông. Nguyên chợt giật mình nhận ra điệu buồn man mác của Symphony No 7 cứ vang lên da diết. Một bàn tay ấm áp đặt lên vai Nguyên. Là Huy. Huy nói: Anh vẫn tin có một ngày em trở lại nơi này. Vì em biết cả anh và rừng thộng xanh đều nhớ em nhiều lắm.

***

Hoàng hôn muộn là một chuyện tình lãng mạn nên không đặt ra vấn đề xã hội nào. Truyện để lại vài cảm xúc bâng khuâng. Tác giả đã sắp xếp tốt nhất cho Nguyên để không vi phạm đạo đức, hoặc làm tổn thương tình cảm giữa Nguyên và Linh. Nguyên gặp lại Huy, hai người kết nối lại tình yêu. Lần này lương tâm họ thanh thản, bởi Linh đã có gia đình và đi xa.

Đây là một kiểu truyện tình “có hậu”, không phải kiểu truyện “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở” thời văn chương Lãng mạn 1930-1945. Đào Nguyên Thảo có kỹ thuật viết điêu luyên.

***

Mẹ sẽ trở về (truyện ngắn)

(Nguồn: VNĐN số 19 – tháng 5 & 6 năm 2017)

      Mẹ trở về hai tuần sau đám tang của ba. Ngày mẹ trở về, Tôi không khóc. Con Nhi và mẹ vào nhà trước, Tôi xách hành lý vào sau. Tóc mẹ mười phần đã bạc màu hết bảy, tám phần.

Từ khi ba trở bệnh nặng, Dì Lan đã nói với chúng tôi rằng, mẹ sẽ về sống với hai anh em tôi sau khi ba mất. Bị mất vì bị giày vò trong bệnh tật và tuyệt vọng. Tôi không biết mình vui mừng hay đau khổ. Đó là nỗi khổ tâm giằng xé Tôi khi ấy. Nhưng từ nay Tôi không còn phải nghe những lời ca thán, nhiếc móc của ba. …

Từ khi mẹ về,  chúng tôi phải “ép mình” vào kỷ luật mà mẹ đặt ra. Chẳng hạn, dù mẹ không nói, chúng tôi đều tự biết không được ăn tối ở ngoài và đi chơi về muộn quá hai lần mỗi tuần…

Cuộc sống của anh em tôi thay đổi. Đồng nghiệp khen Tôi đi làm đúng giờ. Người yêu Tôi không còn ca thán vì tôi lười cạo râu. Con Nhi dạo này hồng hào, trắng trẻo, béo lên rõ rệt. Bầu không khí gia đình bình yên đến kỳ lạ. Mẹ lặng lẽ làm những gì cần thiết và căn dặn vừa đủ. Mẹ dặn gì chúng tôi làm theo đó, không thắc mắc, không tranh luận. Có hôm 12 giờ đêm, mẹ vẫn còn làm việc. Mẹ bảo Tôi dẫn người yêu đến nhà chơi.

 Buổi tối thứ Bảy, Tôi gọi người yêu sang thăm mẹ. Gia đình Tôi rộn tiếng nói cười trong bữa cơm tối. Người yêu Tôi vui vẻ, hoạt ngôn và rất tinh ý. Mẹ bảo:- Bạn gái con xinh quá, lại ngoan và dễ gần. Con chọn khéo lắm, sau này chắc con bé sẽ là người vợ tốt. Tôi nói: –Tốt hay không, chắc phải để đến lúc con phá sản mới biết được mẹ ạ. Ngay lúc ấy, Chiếc cốc trên tay mẹ rơi xuống, vỡ tan. Mẹ không nói gì, lẳng lặng cúi xuống thu dọn những mảnh vỡ. Tôi bỏ vào phòng, tự nguyền rủa mình. Tôi đã nói gì vậy? Cái gì đã xui khiến tôi thốt ra câu nói ấy?

  Sáng hôm sau, Tôi dậy muộn. Con Nhi nói: –Mẹ đi đâu đó rồi. Lồng ngực Tôi đau buốt. Có lẽ nào, mẹ lại một lần nữa bỏ Tôi mà đi không? Suốt ngày hôm ấy chúng tôi tìm kiếm mẹ. Đến Bảy giờ kém mười lăm tối. Mẹ mới về. Mẹ nói: – Đêm qua cô Thủy bạn mẹ bị tai nạn phải cấp cứu, mẹ phải qua đó gấp, quên không nhắn lại cho hai đứa. Con Nhi nhào tới ôm chặt lấy mẹ, khóc nức nở. Tôi đứng chôn chân ở đó, hai giọt nước vừa trào ra nóng hổi từ trong khóe mắt.

Sau này, dì Lan kể: ngày ấy mẹ bỏ đi vì không thể nào chịu nhục được. Ba kinh doanh thua lỗ. Ông đâm ra rượu chè và đánh chửi mẹ mỗi khi anh em tôi đi học. Mẹ lăn lưng ra làm thêm đủ việc để phụ ba. Ngày cuối tuần, mẹ tranh thủ giúp việc nhà cho người bạn học cũ, ba nói mẹ kiếm cớ cặp bồ với người ta. Mẹ nhẫn nhịn chịu đựng ngày qua ngày, cho đến khi ba nói con Nhi không phải là con ba. Mẹ quyết định ra đi. Năm con Nhi chuẩn bị vào đại học, mẹ bị khối u trong dạ dày phải ra Tây Bắc chữa trị bằng thuốc lá của người dân tộc. Suốt mấy năm liền, mẹ bắt dì phải giữ bí mật, không được nói với anh em tôi.

Con Nhi nghe Dì Lan kể, nó khóc mãi. Còn Tôi, ngày mẹ “biến mất”, Tôi đã nhận ra: Tôi chỉ cần có mẹ mà thôi.

***

Mẹ sẽ trở về là một truyện cảm động về tình mẫu tử của con và về một người vợ, một người mẹ đầy nghị lực, có lòng tự trọng. Nhân vật Tôi vừa kể vừa tự phân tích tâm lý tạo nên sự hấp dẫn. Tác giả khéo tay đan cài chuyện quá khứ và chuyện hiện tại tạo một mạch truyện chặt chẽ, đủ sức thuyết phục người đọc về vẻ đẹp của nhân vật “mẹ Tôi”. Nghệ thuật viết truyện chắc tay.

