Nguyên Tiêu-Đọc thơ Thiền Trần Ngọc Tuấn

Thơ Thiền Trần Ngọc Tuấn

(Đọc tập thơ Chân Thân của Trần Ngọc Tuấn. Nxb HNV 2018)

Bùi Công Thuấn

            Trần Ngọc Tuấn là một nhà thơ Thiền độc đáo trong dòng chảy thơ ca hôm nay. Bởi vì sau Phạm Thiên Thư (nhà thơ Thiền ở miền Nam trước 1975), tôi chỉ thấy có Trần Ngọc Tuấn là người tiếp bước trên con đường thi ca – tư tưởng này. Ngọn nguồn của thơ Thiền Việt Nam là thơ Thiền thời Lý- Trần. Thời Lý-Trần, thơ Thiền đã triển nở một mùa rực rỡ, tạo nên một dòng thi ca-tư tưởng duy nhất trong thi ca dân tộc. Trần Ngọc Tuấn không phải là một Thiền sư, anh lại làm thơ giữa thời toàn cẩu hóa, nên thơ Thiền của Trần Ngọc Tuấn có nhiều cái riêng. Trần Ngọc Tuấn đã in Suối reo (2006), Hiện hữu (2013) và Chân thân (2018). Đó là những đóng góp giá trị vào những nỗ lực cách tân suốt mấy chục năm qua của thơ ca Việt Nam đương đại.

THƠ CỦA NGƯỜI HÀNH THIỀN

            Nếu không phải là một Hành giả (người thực hành Thiền) thì không thể làm thơ Thiền. Thiền vừa là “trí huệ” vừa là “tâm Bát Nhã”. Người làm thơ là để nói “tiếng lòng”. Nguyễn Du đã chạm đến căn gốc của thơ khi ông viết: “Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.  Kết thúc truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) ông lại khẳng định: “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài”. “Chữ Tâm” là thơ và “chữ Tâm” cũng là Thiền. Nói đến Thiền là nói đến Tâm (Tâm tức Phật/ Phật tức Tâm), là nỗ lực hàng phục Tâman trụ Tâm (Kinh Kim Cang). Bởi vì “Vạn pháp do Tâm” (Kinh Hoa Nghiêm).

            Đọc thơ Trần Ngọc Tuấn, người đọc nhận ra anh hành Thiền theo Tịnh Độ Tông. Mở đầu tập Suối reo, Trần Ngọc Tuấn có bài thơ diễn tả trạng thái hành thiền rất tuyệt của anh. Đó là một trạng thái trong veo, thanh khiết, đầy sức sống, trong một cảnh giới mà con người đã vượt thoát để an nhiên trong vạn vật. Đó là trạng thái “Pháp giới tánh với tâm là một, Vạn pháp đồng nhất thể” (Kinh Hoa Nghiêm)

            Sáng nay lên đồi Tịnh Độ

            Giọt sương tan trên lá xanh

            Trưa nay lên đồi Tịnh Độ

            Nghe cây chuyển nhựa lên cành

            Chiều nay lên đồi Tịnh Độ

            Mây vàng từng áng mong manh

            Tối nay lên đồi Tịnh Độ

            Trăng non đầu núi an lành

                        (Suối reo-Lên đồi Tịnh Độ)

Và đây là niềm hoan hỷ của Trần Ngọc Tuấn trên đường hành Thiền trong tập thơ Chân Thân

Chợt lòng

Tín giải

Vui sao

Như chàng cùng tử

Được trao gia tài

            (Chân thân-Tín giải)

Niềm hỷ hoan của Trần Ngọc Tuấn khi xác tín được chân lý Thiền cũng giống như niềm vui của chàng cùng tử trong Kinh Pháp Hoa.

Truyện kể rằng:  Chàng cùng tử rất nghèo. Từ nhỏ anh đã bỏ nhà đi, lưu lạc tha phương cầu thực hai ba chục năm. Rồi tình cờ anh trở về quê mà không biết. Anh không biết gốc tích của gia đình mình. Cha anh là người rất giàu. Mấy chục năm thương xót con, ông luôn dõi tìm nhưng không thấy. Hôm ấy, chàng cùng tử tình cờ đi tới nhà người giàu (cha anh) để xin làm thuê. Ông nhà giàu nhận ra ngay đứa con ông đang tìm, còn chàng cùng tử thấy sự giàu sang quá đỗi của nhà ông chủ thì sợ và bỏ chạy. Anh bị ông chủ bắt lại, sau đó được trả tự do và đi làm chỗ khác. Ông nhà giàu đến chỗ anh làm thuê, gặp gỡ trò truyện rồi nhận anh làm con nuôi. Ông vẫn giữ bí mật cha con với anh. Nhưng ông âm thầm đối xử hết sức yêu thương với anh và giao cho anh trọng trách quản gia. Đến khi ông lâm bệnh, biết mình không qua khỏi, ông quyết định nói sự thật cho con. Chàng cùng khổ vô cùng hạnh phúc. Anh không ngờ mình là con của một người quyền quý và giàu có như vậy.

