Bài viết này là sự nhận dạng bước đầu một “thế hệ” văn chương Đồng Nai xuất hiện đầu thế kỷ XXI, cũng là lời chào một thế hệ mới, sẽ là trụ cột, là người kế tục sự nghiệp văn chương của các thế hệ đi trước ở Đồng Nai. Nhiều chục năm qua, lãnh đạo Hội VHNT Đồng Nai nặng lòng tìm kiếm những cây bút trẻ. Đến nay (2023) Hội đã kết nạp trên 10 hội viên trẻ và có trên 20 người là cộng tác viên thường xuyên ở lĩnh vực văn học [[1]].
Đó là các tác giả thế hệ 8x và 9x: Nguyễn Huyền Quy, Lê Vũ Anh Đào, Đào Nguyên Thảo, Phương Rong, Hoàng Thị Quỳnh Trang, Huỳnh Ngọc Tuyết Cương, Lê Phan Hiếu Anh, Tống Thanh Tâm, Hoàng Thu Thảo, Đàm Minh Khôi, Lã Hoài Mai, Hoàng Phương, Nguyễn Hải Yến, Trần Hoan, Trần Thị Hiếu, Văn Ánh Ngọc, Vân Nhi, Phạm Bá Khoa, Lý Thăng Long, Võ Anh Vũ, Hoàng Phước Nguyên, Phan Gia Hưng, Nguyễn Võ Mỹ Duyên, Vy Ngân, Trần Huynh Quỳnh, Lê Nguyễn Hà Ngọc, Ngô Gia Hân, Phan Nhật Anh, Minh Anh, Đặng Huệ Linh, Lưu Thiện Vương, Nguyễn Thị Thu Ngân,…[[2]]
Tôi ghi nhận, Hội VHNT Đồng Nai đã tổ chức nhiều hoạt động văn học cho người viết trẻ: tổ chức trại sáng tác trẻ (trại sáng tác trẻ lần thứ nhất được tổ chức năm 2017), in các tuyển tập văn học trẻ (tuyển tập Thiếu nhi và dân tộc thiểu số (2018), Khi đàn chim vỗ cánh (2019), Chạyvề phía mặt trời (2021); chọn cử tác giả tiêu biểu đi dự Hội nghị người viết văn trẻ toàn quốc (Phương Rong, Nguyễn Huyền Quy, Huỳnh Ngọc Tuyết Cương). Những hoạt động ấy đều hướng đến việc quy tụ những tài năng và bồi dưỡng “tay nghề” cho người viết trẻ. Và chúng ta có thể hy vọng những mùa gặt ở tương lai.
Người viết trẻ Đồng Nai hôm nay sinh ra và bắt đầu viết trong một bối cảnh văn hóa, xã hội hoàn toàn khác với cha anh. Từ sau “Đổi mới” (1986), đất nước đã chuyển sang nền kinh tế thị trường và đã có nhiều thành tựu hội nhập toàn cầu hóa. Người viết trẻ Đồng Nai hoàn toàn sống trong hòa bình, no ấm. Internet đã kết nối toàn cầu, nhờ thế, họ có nhiều điều kiện tiếp cận những thành tựu văn học thế giới và họ có nhiều môi trường hoạt động văn học hơn.
Đảng đã có những đổi mới về văn học (Nghị quyết Trung ương 5 ngày 16 tháng 7 năm 1998, Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị ngày 16/6/2008, Nghị quyết 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI), khuyến khích mọi thể nghiệm sáng tạo, vì thế họ không còn vướng mắc về phương pháp sáng tác Hiện Thực Xã hội Chủ nghĩa như thế hệ trước. Người viết trẻ hôm nay được thử nghiệm mọi kiểu sáng tác miễn là tác phẩm đạt được những giá trị đích thực.
Đến nay, văn chương Việt Nam đã chảy thành ba dòng với những đặc điểm khác biệt: Văn chương cách mạng và kháng chiến, Văn chương dân chủ và nhân văn và Văn chương thị trường. Người trẻ có thể chọn lựa khuynh hướng cho ngòi bút của mình và có thể học tập được rất nhiều điều từ thế hệ nhà văn đi trước. Họ được khuyến khích viết về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, như thế hệ cha anh: Hoàng Văn Bổn, Lý Văn Sâm, Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Nguyễn Minh Châu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy… Họ cũng thấy được nhữ hạn chế của những tác phẩm văn học thời “đổi mới” (1986-2000) của Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Minh Tường, Tạ Duy Anh, Trần Huy Quang…Họ có thể tiếp tục con đường cách tân như Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều, Trần Quang Quý, Văn Cẩm Hải, Ly Hoàng Ly, Mai Văn Phấn…Hoặc lăn vào dòng Văn chương thị trường như nhà văn Khôi Vũ, Nguyễn Một, Nguyễn Trí, Nguyễn Nhật Ánh, Dương Thụy…
Đảng yêu cầu: “Trên nền tảng mỹ học mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh, khuyến khích văn nghệ sĩ bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân dân, bảo vệ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại; lên án, phê phán không khoan nhượng những tiêu cực, xấu xa đang cản trở sự phát triển của đất nước và con người Việt Nam” (Nghị quyết 23/BCT).
Văn học là sự lên tiếng nói trước những vấn đề của thời đại. Và trước những yêu cầu của Đảng, thế hệ người cầm bút 8x, 9x sẽ viết gì, viết thế nào để có những đóng góp mới mẻ cho sự phát triển của văn học Đồng Nai?
Tôi nghĩ, để thực hiện được mục tiêu: “xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” theo những yêu cầu trên của Đảng, người viết trẻ Đồng Nai cần phải kế thừa được truyền thống của các thế hệ đi trước đồng thời phải mạnh dạn sáng tạo. Thời nào có văn chương của thời ấy.
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHUNG
1. Đã xuất hiện một thế hệ mới nhiều hy vọng
Nhìn vào sáng tác của Văn trẻ Đồng Nai, tôiđã thấy bóng dáng những nhà văn chuyên nghiệp. Con đường sáng tạo của họ còn dài, và chúng ta có quyền hy vọng.
Nhiều người trong số họ đã quan tâm đến cuộc sống chung quanh, ghi chép những câu chuyện của cộng đồng, khám phá nhân vật hôm nay, đốt nóng cảm hứng từ hiện thực mình quan sát và trải nghiệm; hoặc trăn trở về những vấn đề nhân sinh và lên tiếng nói trách nhiệm của người nghệ sĩ. Đấy là hướng đi rộng mở và đúng với yêu cầu “bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân dân,…”.
Hoàng Thị Quỳnh Trang quan tâm đến vần đề giáo dục trẻ tình gia đình, tình anh em, tình bạn (Mẹ; Mùa đông đầu tiên). Hoàng Thu Thảo viết về những “góc đời sứt mẻ”, những thân phận hẩm hiu (Góc đời sứt mẻ; Mùa nấm mối). Tống Thanh Tâm có cái nhìn sâu sắc và nhân hậu hơn về tình yêu, về hoang thai (Nụ cười), về thực tại con cái không chăm sóc cha mẹ già (Nghịch thời) và sự tha hóa đạo đức của con người hôm nay khi người ta đánh đổi tất cả để lấy sự xa hoa. Truyện của Lê Vũ Anh Đào hướng về những vấn đề tư tưởng khi khám phá hiện thực. Trong một xã hội thực dụng, con người không bằng con chó (Một chuyện không cười nổi). Để vượt qua bi kịch, người trẻ cần mở lòng ra biết đón nhận yêu thương của mọi người (Yêu thương ngày cũ). Lã Hoàng Mai viết những truyện giải trí giàu tính giáo dục. Ở quán café những người không ngủ là một truyện khá hay về người trẻ hôm nay. Trịnh Khánh Linh viết rất sâu sắc và đầy yêu thương về tình yêu của người đồng tính (Hoàng hôn vắng một người), về thảm cảnh của những đứa trẻ trong một gia đình tan vỡ (Cha và con; Những cánh diều cô đơn). Và Đào Nguyên Thảo có những truyện, những bài thơ tình yêu đầy cảm động (Truyện: Hoàng hôn muộn; Mẹ sẽ trở về; Thơ:Em và muộn sầu giầu kín; Đến cuối con đường). Nguyễn Huyền Quylà một tài năng đa dạng. Tác giả này vừa làm thơ, vừa viết truyện, vừa viết kịch bản và viết chân dung văn nghệ sĩ. Ở mỗi thể loại, Huyền Quy đều ghi được dấu ấn riêng.
Nội dung, tư tưởng và những vấn đề tác giả đặt ra trong tác phẩm sẽ làm nên giá trị của một ngòi bút, song nghệ thuật thể hiện sự sáng tạo mới làm nên khuôn mặt văn chương của một tác giả, mới định vị tác giả trên dòng chảy văn học đương đại.
Thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương gây được ấn tượng, bởi vì, bài thơ nào của anh cũng có tứ thơ mới lạ. Thơ Đào Nguyên Thảo quyến rũ ở giọng thơ tự tình nhẹ nhàng nhưng hàm chứa tư tưởng, bản lĩnh và trí tuệ mạnh mẽ của một người con gái dám đối mặt với mọi giông bão cuộc đời. Trịnh Khánh Linh có ngòi bút phân tích tâm lý rất tinh tế và sâu sắc, văn giàu chất thẩm mỹ, thể hiện một tình cảm yêu thương con người rất chân thực. Tống Thanh Tâmcó cách nhìn đa diện về một vấn đề. Và tác giả này viết rất thuyết phục dù đó là những vấn đề gai góc. Truyện thiếu nhi của Hoàng Thị Quỳnh Trang giàu tính giáo dục nhưng nhẹ nhàng và hấp dẫn. Lã Hoàng Mai trong truyệnỞ quán café những người không ngủ đã viết khá hấp dẫn về người trẻ hôm nay; truyện có thể nói với người trẻ nhiều điều khi người đọc soi chiếu sự tương phản giữa nhân vật Tôi và cậu trai lạ (đọc bằng Giải Cấu trúc-cặp đối lập nhị phân).
2.Nhiều cây bút trẻ chưa thoát khỏi Cái Tôi
Điều này thể hiện rõ khi tác giả viết về chính mình, khi kể những câu chuyện mà mình là nhân vật. Cần phân biệt với nhân vật xưng Tôi do tác giả nhập thân vào một nhân vật khác trong truyện để trần thuật.
Thực ra viết về chính mình, về Tôi, không có gì đáng trách, nếu Cái Tôi ấy mang được những đặc điểm của con người thời đại. Khi ấy Cái Tôi ấy trở thành Cái Ta chung.
Thơ của Lê Phan Hiếu Anh là tiếng nói của Cái Tôi hôm nay: cô đơn, buồn, trăn trở.
Nguyễn Hải Yến trong bài viết ngắn Chạy về phía mặt trời chỉ là ghi lại những cảm xúc, suy nghĩ của Tôi khi giúp đưa một cháu bé 4 tuổi đi qua chỗ có con chó to, vì cháu sợ chó. Bài viết không đề cập đến bất cứ vần đề xã hội nào. Thơ Nguyễn Huyền Quy là những lời tâm tình của người vợ trẻ nói với chồng, của người mẹ trẻ (tác giả) nói với con về tình yêu thương của mình (Quà sinh nhật con, Chàng kỵ sĩ lên 3, Ru con, Con thuyền của mẹ, Tóc ngắn, Như em đợi anh). Đàm Minh Khôi chưa vượt qua văn chương học trò (Biên Hòa trong tôi). Ngô Gia Hân (Tiệm sách cũ), Nguyễn Võ Mỹ Duyên cũng kể những chuyện thời học trò (Nhành hoa ngũ sắc). Lý Thăng Long lại kể chuyện tình học trò đầy bạo lực và thực dụng chủ nghĩa (Con đường hôm qua; Em là mùa hạ trong tôi)
Tôi không tìm thấy tiếng nói của người viết trẻ Đồng Nai về những vấn đề nóng của hôm nay như: vấn đề biển Đông, Hoàng sa, Trường sa. Không có tác phẩm nào của người trẻ lên tiếng về sự xâm lăng văn hóa (đặc biệt là sex vô luân và lồi sống thực dụng), sự suy đồi về đạo đức; tình trạng công nhân thất nghiệp, nạn buôn người, nạn kinh doanh xác thịt phụ nữ, tình trạng lưu manh lừa gạt trong mọi hoạt động xã hội. Nhận xét này của Nghị quyết 23/BCT có thể đúng với một vài tác giả trẻ Đồng Nai: “Có biểu hiện xa lánh những vấn đề lớn lao của đất nước, chạy theo các đề tài nhỏ nhặt, tầm thường…”.
Tôi ngỡ ngàng khi đọc Chạy về phía mặt trời của Nguyễn Hải Yến.Nhân vật Tôi giúp em bé 4 tuổi đi qua chỗ có con chó to. Em bé sợ chó. Tôi không hiểu tác giả đặt vấn đề xã hội gì trong bài viết ấy? Tôi xót xa hơn khi đọc Con đường hôm qua; Em là mùa hạ trong tôi của Lý Thăng Long. Tác giả say sưa kể chuyện tình học trò với những cảnh đấm đá và những thủ đoạn lừa tình, dù nhân vật học trò mới chỉ là học sinh lớp 7…Chuyện hai nhà hàng xóm mất gà, sinh ra xích mích nghe đã cũ lắm rồi, nhưng Lê Vũ Anh Đào viết lại (Vụ án hai con gà), không rõ để giải quyết vấn đề xã hội nào? Đọc Nguyễn Huyền Quy viết về chiếc xe chở con đi học hàng ngày (Con thuyền của mẹ), tôi không tìm thấy vấn đề thế sự nào ngoài đó là chuyện riêng tư của tác giả với con mình.
3.Thử đề xuất một vài vấn đề.
Trừ một số ít tác giả có cách viết điêu luyện, hấp dẫn, khi tiếp cận một hiện thực mới; nhiều tác giả rất lúng túng trong kiến tạo tác phẩm như cấu trúc truyện, khắc họa nhân vật, chọn lựa bút pháp và xây dựng một phong cách riêng.
Tôi có cảm giác các tác giả trẻ không đọc Lý luận văn học về bản chất và sứ mệnh văn chương, về mối quan hệ nhà văn-tác phẩm-người đọc và cuộc đời. Họ mới chỉ viết theo quán tính, viết theo năng khiếu trời cho, chưa có ý thức sáng tạo tiến bộ. Việc sử dụng bút pháp rất đơn điệu và chưa chú ý đến vẻ đẹp văn chương (lời văn). Nếu họ đọc Văn học là gì (đề cập những vấn đề Viết là gì? Viết để làm gì? Viết cho ai?) của J.P.Sartre, họ sẽ nghĩ khác, viết khác[[3]]. Và nếu họ đọc kỹ các Nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị Quyết 23/ BCT, họ sẽ thực hiện tốt hơn trách nhiệm công dân trong sáng tác của mình.
Vốn sống, vốn văn học của các tác giả rất mỏng. Trang văn của họ thiếu những tầng vỉa văn hóa giàu có của cha ông, vì thế tác phẩm của họ khó có thể hội nhập vào dòng chảy văn chương dân tộc đương đại. Chẳng hạn, về thơ tình yêu lãng mạn, những Xuân Diệu, Nguyễn Bính, TTKH,… đã thống trị văn đàn thời 1930-1945. Bây giờ vẫn có tác giả trẻ Đồng Nai viết những bài thơ tình loại thơ 7, 8 chữ với nhạc điệu, ngôn ngữ, nỗi buồn sự cô đơn của Cái Tôi như thời Xuân Diệu, thì thơ ấy tuy mới viết, song đã cũ lắm rồi.
Bởi thơ Việt đã có những nỗ lực cách tân mạnh mẽ sau từ 1945. Năm 1946, Trần Dần đã đòi “chôn Thơ Mới”. Và từ năm 1956, nhóm Sáng tạo ở Sài Gòn với Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên đã chủ trương làm thơ tự do, thoát ly hoàn toàn thơ tiền chiến (trước 1945). Độc giả miến Bắc đọc thơ tình Hoàng Cầm, đọc thơ cách tân của Lê Đạt, Trần Dần. Độc giả miền Nam đọc thơ tình Nguyên Sa, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, Lý Thụy Ý… Và thế hệ “Thơ Trẻ” đầu thế kỷ XXI cũng đã để lại dấu ấn trong việc cách tân Thơ Việt (Văn Cầm Hải, Ly Hoàng Ly, Vy Thùy Linh, nhóm Ngựa Trời…). Tôi ngờ rằng có những tác giả trẻ Đồng Nai chưa từng đọc thơ tình Việt Nam nên mới lặp lại người đi trước (?).