Dầu vậy, đây là một truyện hư cấu lãng mạn. Nội dung truyện không đặt ra vấn đề gì đối với hiện thực. Người đọc không rõ bối cảnh xã hội và nhân thân của các nhân vật. Sự việc xảy ra ở đâu, thời gian nào? Nhân vật Tôi bao nhiêu tuổi, đang làm việc ở công ty nào. Khi những bất ổn gia đình xảy ra thì Tôi và Nhi đã phản ứng thế nào? Tại sao khi người chồng đã nghi ngờ, mà người vợ lại không ngưng giúp việc ở nhà người bạn? Tại sao người vợ không có hành động nào chứng minh Nhi là con của chồng mà bỏ đi và dẫn Nhi đi theo? Khi dắt Nhi theo, người mẹ đã làm gì để Nhi ăn học Đại học, trong khi người vợ không đủ tiền chạy thuốc tây phải lên Tây Bắc dùng thuốc lá của người dân tộc? Chờ chồng chết hai tuần rồi người vợ mới trở về, phải chăng người vợ hoàn toàn đoạn tình đoạn nghĩa, mà lẽ ra, “nghĩa tử là nghĩa tận” người vợ nên về lo hậu sự cho chồng? Tại sao tác giả không giải nỗi oan cho người vợ trước khi người chồng chết…

Nói những điều như thế chỉ là để chỉ ra Mẹ sẽ trở về là một truyện lãng mạn. Tác giả đã bỏ qua những yêu cầu của bút pháp hiện thực mà tập trung miêu tả tâm trạng của nhân vật Tôi. Chẳng hạn: “lúc này, khi mẹ đã thực sự hiện hữu ở ngay trước mặt, tôi lại thấy lòng mình như tảng băng nằm im lìm trên mặt hồ giữa mùa đông lạnh giá”. Khi nghe Nhi báo mẹ đi đâu đó, “Một cơn đau buốt khẽ nhói lên trong lồng ngực tôi”. Đọc tin nhắn của Nhi: “Em gọi cho mẹ mà máy không liên lạc được. Làm sao giờ anh?” Tim tôi nghẹn lại”.

Miêu tả tâm trạng nhân vật là đặc trưng của văn chương trữ tình. Chọn lựa bút pháp Hiện thực hay Lãng mạn là quyền của tác giả. Và tất nhiên, đọc một truyện Lãng mạn, người đọc không thể đòi hỏi những giá trị hiện thực. Tôi nói, Nội dung truyện không đặt ra vấn đề gì đối với hiện thực là vì vậy.

Mẹ sẽ trở về để lại nỗi niềm bâng khuâng về tình mẫu tử trong thời đại hôm nay khi gia đình tan rã.

***

Thơ Đào Nguyên Thảo.

Tôi đã đọc các bài thơ: Em trả cho đời sự dịu dàng thẳm sâu, Chúng ta rồi sẽ ổn thôi, Thơ yêu xưa, Lạc, Trò chuyện với thanh xuân; Em, và muộn sầu giấu kín, Đến cuối con đường của Đào Nguyên Thảo.Vì đọc quá ít tác phẩm, tôi không hy vọng có thể nhận dạng được khuôn mặt văn chương của tác giả trẻ này.

            Thơ Đào Nguyên Thảochất chứamột nỗi buồn sâu thẳm về một tình yêu không còn nữa. Nỗi buồn thương ấy trộn với những suy tư về sự vô thường của cuộc đời, tạo nên tâm trạng ảm đạm, hoang vu trước thực tại. Nhưng người thơ chấp nhận thực tại không hy vọng.

Thơ Đào Nguyên Thảo nằm trong thi pháp Thơ Lãng mạn 1930-1945. Không có bóng dáng cuộc sống hiện thực. Nhân vật trữ tình là chủ thể bài thơ (cũng là tác giả). Những bài thơ tự do có sắc thái riêng. Nỗi buồn làm cho tâm tưởng chìm đắm. Nhưng người thơ ý thức sâu sắc về nỗi buồn của mình. Thơ là lời tự tình, là lời độc thoại, đối thoại với anh, vừa tự an ủi mình về những đớn đau, vừa cố thoát ra khỏi trạng thái bi thương. Người thơ ôm lấy trái tim cô đơn và “Em biết trải lòng mình vào đêm/ những sớm ngày cô quạnh

Em khẽ liếc nhìn tôi ngúng nguẩy

            Rồi quay lưng, bỏ lại nơi này

           …Giá như em sẽ cùng tôi ở lại      

            Giữa sân trường bé dại tuổi hai mươi

            Cho trong hơn màu nắng cuối chân trời

            Cho yêu dấu không rời xa mười bảy.

                        (Thuở yêu xưa)

            Mưa lạc mùa…ta lạc nhau sao em?

            Hiên nhà cũ nhìn mây trời ảm đạm

            …Ta vẫn xa chẳng bao giờ đến được

            Sẻ lạc hiên nhà hay em đi qua tôi

            Thôi ngồi lại bên đời nhặt mưa nắng đầy vơi

            Gói ghém cơn đau bằng xa vời kỷ niệm…

                        (Lạc)

            Tôi chỉ xin một giọt tình bé mọn

            Xóa một lần trọn vẹn nỗi cô đơn

            …Là có lúc, dẫu buồn nhưng không khóc

            Và tự nhủ lòng: “Cuộc đời này, tất cả chúng ta rồi cũng sẽ ổn thôi!”.

                        (chúng ta rồi sẽ ổn thôi)

            Em trả cho đời kiệt cùng nước mắt

            Để tinh khôi về lại sớm mai này

            …Em sẽ trả cho đời những kỷ niệm về anh

            Dù ít ỏi, nhỏ nhoi, dù vô thường, bé bỏng

            Em sẽ ước cho tim mình rất rộng

            Để yêu thương còn đọng mãi trong lòng

                        (Em trả cho đời sự dịu dàng thẳm sâu)

            Và đây là bài thơ tiêu biểu cho giọng thơ tự tình, kiểu tư duy tự lắng nghe-tự nhận thức, cá tính sáng tạo (thơ tình buồn một mình) của Đào Nguyên Thảo:

Em, và muộn sầu giấu kín
Khi cơn mưa sắp trút xuống ngoài kia
Khe khẽ lắng nghe
Những thanh âm xạc xào của lá
Em, đừng khóc nhé
Hãy để cho mưa cuốn hết những muộn phiền
 
Em, và ánh mắt rất hiền
Chỉ dành để nhìn một người duy nhất
để dành cho chính em
Khi nắng chiều sắp tắt
Một mình trên phố xá đông vui
Chợt thấy hoang mang như chưa từng hơn hai mươi năm sống ở trên đời
Và mặt nạ huênh hoang gỡ bỏ
Thôi giỏi giang, bất cần hay ghê gớm
Em lặng thấy mình bé nhỏ biết bao nhiêu
 
Em, và tình yêu
Chưa bao giờ dám tin rằng có thật
Hạnh phúc người khác đánh rơi
Và em nhặt
Ấp ủ trong hình hài ủ dột thơ ngây
Ru mình trong những cơn say
Vẫn không biết, sẽ khi nào tỉnh giấc?
 
Em, và những điều đã mất
Không cuống cuồng tìm lại để yêu thương
em nhận ra giữa cuộc sống vô thường
Phải đánh mất
Để rồi có được
Nên em sẽ đi ngược chiều gió thổi
Đi ngược chiều gió thổi để yêu anh.
 