Niềm hạnh phúc của chàng cùng tử giống hạnh phúc của muôn chúng sinh giây phút Phật thuyết kinh Pháp Hoa, nói cho biết ai cũng đều có thể thành Phật được[1]. Nhưng điều kỳ diệu là Trần Ngọc Tuấn lại cảm nhận được niềm hạnh phúc ấy khi lòng anh “Tín giải” những chân lý của Phật ngay trong thời đại này (rất khác với thờ Phật thuyết kinh Pháp Hoa).

 Người hành thiền Tịnh Độ phải thực hiện 3 giới luật lớn: Tín, NguyệnHành. Tín là tin Phật, tin Pháp và tin mình. Nguyện là mong muốn thực hiện những điều chân chính (như 48 đại nguyện của Phật A Di Đà). Hành là chuyên tâm niệm Phật cầu được vãng sanh vào cõi Cực lạc của Phật A Di Đà. Hành giả Trần Ngọc Tuấn đã đắm mình trong cõi Thiền ấy.

Quanh đây/ Quyến thuộc Bồ đề

Tám phương trăng sáng/ Bốn bề hoa thơm

                (Miền Tịnh Độ)

Những điều tưởng như giản dị ấy lại không dễ dàng. Trong tập thơ Chân Thân, Trần Ngọc Tuấn có nhiều bài thơ trăn trở về quá trình hành Thiền của mình, cũng đồng thời anh thể hiện nhiều trạng thái trải nghiệm tâm linh như dấu chỉ của hạnh ngộ. Thơ Thiền thường là diệu âm (tiếng tâm linh) trong khoảnh khắc đốn ngộ của hành giả. Những bài thơ như thế nằm trong dòng chảy thơ Thiền. Những bài trực tiếp nói đến Phật, Pháp có nhiều đặc điểm của Kệ (một thể loại Thiền sư dùng để Thị đệ tử về Phật)

Trần Ngọc Tuấn tra hỏi về Chân thân tức là nỗ lực trí tuệ nhận thức về bản thể của tồn tại, về Tự tánh của vạn pháp, nhưng anh bế tắc:

Người trong gương có phải mình

hay là ảo ảnh hiện hình chân thân

                        (Chân thân)

Tra hỏi như thế là chạm đến cốt tủy của tư tưởng Phật. Sự tồn tại của bản thân (thân xác, bản ngã, tử-sinh, có –không) là thật hay là ảo ảnh? Sự tồn tại của mọi vật ta nhìn thấy, của cả vũ trụ này, là thật hay cũng là ảo ảnh?

Ý tưởng này được Tổ sư Long Thọ (Nagajuna) diễn giải rất sâu sắc:

“Nếu pháp nhân duyên sanh,

Pháp ấy, tánh thật không.

Nếu pháp ấy chẳng không,

Không từ nhân duyên có.

Thí như bóng trong gương,…”

Thầy Thích Hạnh Bình giải thích như sau: “Long Thọ đã lấy ví dụ ‘bóng trong gương’ thuyết minh các pháp là duyên khởi tính. Cái bóng trong gương ấy, không phải do gương tạo ra, cũng không phải do mặt tạo ra, cũng không phải người làm gương tạo ra, không phải do mình tạo ra, cũng không phải do người khác tạo ra. Như vậy, ai là chủ nhân tạo ra ‘bóng’ này?Không có một chủ nhân nào tạo ra cả. Sở dĩ cái ‘bóng’ có trong gương là do tất cả những yếu tố này hình thành, nếu thiếu một trong những yếu tố đó thì ‘bóng’ ấy không xuất hiện. Như vậy, cái ‘bóng’ là do nhân duyên tạo thành. Cái gì do nhân duyên tạo thành, không làm chủ, thì cái ấy mang tính vô thường “[2]