Về nghệ thuật kiến tạo tác phẩm, hình như khi viết Tùy bút, tản văn, các tác giả chưa đọc tùy bút Nguyễn Tuân, tùy bút Anh Đức, chưa đọc Ký của Hoàng Ngọc Điệp. Viết truyện ngắn, các tác giả chưa học được nghệ thuật cấu trúc truyện theo sự vận động tâm lý nhân vật của Nam Cao (truyện Chí Phèo), cách giữ bí mật cốt truyện của Nguyễn Quang Sáng (truyện Chiếc lược ngà), cách xây dựng truyện bằng nhiều tình huống liên tiếp của Nguyễn Minh Châu (Chiếc thuyền ngoài xa), kể theo phong cách Kinh thánh và chuyện cổ điển của Nguyễn Huy Thiệp (Phẩm Tiết, Vàng Lửa, Kiếm sắc), và chưa tác giả nào có những thử nghiệm các bút pháp đương đại như Văn chương Hiện sinh với thủ pháp “dòng ý thức”, Chủ nghĩa Siêu thực, Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, Chủ nghĩa Hậu Hiện đại, kiểu văn chương tư tưởng (như F. Kafka, J.P.Sartre, A.Camus…)
Nói cách khác, Vốn viết văn của ngưởi viết trẻ Đồng Nai còn rất mỏng. Đó là vốn sống, vốn lịch sử, vốn văn học Việt, vốn Lý luật văn học, đặc biệt là các lý thuyết văn học và phê bình văn học đương đại (Phê bình mới Anh, Mỹ; Ký hiệu học, Phân tâm học, Chủ nghĩa Cấu trúc, Giải cấu trúc, Lý thuyết trò chơi-Game Theory, Thuyết người đọc-Reader Theory…). Những “vốn” này ảnh hưởng trực tiếp đến trang viết. Thí dụ, nếu người trẻ muốn viết về văn học kháng chiến (kế tục nhà văn Hoàng Văn Bổn, nhà văn Lý Văn Sâm, nhà văn Lê Bá Ước, nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ), họ cần phải biết lịch sử kháng chiến, học cần đọc các sử thi kháng chiến, đọc thơ kháng chiến và hơn nữa, chính họ phải có vốn về đời sống kháng chiến (bằng cách nghiên cứu, điều tra, đi thực địa, gặp các nhân chứng, đến các vùng chiến trường…). Người làm thơ trẻ muốn theo kịp thơ Việt hôm nay, thì họ phải biết thơ truyền thống, thơ kháng chiến, phải biết những nỗ lực cách tân thơ Việt từ 1945 đến nay. Nếu không, họ sẽ rất lạc lõng và rất cũ.
Tôi nghĩ, Hội VHNT Đồng Nai cần có nhiều trại sáng tác bồi dưỡng nghiệp vụ hơn là trại tham quan gặp gỡ. Đồng thời tổ chức những cuộc trao đổi, giới thiệu tác giả, tác phẩm để họ có cơ hội cọ sát, tự định vị ngòi bút của mình.
NIỀM HY VỌNG
Dù các tác giả trẻ Đồng Nai mới chỉ bắt đầu hành trình văn học của mình, song đã xuất hiện những cốt cách và tài năng. Vấn đề là Hội VHNT Đồng Nai cần hết sức chăm lo cho họ. Được vậy, chúng ta có quyền hy vọng những mùa vàng văn học Đồng Nai trong thời gian không xa.
Tháng 3/ 2023
Đọc tiếp: 15 KHUÔN MẶT VĂN TRẺ ĐỒNG NAI
***
Bạn có thể đọc đầy đủ chuyên luận Văn trẻ Đồng Nai, (xin tải về theo link:
Phanxicô Xavie Lưu Thành sinh năm 1952 tại Hợp Thành, Yên Thành, Nghệ An-Gp Vinh. Ông đã đạt các giải thưởng văn học Công giáo:
-Thơ 60 năm Đức Mẹ Tà Pao (2019)-Khuyến khích
-Thơ 2020-VHNT Đất Mới-Khuyến khích
-Thơ 2022-VHNT Đất Mới-Khuyến khích
-Truyện dài 2022-VHNT Đất Mới-Giải II (không có giải nhất)
***
TRUYỆN DÀI “KỶ NIỆM THÀNH HÔN”
Kỷ niệm thành hôn, truyện dài của Lưu Thành do Tủ sách Nước Mặn chọn in để “dọn mừng 400 năm văn học Công giáo Việt Nam (1632-2032)”. Sách do Nxb Hồng Đức xuất bản đầu năm 2023.
1.Kỷ niệm thành hôn kể lại hành trình sống đức tin của người trẻ hôm nay.
Huệ là con ông bà Ân. Nhà có 4 chị em: Huệ, Hường, Hồng và Hải. Trong dịp lễ thánh An-tôn ở linh địa Trại Gáo thuộc Giáo phận Vinh, Nghệ An, Huệ quen Tiến khi đoàn thiện nguyện của hai người cùng thăm trại phong. Sau đó Tiến đến nhà Huệ nhiều lần và xin phép cha mẹ Huệ đưa Huệ ra bờ sông tâm sự. Một lần Tiến ôm Huệ không chịu buông, cả hai cùng lăn xuống sông. Huệ thoát được và bỏ chạy. Tiến bị bắt vì tội cờ bạc. Huệ dứt khoát chia tay Tiến. Năm Huệ 16 tuổi, lúc ấy bác sĩ Đô, bạn của ông Ân, chăm sóc bệnh dạ dày cho ông, suýt chút nữa Huệ uống phải thuốc mê của ông Đô.
Huệ lên thành phố giúp việc cho một chủ quầy bán buôn hàng đồ áo sẵn. Ở đây, Huệ quen và yêu Toàn. Huệ bị Mến là người yêu của Toàn đánh ghen ở chợ. Sau đó Huệ phát hiện ra mình đã có thai với Toàn. Toàn muốn Huệ hủy thai. Toàn nói, gia đình Toàn mắc nợ ân nghĩa với gia đình Mến, Toàn không thể bỏ Mến. Huệ chia tay Toàn và vào Nam tìm việc để tránh tai tiếng cho gia đình.
Vào Nam, Huệ gặp Nga, một bạn học, đã vào Tây Nguyên trước. Huệ hái tiêu cho gia đình ông Điều, một người Bắc di cư năm 1954. Một bữa đi làm, khi vận chuyển bao tiêu, Huệ vấp ngã. Bao tiêu đè lên người Huệ. Nga đưa Huệ đi viện. Huệ bị sẩy thai. Huệ nghĩ: “Có phải Chúa phạt tội mình không? Không”! Chúa luôn yêu thương kẻ có tội mà”. Nga trở thành tri kỷ. Huệ kể hết mọi nỗi gian truân của mình cho Nga nghe. Nga dạy cho Huệ kinh: “Xin Ơn Giữ Mình Sạch Sẽ.
Trong khi chờ bình phục, Huệ phụ việc cho một quán giải khát để kiếm thêm. Huệ ở chung phòng công nhân với Nhu, một cô gái miền Tây Nam Bộ, quê ở Tây Ninh. Nhu đã cứu Huệ khi ông chủ quán định làm nhục Huệ. Huệ chuyển sang mua bán hàng.
Một lần xe Huệ bị hư, Huệ được An giúp. Hai người qua lại và yêu nhau. An góa vợ. Lấy An, Huệ phải xin phép chuẩn hôn nhân khác tôn giáo, vì An là con trai một trong gia đình ông bà Bình, người phải giữ lễ cúng tổ tiên. Ý định của Huệ là cảm hóa gia đình An. Huệ đặt ra phương châm hành động: “Phải lấy việc làm để cảm hóa người khác. Hãy làm ngôn sứ ngay trong môi trường sống của chính mình”.
Nhưng trong đời sống hôn nhân, Huệ không đủ khả năng để lay chuyển được An và gia đình ông Bình. Từ việc treo ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở phòng khách nhà An đến việc Huệ đi nhà thờ, sau đó là việc đạo của con: Dung và Hòa, rửa tội, rước lễ lần đầu, Thêm sức, Huệ phải lén lút thực hiện. Đêm, Huệ suy nghĩ không ngủ.“Huệ cảm thấy một áp lực trường kì, không biết có đủ kiên nhẫn chịu đựng được không, hay một ngày nào đó mỏi mòn rồi buông xuôi. Huệ thì thầm xin Chúa, xin Mẹ Hằng Cứu Giúp ban cho ơn bền đỗ. Nhập gia tùy tục. ”Huệ càng thấm thía sự khác biệt niềm tin trong đời sống vợ chồng đã làm cho Huệ mất đi bao sự bình an”.
Khi bà Bình bị bịnh, rồi sau đó ông Bình bị tai biến, Huệ hết sức chăm sóc bố mẹ chồng. Huệ được bố mẹ chồng và chồng thương yêu hơn. Và chỉ khi ông bà Bình qua đời, Huệ mới nhẹ nhàng được một chút.
Dung đi học Đại học, quen với Tâm, bạn trai khác đạo. An và Huệ thuyết phục con tìm bạn trai có đạo. Dung nói: “Nếu cha muốn con lấy người cùng đạo thì sao cha không theo đạo? Nếu cha theo đạo con sẽ quyết tâm làm cho anh ấy cũng theo đạo”. An về Bắc thăm bà Ân (mẹ của Huệ), anh chứng kiến các đoàn thiện nguyện Công giáo cứu trợ đồng bào bão lụt miền trung, trở về An đồng ý theo đạo. Thánh lễ kỷ niệm hôn phối được cử hành vào tối tiếp theo sau ngày An chịu bí tích Rửa tội…
Trong tiệc đãi kỷ niệm hôn phối, Dung dẫn Tâm và mẹ Tâm về dự. Huệ nhận ra mẹ Tâm chính là Nhu, người bạn cũ mà 20 năm không gặp. Nhu đồng ý cho con theo đạo khi biết Dung là con của Huệ. Mọi người vui vẻ. Huệ chạy vào nhà tạ ơn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
2. Những vấn đề nhân sinh
Truyện trình bày những khó khăn quá sức dối với một người phụ nữ lấy chồng khác đạo. Dù Huệ ẩn nhẫn sống tốt và quyết liệt giữ gìn đức tin, nhưng dưới áp lực và môi trường văn hóa của gia đình chồng, Huệ không thể thực hiện được ý hướng Phúc Âm hóa môi trường của mình. An nói: “anh phần nào cũng đã hiểu về đạo, nhưng anh không cưỡng lại được cha mẹ, anh em, họ hàng và cả phong tục của thôn làng nữa. Huệ phải chịu nhiều thiệt thòi trong đời sống đạo của một Kitô hữu. Việc rửa tội, rước lễ lần đầu và Thêm sức cho con Huệ phải làm lén lút. Nhờ ơn Chúa, sau cùng Huệ cũng chu toàn bổn phận làm vợ, làm mẹ trong nhiệm vụ gieo trồng đức tin cho gia đình. Dù vậy Huệ vẫn luôn đối mặt với những thách đố hiểm nguy. Trường hợp Dung sẵn sàng bỏ đạo để theo bạn trai khác đạo là mối lo lắng khôn nguôi của Huệ. Tư tưởng của Dung về quan hệ khác tôn giáo với Tâm là một lời cảnh báo cho tất cả bạn đọc có đức tin: ”Vậy thì một là anh ấy theo đạo, hai là con theo lương”. Với ý nghĩa này, tác phẩm là một kinh nghiệm sống quý báu đối với bạn trẻ trước khi bước vào đời sống hôn nhân.
Chuyện tình yêu của Huệ cũng là một kinh nghiệm sống khác cho người trẻ hôm nay. Huệ yêu Tiến nhưng không ngờ Tiến chỉ là một tên háo sắc và hư hỏng. Khi gặp Toàn, Huệ yêu Toàn và thất thân với hắn nhưng không ngờ hắn là một tên Sở Khanh. Huệ còn nhiều lần suýt bị hại với bác sĩ Đô, với ông chủ quán nước, may có bạn tốt giúp mới thoát được. Ở đâu Huệ cũng gặp cạm bẫy của đàn ông và may là Huệ có những người bạn gái tốt (Hà, Nga, Nhu, Sơ Linh). Đó là ơn Chúa gìn giữ Huệ. Huệ nghĩ ngợi nhiều: “Thiên Chúa luôn trọn tình thương với tất cả con cái Người. Tạ ơn Chúa đến muôn đời”(tr.183).
Truyện còn phản ánh nhiều hiện tượng xã hội đương đại: chuyện di dân, tình hình bão lụt miền trung; chuyện xuất khẩu lao động chui:
“Em Hường từ Đài Loan trở về và đang đang nhờ đường dây “chạy” đi Đức. Thời gian chờ đợi để đi không ổn định, có đợt chờ đợi dài lâu hàng năm. Cung đường đi cũng nhiều gian truân vất vả. Theo dự định người đi sẽ bay từ Việt Nam sang Mátxcơva (Nga), rồi được đưa về chỗ ẩn giấu, tiếp theo sẽ ngồi xe bịt kín đi tiếp theo đường bí mật, thay đổi nhiều xe trên nhiều đoạn đường khác nhau đã được tính trước.
Khi ra khỏi nước Nga thì vượt qua U-crai-na hoặc đi theo đường khác vượt qua Lít-va rồi chạy sang Ba Lan. Mạo hiểm nhất là có những đoạn phải đi bộ trong rừng có người thám thính dẫn đường đi trước. Nếu gặp cảnh sát đi tuần phát hiện thì coi như chấm dứt. Thế là hết, họ sẽ bị bắt, bị trục xuất về nước và rất khó làm hộ chiếu cho chuyển đi lần khác. Nếu vượt qua nguy hiểm đến được Ba Lan thì xem là gần tới đích, sẽ có xe đến đón và chở họ sang Đức”…
Những người đi Tây, do vốn của gia đình chỉ là con số ít. Đa số là vay mượn cầm cố. Có người dùng sổ đỏ của gia đình mình vay không đủ nên phải nhờ nhiều sổ đỏ của anh em đứng tên vay thêm. Có trường hợp phải gộp ba, bốn sổ đỏ mượn của anh em mới vay đủ tiền. …”.
Nhưng những ý kiến của ông bà Bình về đời sống đạo của người Kitô hữu là đáng chú ý. An kể cho Huệ nghe câu chuyện về người Công giáo. Năm 1954, trên đường di cư vào nam, ông bà nội An gặp một người bạn Công giáo: “ông bà nội anh đưa cho ông ấy một số vàng gồm những vòng đeo và nhẫn vàng với khoảng gần mười chỉ để chi dùng dọc đường và cùng hứa hẹn bạn vào trước tìm nơi ăn chốn ở rồi chờ ngày gặp nhau…Ông bà nội của anh vì gặp trắc trở do bà nội ốm trong hoàn cảnh đất khách quê người, khi vào được miền Nam, chỉ còn hai bàn tay trắng”. Gặp lại người bạn Công giáo, ông nội “nhắc đến số vàng xưa và muốn được nhận lại một ít để xoay xở cho cuộc sống, thì ông bạn kia trả lời rằng đã tiêu và giúp đỡ những người khác cùng đi hết rồi”; ông nội biết rằng “mình nhìn nhầm người và đã đặt niềm tin không đúng chỗ”; “Đó là lý do khiến cho cha mẹ anh thiếu sự tin tưởng và mặc cảm về bên đạo..”. Ông bà Bình luôn cho rằng người Công giáo không phải là người tốt. Định kiến ấy gây trở ngại rất lớn cho Huệ.
Huệ đi nhà thờ, bà Bình nói: “Lễ gì mà lắm thế chứ! Cứ ít bữa là một lễ. Bỏ hết công hết việc. Lễ có ra cơm ra gạo gì không biết mà cứ đi lễ hoài”. Tuần Thánh, Huệ ngày nào cũng đi lễ. Bà Bình phàn nàn với An: “- Cha thì ốm, công việc có ai làm thay cho đâu. Suốt ngày cứ ăn mặc bảnh bao đi lễ. Lễ gì cũng vừa vừa chứ cứ lễ suốt ngày suốt tuần thế này lấy chi mà ăn. Đi lễ đã đành, ở nhà còn đọc kinh trước mấy cái bức ảnh kia nữa chứ. Mất hết thì giờ, mất công mất việc”. Bà Bình bảo An gỡ hết ảnh thờ của Huệ xuống và đem đốt đi. Có lần An ném ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để ở phòng khách xuống một cái giếng cạn, Huệ phải nhảy xuống giếng lấy lên đem về để ở phòng của mình…
Những phản ứng như thế của ông bà Bình (người bên lương) trước những nghi lễ, ảnh thờ và sinh hoạt sống đạo của người Công giáo, cùng với lối sống của người trẻ hôm nay (Dung) đặt ra nhiều vấn đề quan trọng đối với việc truyền giáo.
Tác giả có ý thức đưa vào tác phẩm những sinh hoạt văn hóa, phong cảnh vùng miền làm phong phú nội dung tác phẩm: Đó là lễ thánh An-tôn ở linh địa Trại Gáo thuộc Giáo phận Vinh, Nghệ An; huyền thoại về Thác Đray Sáp; những giải thích về sự khác biệt tôn giáo; Thánh lễ do Đức Giám mục cử hành.
Đây là hình ảnh miền Nam trong mắt người miền Bắc di dân: “Người miền Bắc nhận thấy nguồn đất đai rộng lớn bỏ ngỏ ở miền Nam chưa được quản lý chặt chẽ như ở miền Bắc nên nhiều nơi đã mách nhau vào khai thác. Những người ở các vùng đất chật như Nam Định, Ninh Bình vào nhiều, rồi đến dân Nghệ An, Hà Tĩnh cũng rủ nhau vào Đắk Lắk. Đến như đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao miền Tây Bắc hay dân tộc thiểu số vùng Thanh Hóa cũng vào Nam làm cho miền Nam bỗng chốc trở thành vùng đất nhiều sắc tộc hơn nữa. Vào nơi đây, người ta có cảm giác tự do thoải mái với phong cảnh thiên nhiên như thời chưa có bàn tay tác động của con người. Những ngôi làng ẩn sâu trong màu xanh bao la của rừng núi, của cây cối tạo nên phong cảnh êm ái trong lành, khác với những làng dân nơi quê hương của Huệ. Tuy rằng nông thôn cày ruộng nhưng nhà cửa ở gần nhau. Nơi đường lớn thì nhà dày san sát, không mấy nơi có cây cổ thụ. May lắm có nơi có vài cây đa, cây phượng của làng là còn được bảo vệ xem như di sản của tiền nhân”.