Phải, chính em
Cô bé con với muộn sầu giấu kín

            (Em và muộn sầu giầu kín)

            (Nguồn: VNĐN số 34– tháng 11 & 12 năm 2019)

            Có thể nhận thấy, Đào Nguyên Thảo có khuynh hướng viết truyện và thơ tình yêu lãng mạn. Và chất liệu làm nên tác phẩm có lẽ là chính những trải nghiệm của tác giả. Đào Nguyên Thảo có những bài thơ mang hơi thở của nghệ thuật hiện đại. Chẳng hạn bài Em và muộn sầu giầu kín. Cái Tôi tự khẳng định mạnh mẽ:

“Nên em sẽ đi ngược chiều gió thổi
Đi ngược chiều gió thổi để yêu anh.
 
Phải, chính em
Cô bé con với muộn sầu giấu kín”

Cái Tôi có ý thức rất sâu sắc về mình: em biết trải lòng mình, em biết giữ mình, em biết thật khó để tìm thấy một người có thể nắm chặt tay và cùng nhau đi đến hết con đường phía trước, em biết sẽ đau nếu không còn anh bên cạnh,..

Em biết em chỉ là một cô gái bình thường

Với những lo toan giận hờn bé nhỏ

Nhưng em sẽ luôn giữ trái tim mình mở ngỏ

Để đón mọi nhọc nhằn, đau khổ vì anh

            (Đến cuối con đường)

            Nguồn: VNĐN số 67. Tháng 7,8 năm 2012

            Nếu Đào Nguyên Thảo chú tâm vào sáng tác, tác giả này sẽ gặt hái được nhiều thành công. Bởi tôi đã thấy thấp thoáng một cốt cách văn chương đẹp.

10.NGUYỄN HẢI YẾN

            Trong “viết ngắn” “Chạy về phía mặt trời”, nhân vật Tôi nhìn thấy một em bé 4 tuổi đang sợ hãi. Em bé nhờ Tôi dẫn về nhà vì phía trước có con chó to. Tôi giúp em. Khi đã vượt qua chỗ con chó, em vụt chạy về nhà mình, không nhìn lại. Chiều xuống, mặt trời rực rỡ ngay nóc nhà em. Cô bé chạy về phía mặt trời.

            Bài viết tập trung miêu tả cảm giác và suy nghĩ của Tôi về em bé và về Tôi khi giúp em bé vượt qua chỗ một con chó to. Kiểu “văn chương làm dáng”, chữ đẹp nhưng rỗng.

11.LÝ THĂNG LONG

Lý Thăng Long sinh năm 2000, là Hội viên Hội VHNT Đồng Nai, hiện là sinh

viên năm cuối ĐHSP Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.

            Xin đọc:

Cái tết no nê của thằng Tý (truyện ngắn)

Tí Sún (tên của Quốc Anh) về quê ăn tết. Nó được ông nội “dạy dỗ” nghiêm khắc. Đặc biệt là lúc cả nhà ăn tiệc ngày mùng 2 tết. Mọi người lo nhậu, nó chỉ lo ăn. Nó bị ông nội (Cụ Phán) thúc hạ sườn trái Hai nhát bằng đôi dép gỗ mít sồi và đuổi cổ. Nó cảm thấy nhục nhã ê chề, buông đũa, ôm bát đứng phắt dậy. Từ đó nó tìm cách lánh mặt ông nó. Lúc về Nam đi học, Nó bâng quơ nhìn ra chân trời xa vợi nhớ về thái độ và hành vi xa lánh ông mình “Con sai rồi… Con có lỗi với nội… nội ơi!”. Lý Thăng Long dùng ngôn ngữ “chợ” nên tác phẩm thiếu tính văn chương. Cách kể liên hệ nhiều ngõ ngách, nhiều nhân vật tạp, khiến cho truyện trở nên hết sức rắc rối. Nếu truyện dành cho tiếu nhi thì trẻ con không đọc nổi. Còn nếu viết cho người lớn, tác giả không đặt được vấn đề xã hội nào.

            Con đường hôm qua (truyện ngắn)

            Nguyễn Hoàng Vân là cậu học trò cao to ở lớp 7/4. Học lực xếp thứ hai từ dưới lên nhưng Vân giỏi ở cái khoản đấm đá. Vân có cảm tình với Đào Thanh Phương, cùng lớp. Nó muốn có một cái hẹn đúng nghĩa với nhỏ Phương. Để tăng “sĩ khí”, nó rủ thêm thằng “Khánh tăm tre” bạn cùng xóm đi gặp Phương. Khánh hơn nó 2 tuổi. Trong quán trà sữa, Vân câm như hến. Nhỏ Phương và Khánh nói chuyện “huyên thuyên bát quái như hai nòng pháo dội vào đôi lỗ nhĩ liên tù tì không ngớt” của Vân. Những ngày sau, thằng Khánh hẹn được nhỏ Phương đi uống trà sữa dễ như ăn bánh. Vân bị thằng Khánh hẫng tay trên. Nó đem lòng oán thù thằng Khánh suốt đời. Rồi xảy ra một cuộc ẩu đả giữa hai thằng để giành người yêu. Bên đường đột nhiên có một đôi nam nữ dừng lại. Nghe tiếng đưa con gái nói, hai thằng nhận ra là tiếng nói của Phương. Hóa ra Phương đang tay trong tay với một thằng “mất dạy” khác. Khánh hỏi Vân: “Tất cả đàn bà con gái đều như vậy sao Vân cu?” Vân nói: “ít nhất là mẹ tao không như thế”. Vân xin lỗi. Hai đứa vẫn giữ tình bạn với nhau.

                        ***

            Tôi không rõ tác giả viết truyện này hướng về đối tượng độc giả nào? Và nhằm đạt mục đích gì? Nếu là đối tượng học sinh cấp 2, thì truyện là một gương xấu. Mới là học sinh lớp 7 mà Vân và Khánh đã biết tán gái, biết hẹn đi trà sữa rồi đánh nhau giành gái. Mới lớp 7 mà Phương đã cặp với hết thằng “mất dạy” này với thằng “mất dạy” khác? Còn nếu là đối tượng người lớn, sẽ chẳng ai học bài học tình ái, quan hệ lừa lọc như thề này của bọn nhóc.

Cho nên, mục đích viết (mục đích phát ngôn) chi phối giá trị mọi mối quan hệ giao tiếp (tác giả-tác phẩm-người đọc).

            Em là mùa hạ trong tôi (truyện ngắn)

            Nhân vật Tôi (An) kể lại “chuyện tình” của mình với Ái Vy, “nhỏ ngồi bên cạnh Tôi” trong lớp. Ái Vy có nước da trắng ngần, mái tóc nhuộm vàng tự nhiên như “Kim mao sư vương”. Nhỏ không có cha. Nhà chỉ có hai mẹ con. Nhà nhỏ Vy nằm trong một con hẻm nhỏ, nhà kiểu Pháp. Trước nhà có trồng  một cây hoa bằng lăng. Có thể Vy từ một trường chuyên chuyển về. Trong lớp, nhỏ thành lập một “băng đảng” riêng dành để áp đảo lũ con trai mỗi khi bọn chúng tôi chọc ghẹo. Nhỏ chưa từng để ý đến tôi. Có lần Tôi xin Vy một cơ hội. Vy nói: –không thích bạn trai cùng tuổi.