            Và Phật dạy: cái gì vô thường đều là khổ (Kinh Vô Ngã tướng). Để thoát khỏi cái vô thường, phá bỏ Ngã chấp, người hành Thiền phải đi con đường Trung đạo. Phật dạy: “Có hai cực đoan này, này các Tỳ-khưu, một người xuất gia không nên thực hành theo. Thế nào là hai? Một là đắm say trong các dục (kàmesu), hạ liệt, đê tiện, phàm phu, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Hai là tự hành khổ mình, khổ đau, không xứng bậc Thánh, không liên hệ đến mục đích. Tránh xa hai cực đoan này, này các Tỳ-khưu, là con đường Trung đạo, do Như Lai chánh giác, tác thành mắt, tác thành trí, đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.”(Kinh Chuyển Pháp Luân-Dhammacakkappavattana Sutta).

            Người hành Thiền phải vượt qua vô thường, mới “vô ngã vô ưu”(không còn cái Ta thì không đau khổ). Trần Ngọc Tuấn khám phá những tư tưởng này bằng nhiều tứ thơ rất thuyết phục:

 Vượt qua/ Đường hiểm/ Oan sai

Tự do/ Sải cánh/ Chim bay/ Giữa trời

                (Vượt thoát)

 Vui gì mấy đóa hoa rơi

Mấy thân mục rữa, mấy lời ngoa ngôn

Về ngồi giữa đĩnh núi non

Nghe tâm thanh lọc mất-còn, có-không

            (Giữa núi)

 Giã từ gánh nặng sân si

Dứt tình tham ái từ bi dâng tràn

Chỉ còn tâm thức nhẹ nhàng

Lặng trong cõi tịnh, niệt bàn, chân như

                (Điều còn lại)

Miệt mài/ Trì niệm/ Pháp KHÔNG

Phận mình dun dế/ Vẫn mong một ngày…

                (Thân phận)

Đường dài/ Mù mịt/ Đêm đen

Tự mình thắp sáng/ Ngọc đèn/ Chân như

                (Tự tâm)

Lang thang/ Trong cuộc lữ hành

Con đường trung đạo/ Đã thành lối quen”

                (Trung đạo)

Con đường trung đạo là tu tập theo Bát chánh đạo. Khi đã đi con đường trung đạo, Hành giả đạt đến niềm hạnh phúc an nhiên

Một mình/ Một núi Thiên Thai

Gương sen soi sáng/ Sương mai/ An lành

                    (Trên núi Thiên Thai)

Núi Thiên Thai là nơi Trí Khải Thiền sư tu tập (năm 575 đời Trần Tuyên Đế-TQ). Nhắc đến núi Thiên Thai, Trần Ngọc Tuấn thể hiện niềm vui của một cuộc hạnh ngộ Thiền; Tuyệt nhiên không có cảm giác cô đơn, tự mãn, cao ngạo như Xuân Diệu trên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn (bài thơ Hy Mã Lạp Sơn).

Tôi chia sẻ được niềm vui của Hành giả Trần Ngọc Tuấn trải khắp không gian-thời gian:

Trên tay/ Một đóa sen hồng

Hương tâm/ Dịu nỗi có-không kiếp người

                (Hương tâm)

Không chấp người/ Không chấp ta

Rừng hoang/ Thu vắng/ Vào ra nhẹ nhàng

                (Vô chấp)

Đất lành/ Rừng lại thêm xanh

Chim muông về tụ/ Trên cành nhân tâm

                (Đất lành)

 Đường đời/ Hội ngộ/ Phân ly

 Niềm vui/ Ngay bước chân đi/ Một mình

                      (Hành hương)

                Đèo cao/ Vạn dặm muôn trùng

Pháp âm vi diệu/ Sáng bừng núi non

                 (Diệu âm)

Tùy duyên/ Đây đó/ Tiêu dao

Hương sen/ Dẫn dắt/ chốn nào không an

            (Tiêu dao)

Thong dong/ Một chiếc thuyền không

Mặc thu vàng lá/ Mặc đông buốt chiều

                (Thuyền không)

Sống vui/ Hàng thuận chúng sanh

Ngày đêm soi mặt/ gương lành Pháp Hoa

                (Đối diện)

Ngôi nhà bên suối/ Tịch liêu

Một vần trăng sáng /Thương yêu bên thềm

                (Về)

Cái Tâm trong những bài thơ trên đã rất “an lành thơm tho” và “sáng bừng lên” niềm vui đầy hào quang Thiên, không còn là “cái Tâm sai biệt”. “Cái Tâm” ấy đã bao trùm được vạn pháp trong một hạt cải (Kinh Hoa Nghiêm).