Những cảnh sắc và đặc điểm văn hóa vùng miền như thế tạo nên những màu sắc thẩm mỹ riêng bên cạnh những câu chuyện tôn giáo, nhờ đó tác phẩm có khả năng mở rộng không gian phản ánh hiện thực, khiến câu truyện có sức thuyết phục hơn.
3. Một vài đề xuất
Việc tô đậm những định kiến tôn giáo ở gia đình ông Bình (cha mẹ An) là một cực đoan. Việc An thay đổi nhận thức để theo đạo chưa được miêu tả và lý giải thấu đáo. Khiến cho ngay cả Huệ cũng bất ngờ, mặc dù những yếu tố khách quan (việc Dung có bạn trai và thái độ của Dung, ông bà Bình qua đời, chuyến đi bắc của An) đủ giúp An vượt qua trở ngại, song yếu tố tâm linh của An chưa đủ mạnh để tạo nên bước ngoặt hành động của nhân vật.
Việc quan hệ của Huệ với Toàn để có thai, không được nói đến. Sau khi bị Mến đánh ghen ở ngoài chợ, Huệ bị bỏng phải đến trạm xá chữa. Huệ về và đi khám. Lúc ấy mới Huệ biết mình đã có thai và cô báo tin cho Toàn.
Nhân vật Hòa, em của Dung bị bỏ quên ở cuối truyện.
Việc rửa tội, sau đó là học giáo lý và chịu phép Thêm sức của Dung và Hòa (con Huệ) đâu chỉ trong ngày một ngày hai mà Huệ có thể qua mặt được An. Trong một thời gian dài Huệ lén lút lo cho con rửa tội, Thêm sức là điều không thuyết phục, bởi vì đó là những Bí tích thánh, cần phải được công khai. Việc Huệ dùng những phương cách để đánh lừa An là không nên. Huệ cần thuyết phục cho An đồng thuận. Điều này tác giả chưa làm được.
Một kết thúc có hậu như tác giả kết truyện là một niềm vui, song đó là một kết thúc chưa hẳn có trong hiện thực: Huệ có một gia đình hạnh phúc và thực hiện được sứ vụ Ngôn sứ của một Kitô hữu trong một gia đình khác tôn giáo: An theo đạo, Dung có bạn trai khác đạo cũng đồng ý theo đạo. Thánh lễ và tiệc mừng kỷ niệm thành hôn rất đông vui. Vâng, nếu được như vậy thì đúng như Huệ cảm nhận: “Thiên Chúa luôn trọn tình thương với tất cả con cái Người. Tạ ơn Chúa đến muôn đời”(tr.183).
Ra đi từ đêm Và bây giờ, những con bò bóng tối, đã đến Cánh đồng cuối cùng
Suốt đêm tiếng rống đàn bò Rền rĩ những cách đồng câm lặng Suốt đêm hơi thở đàn bò Phả nóng như một đêm mùa hạ
Chúng đã đi hết đường cày cuối cùng Những chiếc ách biến mất gần sáng Dấu chân chúng đã điểm chỉ Trên những cánh đồng thế gian
Trong ban mai đàn bò mỗi lúc vàng rực Và tan vào ánh sáng Những tiếng rống vọng lại Dàn kèn đồng trong xóm đạo nhỏ Đang tập buổi cuối cùng Để đón lễ Phục sinh
Giờ chỉ còn những đám mây Phiên bản của đàn bò Bay trên cánh đồng Của những con bò khác
Chiếc nôi lật ngược Tiếng khóc rơi xuống tã lót rách bươm, lời mẹ ru không khâu vá nổi tôi và em đi xa sa mạc con Sphanh buồn bã khi bọn cướp đục thủng lấy mất quả tim tôi và em trên da bụng em nườm nượp tiếng khóc theo nhau thành dòng nước lũ cả căn hầm chữ A chiếc áo nâu thế hệ mà nỗi đau vo ve từng hạt máu đong đầy nghĩa địa.
Huế và mưa 92
Đọc thêm: Bùi Công Thuấn-10 khuôn mặt thơ trẻ đương đại
Nhà ông trưởng thôn bị con đường đâm thẳng vào cửa. Mở sách Lý Số ra xem có họa.
Sách còn ghi ở mục Nốt ruồi trang 267 dòng thứ ba từ dưới lên… ám chỉ những người tơ tít, lăng nhăng…
Nhận đúng nốt ruồi bên mắt trái chị thu tiền điện đêm qua bị bắt quả tang đang ôm hôn ông trưởng thôn trong quán thịt chó… “Biên bản lập thành 05 bản Có giá trị pháp lý như nhau”.
Lão chủ quán thịt chó biết lắm chuyện bị người khác đến nắm tình hình bị lấy lời khai suốt năm tiếng đồng hồ về đến ngõ vợ đã mắng té tát Bạc đầu còn ngu!
Lão cay mũi ức đến tận cổ nhưng nghĩ đi nghĩ lại thấy đúng quá lén lút uống dăm ba chén rượu ra sân nhìn nắng lên.
Lần sau biết chỉ để bụng Nói ra làm gì.
7.Ly Hoàng Ly
Người trong tranh
Những người đàn bà Đi đi lại trong bức tranh khổ vuông Những nhát mầu bết họ vào sơn
Những người đàn bà màu đen Đi lại trong đêm Tóc hất ngược ra sau Trên mặt phẳng bức tranh dang dở
Những người đàn bà khô queo Vì đi lại quá nhiều Quẩn quanh bức tranh khổ vuông do người khác vẽ Đi được đến đâu Khi xác đã bệt lại bởi những nhát mầu
Cầm chiếc bay Cạo xác từng người đàn bà ra khỏi tranh Thấy mình cũng rời ra từng mảnh Không đau đớn 2001
Đọc thêm: Bùi Công Thuấn-10 khuôn mặt thơ trẻ đương đại
nhà thơ có việc vội phải đi chuyến tàu nhanh tay trái cầm theo bài thơ vừa làm xong chưa kịp đọc tàu nhanh chạy len qua những trái núi như mọi ngày mây vẫn đánh đai quanh sườn núi như mọi lần nhà thơ cảm thấy một
trái núi tách ra nhà thơ rời chuyến tàu nhanh tay phải một trái núi tay trái còn nguyên bài thơ chưa kịp đọc
Lm Hồng Phúc[*] kể: “Tôi có xu hướng làm thơ từ hồi học lớp 2, bài thơ đầu tiên được chấm điểm 8 ở lớp đã khích lệ tôi hướng về văn thơ. Sau khi thụ phong Linh mục, tôi đáp ứng nhu cầu của các giáo họ và hội đoàn xin thi hóa tiểu sử của các thánh quan thầy. Có thể nói “Tập thơ Các Thánh” ra đời trong bối cảnh đó và được thực hiện vào những năm 1980-1985”.
TẬP “THƠ CÁC THÁNH”
Tập Thơ Các Thánh của Lm. Hồng Phúc gồm các bài viết về Chúa Giáng sinh, về Đức Mẹ Vô Nhiễm và các thánh: Các thánh Anh hài, Thánh Phêrô nền tảng Giáo Hội, Thánh Phaolô Tông đồ, Thánh Anrê Tông đồ, Thánh Gioan Tông đồ, Thánh Simong Tông đồ, Thánh I-nha-xi-ô, Thánh Phan-xi-cô Xaviê, Thánh Laurensô, Thánh Xê-xi-li-a, Thánh Antôn Pađôva. Dõi bóng Thầy Anrê Phú Yên, Các thánh Tử đạo Việt Nam, Cha thánh Khoan. Tác giả cho biết: “Những bài thơ các thánh được chuyển thể từ tiểu sử các thánh, những trang Tân Ước được thi hoá và suy niệm…Ước mong tập nhỏ này đem lại phần nào ích lợi cho bạn, và cho những ai thiện chí quan tâm”(Lời tựa tập thơ).
Như vậy Thơ Các Thánh của Lm Hồng Phúc có nguồn là tiểu sử các thánh và nguồn Tân Ước được thi hóa và suy niệm. Tác giả chỉ chuyển những câu chuyện thánh thành thơ, kết hợp với những suy niệm của mình. Mục đích của việc “chuyển thể” là “đem lại phần nào lợi ích” cho bạn đọc. Đó là những lợi ích tinh thần, lợi ích tâm linh, cụ thể đó là ơn Cứu Rỗi của Đức Giêsu lan tỏa qua cuộc đời các thánh theo góc nhìn khám phá riêng của tác giả. Thơ Các Thánh của Lm Hồng Phúc, trong bản chất sáng tạo, đã mang phẩm chất “thánh thiêng”. Đó không phải là thi ca thế tục để cảm nhận những mỹ cảm nghệ thuật, đó là “nghệ thuật thánh”, Cái Đẹp là chính Sự Cứu Rỗi. Bởi vì khi bạn cảm nhận được Cái Đẹp cuộc sống đạo và cuộc tử đạo của các thánh từ những bài thơ này, thì Cái Đẹp ấy là Cái Đẹp trọn hảo quy hướng về cuộc tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu. Đó chính là cốt lõi tư tưởng Mỹ học Kitô giáo trong thơ của Lm Hồng Phúc.
Tôi gọi những bài thơ này là “Thánh ca của thơ ca Công giáo Việt Nam đương đại”, là vì, trước hết, mỗi bài thơ là một trường ca reo vui hân hoan, ngợi ca các thánh tử đạo về đời sống đạo hạnh, về đức tin kiên trung, về lòng dũng cảm phi thường và về cái chết vinh quang của người theo Chúa. Những bài “Thánh ca” này thuộc lại truyện thơ, có cốt truyện giàu tình huống, cách kể truyện hấp dẫn truyền lửa đức tin cho người đọc. Khi tiếp cận những bài “thánh ca” này, người đọc như được sống với bầu khí thơ ca truyền thống Việt Nam (Ca dao, Dân ca, truyện thơ khuyết danh). Bầu khí ấy có khả năng lan tỏa rất rộng trong cộng đồng vì tác giả hướng về cộng đồng dân Chúa để chia sẻ. Lời thơ là ngôn ngữ, giọng điệu tiếng Việt đời thường, nhập tâm người đọc tức thời. Nhà thơ thể hiện được tâm tình mộc mạc chân thành của nhà đạo, và làm sáng lên niềm tin kiên trung từ đầu nguồn Kinh thánh, trải qua suốt dòng lịch sử Giáo hội đến đầu thôn xóm vắng, và đến pháp trường đẫm máu tử đạo. Ở mỗi cuối bài trường ca còn có một đoạn “Thi ca cầu nguyện”, đoạn thơ ấy khi đọc lên, sẽ là cung giọng, tâm tình và niềm xác tín như khi người Công giáo đọc kinh văn hàng ngày. Đây chính là chỗ “thánh thiêng” khác của mỗi trường ca.
Xin đọc đoạn kết bài thơ Thánh Phê rô
Lạy ơn Thánh cả Phêrô
Chúng con thành kính tung hô danh Người
Giờ đang vinh hiển trên trời
Trần gian Giáo hội muôn đời nhớ ghi.
Toà nhà Giáo Hội lâm nguy
Có nền Đá thánh sợ gì phong ba.
Xin cho Giáo Hội gần xa
An bình sống đạo, hài hoà yêu thương.
Vươn lên thành một Thánh đường
Có nền Đá tảng can trường Phêrô.
Nóc là chính Đức Kitô
Kết liên thành bởi mạch hồ yêu thương.
Xin cho Giáo hội can trường
Cho Kitô hữu khang cường vững tâm.
Trọn đời theo bước thánh nhân
Lòng tin son sắt tinh thần hăng say,
.Hết lòng mến Chúa mỗi ngày,
Cùng Ngài hưởng Chúa đời này, đời sau./.
Điều rất lạ là, thơ của Lm Hồng Phúc thật hấp dẫn khi tác giả viết về những điều đã rất
quen. Hầu như người Công giáo Việt Nam nào cũng đã từng được nghe giảng về các thánh tông đồ trong Tân Ước, nghe kể về các vị Thừa sai đến rao giảng Tin Mừng ở phương Đông, nghe lịch sử các thánh tử đạo Việt Nam thời bách hại Quang Trung, Minh Mạng, Thiệu Trị Tự Đức… Các ngài đã được vinh danh. Điều gì làm nên vẻ đẹp ấy của thơ Hồng Phúc? Đó là chỗ kỳ diệu của nghệ thuật, và là sự độc đáo của một cá tính sáng tạo.
Có thể nhận thấy sức hấp dẫn của những bài “Thánh ca” của Lm Hồng Phúc được kết tụ từ nhiều vỉa tầng văn hóa Việt.
Đầu tiên là một cốt truyện hấp dẫn. Cuộc đời của các vị thánh là những câu chuyện mới lạ đối với giáo dân Việt Nam. Các thánh Tông Đồ được nhắc đến trong Kinh thánh, nhưng mấy người biết rõ về cuộc đời thánh nhân. Các vị Thừa Sai phương Tây đến Việt Nam truyền giáo đều là những người kiệt xuất. Những ngày đầu đến Việt Nam, các vị hết sức gian nan, đặc biệt trong 300 năm bị vua chúa phong kiến bách đạo, các vị đã sống thầm lặng và kiên vững việc loan báo Tin Mừng một cách phi thường. Những cuộc đời thánh nhân ấy ngày nay chúng ta khó hình dung nổi. Và đặc biệt là các vị thánh tử đạo Việt Nam, họ từ trong các thôn làng bước ra. Đơn sơ, mộc mạc và chân thành. Từ trong bùn đất ruộng đồng họ làm tỏa sáng khuôn mặt đức Kitô trước mặt nhân gian. Họ lẫm liệt bước lên đài tử đạo. Những “dân đen” ấy bỗng rực rỡ ơn phúc trường sinh giữa pháp trường.
Xin đọc: Thánh Đê-Phúc Nhạc, trong bài Các thánh tử đạo Việt Nam (178 câu),trích đọan 71 câu nói về bà thánh Đê:
“Thánh nữ duy nhất lại là
Thánh Đê Phúc Nhạc – oa gia tận tình.
Một bẩy tám mốt (1781) năm sinh
Bái Điền – Yên Định – tỉnh Thanh quê bà.
Nhưng là quê nội của cha
Mẹ quê Phúc Nhạc, nên bà theo ra.
Tuổi mười bẩy lên xe hoa
Hai trai, bốn gái, cả là anh Đê.
Quê có thói, đất có lề
Gọi tên con cả thay về tên riêng.
Ông bà Đê sống dịu hiền
Nuôi con trách nhiệm, dạy khuyên ân cần.
Giầu lòng thương kẻ cơ bần
Giúp Thừa sai ẩn những lần truân chuyên.
Một tám bốn mốt (1841) nguyên niên
Đời Vua Thiệu Trị ngự trên ngai vàng
Quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh
Dẫn năm trăm lính khắp làng bủa vây.
Bốn Thừa sai ẩn nơi đây
Hai Cha kịp thoát, hai đầy nguy nan:
Cha Nhân bị bắt mở màn
Kế là Cha Lý vừa sang khu vườn
Nhà bà Đê, trốn dưới mương
Oa gia cũng bị lên đường giải đi.
Thành Nam nổi tiếng một kỳ
Sáu ngày giam giữ, rồi thì khảo tra.
Roi đòn, thanh củi rách da
Đàn ông hết nổi nữa là nữ tôi
Nhưng nhờ ơn Mẹ trên trời
Tôi không đau đớn, mặc người tấn tra.
Bà Đê tâm sự thiết tha
Khi con thăm viếng, chồng ra ngỏ lời.
Hai, ba kỳ nữa luôn hồi
Lính vừa túm đánh, vừa lôi kéo bà
Qua Thánh Giá để được tha
Bà tuyên xưng Chúa, kêu la phân trần.
Túm tay áo lại, có lần
Quan thả rắn độc vào thân xác bà.
Vài vòng rồi rắn bò ra
Vì bà bình tĩnh nên bà vô can.
Bà bị đánh đập bạo tàn
Thân máu mủ vẫn dịu dàng vui luôn.
Và còn muốn chịu khó hơn
Đó lời nhân chứng tận tường nói ra.
Chị Nụ khi đến thăm bà
Thấy mẹ đau đớn liền oà khóc lên
Dịu dàng bà ngỏ lời khuyên
“Đấy là áo mẹ điểm thêm hoa hồng
Mẹ chịu vì Chúa vui lòng
Sao con nước mắt lưng tròng làm chi?
Hãy về sốt sắng thực thi
Đọc kinh, dự lễ và hy sinh nhiều
Cầu cho mẹ được sớm chiều
Vác Thánh Giá Chúa tin yêu đến cùng.
Chẳng bao lâu nữa Thiên cung
Mẹ con đoàn tụ hưởng chung phúc trời”.
Hồn bà thanh thoát thảnh thơi
Nhưng ngoài thân xác tả tơi điêu tàn.
Lại thêm kiết lỵ hoành hành
Sức càng suy kiệt, bệnh càng gia tăng.
Hai nữ tu cùng phòng giam
Hết lòng săn sóc lo toan cho bà.
Các Cha gửi thuốc thăm và
Xức dầu, giải tội rất là ủi an.