Nhỏ có một tình yêu nhưng dường như tình yêu ấy bị đặt sai chỗ và sai cả người. Hôm ấy, lúc 20:35, bên bờ sông, ánh trăng lấp loáng. Ái Vy bị một gã tên Anh Tuấn bắt phải đền tội và đòi Vy phải trả lại tất cả. “Hắn tát Ái Vy ngã lăn xuống nền cỏ. Hắn toan xé hết nửa tấm áo trắng mỏng trước ngực Vy”. Tôi xông vào, cho hắn một cú đá vào sườn. Hắn văng ra xa mấy mét. Tôi lấy áo khoác mình đắp cho Vy. Nhưng hắn to khỏe như một con trâu đất, xông đến và mặc sức đấm đá Tôi. Tôi ngất đi, tỉnh lại mấy lần trên cơ thể Vy bất động.

Tôi được thằng Hóa đem về nhà nó cứu chữa. Hóa kể, mẹ Vy dẫn Vy đến chia tay lớp. Chiếc xe Lexus RX 300 đã mang Vy đi. Đã hơn 10 năm kể từ ngày ấy, Tôi đã trở thành một họa sĩ trẻ lừng danh. Các tác phẩm đoạt giải của Tôi đều nghiêng về một người con gái với loài hoa màu tím. Thằng Hóa nói: lúc này Vy làm quản lý cho The Garlik Restaurant-Đề Thám. Tôi hỏi :-Vy nào nhỉ. Nó bảo: –Mày say rồi…Thôi, rót đi.

***

Chuyện tình của An là một chuyện tình không đầu không đuôi. Bởi Vy chưa bao giờ để ý đến An. An mới chỉ theo đuổi Vy mà chưa có biểu hiện nào về tình yêu. Khi Hóa nói Vy đang làm quản lý cho The Garlik Restaurant thì An hỏi Vy nào nhỉ. Vy không tồn tại trong An như một người yêu theo mãi đến suốt đời.

Môtip truyện của Lý Thăng Long là kể một chuyện tình tay ba, tay tư, có thêm chút bạo lực. Tác giả bỏ qua tất cả các yếu tố hiện thực của câu truyện. Người đọc không rõ Ái Vy là người như thế nào, một cô gái con nhà lành hay một gái chơi để bị Anh Tuấn bắt đền tội và đòi lại tất cả? Lúc An bị đánh bất tỉnh và Vy cũng bất tỉnh thì Hóa đưa An vể, còn số phận của Vy thế nào thì không rõ. Sau khi mẹ Ái Vy dẫn cô đến chia tay lớp thì chiếc xe Lexus RX 300  đưa Ái Vy đi đâu cũng không biết. Chỉ đến cuối truyện, sau 10 năm, Hóa mới cho biết Vy làm ở The Garlik.

Cách kể truyện, cách dẫn truyện của Lý Thăng Long hết sức rắc rối. Lời văn ít chất văn chương. Tôi tự hỏi, kể loại truyện tình này, Lý Thăng Long đem đến cho người đọc những giá trị gì về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật?

***

Đọc 3 truyện ngắn của Lý Thăng Long, tôi nghĩ, nếu anh không thay đổi đề tài, nội dung, cách viết, mà chỉ cà kê với những truyện tình nửa học trò, nửa xã hội đen, không nội dung, không chủ đề, thì dù anh có viết bao nhiêu “tác phẩm” cũng không đem đến cho người đọc giá trị gì.

12.NGÔ GIA HÂN

              Tiệm sách cũ (Truyện ngắn). Hoài hay đến tiệm sách cũ của chị Xuyến để đọc và mua sách. Một lần Hoài thấy một cuốn sách cũ có lời của bà tặng cho cháu. Hoài tự hỏi sao cuốn sách tặng này lại ở đây. Hoài mua cuốn sách và gửi lại cho người được tặng qua đường bưu điện. Vì ít khách, chị Xuyến không còn bán sách cũ. Căn nhà cũ kỹ còn đó nhưng không còn sách. Hoài và Hưng là bạn thân, Hoài phát hiện ra cuốn sách mà Hoài đã gửi cho người nhận trong học bàn củ Hưng. Hưng nói đúng là cuốn sách bà ngoại tặng hưng bị thật lạc, nhưng có ai đó đã gửi lại cho Hưng. Hứa hứa sẽ hậu tạ người gửi tặng lại. Mỗi khi nhớ lại tiệm sách cũ, Hoài thấy lòng bình yên.

            Có lẽ truyện chỉ là một kỷ niệm tình cờ của tác giả thời Phổ thông. Văn chương còn thơm mùi học trò. Nhân vật Hoài và Hưng cùng học trường chuyên. Tác giả cũng học trường chuyên Lương Thế Vinh.

13.NGUYỄN VÕ MỸ DUYÊN

            Xin đọc:

1.Nhành hoa ngũ sắc (Truyện ngắn):

Hè năm ngoái, Tôi về thăm ngoại và cậu mơ. Tôi gặp nhỏ ở chỗ cái miếu hoang lúc cả hai cùng trú mưa. Khi về nhà mới biết nhỏ là con của mợ. Cậu mợ gọi nhỏ là Nhỏ. Nhỏ người ốm nhom, gầy còm, rám nắng, tóc ngắn giống con trai. Nhỏ là thủ lãnh của bọn nhóc trong xóm, thường “chiến đấu” với bọn “địch” là lũ nhóc xóm bên. Đi chơi với Nhỏ có nhiều điều thú vị. Hôm ấy Tôi chứng kiến màn “đấu sình”(ném bùn đất) nảy lửa của lũ trẻ hai xóm. Cả hai nhóm ném những cục sình vào nhau. Sau cuộc chiến bọn trẻ xuống suối tắm cho sạch sình bám vào người. Tôi thấy trên vách đá có một nhánh hoa lạ chìa ra. Nhỏ Cúc nói đó là hoa ngũ sắc. Tôi bảo Nhỏ lấy nhánh hoa ấy cho Tôi. Nhỏ không nói gì, Tôi giận Nhỏ bỏ về. Tới chiều, rồi tối, không thấy Nhỏ về. Tôi đến chỗ miếu hoang tìm, không có Nhỏ. Cả nhà cũng đi tìm. Ba, cậu mợ và chú Tư tìm thấy Nhỏ bên bờ suối. “Nhỏ nằm lịm trong đêm mưa, khuôn mặt trắng bệch, tay chân trầy trụa rướm máu và trong tay còn nắm chặt một nhành hoa ngũ sắc”. Hai năm rồi, Tôi lại về quê thăm ngoại và cậu mợ. Tôi thắp một nén nhang cho Nhỏ mà lòng đau khôn tả.