Tôi đặc biệt chú ý những bài thơ Trần Ngọc Tuấn hướng về tha nhân. Những bài thơ này có sức lay động sâu xa lòng người và chứa đựng sự mầu nhiệm của tư tưởng Thiền. Thơ Trần Ngọc Tuấn trở nên rất lạ, rất mới thể hiện cái bao la từ bi Phật.

Đi trong/ Hoang vắng/ Khô cằn

Thương cho cây cỏ/ Nhọc nhằn tử sinh

                (Thương)

Cây thối rễ/ Còn mong gì/ Hoa lá

Tội nghiệp người/ Ngồi nhớ/ Thuở còn xanh

            (Vô thường)

Vãn tuồng/ Màn khép/ Rèm buông

Lơ ngơ đào kép/ Buồn buồn xướng ca

            (Thấy)

Nguyện xin/ Ở lại nơi này

Những mong tận thấy/ Hoa bay cùng người

                (Ở lại nơi này)

Phải chăng đó là tâm nguyện của Phật A Di Đà, ngài có 48 lời nguyện khi ở lại cõi nhân gian để cứu độ chúng sinh?

Nhà thơ Trần Ngọc Tuấn ở Đại hội-Hội Nhà văn lần thứ X-năm 2020

TRẦN NGỌC TUẤN –NHÀ THƠ TÀI HOA

            Thiền chỉ là tư tưởng trong thơ Trần Ngọc Tuấn, và nhà thơ có phải là người hành Thiên (Hành giả) hay không, điều ấy không quan trọng. Vấn đề là người làm thơ có viết được những bài thơ hay, độc đáo về tứ hay không?

            Nhưng để đọc những bài thơ Thiền của Trần Ngọc Tuấn, người đọc không thể tiếp nhận thơ như một văn bản nghệ thuật bình thường. Thơ Trần Ngọc Tuấn có nhiều tri thức, thuật ngữ  Phật học, chứa đựng cốt tủy tư tưởng Phật trong các Kinh văn. Những tri thức tư tưởng ấy được chuyển hóa từ tâm nhà thơ, một cách rất tinh tế, thành những tứ thơ độc đáo.

 Như tôi đã trình bày ở trên, Trần Ngọc Tuấn đã thâm nhập rất sâu vào Kinh Chuyển Pháp Luân, Kinh Vô Ngã tướng, Bài Kinh ngắn về Tính Không của Phật; Kinh Kim Cang, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, …Anh cũng đã hành Thiền theo Tịnh Độ Tông và vận dụng phép biện chứng “Bát Bất” của Long Thọ (Bất sinh, bất diệt/ Bất thường, bất đoạn/ Bất nhứt, bất dị/ Bất lai, bất khứ). Người đọc cần có sự hiểu biết tối thiểu văn hóa, tư tưởng Phật  mới có thể cảm nhận được cái hay của thơ Thiền Trần Ngọc Tuấn. Chẳng hạn, những hình ảnh “Hoa sen nghìn cánh”, câu chuyện “Chàng cùng tử”, hoặc tư tưởng “Tự mình thắp sáng”, kiểu ngôn ngữ “Vô ngôn”…đều hàm chứa những ý tứ sâu xa trong kinh điển Phật giáo. Nếu không nắm được những tri thức ấy, và nếu không “thành Tâm”, người đọc sẽ không cảm được cái hay của thơ Thiền.

Trần Ngọc Tuấn có nhiều tứ thơ đẹp, mới lạ làm ngỡ ngàng người đọc. Rất tiếc trong phạm vi một bài viết ngắn, tôi không chia sẻ lời bình được với bạn đọc, nhưng tôi tin cái hay của thơ Trần Ngọc Tuấn một khi đã thấm vào tâm, bạn đọc sẽ thấy lòng mình tự sáng lên.