Cuối cùng trong chút hơi tàn
Phó hồn trong Chúa vẹn toàn ý Cha.
Sáu mươi tuổi vẫn nở hoa
Góp về vườn thánh chan hoà diệu quang.
Xác bà tẩm liệm vào quan
Do Nhà Chung cấp táng an pháp trường
Sáu tháng sau đã liệu phương
Cải táng Phúc Nhạc Nguyện đường hôm nay.”
Văn học Việt Nam trung đại chưa hề có những hình tượng nhân vật người phụ nữ như thế. Bạn đọc có thể so sánh Inê tử đạo vãn, Thánh Đê-Phúc Nhạc với Thúy Kiền (trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du), với Kiều Nguyệt Nga (Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) để nhận thấy sự khác biệt này. Inê tử đạo và bà thánh Đê tử đạo là người Việt Nam, một nhân vật hiện thực, được miêu tả cụ thể trong một hoàn cảnh cụ thể, giữa cộng đồng gia đình, làng xóm, quan trường và bối cảnh thời kỳ bách đạo, tỏa sáng tư tưởng thần học và mỹ học Kitô giáo. Trái lại, Thúy Kiều, Kiều Nguyệt Nga là nhân vật Trung quốc, nhân vật hư cấu. Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu xây dựng nhân vật thể hiện tư tưởng và đạo đức phong kiến. Văn chương của Đoạn trường tân thanh và Lục Vân Tiên nằm trong trường thi pháp thơ Trung quốc, trái lạ những bài “Thánh ca” của Lm Hồng Phúc là những đóa hoa sen trong trường thi pháp thơ ca dân gian Việt.…
Xem xét kỹ hơn kiểu nhân vật trong thơ của Lm Hồng Phúc, Các vị thánh được miêu tả như những người bình thường, nhưng mang phẩm chất nhân vật anh hùng. Văn học Việt Nam có nhiều nhân vật anh: anh hùng Gióng (trong truyền thuyết), nhân vật Từ Hải (người anh hùng lý tưởng của Nguyễn Du trong trong Truyện Kiều), những anh hùng nông dân đánh giặc (trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu), cô Chí điên (trong Trùng Quang Tâm Sử của Phan Bội Châu), họ được miêu tả ước lệ theo khuôn mẫu văn học Trung quốc.…Trong “Thánh ca” của Lm Hồng Phúc, sức mạnh của các “anh hùng tử đạo” là đức tin kiên trung, là ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần khi người giáo dân phải đối mặt với quyền lực trần gian và ngọn lửa lòng mến cháy rực có thể thiêu đốt mọi đau khổ của tù đày, nhục hình tra tấn dã man và của cái chết thê thảm, để hiến lễ trở nên tinh tuyền. Lm Hồng Phúc đã đem vào thơ ca Công giáo Việt Nam những nhân vật anh hùng mới tràn đầy sức lực như thế.
Cái chết của Simong:
“Và đây dòng máu chứng minh
Simong phải chịu cưa mình làm hai.
Ta-đê thì chúng lại sai
Lý hình thẳng cánh chém Ngài chết tươi.
Ôi dòng máu thắm đổ nơi
Pháp trường năm ấy muôn đời nhớ ghi.
Vinh thay Thiên Chúa uy nghi
Đẹp thay hai thánh chết vì Chúa chiên!
Lòng thành bất khuất trung kiên
Từ nay bừng sáng chiếu trên thế trần…”
Sức hấp dẫn của những “Thánh ca” của Lm Hồng Phúc còn được xây dựng trên âm hưởng những truyện nôm của văn học dân tộc. Người Việt nào cũng từng đọc truyện thơ Nôm: Đoạn trường tân thanh, Lục Vân Tiên, Bích câu kỳ ngộ,…Cái âm vang của những tác phẩm này đánh thức cái hồn thơ sâu thẳm lưu trú trong tâm khảm mỗi người khi đọc thơ Hồng Phúc. Thơ Hồng Phúc gần gũi lắm, gan ruột lắm, thánh thiêng lắm. Đọc xong thơ Hồng Phúc, người đọc nghiệm ra cái quý giá lạ lùng của thơ ca Công giáo là như thế nào. Bởi vì đó là tình thương Cứu Độ, là giá máu của cha ông chúng ta đã đổ ra để làm chứng cho đức tin, là sự chiến thắng thế gian, chiến thắng cái chết của những con người bé nhỏ hết sức lương thiện, và cũng là tâm nguyện của người theo Chúa hướng lên mỗi ngày (xin đọc thơ cầu nguyện ở cuối mỗi bài thơ).
Xin đọc trong âm hưởng thơ ca dân tộc: đoạn viết về Gioan tông đồ, lời thơ mộc nhưng đẹp.
“Có những lúc bôn ba rao giảng
Có những khi thanh thản nguyện cầu.
Khi thì dưới biển thẳm sâu
Khi trên đỉnh núi nhiệm mầu vinh quang.
Cả những lúc trong đoàn Tông sứ
Chúa chọn riêng đệ tử thân yêu
Tỏ nhiều mầu nhiệm cao siêu
Chứng minh phép lạ chữa nhiều bệnh nhân.
Luôn có mặt Gioan số đó
Giacôbê cùng với Phêrô
Những người thành tín đơn sơ
Bộ ba nghĩa thiết, tông đồ Chúa yêu.
Và được Chúa thương nhiều hơn hết
Vẫn Gioan trinh khiết trẻ trung…
Sức hấp dẫn của ngòi bút Hồng phúc trong những bài “Thánh ca” còn là sự điêu luyện của thể thơ Song thất-Lục bát. Mạch thơ tuôn chảy như giòng lũ không gì ngăn cản được. Nhạc thơ tự nhiên như nhạc của tiếng Việt, lúc thì thầm sâu lắng, lúc vút lên thinh không và lan tỏa đến khắp các bờ bãi, lúc lại rôm rả như những câu chuyện của người dân quê đầu mùa gặt hái nơi đồng nội. Vốn từ nhà đạo trong thơ Hồng Phúc khá giàu có, đặc biệt là vốn từ tạo nên hòa âm tráng ca, vốn từ đan dệt những lời tâm tình, vốn từ hội tụ sức mạnh khẳng định đức tin và khắc tạc những tượng đài tử đạo lẫm liệt của các vị thánh tử đạo. Cái chết dù dữ dội kinh hoàng, song dưới ngòi bút của Lm Hồng Phúc, lại trở nên hân hoan, rực rỡ hào quang và hết sức thăng hoa.
Xê-xi-lia tử đạo:
“Xê-xi bị kết án riêng
Nhốt trong phòng tắm kín liền ngạt hơi.
Nhưng nhờ ơn Đức Chúa Trời
Người quỳ bình tĩnh không ngơi nguyện cầu.
Quan truyền cho lính chém đầu
Ba lần lính chém vẫn hầu không sao.
Ba ngày trong vũng máu đào
Người còn khuyên giảng ai vào viếng thăm.
Cuối cùng thỏa nỗi khát mong
Chịu ơn Đức Thánh Cha xong, sinh thì.
Hai ngàn năm đã qua đi
Một năm chín chín (1599) sử ghi rõ ràng
Người ta khai mộ trong hang
Xác vì trinh nữ vẫn đang nguyên tuyền…”
Nói ngôn ngữ thơ Hồng Phúc mộc mạc chân chất, gần gũi với công chúng không có nghĩa nhà thơ không dụng công trong việc chọn lọc ngôn từ. Thơ Lục bát đòi hỏi một vốn từ giàu có để gieo vần. Người làm thơ Lục bát nếu nghèo vốn từ, sẽ gặp bế tắc ngay. Nhịp thơ 2/2/2 của Lục bát yêu cầu sử dụng những từ 2 chữ (từ ghép, từ láy) phù hợp. Nếu làm vỡ nhịp 2/2, sẽ làm hỏng nghĩa của từ ghép, và kéo theo sự sụp đổ câu thơ. Nhiều người làm thơ Lục bát không vượt qua được hiểm địa này. Thơ bị ép vần, phải dùng chữ sáo rỗng cho có nhạc, và nhạc luật lại bị bẻ gẫy một cách vụng về. Lm. Hồng Phúc vượt qua cái giới hạn “sơn cùng thủy tận” trong dùng từ, gieo vần, kết nhạc để viết những trường ca mượt mà, ngọt ngào, tươi thắm; thơ thăng hoa như gió ngàn như thác đổ mùa mưa lũ, phóng khoáng như mây bay đỉnh núi, vậy mà lời thơ vẫn mộc mạc, cốt truyện chặt chẽ, thơ không vuột bay vào thế giới lãng mạn. Nhà thơ biết mình đang nói chuyện với ai, rao truyền điều gì, chia sẻ tâm nguyện gì với người đọc. Trong sự kiến tạo phức tạp các yếu tố tự sự và sự dào dạt của cảm xúc, những tứ thơ đẹp đột nhiên xuất hiện, nối theo nhau như một đóa hoa thắm nở giữa đại ngàn xanh.
Đẹp biết bao dáng Môi-sê trên núi
Tay vươn cao như thẳng tới nước trời.
Đẹp biết bao tư thế một con người
Quỳ cầu nguyện dẫu đầu rời khỏi cổ !
Thực tình là, nói cái hay cái đẹp trong thơ của Lm Hồng Phúc là rất khó. Bởi Cái hay cái đẹp nằm trong toàn bài, và mỗi bài là một trường ca. Cắt khúc lấy ra một đọan để đọc thì chẳng khác nào cắt rời một phần chi thể. Đó sẽ là một chi thể chết. Sẽ không còn Cái Đẹp nữa.
Có một điều mà người đọc thơ của Lm Hồng Phúc có thể ít để ý, đó là sự uyên bác trong việc nhà thơ tổng hợp Kinh thánh. Chẳng hạn, trong bài Mừng Chúa Giáng sinh, tác giả đã Tổng hợpvà “thi hóa” (Is 45,8), (Is 12,2), (Is 40, 3-5), (Is 12. 4-6), (Tv 18a,6), (Dt 1, 1-2), (1Ga 4,2), (1Ga 4,9), (Co1 1.17-20), (Lc 2,12). Việc tổng hợp này vừa để tạo dựng cốt truyện, vừa xây dựng nhân vật hoặc để suy niệm. Kinh thánh trở nên một nguồn mạch tự nhiên mà cả tác giả và người đọc cùng đắm mình trong đó, thế nên câu chuyện được kể và những lý giải của tác giả dễ dàng được người đọc chia sẻ. Nói cho đúng, những đoạn Kinh thánh được trích dẫn là những “Diễn ca” nằm trong cấu trúc truyện. Điều này giúp người đọc nhận ra năng lực “diễn ca” của Lm Hồng Phúc, nhưng ngài không chọn thể loại “diễn ca”, mà chọn thể loại tự sự (kể chuyện), bởi tự sự phát huy khả năng sáng tạo dồi dào của nhà thơ hơn. Xin đọc:
Kể từ nguyên tổ ngã thua Chúa thương hứa Chúa Kitô cứu đời. Không có thể hết lời diễn tả
Tổ phụ bao đời đã ước mong Ngày đêm tha thiết đợi trông Chúa Trời sinh xuống cứu dân tội tình.
Lời kêu gọi sinh linh tha thiết Như lưu truyền qua hết mọi thời Như mong nối kết đất trời Isaia đã cất lời cao cung: “Trời cao hỡi đổ sương sa xuống Hỡi ngàn mây mưa Đấng công bình
Đất mau cứu độ nẩy sinh Mở cho chính trực vươn mình lên cao” (Is 45,8) Đêm hôm nay, đêm bao hạnh phúc Đêm thoả niềm thao thức khát mong Hoàn thành giao hứa tổ tông “Như tân lang Chúa rời phòng viếng thăm” (Tv 18a,6) “Thuở xưa Chúa nhiều lần nhiều cách Dạy cha ông qua các tiên tri Nhưng thời sau hết đây thì Dạy qua chính Chúa diệu kỳ Ngôi Hai” (Dt 1, 1-2)
Đến đây, người đọc có thể nghiệm ra những giá trị đặc sắc trong tập “Thơ các thánh”
của Lm Hồng Phúc được kết tụ từ nhiều nguồn văn hóa, trước hết là tư tưởng Mỹ học Kitô giáo và nguồn cảm hứng vô tận là Kinh thánh. Những phẩm chất mới mẻ ấy của thơ Hồng Phúc triển nở trên nền thi ca truyền thống của dân tộc, và làm phong phú hơn dòng “Diễn ca”, dòng “Truyện thánh”, dòng “Kinh vãn” của văn học Công giáo truyền thống…và nói cho cạn nhẽ, những giá trị ấy xuất phát từ sự sâu sắc uyên bác của một đời thơ, ở cảm xúc dạt dào lửa mến trong lòng người Mục tử của Chúa và ở lòng nhiệt thành của một Ngôn sứ rao truyền Ơn Cứu Độ cho mọi người…
TẬP THƠ “NHỮNG BƯỚC SÓNG YÊU THƯƠNG”
Lm Hồng Phúc cho biết, ngài được vào Nhà Chúa ngày 14/09/1975. Đức Giám mục Phaolô Bùi Chu Tạo là người trực tiếp đào tạo và truyền chức Linh mục cho ngài ngày 22/03/1980.Sau 5 năm tại TGM Phát Diệm, ngài bị Chính quyền bắt đi quản chế tại một họ lẻ thuộc giáo xứ Ninh Bình. 4 năm quản chế (1985 – 1989) là thời gian ngài sáng tác các bài thơ thể hiện những suy tư đạo đức và tâm tình cầu nguyện…rất riêng, sau này biên tập thành tập thơ có chủ đề “Những bước sóng yêu thương”. Ngài thổ lộ: 25 bài đầu tiên như mỗi bước sóng hướng về kỷ niệm Ngân khánh Linh mục của ngài, và nếu Chúa cho ngài được mừng Kim khánh Linh mục thì ngài sẽ cố gắng sáng tác 50 bài để tạ ơn Chúa.
Những chi tiết về đời sống mục vụ của Lm Hồng Phúc tôi vừa nêu sẽ giúp người đọc hiểu được đôi đều về tập thơ Những buốc sóng yêu thương.
1.“Những bước sóng yêu thương”(44 bài) được sáng tác trong thời gian Lm Hồng Phúc bị quản chế (1985-1989), điều này có ý nghĩa gì? Ai đã sống những năm tháng từ 1975 đến thời “đổi mới”(1986) đều thấu hiểu những khó khăn lớn lao mà đất nước và người dân phải trải qua. Hậu quả của 30 năm chiến tranh, rồi bão lụt, mất mùa, cả nước phải ăn độn ngô khoai, bo bo. Sau đó là cải tạo Xã hội Chủ nghĩa ở miền Nam, chiến tranh biên giới phía bắc, phía Tây nam tổ quốc. Trên thế giới, các nước Xã hội Chủ nghĩa như Liên xô, Đông Âu sụp đổ, khiến cho Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Lm Hồng Phúc tu học rồi chịu chức Linh mục và sống đời Mục vụ trong giai đoạn hết sức khó khăn ấy (1975-1985), hẳn nhiên người sống Đời dâng hiến còn gặp khó hơn người dân nhiều. 4 năm ngài bị quản chế (1985-1989) phản ánh những khó khăn của hiện thực giai đọạn ấy.
Điều rất lạ là, thơ Lm Hồng Phúc làm trong giai đoạn ấy tuyệt nhiên không phản ánh cái bối cảnh lịch sử-xã hội, cũng không có lời than thở nào về hoàn cảnh riêng của ngài. Có chăng trong thơ, chỉ thấp thoáng một nét buồn thoáng qua nhưng lại tràn trề hy vọng.
“Đời dương thế nụ cười – nước mắt
Có vụ gieo, vụ gặt theo thời
Xuân qua, nắng hạ đến rồi
Bốn năm quản chế bùi ngùi xa quê”.
(40 năm hồng ân)
2. Có lẽ thời gian bị quản chế là thời gian Lm Hồng Phúc dành để suy tư, vì thế thơ trong “Những bước sóng yêu thương” bộc lộ nhiều nghĩ suy. Nhà thơ suy tư về những vấn đề gì? Lm Hồng Phúc thổ lộ: đó là “Những suy tư đạo đức và tâm tình cầu nguyện gói đọng trong những bài thơ rất riêng”. Nhan đề các bài thơ giúp người đọc nhận ra tâm tư của nhà thơ trong giai đoạn ấy: tâm tư quy hướng về Chúa:Chúa trong im lặng, Tin Chúa ở cùng, Chầu Thánh Thể, Tình yêu thánh giá, Của ăn là ý Chúa, Giêsu -lửa từ trời, Chỉ trong Đức Giê su Kitô, Tình Chúa tình con, Tình Cha, Tình Mẹ, Một đời tận hiến, Tình yêu thật, Tình yêu trinh khiết, Nét đẹp tâm hồn, Nét đẹp chân tu, Hiền lành, Khiêm nhường, Nên giống trẻ thơ, Ngọn nến cuộc đời, Thời gian, Con muốn, Bụi gai, Phúc lành của Cha.
Đó là hành trình tư tưởng của một Mục tử, của người sống “Một đời tận hiến” trước những biến động lớn lao của hiện thực. Căn cốt nhất vẫn là vấn đề sống đức tintrong đời thường.
Chúa ôi, con gọi tiếng âm vang
Chìm vào vũ trụ đoạn dần tan.
Tiếng con nấc nghẹn trong thống hối
Chúa có nghe chăng tiếng thở than?