***

            Truyện kể những trò chơi trẻ con, có hư cấu một chút cái chết của Nhỏ. Tôi gọi là hư cấu vì một đứa trẻ lanh lợi như Nhỏ sẽ có cách lấy được nhánh hoa ngũ sắc, không dễ gì lại dại dột leo vách đá để rớt xuống suối chết. Với lại, quan hệ của Tôi và Nhỏ là quan hệ ruột thịt  chỉ mới bắt đầu, không phải là tình yêu để Nhỏ có thể “hy sinh” cho người yêu như thế. Một truyện lãng mạn (trẻ con) không đặt ra bất cứ vấn đề xã hội nào.

***

            2. Mảnh hồn làng (viết ngắn) kể chuyện Nó (Linh Lan) và ông nội sống ở quê được bố đón lên thành phố. Ông nội có di nguyện khi ông chết thì cha Nó đưa ông về quê. Nhưng rồi khi ông qua đời, mộ ông lại nằm trong nghĩa trang thành phố. Nó và thằng Mạnh, cứ điều độ, mỗi buổi trưa hè hai đứa đèo nhau qua khu nghĩa trang trồng cây nơi mộ ông nội, rồi lại đèo nhau về nhà. Một lần má Nó đi tìm và bắt được Nó trong nghĩa trang. Má Nó nhổ hết cây Nó đã trồng rồi lôi nó về, tát Nó một bạt tai. Nó bỏ đi. Buổi chiều, ba má Nó nhờ thằng Mạnh dẫn đi tìm. Gặp ba má, Nó nói hết mọi điều: Ba không thực hiện di nguyện của ông, má không thương ông. Ba má nó xin lỗi. Nó bảo ba má xin lỗi ông. Nó lại đem đặt trên mộ ông nội nhiều chậu cây xanh. Nó nói với nội: “con tin rồi sẽ có một ngày nội sẽ lại nghe hương cây cỏ phả vào làn gió thị thành, tưới mát cả khu nghĩa trang này…Nội tin con, nội nghe

            Truyện chạm được vào một vài vấn đề của hiện thực: Người già thích sống ở quê. Trong giáo dục trẻ, cha mẹ phải tôn trọng lới hứa và làm gương trước mặt con trẻ.

Tuy đặt những vấn đề hiện thực, ngòi bút Nguyễn Võ Mỹ Duy vẫn viết một truyện lãng mạn. Tác giả không miêu tả bối cảnh gia đình, xã hội của câu chuyện. Người đọc không rõ Nó và Mạnh là những đứa trẻ mấy tuổi mà vừa rất ngây thơ lại rất khôn ngoan? Ngây thơ đem cây trồng trong nghĩa trang, và khôn ngoan bắt lỗi cha mẹ tội bất hiếu với ông nội. Lãng mạn hơn khi Nó mơ ước một ngày nào đó cây xanh sẽ rợp bóng che mát phần mộ của ông nội và mọi người trong nghĩa trang. Thành ra, thay vì hướng vào việc giáo dục trẻ thì ngược lại, tác giả để trẻ giáo dục người lớn!

14.TRỊNH KHÁNH LINH

            Xin đọc:

            1.Cha và con (truyện ngắn)

               Trà từng là một cô gái đáng yêu, lớn lên giữa vùng đồng ruộng bình lặng. Tên Trà là do người mẹ đặt, bà mong con giống hoa trà, trong trắng, ngào ngạt hương. Ông Đại, cha của Trà thường đối xử lạnh nhạt với Trà, vì Trà là con gái. Ông cho rằng, con gái thì chẳng bao giờ làm nổi chuyện lớn. Năm Trà 18 tuổi, bà Đào (mẹ Trà ) mất. Trà khóc 3 ngày. Ông Đại trở nên nát rượu và hay mắng Trà. Trà bỏ đi.

    Ông Đại bỏ rượu và đi tìm con. Ông lên thành phố, nhưng tìm đâu bây giờ?

Ông đi một tuần rồi về. Cứ tầm 5 tháng một bận, ông lại đi tìm con một tuần, suốt 4 năm trời như vậy.

    Rồi Trà về. Đầu nó cạo nham nhở, quần áo ngắn cũn cỡn, tả tơi. Đến đầu xóm,

nó gục xuống. Ông Đại xốc vai con đưa về nhà. Nghe đâu con Trà lên thành phố bị lừa vào chốn bùn nhơ, sau bị vợ một ông khách đánh ghen, may trốn được trở về.

    Cha con lại hòa thuận, Con Trà lại hiền thục như xưa. Càng lớn Trà càng giống

mẹ. Đôi mắt Trà lúc nào cũng ôm sầu muộn.

            ***

                Truyện kể mạch lạc. Nhân vật có cá tính và được miêu tả trong cộng đồng xã hội. Câu văn chuẩn mực và chặt chẽ về nghĩa. Giọng văn giàu tình người. Truyện để lại suy nghĩ sâu sắc về thái độ của cha mẹ với con cái và bài học cho người trẻ nông nổi.

            2.Hoàng hôn vắng một người (truyện ngắn)

            Linh là một cô gái hoài cổ. Mỗi lần nhìn vào đồ vật cổ, Linh lại nhớ những kỷ niệm.

            Học xong cấp ba, Linh về thành phố kiếm sống. Tôi cũng về thành phố học Đại học. Linh kể, tình cờ Linh xin được việc làm ở quán cà phê Mơ, một quán có phong cách cổ kính. Chiểu thứ Sáu nào tôi cũng có mặt ở Mơ với một ly ca cao nóng và vài quyển sách. Tôi nghĩ kịch bản sẽ đúng hơn nếu bên tôi là ly cà phê đen đá. Tôi sẽ trở thành người đàn ông chững chạc nhâm nhi vị đắng nơi đầu lưỡi, mắt nhìn xa xăm, ra vẻ suy nghĩ về tương lai và cuộc đời….Thật ra tôi cũng muốn lắm chứ. Tính ra thì Tôi và Linh cũng đã “duyên” ngót nghét 5 năm nhưng em không nhì ra tâm tư rối rắm của Tôi.

Linh là một cô gái sôi nổi, nhưng những khoảnh khắc yên lặng, Linh trở về với vẻ đẹp dịu dàng của một tâm hồn 19 ôm đầy hoài niệm. Với vai trò là “Thằng bạn thân chí cốt” của Linh, Tôi đã thành công trong việc tự làm hại chính con tim mình. Giá như ngày đó tôi đủ dũng cảm để thật lòng với em, có lẽ mọi chuyện đã khác.

Linh đã ra đi vì tai nạn xe. Chiều thứ Sáu, em đi lấy hàng cho quán. Trời mưa tầm tã, xe em tông thẳng vào xe tải ngược chiều. Sau khi em đi, Tôi mới biết mắt em có vấn đề. Tôi nghĩ Tôi sẽ thay em sống tiếp một cuộc đời. Giá như tôi từng nói ra lời tỏ tình chính thức với em, có khi em đã không bỏ tôi mà đi như thế. “Này những kẻ đơn phương ngoài kia, nếu có thể hãy để lòng mình một lần được trải. Biết đâu được, phía sau câu nói chân thành đơn giản ấy lại là một con đường có hai người cùng nắm tay nhau bước đi”.