Bao năm/ Ở núi/ Quên trò chuyện

Nên tiếng của người/ Như tiếng chim

                (Ở núi)

Vừa xong/ Một giấc mơ hoa

Ơ hay!/ Chợp mắt/ Đò qua sông rồi

                (Ngày đẹp)

Trăm con đom đóm/ Tự tình

Chợt đêm huyền ảo/ Chợt mình rỗng không

                                (Tự tình)

Chim bay/ Chim đã bay rồi

Đừng mong tiếng hót/ Trên đồi quạnh hiu

                (Dõi cánh chim bay)

Dọc ngang/ Xuôi ngược/ Mỏi mòn

Bên dòng sông cạn/ Sao còn buông câu

                                (Bể dâu)

Bài thơ Hồn nhiên xanh tập trung đầy đủ những phẩm chất của một Hành giả đã vượt qua những bão giông của Ngã chấp để tới bến bờ bên kia (đáo bỉ ngạn) của Miền Tịnh Độ; vừa bung nở những nét tài hoa vốn có trong thơ Trần Ngọc Tuấn. Tôi gọi là “Tài hoa” vì Trần Ngọc Tuấn sáng tạo những tứ thơ độc đáo để chuyển tải tư tưởng Thiền, góp thêm vào làm giàu có thơ Thiền Việt Nam.

Hồn nhiên xanh lá trên cành

Không hay sâu bọ loanh quanh bóng mình

Hồn nhiên xanh suối lặng thinh

Không hay sấm chớp thình lình bão giông

Hồn nhiên xanh biển mênh mông

Không hay sóng cả trải lòng trùng khơi

Hồn nhiên xanh nắng bên trời

Không hay mây trắng cất lời hư vô

Hồn nhiên xanh cỏ ngây ngô

Không hay giun dế dưới mồ niệm kinh

Hồn nhiên xanh đến hết mình

Không hay cơn gió bội tình vừa qua

                (Hồn nhiên)

Trạng thái “Hồn nhiên xanh ” tương phản với thực tại vô thường của Trần Ngọc Tuấn không phải là thái độ sống “vô vi”(Vi vô vi, sự vô sự) vủa Lão Trang thường thấy trong thơ trung đại Việt Nam. Hồn nhiên xanh là vượt qua bão giông tư tưởng, vượt qua cái tâm sai biệt nhị nguyên; vượt qua những bể khổ tử-sinh; vượt qua những hư huyễn ảo giác; những ác nghiệp. Hình ảnh thiên nhiên cây cỏ, nắng bên trời, giun dế niệm kinh dưới mồ vừa gợi ra một cảnh sắc thực tại, là vừa là cảnh sắc ẩn dụ để chuyển tải tư tưởng Thiền, tư tưởng của một Hành giả đã như cánh chim bay vút lên, thoát khỏi những nghiệt ngã dữ dội của Thân, Nghiệp (“Đã mang lấy nghiệp vào thân”-Nguyễn Du).

Tôi rất thích bài thơ nhỏ này

Bên đồi

Một ngọn khói bay

Ai ngồi đốt lửa

cho ai sáng lòng

                                (Ánh lửa hồng)

                Bài thơ chỉ là một cặp Lục bát được ngắt ra để tạo thành một bài Tứ tuyệt, thế nên có 2 cách đọc. Đọc bài thơ như Tứ tuyệt, và đọc bài thơ như Lục bát.

Tôi thích đọc Lục bát, bởi Lục bát có nhạc, có vần, cấu trúc tứ thơ tròn đầy, hình tượng trong thơ hiển lộ; nhờ đó tình ý vang lên, cộng hưởng với những rung động trong tim phát ra những vòng hào quang rất đẹp của trí tuệ.

            Bên đồi/ Một ngọn khói bay

Ai ngồi đốt lửa/ cho ai sáng lòng

                                (Ánh lửa hồng)

Đọc theo cách đọc một văn bản nghệ thuật hiện thực: Bài thơ là một cảnh hiện thực, một lát cắt không-thời gian. Ai đó đốt lửa bên đồi làm khói bay lên. Một cảnh vừa quen thuộc vừa lạ. Quen bởi vì hình ảnh đốt lửa làm khói bay ai cũng từng gặp: chẳng hạn cảnh đốt đồng ở miền Tây sau mùa gặt, hoặc khói cơm chiều ở thôn quê (“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Huy Cận)…Nó gợi ra sự thanh bình, yên ả và ấm cúng nhàn nhã sau những ngày làm lụng vất vả.  Đại từ”Ai” trong “Ai ngồi đốt lửa” là tha nhân, còn “ai” trong “cho ai ấm lòng” lạ chính là nhà thơ, người hành Thiền. Vì có lửa của người khác chia sẻ nên nhà thơ cảm thấy ấm lòng, ấm lòng vì có tha nhân ở bên, ấm lòng vì tình người như lửa (Khác với J.P.Sartre: “Tha nhân là địa ngục”).