(Chúa trong im lặng)
Bao nhiêu người theo Chúa đã cầu nguyện, đã thiết tha kêu nài, xin Chúa cho được
biết thánh ý Chúa, xin Chúa cho mình ơn này ơn kia…nhưng hầu như Chúa luôn im lặng. Trước sự im lặng của Chúa, con người rơi vào hư không! Chính Đức Giêsu trong thân phận con người trên thánh giá, đã từng rơi vào những giây phút ấy. Ngài kêu lên: “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma sa-bác-tha-ni!” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”(Mc 15, 34). Cho nên đối diện với sự im lặng của Chúa chính là sự thử thách đức tin khó khăn nhất, đòi buộc mỗi người phải tìm cho được câu trả lời, có vậy đức tin mới kiên vững.
Vấn đề tư tưởng này được giải quyết thế nào? Người vững tin, sống phó thác, thì tự an ủi rằng, Chúa đã nói: “hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11, 9-13). Người yếu đuối thì ngã lòng. Bài thơ “Chúa trong im lặng” của Lm. Hồng Phúc là một lý giải đầy thuyết phục. Trước hết, tác giả “tự giác ngộ” về sự im lặng của Chúa, và “khai tâm” cho người đọc về một Thiên Chúa rất thực, rất sống động, đang nói với mình trong im lặng.
Tác giả trích lời thánh Gioan Kim Khẩu để nêu một yêu cầu:
Khúc sông lặng chảy, trải màu xanh
Thường là sâu nhất dẫu hiền lành.
“Chúa luôn chỉ nói trong im lặng
Cho người nghe Chúa với lòng thanh”
Rồi Lm. Hồng Phúc khám phá thái độ im lặng của Chúa trong Kinh thánh: Chúa im
lặng lúc chịu phép rửa trên sông Gioóc-đan, “Người lên khỏi nước. Lúc ấy các tầng trời mở ra;…(Mt 3, 13-17); Chúa im lặng trên núi Ta-bor: “Núi Ta-bo Chúa tỏ vinh quang/ Tông đồ chiêm ngưỡng cảnh huy hoàng”; lúc Phê rô yếu đuối:
Chúa quay nhìn lại đầy trìu mến
Im lặng cháy lòng, suối lệ chan!
Trên đường thập giá, gặp Đức Mẹ, Chúa lặng nhìn. Và “Ba giờ thầm lặng trên Thánh
giá/ (Chúa) Yêu đến tận cùng chốn dương gian”.
Từ những suy nghiệm ấy, Tác giả chia sẻ:
“Chúa vẫn lặng im tựa biến tan,
Mênh mông trầm lắng vượt không gian
Chính từ im lặng ta nghe rõ
Tiếng của tình yêu Chúa Thiên đàng”.
Nói vậy để người đọc hiểu điều này, mỗi khi ta cầu nguyện với Chúa, đối diện với sự
im lặng của Chúa, thì hãy đặt mình vào những hoàn cảnh của Kinh thánh để nghe được tiếng Chúa: “Chính từ im lặng ta nghe rõ/ Tiếng của tình yêu Chúa Thiên đàng”. Chỉ cần chiêm ngắm Chúa thì đã thấy tầng trời mở ra, chỉ cần ở bên cạnh Chúa thì đã thấy vinh quang của Tabore, chỉ cần sự thống hối của Phêrô thì đã nhận được ơn tha thứ và chỉ cần kêu lên “Chúa ơi xin cứu con” như Phêrô lúc sắp chìm đắm (Mt 15, 30) thì sẽ được Chúa đưa tay đón lấy. Đấy là xác tín của Lm Hồng Phúc.
Nhưng tin thì chưa đủ, môn đệ Chúa còn phải có lòng Mến. Đức Giêsu đòi buộc: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”(Mt 22, 37). Đức Giêsu đã hỏi Phêrô 3 lần: “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có Yêu mến Thầy không?” (Ga 21, 17). Phêrô ở bên Chúa, được Chúa dạy dỗ hàng ngày, thì tình cảm yêu mến Chúa dễ phát sinh. Đối với môn đệ Chúa hôm nay, sống cách xa Đức Giêsu hơn 2000 năm, lại rất khác về văn hóa, và chưa hề bao giờ được nhìn thấy chân dung thật của Đức Giêsu, có chăng chỉ là sự tưởng tượng qua các hình vẽ, vậy làm sao có thể yêu Chúa? Và nếu không có một tình yêu mãnh liệt, kiên trung với Chúa thì không thể sống đời dâng hiến. Lm Hồng Phúc đã viết nhiều bài về vấn đề tư tưởng này: Tình Chúa tình con, Tình Cha, Tình Mẹ, Tình yêu thánh giá, Tình yêu trinh khiết, Chỉ trong Đức Giê su Ki tô.
Trắng trong như tuyết như sương
Ngạt ngào như gió quyện hương hoa hồng.
Chảy tràn như một dòng sông,
Mới luôn như cảnh hừng đông chan hoà.
Chúa ơi, giờ phút thiết tha
Con nguyền làm nến, làm hoa bàn thờ.
Để yêu mến Chúa vô bờ,
Làm đèn chầu Chúa mọi giờ cháy liên.
Xin tha con hết tội khiên
Và ban ơn phúc siêu nhiên chan hoà.
(Chầu Thánh Thể)
Chúa yêu con, yêu quá sức Chúa ơi!
Biết lấy chi đền đáp Chúa trọn đời?
Con xúc động ngẹn lời không thành tiếng.
Sống mãnh liệt tình yêu ngày tận hiến
Nguyện đời con như ngọn nến hôm nay.
Trên Bàn Thờ đầy lửa cháy ngất ngây
Con mãi mãi đắm say đời tận hiến.
(Ngọn nến cuộc đời)
Nhà thơ lý giải lòng mến của mình. Xin chú ý cách lập luận tương phản (Cha/Con), cách đưa dẫn chứng (Ga 15, 13), cách nêu vấn đề và kết luận, và các từ nối dùng trong văn nghị luận: Nhưng, vì, chính vì, Chính là:
Khi suy nghĩ cực hình Cha đau khổ,
Con bùi ngùi thấy xấu hổ bản thân,
Đau thương con thật nhỏ bé vô ngần
Nhưng con lại muốn ngàn lần xa tránh.
Trong khi đóCha một mình nhận lãnh
Một mình Cha chịu đựng cảnh cô đơn,
Thật mình Cha là tột đỉnh tình thương
Vì đau khổ và yêu đương là một!
Chính vì thế trong chương trình cứu chuộc
Cha dạy: “Không tình nào vượt tình yêu
Của người dám thí mạng sống cao siêu
Hiến trọn vẹn vì tình yêu bạn hữu.” (Ga 15,13)
Đây Thánh Giá mà chính Cha gánh chịu
Con lặng nhìn và thấu hiểu tình yêu,
Chính là tình rất quảng đại cao siêu
“Hiến trọn vẹn vì tình yêu bạn hữu”!
Nhà thơ hứa với Chúa:
Ơn cha ban nay con xin ghi tạc
Cảm tạ Cha con ca hát đêm ngày,
Dâng lên Cha lòng yêu mến đắm say
Hứa với Cha sống từ nay mãnh liệt.
Con yếu đuối nhưng chính Cha đã biết
Con bội ơn Cha vẫn thiết tha yêu
Đây tim con giờ ân phúc sớm chiều
Xin dâng trọn với bao nhiêu cảm tạ!
Để yêu mến Chúa, người theo Chúa trước hết phải cảm nhận được tình Chúa yêu ta là
vô cùng lớn lao, phải hiểu được những hy sinh của Chúa tất cả là vì ta, và phải ý thức được Chúa mong ta trở về với Chúa (dụ ngôn người cha nhân hậu-Lc 15, 11-32), nói một cách cụ thể, người theo Chúa phải lấy tấm lòng của một người con, hiểu rõ tình thương yêu, sự hy sinh của cha mẹ và những ước vọng của cha mẹ với con, lúc ấy mới có thể thương yêu sâu sắc cha mẹ mình. Đó là những khám phá và trải nghiệm của Lm Hồng Phúc trong thơ và trong đời thực về đức Mến đối với Chúa.
Vấn đề tư tưởng thứ ba được Lm Hồng Phúc đặt ra và giải quyết đó là người Mục tử
sống thế nào trong bối cảnh hiện thực của đất nước, của thời đại mình? Kinh thánh dạy rằng, người Mục tử sống giữa đoàn chiên, là người chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Đó là sứ mệnh không thể né tránh. Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói”(Lc 10, 3). Và Người cũng tiên báo “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5, 11). Và hẳn Lm Hồng Phúc đã trải qua những hoàn cảnh cụ thể như lời Chúa dạy (?). Vì thế Lm Hồng Phúc đã chọn lựa một thái độ sống theo Kinh thánh. Tác giả viết các bài thơ: Hiền lành, Khiêm nhường, Nên giống trẻ thơ, Ngọn nến cuộc đời, Nét đẹp tâm hồn, Nét đẹp chân tu, Thời gian, Con muốn…
Đời cầu nguyện sớm trưa, chiều tối
Cùng tâm tình sám hối canh tân…
Bôn ba, xuôi ngược dặm trường
Gọi mời, vun đắp tình thương Nước trời.
Tôi xúc động những gì của Chúa,
Tình yêu thương muôn thuở của Người,
Ưu tư cuộc sống hiện thời
Thiếu Lời Hằng Sống, thiếu đời nội tâm.
Nghĩ quá khứ: tri ân cảm tạ.
Nghĩ tương lai: trao cả tin yêu.
Hiện thời: sứ vụ bao nhiêu
Cậy trông nơi Chúa ban nhiều ơn thiêng
(40 năm hồng ân)
Thế giới này chứa đầy mâu thuẫn Nói hoà bình lại muốn chiến tranh. Yêu thương mà vẫn bạo hành. Chủ trương hợp nhất rồi đành phân ly.
Các cộng đoàn cũng y như thế Là một nhà chia rẽ hai, ba. Ngay trong thân xác chúng ta Cũng chia lành dữ, chính tà phân tranh. Thánh Phaolô chân thành bày tỏ: “Trong tôi nhận thấy rõ luật này
Việc lành: biết lại buông tay
Điều coi là xấu lại hay cứ làm.
Khốn thân tôi xác phàm nhục dục
Ai cứu đời trần tục giúp tôi” (Rm 7,15-24).
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi
Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn”(Tv 62,2)
(Chỉ trong Đức Giêsu Kitô)
…Xin cho con:
Được sống trong biển tình yêu chan chứa,
Được đắm chìm trong Chúa suối tình thương.
Được khiết trinh như huệ trắng ngát mùi hương.
Được trong trắng giữa đời vấn vương tội lỗi.
Xin Chúa nhận con:
Như giọt lệ của Ma- đa- lê- na thống hối
Như nai rừng bên nguồn suối tình thương
Như Gioan thổn thức nỗi sầu vương.
Và như người trinh nữ khôn ngoan
trên bước đường đón Chúa.
(Một đời tận hiến)
Và người Mục tử đã tìm thấy hạnh phúc hân hoan trên bước đường truyền
giáo của mình:
“…Sức còn trẻ thoả thuê chính xứ
Kiêm Quảng Nạp, Yên Thổ không xa
Quảng Phúc, Bình Hải một nhà
Đức ông Thiều trước, tôi là hậu sinh.
Vùng Sơn thuỷ hữu tình thoáng đãng
Giáo dân hiền, lo lắng phần hồn
Năm năm không có ngày buồn
Thể thao, cây cảnh cũng luôn đồng hành.
Những mùa đông tốt lành, thánh thiện
Giáng Sinh về hội diễn bình dân
Múa ca, hoạt cảnh, thơ ngâm
Tình người, tình Chúa âm thầm giao duyên…”
(40 năm hồng ân)
Như vậy, tập thơ “Những bước sóng yêu thương” đã đặt ra và giải quyết 3 vấn đề tư tưởng căn cốt của người môn đệ Chúa trong hoàn cảnh thực tại Việt Nam. Xin lưu ý, thơ của Lm Hồng Phúc không phải là thơ tư tưởng (tức là thơ thể hiện những tư tưởng triết học). Đó là suy tư về Đức Tin, lòng Mến và sự cậy trông nơi Chúa với tấm lòng của người con đối với Cha và Mẹ (bài Tình Chúa tình con, Tình Cha, Tình Mẹ). Thực ra nói như thế mới chỉ là phân tích vấn đề bằng lý trí nhận thức, chưa đủ để hiểu thơ của Lm Hồng Phúc (tập Thơ Các Thánh), cũng như không thể hiểu được thái độ sống đạo của hàng trăm ngàn giáo dân Việt Nam đã tử vì đạo (thời Tây Sơn , Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức). Còn một yếu tố chi phối toàn cục là yếu tố tâm linh. Đó là Ơn Chúa: Ơn Đức Tin, ơn của Chúa Thánh Thần. Yếu tố tâm linh này nằm sâu bên dưới những suy tư và không thể lý giải. Đức Giêsu nói: “…vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). Cho nên, trong mọi hoàn cảnh, thơ của Lm Hồng Phúc luôn vang lên lời cảm tạ Ơn Chúa.
Con quỳ gối đến muôn đời cảm tạ.
Con nguyện hứa dõi bóng cờ Thánh Giá.
“Trái tim con xin cắm cả hai tay” (ĐHV 445)
Trên vai con trung thành vác mỗi ngày
Con theo Chúa từng giây đời thánh giá./.
(Tình yêu Thánh giá)
Tập thơ “Những bước sóng yêu thương” cũng có những bài “Huấn ca” (Sao nghi ngờ, Sao chẳng có Đức tin, Hiệu năng cầu nguyện, Truyền giáo), và những bài thơ thế sự (Ơi Huế thân thương, Con thuyền với bão Covid, Sài gòn ơi thương lắm, Hướng về Trung Lao, Năm canh gà gáy, Hành trình sa mạc xưa và nay, Sa mạc cuộc đời, Biển, Mênh mông, Về nguồn) nhưng đó không phải là những chủ đề chính của tập thơ.
Thơ trong “Những bước sóng yêu thương” nhiều bài thuộc thể thơ 7, 8 chữ, kiểu Thơ Lãng mạn, song tuyệt nhiên thơ Hồng Phúc không chịu ảnh hưởng gì của thơ Lãng mạn. Nhiều bài nghiêng về sự chuẩn mực của thơ Thất ngôn Đường luật. Thơ đề cập đến những vấn đề tư tưởng hầu hết được cấu trúc theo kiểu tư duy chính luận: có lập luận, lý giải, dẫn chứng, có rút ra bài học nhận thức và hành động. Thơ hướng đến sự “giác ngộ” của chính tác giả và lan tỏa đến người đọc. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ trực tiếp, ngôn ngữ của nghĩ suy, ngôn ngữ bàn luận, không phải ngôn ngữ hình tượng. Vì thế chất nghệ thuật của những bài thơ này chỉ thể hiện ở sự khám phá những tư tưởng mới, ở sự uyên bác, sắc xảo của trí tuệ; không phải là ở những rung động cảm tính như thơ trữ tình (Xin đọc: Của ăn là ý Chúa, Chúa trong im lặng, Tình Cha. Bài Tình yêu chân thật chỉ có ý tưởng mà không có tứ thơ). Thế mạnh của Lm Hồng Phúc là trường ca Lục bát, Song thất lục bát trong thi pháp Ca dao.
ĐỊNH VỊ MỘT KHUÔN MẶT THƠ
Lm Hồng Phúc còn tập thơ “Hành hương-Du lịch” và các tập bút ký: Việt Nam-Rôma máu chảy về tin, Bên đường thiên lý, Cảm xúc miền đất thánh, Fatima trải nghiệm ơn thiêng. Song do khuôn khổ bài viết đã dài, tôi sẽ giới thiệu tiếp những tác phẩm còn lại của Lm Hồng Phúc trong một dịp tới.
Hai tập thơ Thơ Các thánh và Những bước sóng yêu thương đủ để khẳng định một khuôn mặt thơ Công giáo có những nét riêng. Những trường ca Song thất Lục bát, thể truyện ca trong thi pháp Ca dao của Lm Hồng Phúc là những “Thánh ca” của thi ca Công giáo. Tác giả cũng đặt ra và giải quyết một cách mới mẻ, đầy thuyết phục những vấn đề tư tưởng mà người theo Chúa luôn gặp phải.
Ở một phương diện khác, thơ và thái độ chọn lựa lối sống theo Tin Mừng của Lm Hồng Phúc có thể là một thái độ tiêu biểu mà người sống “Đời dâng hiến” đã chọn lựa trong hoàn cảnh cam go của đất nước (1975-1990).
Để hồn thơ bay lên:
Bôn ba, xuôi ngược dặm trường
Gọi mời, vun đắp tình thương Nước trời.
(40 năm hồng ân)
Tháng 1/ 2023
______________________
[*] Hành trình 40 năm Mục vụ của Lm Hồng Phúc:
1980 -1985: Phát Diệm, Phương Thượng, Hướng Đạo, Ứng Luật, Hòa Lạc, Phú Hậu, Tôn Đạo.
1985 – 1998: Ninh Bình, Áng Sơn, La Vân, Hào Phú. Hoàng Mai, Thiện Dưỡng .
1999-2004: Bạch Liên, Quảng Nạp, Quảng Phúc, Bình Hải, Yên Thổ.
2004 – 2012: Phát Diệm, Trì Chính, Phát Vinh, Yên Bình.