*** 

Một truyện tình đồng tính nữ (lesbian) được kể rất tinh tế, trong sáng và đầy mối thương cảm. Trịnh Thị Khánh Linh có năng lực phân tích tâm lý sâu sắc. Đúng là văn chương có thể chữa lành những vết thương tâm trong đáy tim.

            3.Những cánh diều cô đơn (truyện ngắn)

            Lan khi nhìn những cánh diều trên bầu trời, tâm trạng trống rỗng với những hồi ức. Trước kia nhà nó khá giả. Cha đi làm trên tỉnh, má ở nhà trông coi việc bếp núc. Mỗi lần cha về thăm nhà đều cho nó quà. Hàng năm, cứ đến mùa diều, cha nó lại làm cho nó con diều mới đẹp hơn năm trước, và dẫn nó ra cánh đồng rộng mênh mông thả diều. Nó thả diều giỏi nhất xóm.

Thế rồi một chiều kia, gia đình nó tan vỡ. Cha nó bỏ mẹ con nó mà đi không trở lại. Mẹ nó trở thành bà điên. Sau khi bà ngoại đổ bệnh qua đời, nó phải bỏ học đi làm nuôi thân và nuôi mẹ. Người ta thôi bàn tán về gia đình nó và thương cho một đứa trẻ đã bị sóng cuộc đời thúc ép phải trưởng thành quá sớm.

Lan đưa mắt nhìn lên trên. Bầu trời giờ đây chỉ còn những cánh diều vô định, ngả nghiêng không định hướng. Những cánh diều cô đơn.

***

Truyện ghi lại một hiện tượng xã hội: khi gia đình tan vỡ thì những đứa con sẽ lâm vào thảm cảnh. Chúng bị  thất học, phải lam lũ kiếm sống và hằn trong tim một vết thương không thể hàn gắn.

Tác giả không lý giải tại sao cha của Lan bỗng nhiên bắt mẹ Lan ký đơn ly dị và bỏ đi không một lời. Và Lan hoàn toàn sống cô độc không thân thích. Làng xóm chỉ dị nghị mà không ai giúp đỡ Lan.

Và người đọc biết chia sẻ với Lan điều gì? Câu văn kết truyện cũng chỉ là một lời cảm thông và bất lực trước tương lai của Lan: “Lan đưa mắt nhìn lên trên. Bầu trời giờ đây chỉ còn những cánh diều vô định, ngả nghiêng không định hướng. Những cánh diều cô đơn”.

15.ĐÀM MINH KHÔI

Đàm Minh Khôi sinh năm 1997, đang công tác tại Bảo tàng tỉnh Đồng Nai.

Cây viết này xuất hiện với những bài viết có chất ký, chủ yếu là ghi chép những gì nhìn thấy, chưa có yếu tố sáng tạo.

Xin đọc:

Biên Hòa trong tôi là một Tùy bút (Tạp chí VN ĐN số 49 – tháng​ 3/2022) ghi được vài kỷ niệm của tác giả lúc nhỏ sống ở Biên Hòa. Bài viết chưa chạm đến Biên Hòa ở chiều sâu lịch sử, văn hóa, và những vận động của thời kỳ công nghiệp hóa hôm nay. Hình như tác giả chưa học được gì về nghệ thuật viết Tùy bút của Nguyễn Tuân, của Anh Đức, nghệ thuật viết Ký của Hoàng Ngọc Điệp. Thế nên, trang văn rất nhạt.

Tản mạn về chuyến đi Tây Bắc (ghi chép) ghi nhận đôi điều dưới cái nhìn của một khách tham quan du lịch bình thường: Sapa, Thủy điện Hòa Bình, cây đào Tô Hiệu, khu di tích trung đoàn 52 Tây Tiến, những đứa trẻ ở Sapa và Mộc Châu… Tác giả không có những khám phá riêng, những nghĩ suy riêng để làm nên giá trị độc đáo cho bài viết.

Một ngày mới (truyện ngắn) kể lại việc nhân vật Nó theo chân Đăng đi phục vụ trong một sự kiện của hãng V. Truyện kể theo thứ tự thời gian, thứ tự công việc, không có cốt truyện, không có tình huống, không có chủ đề. Nói cho đúng “truyện” chỉ là một bài ký đơn giản, thiếu hẳn những yếu tố làm nên một tác phẩm truyện (cấu trúc truyện, khắc họa nhân vật, kiến tạo thế giới nghệ thuật, chủ đề). “Truyện” chỉ là một bản ghi chép đời thường.

            Tôi nghĩ, Đàm Minh Khôi còn trong ảnh hưởng của văn chương học trò. Vì thế tác giả cần học tập những bậc thầy về nghệ thuật viết Ký, viết truyện ngắn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Minh Châu, Anh Đức, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp… Con đường văn chương còn dài và còn cần nhiều mồ hôi và tâm huyết.

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHUNG

1. Đã xuất hiện một thế hệ mới nhiều hy vọng

            Điểm qua 15 khuôn mặt Văn trẻ Đồng Nai, tôiđã thấy bóng dáng những nhà văn chuyên nghiệp. Và tôi hy vọng họ sẽ là đội ngũ kế tục được những thế hệ nhà văn Đồng Nai đi trước. Con đường sáng tạo của họ còn dài, và sẽ không tránh khỏi rơi rụng.

            Nhiều người trong số họ đã bước ra khỏi Cái Tôi để quan tâm đến cuộc sống chung quanh, ghi chép những câu chuyện của cộng đồng, khám phá nhân vật hôm nay, đốt nóng cảm hứng từ hiện thực mình quan sát và trải nghiệm; hoặc trăn trở về những vấn đề nhân sinh và lên tiếng nói trách nhiệm của người nghệ sĩ.

Đấy là hướng đi rộng mở và đúng với yêu cầu “bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân dân,…”. Tôi quan sát thầy điều này, sở dĩ nhà văn Khôi Vũ đã in được hơn 70 tác phẩm, bởi ông biết lăn vào đời sống, biết khai thác vốn sống, vốn trải nghiệm và những suy tư của mình trước hiện thực. Nếu người viết chỉ bó mình trong Cái Tôi chật hẹp, quanh quẩn với nỗi buồn của riêng Tôi, không vươn tới hiện thực đất nước mênh mông ngoài kia, thì sẽ không viết được gì. Và nếu có viết thì người đọc cũng sẽ không quan tâm, bởi khi đọc tác phẩm, người đọc tìm kiếm những gì họ cần có cho tâm hồn họ, họ sẽ bỏ qua những vấn đề của Cái Tôi, một Cái Tôi vốn đã quá cũ kỹ, Cái Tôi thống trị trong văn học Lãng mạn 1930-1945.