Nhưng bài thơ trở nên lạ trong trường mỹ học Thiền. Khói là hình ảnh hư huyễn của vạn vật. Nó gợi ra cả một trời suy tưởng về tồn tại, về những nuối tiếc cuộc đời khi con người biết rằng tất cả rồi sẽ qua đi, sẽ tan đi và biến mất như làn khói kia. Con người phải đối mặt với hư vô và tan vào hư vô hay là phải nỗ lực nhảy qua hố thẳm (Hố thẳm tư tưởng-Phạm Công Thiện).

Nhưng bài thơ đột ngột chuyển ý. Câu Lục là sự vật, câu Bát là con người. Tâm điểm chú ý của bài thơ không phải là khói mà là tha nhân, là lửa, bởi hai nhân tố này đem đến một giác ngộ:  “Ai ngồi đốt lửa/ cho ai sáng lòng”.

Nhà thơ-người hành Thiền, nhìn khói mà ngộ ra chân lý vô thường của sự vật, càng ngộ ra Thân-Nghiệp của Ngã. Mỗi người là quả nghiệp của chính mình, của cha mẹ, của kiếp trước nhưng cũng của tha nhân. Chính người đốt lửa tạo nghiệp phúc làm cho nhà thơ giác ngộ (sáng lòng).

Đức Phật từng dạy: “Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác”.

Có thể hiểu người đốt lửa ấy là người đem đến chánh pháp (Đức Phật) cho hành giả, để rồi nhà thơ tự sáng.

Ung dung/ Từng bước du hành

KHẢI-THỊ-NGỘ-NHẬP/ Rành rành dấu chân

            (Tự sáng)

KHẢI- THỊ -NGỘ- NHẬP là từ dùng trong Kinh Pháp Hoa. Phật vì một đại sự nhân duyên mà ra đời: khiến chúng sinh được giác ngộ, và nhập vào tri kiến của Phật. Khai thị là làm cho thấy, mở ra, chỉ cho thấy[3].

Bài thơ chỉ có 16 chữ nhưng chứa đựng những tư tưởng lớn về con người (quan hệ Ta với Tha nhân), về hiện thực, về chứng ngộ Thiền; hơn thế còn hiển lộ phẩm chất Hành giả an nhiên và cốt cách của một nhà thơ tài hoa. Đó là chỗ đặc sắc của thơ Thiền Trần Ngọc Tuấn.

NGÀY XUÂN ĐỌC THƠ THIỀN

Tôi viết những dòng này trong những ngày xuân Tân Sửu, bởi có lẽ, ngày xuân đọc thơ Thiền thì hạnh phúc hơn cả. Cám ơn nhà thơ Trần Ngọc Tuấn đã giúp tôi cảm nhận được niềm hạnh phúc Tịnh Độ

Nguyện xin/ Ở lại nơi này

Những mong tận thấy/ Hoa bay cùng người

                (Ở lại nơi này)

Cỏ hoa rực rỡ niềm vui, con người hân hoan gần gũi. Người ta chúc nhau bao nhiêu điều tốt đẹp, phải chăng đó cũng là đại nguyện của Phật A Di Đà (xin đọc đại nguyện số 32).

***

Xuân Tân Sửu

(Ngày 30 tháng chạp Canh Tý)

[1] Trích sách Sen nở trời phương ngoại của HT Làng Mai

[2] Thích Hạnh Bình-Tư tưởng Không của Phật giao Đại Thừa:

https://thuvienhoasen.org/p25a7139/2/tu-tuong-khong-cua-phat-giao-dai-thua

[3] http://www.hoalinhthoai.com/buddhistdictionary/detail/char-1184/.html

HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG

HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ.

Chúng tôi không cần nhiều người vào hội mà chúng tôi cần những nhà văn tên tuổi, có đóng góp cho văn học, những người sáng tác nghiêm cẩn, có tác động xã hội”

***

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều-Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam

(Trích)

Hãy ngồi xuống, với cảm xúc thật lớn

Pv:-Vậy chức chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam với ông là gì? Một trọng trách xã hội?

NQT: Đó là trọng trách cùng với những người khác, với những hội viên cùng nhau làm điều gì đó tốt lên, một trọng trách đáng yêu, xúc động. Hội Nhà văn không thò tay, bước chân được vào phòng viết của bất cứ nhà văn nào, không giúp ai viết được một tác phẩm hay.