Tôi có thói quen ghi lại những sự việc, những hiện tượng văn học trong năm, trước hết là để làm tư liệu, và để chia sẻ với bạn văn đôi điều, bởi 2022 đã là quá vãng và sẽ qua đi mãi mãi. Dẫu thế nào, dưới một góc nhìn riêng, những gì ghi nhận được luôn là chủ quan và phiến diện.
ĐÃ THÀNH THIÊN CỔ
Năm 2022, nhiều nhà văn đã thành thiên cổ, họ ra đi trong sự tiếc thương vô hạn của người ở lại, và họ để lại một khoảng trống không thể lấp đầy. Khuôn mặt họ ngời sáng tài năng, dũng cảm và nhân cách giữa bao nhiêu bầm dập của cuộc đời. Thế hệ nhà văn nhà thơ đi sau chưa thấy ai có được cốt cách của họ.
Nhà văn Lê Lựu qua đời ngày 09/11/2022. Ông có nhiều tác phẩm: Người cầm súng (truyện ngắn, 1970); Phía mặt trời (truyện ngắn, 1972); Đánh trận núi Con Chuột (truyện dài thiếu nhi, 1976); Mở rừng (tiểu thuyết, 1977); Ở phía sau anh (tiểu thuyết, 1980); Ranh giới (tiểu thuyết, 1977); Cămpuchia một câu hỏi lớn (truyện ngắn, 1979); Đồng bằng chiến sĩ (truyện ký, 1980); Thời xa vắng (tiểu thuyết, 1986); Mặt trận của người lính (truyện ngắn, 1986); Một thời lầm lỗi (bút ký, 1988); Trở lại nước Mỹ (bút ký, 1989); Đại tá không biết đùa (tiểu thuyết, 1990); Chuyện làng Cuội (tiểu thuyết, 1993); Sóng ở đáy sông (tiểu thuyết, 1994); Hai nhà (tiểu thuyết, 2000); Thời loạn (2009); Chuyện quê ngày ấy (tiểu thuyết, 2010). Lê Lựu để lại dấu ấn trong lòng người đọc với tiểu thuyết Thời xa vắng (1986), góp phần làm nên dòng văn chương Dân chủ và Nhân văn thời “đổi mới”.
Nhà văn Trần Huy Quang qua đời 15/12/2022. Ông cũng để lại nhiều tác phẩm: Chiếc áo màu lửa (truyện ngắn, in chung, 1970), Sự trắc trở đã qua (truyện ngắn, 1984), Ngày mai (tiểu thuyết, 1985), Ngọn khói (tiểu thuyết, 1985), Người làm chứng (truyện và ký, 1988), Nước mắt đỏ (tiểu thuyết, 1988), Mối tình hoang dã (tiểu thuyết, 1990), Chị dâu (tiểu thuyết, 1994), Khúc hoàn lương (tiểu thuyết, 1995), Trần Huy Quang – phóng sự (1995); Nước mắt đỏ và những chuyện khác (2005); Chân trời xa thẳm (tiểu thuyết, 2008). Nhưng người ta nhớ thương ông là ở bút ký Câu chuyện về ông vua Lốp (1986) và truyện ngắn Linh Nghiệm trên Văn nghệ số ra 4/7/92 (số 92).
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua đời ngày 20/3/2021. Năm nay, năm 2022, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước với truyện ngắn Tướng về hưu và tập truyện ngắn Những ngọn gió Hua Tát. Đồng thời, Ban Chấp hành Hội Nhà văn Hà Nội đã quyết định trao Giải thưởng Thành tựu văn học trọn đời cho ông và các tác phẩm của ông. Trao giải thưởng cho Nguyễn Huy Thiệp là đúng bởi tài năng và đóng góp của ông cho sự đổi mới văn học Việt. Nhưng hình như người ta đã quên những gì nói về ông lúc ông còn sống và viết, cũng quên luôn những gì ông đã viết về nhà thơ, nhà văn Việt Nam (Trò truyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn-2004), để giờ đây, thay vào đó là những lời tụng ca, tôn vinh ông. Tôi nghĩ, chắc ông chỉ cười ruồi với những người đã khen hoặc chê ông. Ông viết: “Trước mặt tôi đây là giò hoa thủy tiên thơm ngát. Tôi biết rằng cả đời tôi, rồi cả hoa cũng chẳng còn mãi trên đời này. Thời gian trôi đi, giống như sóng biển kia vỗ bờ, giống như dã tràng kia xe cát, sự sống rồi cứ tiếp nối nhau không ngừng như thế đầy, vô cùng vô tận. – Mặc kệ chuyện thị phi “ (Trò chuyện với hoa thủy tiên…). Lưu ý rằng Nguyễn Huy Thiệp không chỉ có Tướng về hưu và tập truyện ngắn Những ngọn gió Hua Tát.
Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm từ trần ngày 14.01.2022. Ông nguyên là Ủy viên Hội đồng LLPB Hội Nhà văn Việt Nam. Vài lần đi họp, tôi có ở chung phòng với ông.Ở ông, toát ra vẻ nghiêm túc, điềm đạn và thân tình. Ông viết ở nhiều thể loại, thành ra tìm một danh xưng chuyên nghiệp dành cho ông thật khó. Những người vừa làm thơ, vừa viết văn, vừa viết lý luận phê bình tài hoa như Nguyễn Đình Thi không có nhiều. Dù vẫy, người ta vẫn định vị Nguyễn Đình Thi là nhà thơ. Tôi nghĩ nghề của ông là làm báo, mặt mạnh của ông là thơ. Những thể loại khác ông viết ở dạng văn chương phong trào. Ông đã xuất bản các tác phẩm: Nữ hoàng trái cây (1987), Chia tay võ sĩ dế (1988), Thức đợi hoa quỳnh (1991), Thương nhớ tài hoa (1992), Người thám hiểm thời gian (1993), Hương Giao thừa (1994), May quá, lòng tốt vẫn còn đây (bút ký, 1994), Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam (sưu tầm biên khảo, 2000), Văn đàn bi tráng (2008), Sương Hồ Tây, mây Tháp Bút (2011), Hoài nghi và Tin cậy (2004), Bắc cung Hoàng hậu (tiểu thuyết, 2014), Người trong cõi tâm linh (tiểu thuyết, 2014), Đi tìm mật mã thơ (tiểu luận, 2015), Minh triết đất đai (2015), Hoàng Sa (thơ, 2018), Tiếp cận mật mã thơ (nghiên cứu phê bình, 2019).
Nhà thơ Trần Quang Quý giã từ cõi đời ngày 10/9/2022. Ông là một khuôn mặt thơ nổi bật trong nỗ lực cách tân thơ Việt đầu thế kỷ XXI. Ông để nhiều tác phẩm: Viết tặng em trong ngôi nhà chật (thơ, 1990); Mắt thẳm (thơ, 1993);Lời sám hối muộn mằn (phim truyện, 1995); Chị Châu (phim tuyện, 1996); Giấc mơ hình chiếc thớt (thơ, 2003); Siêu thị mặt (thơ, 2006); Cánh đồng người (thơ song ngữ, 2010); Bờ sông trăng sáng (truyện ngắn, 2010); Màu tự do của đất (thơ, 2010); Ga sáng (thơ, 2016); Namkau (thơ, 2016); Bay lên những giấc mơ (bút ký, 2017); Nguồn (thơ, 2019); Ngô Văn Dụ – người làng Rau (ký, 2019); Chảy trên dòng thời gian (thơ, 2020); Ướp nhớ (thơ Namkau, 2020)…Người ta nhớ đến ông ở những cách tân thơ ông góp vào tiến trình thơ hiện đại Việt Nam đầu thế kỷ XXI và ở lối thơ Namkau mà ông đề xướng. Tôi đã có bài viết về hành trình 10 năm thơ của ông. Tôi ra Hà Nội trong năm, chưa kịp thăm ông thì đã tiễn biệt, trong lòng in đậm một khuôn mặt thơ gân guốc, hiền lành và chân tình.
Lê Lựu, Trần Huy Quang, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Quang Quý… sẽ còn được nói đến như những nhà văn nhà thơ tiên phong bằng sáng tác của mình đòi hỏi phải đổi mới văn học, rằng Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội Chủ nghĩa đã không còn đáp ứng khát vọng sáng tạo. Tác phẩm của họ đã bổ sung phần “hiện thực” “không Xã hội chủ nghĩa” của văn học Việt Nam. Lưu ý rằng Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội chủ nghĩa chỉ phản ánh “Hiện thực cách mạng”. Tiếng nói của họ là tiếng nói “Nhân văn và Dân chủ”. Mỗi nhà văn nhà thơ đều thể hiện nhân cách và bản lĩnh của người cầm bút đối với thời đại của mình. Thế hệ nhà văn nhà thơ đi sau họ hình như chưa xuất hiện trên văn đàn, thành ra, nhiều năm nay, văn chương Việt Nam lặng lẽ và nhạt nhẽo.
VĂN CHƯƠNG PHONG TRÀO NỞ RỘ
Công tác phong trào của Hội Nhà văn và các Hội VHNT địa phương nở rộ nhiều hoạt động cổ vũ sáng tác. Không khí văn nghệ phong trào rôm rả. Tin tức và bài viết của các tác giả phong trào khá phong phú trên các trang mạng văn học. Nhiều cuộc thi sáng tác được phát động.
Xin ghi nhận một vài cuộc “vận động” tiêu biểu:
Cuộc vận động sáng tác văn học đề tài thiếu nhi và trao giải thưởng Tác giả trẻ do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức sáng 6-1-2022 tại Hà Nội.
Cuộc thi Truyện ngắn hay 2022 của Tạp chí Văn Nghệ và Hội Nhà văn TP.HCM 11-1-2022 với đề tài rộng mở: Viết về con người và cuộc sống; đối tượng tham gia là tất cả những cây bút chuyên và không chuyên cả trong và ngoài nước với tác phẩm bằng tiếng Việt. Truyện ngắn hay 2022 mở rộng dung lượng tác phẩm lên đến “dưới 3.500 chữ” cho mỗi truyện.
Cuộc vận động sáng tác về chủ đề Thương binh – Liệt sĩ của Hội Nhà văn, Tạp chí Văn nghệ TPHCM tổ chức để kỷ niệm 78 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam. Phát động từ tháng 12/2021 đến đến hết tháng 9/2022, Ban Tổ chức đã nhận được gần 200 tác phẩm của 150 tác giả đến từ nhiều tỉnh, thành trên cả nước.
Cuộc thi sáng tác tiểu thuyết, truyện và ký về đề tài “Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống” lần thứ V, giai đoạn 2022 – 2025, do Bộ Công an phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức (01/12/2022) nhằm hướng tới kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống Công an nhân dân Việt Nam (19/8/1945 – 19/8/2025) và 20 năm Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc (19/8/2005 – 19/8/2025).
Các trại sáng tác cũng được mở ra khắp nơi, phong phú về chủ đề, đối tượng sáng tác và mục đích sáng tác. Đơn vị tổ chức từ cấp Huyện, cấp tỉnh tới cấp trung ương, thậm chí một tạp chí cũng tổ chức trại. Xin ghi nhận một vài sinh hoạt:
Trại Sáng tác Văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam đã khai mạc ngày 2.6.2022, tại Nhà Sáng tác Tam Đảo.Trại có 15 nhà văn Hội viên.
Trại sáng tác Trẻ 2022 của Hội Nhà văn TP.HCM tổ chức từ ngày 25/3 đến 29/3 tại Nhà sáng tác Đà Lạt.
Trại sáng tác văn học về đề tài Lực lượng vũ trang – Chiến tranh cách mạng năm 2022 do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức. Trại đã thu nhận được 16 bản thảo gồm 8 tiểu thuyết, 1 trường ca, 5 tập bút ký và truyện ngắn, 2 tập nghiên cứu phê bình văn học và 5 đề cương tiểu thuyết.
Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai tổ chức hai trại sáng tác: trại sáng tác VHNT tại Quảng Ninh với chủ đề: “ Văn nghệ sĩ Đồng Nai đồng hành cùng đất nước” (tháng 6/2022), và trại sáng tác NHNT tại Đà Nẵng với chủ đề “ Văn nghệ sĩ với người lính biển đảo và quê hương đất nước” (tháng 7 năm 2022)
Trại sáng tác văn học nghệ thuật năm 2022 tại huyện Na Hang do Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam phối hợp với Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Tuyên Quang tổ chức ngày 26/9/22. Có 25 văn nghệ sỹ thuộc các chuyên ngành: Văn học, âm nhạc và nhiếp ảnh tham gia. Đây là dịp để các văn nghệ sĩ đi sâu cảm nhận, khám phá nhiều hơn vùng đất và con người Tuyên Quang giàu truyền thống cách mạng và những nét văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Na Hang.
Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên tổ chức trại sáng tác văn học thanh, thiếu nhi năm 2022 (Ngày 18/8).
Trại sáng tác Văn học nghệ thuật khu vực Đồng bằng Trung du và miền núi phía Bắc, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam phối hợp với UBND tỉnh Bắc Giang tổ chức Chiều 20/9/22. Có30 tác giả là hội viên các Hội Văn học nghệ thuật khu vực Đồng bằng Trung du và miền núi phía Bắc thuộc các chuyên ngành văn xuôi, thơ, âm nhạc và nhiếp ảnh.
Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Cà Mau tổ chứcTrại sáng tác văn học nghệ thuật năm 2022 (từ ngày 03 đến ngày 16/10/2022) tại Nhà Sáng tác Vũng Tàu . Tham gia trại có 13 trại viên sáng tác hơn 40 tác phẩm trên các lĩnh vực Âm nhạc, Điện ảnh, Mỹ thuật, Nhiếp ảnh, Sân khấu, Văn học, Văn nghệ Dân gian.
Trại sáng tác Văn học nghệ thuật – bồi dưỡng năng khiếu trẻ năm 2022 doHội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bắc Ninh tổ chức Ngày11/9/22, cho 30 học sinh Trường THCS Suối Hoa (thành phố Bắc Ninh).
Trại sáng tác Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2022 do Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam tổ chức. Tham gia trại có 32 hội viên thuộc Hội Văn học nghệ thuật của 13 tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc gồm: Phú Thọ, Cao Bằng, Hà Nội, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Hòa Bình, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Hà Giang, Yên Bái, Thái Nguyên và Bắc Ninh.
Tạp chí Xứ Thanh tổ chức trại sáng tác hưởng ứng cuộc vận động sáng tác chào mừng Đại hội Hội Văn học nghệ thuật Thanh Hóa lần thứ X, nhiệm kỳ 2022-2027, chiều 30-11–22.Gần 30 thành viên trại sáng tác sẽ đến tham quan và thâm nhập thực tế ở 2 huyện Bá Thước và Ngọc Lặc. Trong 3 ngày từ 1 đến 3-12, các trại viên sẽ đi thực tế, giao lưu, tìm tòi ý tưởng, đề tài, để cho ra đời những tác phẩm mới chất lượng.
Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Hà Giang tổ chức Trại sáng tác VHNT năm 2022 tại Đại Lải. Có 13 văn nghệ sỹ thuộc các chuyên ngành Văn học, Nhiếp ảnh, Văn nghệ dân gian, Âm nhạc, Sân khấu Điện ảnh và Múa tham dự. Chương trình gồm tham quan, tìm hiểu, nghiên cứu nhiều khu, điểm lịch sử, văn hóa, tâm linh, như thành Cổ Loa, Việt Phủ Thành Chương, Đền Hai Bà Trưng, Làng cổ Đường Lâm, Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam (TP. Hà Nội); Tam Đảo, Làng gốm Hương Canh (tỉnh Vĩnh Phúc) và một số địa danh khác… Qua đó tạo cảm hứng cho các anh, chị, em hội viên, văn nghệ sĩ sáng tác
Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật TP Đà Nẵng tổ chức trại sáng tác văn học, nghệ thuật năm 2022 Từ ngày 2 đến 17-11 tại Nhà sáng tác Đà Lạt. Tham dự trại có 14 văn nghệ sĩ thuộc Hội Nhà văn, Hội Âm nhạc, Hội Nhiếp ảnh, Hội Nghệ sĩ múa, Hội Mỹ thuật và Hội Văn nghệ dân gian của Đà Nẵng.
Trại sáng tác văn học “Chiến tranh, cách mạng, người lính – đất và người Ninh Bình” do Tạp chí Văn nghệ Quân đội phối hợp với Sở Văn hóa và Thể thao Ninh Bình tổ chức. Trại diễn ra trong nửa tháng, với chủ đề về lực lượng vũ trang, chiến tranh cách mạng; người lính hôm nay hết mình với nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, công tác, lao động, sản xuất; ca ngợi đất và người Cố đô với chiều sâu của lịch sử, văn hoá và những cống hiến, đóng góp của Ninh Bình trong sự phát triển của đất nước hôm nay…
Trại sáng tác Văn học nghệ thuật về chủ đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” năm 2022 do Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng tổ chức (8/9/22). 70 văn nghệ sĩ thành phố tham gia trại sáng tác sẽ đi thực tế và hoàn thành các tác phẩm trong tháng 9, 10/2022 tại Nghệ An quê Bác, Khu di tích K9 (Đá Chông, Ba Vì, Hà Nội) và thành phố Hải Phòng
***
Một hoạt động phong trào khác là tổ chức Hội nghị Những người viết văn trẻ toàn quốc lần thứ X trong 2 ngày 18 và 19.6.2022 tại Đà Nẵng. Ban tổ chức hội nghị cho biết, có 138 đại biểu tham dự hội nghị, trong đó có 119 đại biểu là các cây bút trẻ tiêu biểu đến từ các vùng miền trong cả nước. Trong khuôn khổ hội nghị sẽ có cuộc tọa đàm chủ đề “Văn học với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, hội thảo thơ và văn xuôi, bàn về thái độ, trách nhiệm và lương tâm của người cầm bút với cuộc sống, với xã hội và trả lời câu hỏi “Vì sao chúng ta viết”. Lãnh đạo Hội Nhà văn kỳ vọng: “con đường duy nhất mà nhà văn cầm bút là phải dựa trên nền tảng của chủ nghĩa nhân văn. Trong hội nghị lần này, các nhà văn trẻ sẽ trả lời câu hỏi đó”.