Hoàng Quỳnh Trang quan tâm đến vần đề giáo dục trẻ tình gia đình, tình anh em, tình bạn..Hoàng Thu Thảo viết về những “góc đời sứt mẻ”, những thân phận hẩm hiu. Tống Thanh Tâm có cái nhìn sâu sắc và nhân hậu hơn về tình yêu, về hoang thai, về thực tại con cái không chăm sóc cha mẹ già và sự tha hóa đạo đức của con người hôm nay khi người ta đánh đổi tất cả để lấy sự xa hoa. Truyện của Lê Vũ Anh Đào hướng về những vấn đề tư tưởng khi khám phá hiện thực. Trong một xã hội thực dụng, con người không bằng con chó. Để vượt qua bi kịch, người trẻ cần mở lòng ra biết đón nhận yêu thương của mọi người. Lã Hoàng Mai viết những truyện giải trí giàu tính giáo dục. Trịnh Khánh Linh viết rất sâu sắc và đầy yêu thương về tình yêu của người đồng tính, về thảm cảnh của những đứa trẻ trong một gia đình tan vỡ. Đào Nguyên Thảo có những truyện, những bài thơ tình yêu đầy cảm động. Nguyễn Huyền Quy vừa làm thơ, vừa viết truyện, vừa viết kịch bản. Ở mỗi thể loại, người viết trẻ này đều ẩn chứa nhiều tiềm năng.

Nội dung, tư tưởng và những vấn đề tác giả đặt ra trong tác phẩm sẽ làm nên giá trị của một ngòi bút, song nghệ thuật thể hiện sáng tạo mới làm nên khuôn mặt văn chương của một tác giả, mới định vị tác giả trên dòng chảy văn học đương đại.

Thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương gây được ấn tượng, bởi vì, bài thơ nào của anh cũng có tứ thơ mới lạ. Thơ Đào Nguyên Thảo quyến rũ ở giọng thơ tự tình nhẹ nhàng nhưng hàm chứa tư tưởng, bản lĩnh và trí tuệ mạnh mẽ của một  con người con gái dám đối mặt với mọi giông bão cuộc đời. Trịnh Khánh Linh có ngòi bút phân tích tâm lý rất tinh tế và sâu sắc, văn giàu chất thẩm mỹ, thể hiện một tình cảm yêu thương con người rất chân thực. Tống Thanh Tâm có cách nhìn đa diện về một vấn đề. Và tác giả này viết rất thuyết phục dù đó là những vấn đề gai góc. Truyện thiếu nhi của Hoàng Quỳnh Trang giàu tính giáo dục nhưng nhẹ nhàng và hấp dẫn. Lã Hoàng Mai trong truyện Ở quán café những người không ngủ đã viết rất sinh động về người trẻ hôm nay và có thể nói với người trẻ nhiều điều khi người đọc soi chiếu sự tương phản giữa nhân vật Tôi và cậu trai lạ (đọc bằng Giải Cấu trúc-cặp đối lập nhị phân)

2.Văn trẻ-Văn của Cái Tôi

Điều này thể hiện rõ khi tác giả viết về chính mình, khi kể những câu chuyện mà mình là nhân vật (không phải nhân vật xưng Tôi do tác giả nhập thân vào một nhân vật khác trong truyện để trở thành ngôi trần thuật).

Thực ra viết về chính mình, về Tôi, không có gì đáng trách, nếu Cái Tôi ấy mang được những đặc điểm của con người thời đại, khi Cái Tôi ấy trở thành Cái Ta chung. Thơ Lãng mạn  1930-1945 là tiếng nói của Cái Tôi cá nhân tiểu tư sản. Thơ kháng chiến chống Pháp là thơ của Cái Ta nhân dân kháng chiến. Tiểu thuyết Sông Luộc ở phương Nam là một tự truyện của nhà văn Khôi Vũ, song chất liệu đời tư của tác giả đã được tiểu thuyết hóa, nhờ đó mang được những đặc điểm của người trí thức trẻ Sài gòn trước 1975.

Thơ của Lê Phan Hiếu Anh là tiếng nói của Cái Tôi hôm nay: cô đơn, buồn, trăn trở. Nguyễn Hải Yến trong bài viết ngắn Chạy về phía mặt trời chỉ là ghi lại những cảm xúc, suy nghĩ của tác giả khi giúp đưa một cháu bé 4 tuổi đi qua chỗ có con chó to. Bài viết không đề cập đến bất cứ vần đề xã hội nào. Thơ Nguyễn Huyền Quy là những lời tâm tình của người vợ trẻ nói với chồng, của người mẹ trẻ nói với con về tình yêu thương của mình. Ngoài gia đình ra, người thơ trẻ này không quan tâm đến dòng chảy lịch sử ngoài kia. Đàm Minh Khôi chưa vượt qua văn chương học trò. Ngô Gia Hân, Nguyễn Võ Mỹ Duyên cũng kể những chuyện thời học trò. Lý Thăng Long lại kể chuyện tình học trò đầy bạo lực và thực dụng chủ nghĩa.

            Đảng yêu cầu văn nghệ sĩ:“bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân dân,…”. Nếu người viết chỉ quanh quẩn chuyện của Tôi thì chắc chắn sẽ đi vào ngõ cụt, và văn chương ấy có ích gì cho ai!

Tôi không tìm thấy tiếng nói của người viết trẻ Đồng Nai về những vấn đề nóng của hôm nay như: vấn đề biển Đông, Hoàng sa, Trường sa. Không có tác phẩm nào của người trẻ lên tiếng về sự xâm lăng văn hóa, sự suy đồi về đạo đức, những vấn đề của giáo dục từ nhà trẻ mẫu giáo đến Đại học; những vấn đề y tế trong đại dịch Covid, tình trạng công nhân thất nghiệp, tình trạng xuất khẩu lao động, nạn buôn bán người, nạn kinh doanh xác thịt phụ nữ, tình trạng lừa gạt trong mọi ngõ ngách xã hội. Nhận xét này của Nghị quyết 23/BCT có thể đúng với một vài tác giả trẻ Đồng Nai: “Có biểu hiện xa lánh những vấn đề lớn lao của đất nước, chạy theo các đề tài nhỏ nhặt, tầm thường…”.

Tôi ngỡ ngàng khi đọc Chạy về phía mặt trời của Nguyễn Hải Yến.Nhân vật Tôi giúp em bé 4 tuổi đi qua chỗ có con chó to. Em bé sợ chó. Tôi không hiểu tác giả đặt vấn đề xã hội gì trong bài viết ấy? Tôi xót xa hơn khi đọc Con đường hôm qua; Em là mùa hạ trong tôi của Lý Thăng Long. Tác giả say sưa kể chuyện tình học trò với những cảnh đấm đá và những thủ đoạn lừa tình, dù nhân vật học trò mới chỉ là học sinh lớp 7…Chuyện hai nhà hàng xóm mất gà, sinh ra xích mích nghe đã cũ lắm rồi, nhưng Lê Vũ Anh Đào viết lại (Vụ án hai con gà), không rõ để giải quyết vấn đề xã hội nào? Tôi nghĩ vấn đề tranh chấp đất, cướp đất của dân mới là vấn đề nóng của xã hội Việt Nam mấy thập kỷ qua. Huyền Quy viết về chiếc xe chở con đi học hàng ngày (Con thuyền của mẹ), không lẽ đó là một vấn đề thế sự cần quan tâm?