Hội chỉ có thể nói với họ hãy ngồi xuống, với lòng kiên nhẫn và kiêu hãnh, với một cảm xúc thật lớn để viết một tác phẩm hay. Và hội phải biết phát hiện ra giá trị thật và tôn vinh nó, công bằng với nó, bảo vệ nó.

Pv: Giai đoạn trước đây Hội Nhà văn Việt Nam đã làm được những nhiệm vụ này chưa, theo ông?

NQT: Hội cũng đã nỗ lực làm. Nhưng cái gì trước mắt cũng đẹp đẽ hơn cái hiện tại. Chúng tôi thấy ngày mai sẽ khác đi, tốt hơn ngày hôm nay. Xưa hội cũng đã làm được rất nhiều điều quan trọng nhưng có những điều chưa làm được, hoặc có khả năng làm được mà chưa làm thì bây giờ những người kế tiếp phải làm những việc đó.

Tôi vẫn nói với các nhà văn tôi không làm thơ giỏi hơn các bạn nhưng tôi có khả năng “kích động” các bạn để làm việc một cách mê đắm.

Tất nhiên Hội Nhà văn cũng chỉ là một cơn cớ, thúc đẩy nhà văn viết. Có những người không vào hội nhưng họ vẫn viết tuyệt vời, nhưng nếu vào hội để cùng nhau làm điều gì đó thì cũng rất cần thiết.

PV: Mục tiêu lớn nhất của ông trong vai trò chủ tịch Hội Nhà văn là gì?

NQT: Là kích thích sáng tạo của nhà văn, phát hiện, bảo vệ, làm lan tỏa những giá trị thật trong văn chương, bởi vì lâu nay chúng ta chưa làm đầy đủ.

Chúng tôi đặt rất nhiều vào thế hệ trẻ, chúng tôi tìm mọi cách để làm cho thế hệ trẻ thấy rằng khi họ hạ bút xuống là có thể liên can đến số phận bên cạnh họ, hay làm một cái gì đó tốt hơn.

Có những hội viên không xứng đáng

Pv: Lâu nay có ý kiến rằng các giải thưởng văn chương của Hội Nhà văn Việt Nam chưa tạo được uy tín lớn trong xã hội, bỏ sót nhiều tác phẩm xứng đáng và tôn vinh những giá trị đôi lúc có phần xoàng xĩnh. Ông sẽ làm gì để nâng uy tín các giải thưởng của hội?

NQT: Trước đây giải thưởng có thể bỏ sót tác phẩm hay là vì tác giả không tham gia dự giải hoặc không ai đề cử cho họ. Còn hội đồng chấm giải chỉ tới cuối tháng 10 mới làm việc, tháng 12 công bố giải thưởng, họ không có thời gian rà soát các tác phẩm tốt để không bỏ sót.

Từ bây giờ tôi sẽ tạo cho hội đồng có cách thức làm việc trong cả năm, phải thăm dò các tác phẩm. Hội đồng phải thường xuyên làm việc với các nhà xuất bản để chính các nhà xuất bản đề cử cho hội đồng những cuốn sách hay.

Hội đồng cũng phải tiếp cận những người đọc có khả năng đọc tốt, quan sát tốt, để họ nói cho biết những cuốn sách hay để tìm đến chúng chứ không phải chỉ ngồi đợi chúng đến với mình.

Tóm lại, chúng tôi sẽ giám sát, theo dõi các phong trào sáng tác, tìm hiểu, lắng nghe dư luận, lắng nghe báo chí, lắng nghe các nhà xuất bản, dám trao giải cho những cuốn sách gai góc xứng đáng.

Pv: Ông có tự tin là trong nhiệm kỳ của mình, ông có thể tổ chức những giải thưởng uy tín?

NQT: Tôi tự tin sẽ không bỏ sót những tác phẩm đáng được tôn vinh, trao giải thưởng. Nhưng tôi phải đặt câu hỏi ngược lại với các nhà văn rằng: Các anh đã làm ra những gì thực sự xứng đáng để chúng tôi tôn vinh chưa?

Có những tác phẩm hay nhưng chúng tôi bỏ qua, chúng tôi không bảo vệ được để trao giải thì đó là sai lầm, khiếm khuyết của chúng tôi, nhưng nếu chúng tôi tìm mọi cách trọng thị nhất mà không có tác phẩm hay để trao giải thì đành chịu.

Những thay đổi

Pv: Còn việc kết nạp hội viên có lẽ cũng cần thay đổi, thưa ông?