Hội nghị qua đi mà không để lại dấu ấn gì cả về tổ chức và đội ngũ. Số lượng các đại biểu dự hỗi nghị khá đông, nhưng tìm trong số ấy những tài năng, thì còn phải chờ. Người trẻ sinh ra và lớn lên trong nền kinh tế thị trường, họ quen viết văn chương thị trường, bao giờ mới có được những tác phẩm dựa trên “nền tảng của chủ nghĩa nhân văn”? Rất tiếc là không có một hội thảo về văn học trẻ hiện nay để chỉ ra những giá trị, tiềm năng và triển vọng của văn học trẻ hôm nay. Người trẻ lấy gì để “bứt phá” để mở ra một thời đại mới cho văn học Việt Nam! Văn học trẻ đa phần là văn chương phong trào.
Một “phong trào” khác là thơ 1-2-3, kiểu bài thơ có 6 câu. Đã có khá nhiều người làm kiểu thơ này (cho nên tôi tạm gọi là “phong trào”), nhưng tôi không thấy nhà thơ tài danh nào tham gia phong trào, và cũng chưa có tập thơ 1-2-3 nào “đứng được” trong việc khẳng định kiểu thơ này như một “thể thơ” mới. Xét cho cùng đó chỉ là tạo ra một hình thức trình bày “mới”. Đã có thơ 2 câu (Lục bát), thơ Lục bát vắt dòng, thơ Haiku 3 câu, thơ Tứ tuyệt 4 câu, thơ Namkau (năm câu) do nhà thơ Trần Quang Quý khởi xướng, và bây giờ là thơ 1-2-3 (6 câu). Để trở thành một thể thơ, thơ 1-2-3 phải hình thành được một thi pháp riêng như thi pháp Ca dao, thi pháp thơ Haiku, thi pháp thơ Tứ tuyệt, thi pháp thơ Tân Hình thức. Thơ 1-2-3 hiện nay mới chỉ là ngẫu hứng. Dù sao, những nỗ lực đổi mới (tôi không gọi thơ 1-2-3 là cách tân) thơ Việt luôn luôn đáng trân trọng khi nó thực sự tạo ra những giá trị mới.
***
Nhìn vào những sinh hoạt văn học trên, chúng ta dễ nhận ra sự nở rộ của “văn nghệ quần chúng”(chữ của Nghị quyết 23 Bộ Chính trị). Điều này làm an tâm những người có trách nhiệm, bởi vì Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị chỉ đạo: “Phát triển sâu rộng văn nghệ quần chúng, đồng thời với tập trung xây dựng, phát triển văn học, nghệ thuật chuyên nghiệp.”
Văn nghệ quần chúng (tôi gọi là “văn nghệ phong trào” bởi nó sáng tác theo phong trào) vừa phục vụ trực tiếp nhiệm vụ chính trị, vừa đáp ứng nhu cầu văn nghệ của quần chúng rộng rãi. Một tác giả quần chúng, chỉ cần viết “sạch sẽ” (không sai về chính tả, ngữ pháp, không sai về luật thơ, biết kể chuyện…) là có thể trở thành hội viên một Câu lạc bộ, một Hội VHNT địa phương, là có bài đăng báo giấy, đăng báo mạng của Hội, và nghiễm nhiên trở thành “nhà văn, “nhà thơ” đầy tự hào với bạn bè. Các Hội VHNT có nhiệm vụ tập hợp quần chúng để thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, cho nên mục đích sáng tác của văn nghệ quần chúng là chính trị. Không đòi buộc văn nghệ quần chúng phải sáng tạo, phải cách tân nghệ thuật.
Chỉ tiếc là “Văn chương chuyên nghiệp” trong năm 2022 chưa có thành tựu nào ghi được dấu ấn, đặt những bước phát triển mới cho Văn học Việt Nam đương đại.
CÓ NHỮNG VIỆC LÀM NẶNG TRĨU TRÁI TIM
1.Việc gạt nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh khỏi danh sách kết nạp hội viên của Hội Nhà văn là điều thật đáng buồn. Đó là quyết định của tập thể ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Hữu Hồng Minh được mời vào Hội Nhà văn Việt Nam, cùng với các tên tuổi khác như Nguyễn Việt Hà, Nhật Chiêu, Nguyễn Phúc Lộc Thành…
Sự việc khởi đi từ ý kiến của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn về bài thơ Lỗ thủng lịch sử của Nguyễn Hữu Hồng Minh 20 năm trước. Lê Thiếu Nhơn cho rằng bài thơ Lỗ thủng lịch sử được đánh giá là “tởm lợm”, “quái đản” chính là mang “rác rưởi vào Hội Nhà văn”, việc này sẽ làm hạ uy tín của Hội Nhà văn Việt Nam.
Là người mời nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh vào Hội, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đánh giá Nguyễn Hữu Hồng Minh là người có nhiều đóng góp cho đổi mới thi ca Việt Nam. Ông cũng bày tỏ quan điểm nếu chỉ căn cứ vào một bài thơ mà kết luận về toàn bộ sự nghiệp văn thơ của một tác giả, kết luận về một con người thì không ai trên đời có cơ hội để trở nên tiến bộ. Dù vậy ông tôn trọng quyết định của Ban Chấp hành Hội [[1]].
việc nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh không được kết nạp năm 2022 gây sốc trong dư luận. Bởi nó “dập tắt” ý tưởng “đổi mới” việc kết nạp hội viên của chủ tịch Nguyễn Quang Thiều, nó cho thấy sự hẹp hòi và lạc hậu trong việc nhìn nhận một tài năng khi xét kết nạp, nó cho thấy ý kiến của cá nhân Lê Thiếu Nhơn ảnh hưởng thế nào đến Ban Chấp hành; nó làm nản lòng những ai còn chút nhiệt tình muốn vào Hội Nhà văn, và đáng buồn hơn, nó làm tổn thương lòng tự trọng của nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh. Những giá trị nhân văn mà Hội Nhà văn cổ vũ đã không thể hiện trong trường hợp này.
2. Việc được mời đề cử nhà văn Việt Nam tham gia giải Novel văn chương cũng gây ra những luồng ý kiến trái chiều.
Thư do Chủ tịch Viện Thụy Điển Anders Olsson ký vào tháng 12 viết:
“Kính gửi: Ngài chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam. Thay mặt cho Viện Thụy Điển, chúng tôi vinh dự mời ngài đề cử một ứng viên Việt Nam tham dự xét Giải Nobel văn học năm 2022.
Chúng tôi mong muốn nhận được bản tường trình về lý do đề cử ứng viên, mặc dù không nhất thiết phải có. Khi xem xét các ứng viên, đề nghị ngài hãy quan tâm tới các vấn đề về thể loại, giới và địa lý.
Để được ủy ban xem xét, bản đề nghị của ngài cần được gửi tới Ủy ban Nobel để chuẩn bị cho việc thảo luận về giải thưởng trước ngày 31-1-2022.
Ủy ban Nobel sẽ xem xét tất cả các đề cử, với bản đề cử được ký bởi chính ứng viên, và phải được tuyệt đối giữ bí mật bởi cả người đề cử và ứng viên…”.
Mãi tới ngày 17-2 thư mới tới tay chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, khi thời hạn đề cử đã qua. Chủ tịch Nguyễn Quang Thiều cho biết: “Dù thời hạn đề cử đã qua, tôi vẫn sẽ gửi thư tới Ủy ban Nobel để cảm ơn, và mong muốn Ủy ban Nobel sẽ tiếp tục gửi thư cho tôi sớm hơn trong dịp xét giải Nobel văn chương 2023“[[2]].
Vấn đề được quan tâm là ai có trách nhiệm đề cử và đề cử nhà văn nào? Sẽ có những ý kiến “thiếu thiện chí” làm loạn diễn đàn. Chỉ một tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh mà bao nhiêu năm nay vẫn chưa có sự thống nhất trong việc đánh giá giá trị văn học. Các tiêu chí trao giải thưởng văn học trong nước cũng không thống nhất. Các quan điểm và phương pháp đọc tác phẩm cũng không thống nhất, vậy làm sao có thể đề cử một tác giả tác phẩm dự giải Nobel.
Nhà văn Nam Cao đã từng có ý định viết tác phẩm dự giải Nobel. Ông viết trong truyện ngắn Đời Thừa: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái (5), sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn. Như thế mới thật là một tác phẩm hay, các anh có hiểu không? Tôi chưa thất vọng đâu! Rồi các anh xem… Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel (6) và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu! (lời nhân vật Hộ).
Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp cũng từng có ý định như Nam Cao. Tôi nhớ không lầm năm 1998 Nguyễn Huy Thiệp từng tuyên bố viết tác phảm dự giải Nobel, song sau khi đi nước ngoài về, tiếp cận với sách văn học Việt Nam được dịch và in ở nước ngoài, ông nhận ra tầm vóc của văn học việt Nam còn quá bé nhỏ trước một thế giới rộng lớn của văn học thế giới.
Nên chăng chúng ta cần có một Hội đồng văn học dùng các tiêu chí của Viện Hàn lâm Thụy Điển phụ trách giải Nobel Văn học để xem xét và chọn lựa tác phẩm dự giải. Tôi lại nghĩ, việc chọn ai vào Hội đồng này cũng không dễ thống nhất ý kiến. Sự thực là chúng ta chưa có tác giả tác phẩm có tầm vóc quốc tế rộng rãi, cho nên việc chen chân vào Nobel văn học chỉ là một ước mơ. Tôi lại nghĩ, các nhà văn hãy viết “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái (5), sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”, như ý kiến của Nam Cao trước đã.
3. Vẫn là nỗi buồn của nạn đạo văn. Đây là bản tin: “ngay lần đầu tiên Hội Nhà văn Việt Nam trao tặng giải thưởng Tác Giả Trẻ đã xảy ra vụ ồn ào liên quan đến cuốn sách “Phê bình phân tâm học phía những ám ảnh nghệ thuật” của Vũ Thị Trang. Ngày 24/1, Tiến sĩ Đỗ Hải Ninh – Trưởng phòng Văn học Việt Nam đương đại của Viện Văn học đã gửi đơn đề nghị đến Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam với yêu cầu “xem xét vấn đề vi phạm bản quyền tác giả của Vũ Thị Trang, xem xét lại việc trao giải thưởng Tác giả Trẻ cho Vũ Thị Trang để đảm bảo liêm chính khoa học và đạo đức nghề nghiệp của người làm nghiên cứu khoa học”.
Tiến sĩ Đỗ Hải Ninh cho biết đề tài nghiên cứu khoa học của mình đã bị tác giả Vũ Thị Trang (cũng có học vị Tiến sĩ) đưa vào cuốn sách “Phê bình phân tâm học phía những ám ảnh nghệ thuật” từ trang 199 đến trang 272. Tiến sĩ Đỗ Hải Ninh khẳng định “nội dung cơ bản ở phần 3 của cuốn sách vẫn là những phần tôi đã viết, trong đó có đoạn tôi đã công bố trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 10/2015 và trong bài Trả lời phỏng vấn đăng trên trang Zingnew ngày 11/6/2018”[[3]]. Đây là thông báo của Ban Chấp hành Hội Nhà văn về quyết định thu hồi giải:
“Sau khi nghiên cứu đơn khiếu nại, cẩn trọng lắng nghe dư luận, tham khảo ý kiến một số nhà chuyên môn, các chuyên gia trong lĩnh vực lý luận phê bình và bản quyền cũng như trực tiếp gặp gỡ lắng nghe các bên liên quan trình bày quan điểm, luận cứ của mình, ngày 28.3.2022 Ban Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam đã họp phiên mở rộng, có sự tham gia của đại diện Ban Kiểm tra Hội, để phân tích, đánh giá kỹ lưỡng về sự việc này.
Từ kết quả cuộc họp Ban Thường vụ mở rộng và trao đổi ý kiến thống nhất của tất cả các Ủy viên Ban Chấp hành: Để bảo đảm tính trong sáng, khách quan, nghiêm minh trong hệ thống Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, cũng như xét các yếu tố liên quan đến quy chế và uy tín của giải thưởng, Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam quyết định:
– Tạm thời thu hồi Giải thưởng Tác giả trẻ năm 2021 đối với tác phẩm “Phê bình phân tâm học – phía của những ám ảnh nghệ thuật” của tác giả Vũ Thị Trang.
– Khi có kết luận chính thức từ phía các cơ quan chức năng liên quan đến vấn đề bản quyền, Hội Nhà văn Việt Nam sẽ tham khảo và đưa ra quyết định tiếp theo phù hợp với trách nhiệm và nghĩa vụ của mình”[[4]].
Sự việc xảy ra khiến công chúng và các Hội viên Hội Nhà văn hết sức nghi ngại cách làm việc của Ban Chấp hành Hội. Do đâu lại để xảy ra những sai sót như vậy? Các thành viên của Hội đồng xét tặng giải thưởng của Hội chẳng lẽ không một ai đọc được những gì TS Đỗ Hải Ninh đã công bố trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 10/2015 và trong bài Trả lời phỏng vấn đăng trên trang Zingnew ngày 11/6/2018 nên không biết có sự “đạo văn”? Hay chỉ khi công luận lên tiếng mới biết tác phẩm trao giải là “có vấn đề”! Nếu vậy sao có thể ngồi trong Hội đồng cầm cân nảy mực?
4. Chuyện lùm xùm vụ nhà thơ Lương Ngọc An bị tố hiếp dâm Dạ Thảo Phương. Sau nhiều lời qua tiếng lại giữa các đương sự, Ban Chấp hành Hội Nhà văn trong thông báo ngày 15/4/2022 đã quyết định điều động nhà thơ Lương Ngọc An nhận nhiệm vụ mới. Nguyên văn thông báo như sau: “Trong tình hình mới của Hội Nhà văn Việt Nam, theo Nghị quyết số 05-NQĐĐ ngày 14.4.2022 của Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam, Ban Chấp hành quyết định điều động nhà thơ Lương Ngọc An thôi giữ chức vụ Phó Tổng biên tập, Thư ký toà soạn Báo Văn Nghệ để nhận nhiệm vụ mới kể từ ngày 1.5.2022”[[5]]. Thông báo này không đề cập gì đến vụ việc trên, song công luận hiểu rằng Lương Ngọc An phải rời khỏi chức vụ Phó Tổng biên tập, Thư ký tòa soạn báo Văn nghệ là có lý do.
[Xin đọc bài tường thuật đầy đủ trên trang vanchuongphuongnam.vn:]
5. Về “Quy chế Phát ngôn của hội viên nhằm chế tài, bảo vệ uy tín của Hội”. Trong thông báo của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa X (Về hoạt động 6 tháng đầu năm và chuẩn bị cho 6 tháng cuối năm 2022) ngày 30 tháng 7 năm 2022, ở phần II. Triển khai công tác 6 tháng cuối năm 2022; mục 6 có ghi:
“6- Chuẩn bị nội dung Quy chế Phát ngôn của hội viên nhằm chế tài, bảo vệ uy tín của
Hội”.
Vì thông báo chỉ ghi đề mục công việc mà không có phần giải trình, nên Hội viên Hội Nhà văn đặt vấn đề về quyền tự do phát ngôn của mình. Mỗi công dân hội viên đều có quyền tự do ngôn luận theo quy định của pháp luật:
Tuyên ngôn nhân quyền 1948 của Liên Hiệp Quốc, Điều 19: Ai cũng có quyền tự do quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia.
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Điều 25 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”
Điều lệ Hội Nhà văn Việt Nam nhiệm kỳ 2020 – 2025,Điều 9: Quyền của Hội viên, mục 3 ghi: “Được tham gia thảo luận, quyết định các chủ trương công tác của Hội theo quy định của Hội; được kiến nghị, đề xuất ý kiến với cơ quan có thẩm quyền về những vấn đề có liên quan đến lĩnh vực hoạt động của Hội”.
1. Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới.
2. Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
3. Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác.
Tôi trưng ra vài quy định của pháp luật về quyền tự do ngôn luận của công dân để thấy rằng, nếu “nội dungQuy chế Phát ngôn của hội viên nhằm chế tài, bảo vệ uy tín của Hội” không được soạn cản thận và không được Đại hội Hội Nhà văn biểu quyết đồng thuận, thì sẽ lại phát sinh nhiều vấn đề không hay.
Tôi nghĩ, Ban Chấp hành Hội Nhà văn không cần phải đặt ra “Quy chế phát ngôn cho hội viên”. Nếu hội viên nào vi phạm điều lệ Hội thì Ban Thanh tra của Hội làm việc với người ấy, nếu cần thì có quyết định kỷ luật.