3.Thử đề xuất một vài vấn đề.

            Trừ một số ít tác giả có cách viết điêu luyện, hấp dẫn, còn nhiều tác giả rất lúng túng trong kiến tạo tác phẩm như cấu trúc truyện, khắc họa nhân vật, chọn lựa bút pháp và xây dựng một phong cách riêng.

            Tôi nghĩ, các tác giả trẻ cần trang bị cho mình tri thức Lý luận văn học về bản chất và sứ mệnh văn chương, về mối quan hệ nhà văn-tác phẩm-người đọccuộc đời. Cần xây dựng cho mình một ý thức sáng tạo tiến bộ; sử dụng đa dạng bút pháp và đặc biệt chú ý đến vẻ đẹp văn chương. Nếu đọc Văn học là gì của J.P.Sartre (đề cập những vấn đề Viết là gì? Viết để làm gì? Viết cho ai?), người viết trẻ sẽ nghĩ khác, viết khác[[6]]. Và nếu họ đọc kỹ các Nghị quyết của Đảng về văn học nghệ thuật, nhất là Nghị Quyết 23/ BCT, thì người viết trẻ sẽ thấy rõ trách nhiệm công dân trong sáng tác của mình hơn.

            Vốn sống của các tác giả rất mỏng. Trang văn của họ thiếu những tầng vỉa văn hóa giàu có của cha ông, thiếu hẳn  sự am tường lịch sử văn học dân tộc, vì thế tác phẩm của họ không tìm được chỗ đứng trong dòng chảy văn chương dân tộc đương đại.

Chẳng hạn, về thơ tình yêu lãng mạn, những Xuân Diệu, Nguyễn Bính, TTKH,… đã thống trị văn đàn thời 1930-1945. Bây giờ vẫn có tác giả trẻ Đồng Nai viết những bài thơ tình loại thơ 7, 8 chữ với nhạc điệu, ngôn ngữ, nỗi buồn sự cô đơn của Cái Tôi như thời Xuân Diệu, thì thơ ấy tuy mới viết, song đã cũ lắm rồi. Bởi thơ Việt đã có những nỗ lực cách tân mạnh mẽ sau 1945. Từ năm 1946, Trần Dần đã đòi “chôn Thơ Mới”, và từ năm 1956, nhóm Sáng tạo ở Sài Gòn với Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên đã chủ trương làm thơ tự do, thoát ly hoàn toàn thơ tiền chiến. Độc giả miến Bắc đọc thơ tình Hoàng Cầm. Độc giả miền Nam đọc thơ tình Nguyên Sa, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, Lý Thụy Ý. Và thế hệ Thơ Trẻ đầu thế kỷ XXI cũng đã để lại dấu ấn trong việc cách tân Thơ Việt (Văn Cầm Hải, Ly Hoàng Ly, Vy Thùy Linh, nhóm Ngựa Trời…). Tôi ngờ rằng có những tác giả chưa từng đọc thơ tình Việt Nam nên mới lặp lại người đi trước (?).

Về nghệ thuật kiến tạo tác phẩm, hình như khi viết Tùy bút, tản văn, các tác giả chưa đọc tùy bút Nguyễn Tuân, tùy bút Anh Đức, chưa đọc Ký của Hoàng Ngọc Điệp. Viết truyện ngắn, các tác giả chưa học được nghệ thuật cấu trúc truyện theo sự vận động tâm lý nhân vật của Nam Cao (truyện Chí Phèo), cách giữ bí mật cốt truyện của Nguyễn Quang Sáng (truyện Chiếc lược ngà), cách xây dựng truyện bằng nhiều tình huống liên tiếp của Nguyễn Minh Châu (Chiếc thuyền ngoài xa), kể theo phong cách Kinh thánh và chuyện cổ điển của Nguyễn Huy Thiệp (Phẩm Tiết, Vàng Lửa, Kiếm sắc), và chưa tác giả nào có những thử nghiệm các bút pháp đương đại như Chủ nghĩa Siêu thực, Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, Chủ nghĩa Hậu Hiện đại, kiểu văn chương tư tưởng (như F. Kafka, J.P.Sartre, A.Camus…)

Để giúp người viết trẻ Đồng Nai vượt lên, Hội VHNT cẩn có nhiều trại sáng tác để bồi dưỡng cho họ và tạo điều kiện cọ sát tác phẩm (những cuộc trao đổi, giới thiệu tác giả, tác phẩm) để họ tự định vị ngòi bút của mình.

THAY LỜI BẠT

            Dù các tác giả trẻ Đồng Nai mới chỉ bắt đầu hành trình văn học của mình, song đã xuất hiện những cốt cách và tài năng. Vấn đề là Hội VHNT Đồng Nai cần hết sức chăm lo cho họ. Được vậy, chúng ta có quyền hy vọng những mùa vàng văn học Đồng Nai trong thời gian không xa.

Tháng 3/ 2023

***


[1] Trần Thu Hằng-Nhân Hội nghị Viết văn trẻ lần thứ X: Sức trẻ trong sáng tác văn học ở Đồng Nai

http://baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202206/nhan-hoi-nghi-viet-van-tre-lan-thu-x-suc-tre-trong-sang-tac-van-hoc-o-dong-nai-3120426/index.htm

[2] Tổng hợp từ bài viết của các tác giả: Hoàng Ngọc Điệp, Đàm Chu Văn, Hạnh Vân, Thy Vân.

[3] https://www.qdnd.vn/van-hoa/van-hoc-nghe-thuat/sac-mau-da-dang-van-hoc-tre-duong-dai-697449)

[4] http://www.baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202209/tho-tre-dong-nai-nhung-tin-hieu-vui-qua-mot-trai-sang-tac-3136352/

[5] Xin đọc Chân dung văn nghệ sĩ-Nguyễn Huyền Quy:

Nhạc sĩ Cao Hồng Sơn mang chữ “Văn” trên hành trình an nhiên hái tuổi

Nhạc sĩ Đoàn Quang Trung: Những giải thưởng nô nức tìm về:

http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201910/nhac-si-doan-quang-trung-nhung-giai-thuong-no-nuc-tim-ve-2968427/

          Vũ Thiên Vũ và cuộc chơi sắc màu:

            http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201909/nguyen-dinh-quoc-van-chang-luc-si-trong-lang-nhiep-anh-dong-nai-2964203/

          Nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Mạnh Hà: Đi tìm nét đẹp cuộc sống đời thường

           Dương Đức Khánh và con đường đến với những giải thưởng văn chương.

           http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=1629&CatId=87

Nhà biên kịch Hoàng Tiến Điểm-Người mang niềm vui đến với mọi người.

 http://hvhnt.dongnai.gov.vn/pages/newsdetail.aspx?NewsId=2482&CatId=87

[6] What is Literature? by Jean-Paul Sartre