NQT: Kết nạp hội viên cũng sẽ phải thay đổi. Các nhà văn có tên tuổi, đóng góp cho văn học nhưng không vào hội như Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi, Nguyễn Phúc Lộc Thành trong thơ, Trần Tiễn Cao Đăng trong dịch thuật, Trần Ngọc Vương trong nghiên cứu văn học, Huỳnh Như Phương trong lý luận phê bình văn học…

Họ là những người xuất sắc trong lĩnh vực của họ nhưng tại sao họ lại không là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam để cùng xây dựng hội tốt hơn? Bây giờ chúng tôi phải tìm đến họ, mời họ tham gia với chúng tôi. Tất nhiên thuyết phục họ không dễ, nhưng với sự thịnh tình, thiện chí, tôi tin chúng tôi sẽ thuyết phục được họ.

Đồng thời, chúng tôi phải ngăn cản tất cả những thứ không đáng “tràn” vào hội. Mấy năm vừa rồi Hội Nhà văn Việt Nam kết nạp nhiều hội viên và trong đó có những trường hợp không xứng đáng. Tất nhiên điều này là lỗi của tất cả những người liên quan như các thành viên hội đồng xét kết nạp hội viên, thành viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam chứ không phải của riêng ai.

Chúng tôi không cần nhiều người vào hội mà chúng tôi cần những nhà văn tên tuổi, có đóng góp cho văn học, những người sáng tác nghiêm cẩn, có tác động xã hội. Chúng tôi không bắt họ viết đơn vào hội nữa. Chúng tôi trân trọng mời họ vào hội. Chúng tôi đã bắt đầu triển khai trong ban chấp hành hội và tôi đã gặp ít nhất ba người để mời vào hội.

Pv: Gần đây xã hội bắt đầu nói đến yêu cầu phải xã hội hóa các hội nghề nghiệp giống như Hội Nhà văn hay các hội văn học nghệ thuật khác, ông nghĩ sao về điều này?

NQT: Tôi nghĩ rằng có rất nhiều dạng hội, câu lạc bộ. Câu lạc bộ Thơ Việt Nam rất đông. Ngay Hội Nhà văn, chúng tôi đang bàn tới thành lập câu lạc bộ những nhà văn trẻ. Các khuynh hướng, quan điểm sáng tác giống nhau có thể tập hợp lại, ngồi cùng với nhau, và Hội Nhà văn sẽ tìm cách giúp đỡ họ.

Những câu lạc bộ như thế là việc bình thường, nhưng thành lập hội thì khác, phải tuân theo quy định của luật pháp. Tính đa dạng của xã hội, của nghề nghiệp và tính đa dạng của hoạt động văn học nghệ thuật nói riêng lâu nay đã được mở rộng rất nhiều.

Pv: Hội Nhà văn đã có nhiều nỗ lực hòa hợp, hòa giải dân tộc thông qua văn chương như xuất bản các tác phẩm có giá trị trước 1975 ở miền Nam và có nhiều gặp gỡ, làm việc với các tác giả hải ngoại… Trong nhiệm kỳ mới của ông, ông sẽ tiếp tục nhiệm vụ này như thế nào?

NQT: Trong lời phát biểu của ông Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung Ương, tại Đại hội Hội Nhà văn khóa X có nhấn mạnh sứ mệnh hòa hợp, hòa giải dân tộc thông qua văn học.

Từ lâu văn học đã làm điều đó cho dù còn mờ nhạt. Mấy năm gần đây tác phẩm của các nhà văn ở miền Nam trước 1975 và các nhà văn sinh sống ở nước ngoài đã xuất hiện nhiều hơn trên những ấn phẩm của Hội Nhà văn như báo Văn Nghệ, tạp chí Nhà Văn & Tác Phẩm, đặc biệt trên ấn phẩm Viết & Đọc của Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Ban chấp hành khóa X sẽ tiếp tục đẩy mạnh vấn đề này một cách cụ thể trên một chiến lược lâu dài.

Văn học nghệ thuật đúng bản chất của nó là phi biên giới, là dân chủ, bình đẳng, là kêu gọi tình yêu thương của con người và tôn trọng mọi sự khác biệt của con người. Chính thế mà văn học nghệ thuật phải là người tiên phong để từng bước xóa bỏ đi những khác biệt và cách biệt.

https://tuoitre.vn/chu-tich-hoi-nha-van-viet-nam-nguyen-quang-thieu-cac-nha-van-hay-viet-that-me-dam-20210114092132869.htm

THIÊN ĐIỂU thực hiện