6. Về việc các thành viên Hội đồng văn học thiếu nhi rút khỏi hội đồng
Trên Fb của mình, nhà văn Trần Đức Tiến đính chính bản tin của báo Tuổi trẻ ngày 25-7-2022, đưa tin: “Hội Nhà văn Việt Nam: Nhà thơ Inrasara và nhà văn Trần Đức Tiến từ nhiệm”.
Nhà văn Trần Đức Tiến nói rằng: “Tôi “thông báo rút khỏi” Hội đồng văn học thiếu nhi, chứ không “xin rút” hay “xin từ nhiệm”. Vì sao? Vì tôi được mời vào làm, chứ không xin vào. Không “xin vào” nên không “xin ra”, mà chỉ “thông báo rút khỏi”.
Ông nói thêm: “Nhân đây, xin thông tin thêm cho mọi người, nhất là các nhà văn trong Hội được biết: cho đến nay, đã có 7/9 thành viên HĐVHTN gửi thư cho BCH thông báo rút khỏi hội đồng: Trần Đức Tiến (chủ tịch hđ), Cao Xuân Sơn, Nguyễn Thụy Anh (phó chủ tịch hđ), Phong Điệp, Nguyễn Xuân Thủy, Nguyễn Thị Kim Hòa, Văn Thành Lê”.
Thông báo ngày 30/7/2022 của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa X (Về hoạt động 6 tháng đầu năm và chuẩn bị cho 6 tháng cuối năm 2022) đã có trả lời về vấn đề này.
Dẫu thề nào, vấn đề việc 7/9 thành viên Hội đồng văn học thiếu nhi rút khỏi Hội đồng cũng làm Hội viên Hội Nhà văn phải bận tâm và đặt vấn đề “Tại sao” lại có một sự việc như vậy. Nhà văn Trần Đức Tiến trình bày trong “thư cho Ban Chấp hành Hội Nhà văn (BCH), thông báo rút khỏi HĐVHTN, lý do: làm việc với một BCH như hiện tại “sẽ không mang lại hiệu quả” (trong thư gửi Chủ tịch Hội, tôi nói dứt khoát hơn: một BCH “không thể hợp tác”)[[6]].
7.Một “chuyện nhỏ” không muốn nói ra.
Tháng 11/2022, có một cậu tự xưng là ở Nhà xuất bản HNV gọi điện hỏi tôi có nhận được tạp chí Viết&Đọc số mùa Thu chưa. Tôi trả lời, cả năm nay tôi không nhận được số tạp chí nào, nhưng không biết hỏi ai.
Từ khi Hội mua tạp chí Viết & Đọc để phát cho hội viên, tôi chỉ nhận được một số Mùa Đông 2021, ngoài ra không nhận được số nào. Báo Văn nghệ của Hội một tháng tôi nhận 1 lần (4 số báo). Tạp chí Thơ đình bản, hội viên đã hụt hẫng và tiếc nuối. Khi có tin Hội mua tạp chí Viết & Đọc phát cho hội viên, chúng tôi vui được một chút xíu (vì chỉ nhận được một số), sau đó lại rơi vào thất vọng.
Tạp chí Viết&Đọc không phải là tạp chí của Hội, mà Hội mua lại bằng tiền của Hội (kinh phí sinh hoạt Hội), việc này vừa lấp vào sự đình bản tạp chí Thơ, vừa giúp cho tạp chí Viết&Đọc mở rộng thêm người đọc, tôi thấy là thỏa đáng, mặc dù không bằng một tạp chí riêng của Hội.
Tôi không rõ vì lý do gì việc phát hành tạp chí Viết & Đọc tới hội viên lại chậm trễ. Cả năm 2022 tôi không nhận được số tạp chí nào. Điều này có phải là do cung cách làm việc của bộ phận phát hành không? Hay Hội đã ngưng không mua tạp chí Viết&Đọc để phát cho Hội viên nữa?
Cuối năm lại có chuyện lùm xùm “Nhà thơ thế giới”, một sự mạo danh, một thủ đoạn lừa bịp, một thói háo danh không biết trơ trẽn. Chỉ có điều một hành vi văn hóa, văn học vô đạo đức như thế là nằm ngoài “vùng phủ sóng” của Hội Nhà Văn. Tập thơ 101 bài thơ tình Mimosa tím của đương sự in rõ Nhà xuất bản Hội Nhà văn, dù là in lậu nhưng nhưng không thấy có sự lên tiếng chi1`nh thức nào của HNV.
TIỄN NĂM 2022
Năm 2022 đã qua đi, tôi thấy nhẹ lòng một chút vì hy vọng năm 2023 mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Các nhà văn nhà thơ Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ơi, hãy công bố những tác phẩm tâm huyết của đời mình đi! Hãy đưa văn học Việt Nam phát triển lên một bước mới, như thế thệ nhà văn kháng chiến, thế hệ nhà văn đổi mới (1986-1996), thế hệ nhà văn cách tân đầu thế kỷ XXI! Và hãy viết một tác phẩm đạt giải Nobel văn chương như khát vọng của Nam Cao trước kia. Hãy sánh vai với Rabindranath Tagore (1861–1941), Hermann Hesse (1877–1962), Ernest Hemingway (1899–1961), Albert Camus (1913–1960), Jean-Paul Sartre (1905–1980), Mikhail Sholokhov (1905–1984), Aleksandr Solzhenitsyn (1918–2008), Gabriel García Márquez (1928–2014)… Việt Nam đã cất cánh rồi. Văn chương Việt Nam hãy bay lên…
***
24/12/2022
Ghi chú:
Bài đăng trên trang trannhuong.org (của nhà thơ Trần Nhương) và trang vanchuongphuongnam.vn (của nhà thơ Phùng Hiệu) giữ nguyên văn bản của tác giả.
Bài đăng trên trang vanchuongthanhphohochiminh.vn lúc đầu giữ nguyên bản, sau vài giờ đăng đã cắt bỏ đoạn [4]: Chuyện lùm xùm nhà thơ Lương Ngọc An bị tố hiếp dâm, và cắt đoạn ý kiến của Lê Thiều Nhơn cho phối BCH HNV.
Bài viết này trên trang trannhuong.org sau 2 tuần đã có 102 người đọc. Trên vanchuongthanhphohochiminh có 27 người doc.
Năm 2022 sẽ trở thành quá vãng. “Của tin còn một chút này” BCT dành để chia sẻ với bạn Văn. Xin chân thành cám ơn bạn bè, thân hữu, các bạn cựu học sinh năm qua đã ghé thăm và khích lệ.
(Đọc tập thơ Vườn Trăng của Lm. Gioakim Nguyễn Đức Quang, bút danh Cát Đen)
Bùi Công Thuấn
***
(Lm Gioakim Nguyễn Đức Quang (bút danh Cát Đen) Trưởng Ban Văn hóa GP Quy Nhơn.
Bài thơ “Vườn Trăng” nằm trong chùm thơ Tam nhật Thánh, mùa Phục sinh năm 2015, điều này gợi cho người đọc về đêm Đức Giêsu cầu nguyện trong vườn Ghếtsimani trước khi Ngài bị bắt đi. “Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22, 44). Ba lần cầu nguyện và trở lại, Chúa vẫn thấy các tông đồ đang ngủ. Ngài nói “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”(Mc 14, 38).
Nhà thơ Cát Đen đã không dựng lại đêm Vườn dầu kinh hoàng ấy, mà lắng lòng mình để nghe tiếng Chúa gọi mời: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao?(Mt 26, 40)
“Vườn đêm khuya vắng lặng
Lòng ai lại rối bời
“Nụ hôn nào phản bạn?”
Trăng rằm ai sánh đôi.
Trăng nhẹ nhàng tha thướt
Gửi lời mời trong đêm
Cùng Thầy con canh thức…”
(Vườn trăng)
Đêm nghiêng trăng khuyết vườn sầu
Vườn sầu hay tiếng nguyện cầu thiết tha.
Lời Thầy vang tiếng lòng ta
Cùng Thầy tỉnh thức mới là yêu thương
(Vườn đêm)
Tôi lắng nghe tiếng lòng thổn thức
Tiếng từ trời là Đức Kitô.
(Bạn thấy gì)
Nhưng “Vườn Trăng” cũng là chủ đề của cả tập thơ, là hồn thơ, là tiếng lòng của chính nhà thơ, một tâm hồn trong ngần, thanh khiết và bình yên lạ thường. Hồn thơ ấy lắng nghe “Tiếng từ trời là Đức Kitô”, thầm thì tâm sự với Chúa, gần gũi, thiết tha, lắng đọng. Cả không gian thơ là đêm khuya yên tĩnh, là đêm trăng mát dịu, nhưng cũng là không gian của Ơn Cứu Độ:
Hồn chiên trong sáng đẹp nên thơ
Thầy trò gần gũi cảnh ban sơ
Địa Đàng năm ấy giờ hiển hiện
Như sen thơm ngát giữa bùn dơ.
(Đàn chiên)
“Vườn khuya đêm gió lộng
Trăng thêm chén tình nồng
Vòng tay Thầy mở rộng
Đợi ôm con vào lòng.
(Vườn Trăng)
Mưa đêm thấm ướt vách tường Mưa lòng là tiếng con nương tình Thầy. (Tiếng ai)
Ở bên Chúa, nhà thơ thấy mình bé nhỏ: là con ong nhỏ; là sợi chỉ nhỏ (Chiếc nôi mẹ dệt), là hạt bụi (Em chỉ là tro bụi), là cỏ dại, là cơn mưa nhỏ, làm nến nhỏ…
Thầy ơi! Con nhỏ bé
Tình con tìm chốn nương
(Vườn trăng)
Thầy về sáng tinh khôi
Lòng con hết đơn côi
Con xin làm nến nhỏ
Góp ánh hồng sáng soi.
(Nến hồng)
Đời con là cỏ dại
Không màng tiếng hoan hô
Không nói lời kết án
Sống cuộc sống tông đồ
(Xin làm cỏ dại)
…Ta làm cơn mưa nhỏ
Tưới mát đồng tuổi thơ.
(Cô đơn) Trên đồi sọ đau thương
Thầy là ánh thái dương
Con cùng Thầy chịu chết
(Chiều đổi thay).
Nhà thơ ý thức sâu sắc thiên chức Linh mục: cho Danh Cha cả sáng, cho những con người nhỏ bé thanh bần được sống trong yêu thương hạnh phúc nước trời.
Trong thiên chức đời đời là linh mục
Ngài và con hát mãi khúc hoan ca
Chúc tụng Chúa muôn đời muôn muôn thuở
Cho đất trời rạng rỡ Thánh Danh Cha.
(Một lần nói)
Là linh mục con như con ong nhỏ
Tìm hoa góp mật xây tổ dịu hiền
Đường tình yêu đưa người về hạnh phúc
Làng trên xóm dưới mặc áo bình yên.
(Chúa dìu con)
Tôi yêu Chúa trong phận người nhỏ bé
Sống thanh bần như sen giữ hương quê
(Đêm cầu nguyện)
Hồn thơ ấy đặc biệt tinh tế khi chia sẻ niềm vui hồng ân vĩnh khấn với các nữ tu (Bên sông thương, Đời con, Đèn cô cháy sáng, Em về góp đóa hoa xinh, Chiếc nhẫn tình yêu), khi khóc cùng những kẻ mồ côi (Em đã biết khóc ), người khóc chồng (Cánh mai về cội); chia sẻ niềm tin Phục sinh với người đã chết (Nắng chiều );
Ta ngồi im lặng nắng chiều rơi
Lời kinh Tin Kính mở đôi môi
Niềm tin kẻ chết sẽ sống lại
Ngôi mộ như là một chiếc nôi.
Nắng chiều không tắt trong tim tôi Danh Cha cả sáng khắp muôn nơi Tình Thầy tha thứ người tội lỗi Về trời hoan hỷ hết đơn côi. Tháng các đẳng 2016
(Nắng chiều)
Những bài thơ về làng quê (Làng trên sông, Làng Sông quê tôi), về xứ đạo (Trăng lại
về), về lịch sử giáo hội (Nơi đây có ơn lành, Cảm Tạ Hồng Ân 400 Năm Hạt Giống Tin
Mừng 1618-2018), về tổ tiên sống đạo (Câu chuyện một dòng sông, Đường về tạ ơn)…thể hiện góc nhìn và tình cảm đặc biệt của nhà thơ Cát Đen. Đó là hơi thơ có chất sử thi kết hợp với thánh ca; là tình quê dưới đất quyện chặt với quê trời. Là sự chan hòa giữa người trần gian với quê thiên đàng, đầy ắp yêu thương nhưng mạnh mẽ can trường, mộc mạc khiêm cung nhưng lẫm liệt tự hào, từ đó làm hiển lộ nhiều phẩm chất đặc biệt của người thơ.
Tôi gọi là “những phẩm chất đặc biệt” bởi vì hồn thơ Cát Đen lắng rất sâu vào bên trong, nói tiếng nói nội tâm với Chúa trong một không gian tuyệt vời tĩnh lặng, nhưng hồn thơ ấy cũng cháy lên rực rỡ với lịch sử truyền giáo đầy máu đỏ và Thập giá hy sinh của cha ông. Và hồn thơ ấy đằm thắm biết bao trong những tình tự quê hương, với người dân quê mộc mạc, nhưng đầy ắp tình Mến không vơi cạn trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tháng bảy Làng Sông mưa hồng ân Chốn xưa còn thắm gót tiền nhân Gần xa nô nức về hội ngộ
Dệt khúc tạ ơn ngát hương trầm.
Đất xưa hoang vắng nhuốm máu xương
Phù sa bồi đắp chí can trường Cần mẫn ướp đời Tin – Cậy – Mến Gieo mầm phục vụ nở yêu thương
(Đường về tạ ơn)
Dân làng chài lấy thuyền làm bạn
Sông là quê tôm cá đầy mâm
Lòng gửi trọn nơi nhà thờ mái lá
Như con thơ trong tay Mẹ đỡ đần.
Rồi có chuyện lạ kỳ hiển hiện
Đêm về thuyền nghe tiếng bên sông
Nơi nhà thờ vắng người qua lại
Mà kinh cầu, lời hát ngân vang.
Đêm khuya lời hát càng da diết
Gọi núi, mời sông về cõi linh thiêng
(Làng trên sông)
Thơ Cát Đen là thơ chia sẻ với “phận người nhỏ bé/ Sống thanh bần”, nên giọng thơ căn bản là giọng reo vui dù có lúc trầm lắng, hay hùng tráng. Cát Đen có rất ít bài thuộc thể Diễn Ca giọng rao giảng hay giáo huấn. Hầu hết thơ Cát Đen là thơ trữ tình, là tiếng nói của chủ thể nhà thơ. Điều đặc biệt là ở nhiều bài thơ của Cát Đen, chủ thể trữ tình không xuất hiện trực tiếp, chủ thể ấy đã hòa mình với người đọc, chan hòa trong hoàn cảnh, nói tiếng nói của mọi người. Điều này giúp phân biệt thơ Cát Đen với thơ Lãng Mạn (lấy Cái Tôi cá nhân làm chủ thể). Làng trên sông và Trăng lại về là những bài tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình Cát Đen (nhân vật trữ tình Tôi đã hóa thân):
Đêm thanh trăng về theo tiếng nhạc Mây ngừng trôi sương dừng bước trên đồi Lòng ai đứng giữa đêm khuya rạo rực Nhớ một thời rực rỡ thuở xa xôi.
Năm mươi năm cảnh heo may bao phủ Nhà thờ, chủng viện … giấc mơ say Xa niềm vui, xa tiếng cười rộn rã Biết bao giờ gặp lại cánh hoa bay?
Đại An ơi! Thân thương hai tiếng gọi Một phần tư thế kỷ phủ rêu phong…
(Trăng lại về)
Những bài thơ Con sóng bình yên (“Mừng 50 năm hồng ân linh mục của Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn”), bài Cây bút biết đi (“Mừng lễ thánh Matthêô, Bổn mạng Đức cha Nguyễn Văn Khôi”), bài Câu chuyện một dòng sông (“Mừng sinh nhật trên trời lần thứ 155 của Thánh Giám mục Stêphanô Cuénot Thể Tử Đạo”)…là những bài thơ được viết với một tâm tình rất chân thành và những suy niệm sâu sắc về đời thánh hiến và hy sinh.
Máu tử đạo rạng ngời vinh hiển
Hội thánh này liên tiếp xinh tươi
Lúa đơm bông rộn rã tiếng cười
Sông Gò Bồi thì thầm kể mãi.
(Câu chuyện một dòng sông)
Vì là thơ hướng nội, thơ Cát Đen rất ít hình ảnh đời sống hiện thực, dù vậy, thấp thoáng đôi nét hiện thực cũng đủ thấy nhà thơ nặng lòng với bao phận người.
Núi trùng điệp vắng tiếng reo của suối Cá chết, tôm khô… gió đau cả thân mình Dấu thập hình vẽ lên hồn của gió Thiết tha, xin Mẹ che chở nhân sinh.
Còn gian dối, còn bất công, còn đau khổ Cả một vùng, đem đen tối, vẽ thời gian Lập cảnh nghèo, gây bóng hình dốt nát Ôi ! Chỉ một bộ phận làm toàn thân cơ hàn.
Gió về đây dâng Mẹ đời màu xám Mong ước còn lưu lại tiếng chuông ngân Cây tình thương không còn trơ trụi lá Hoa nở rồi, lại nở tương thân…
(Bên kia tiếng gió)
Ngậm ngùi đưa tiễn lòng ta
Người đi cảnh cũ nói ra nghẹn lòng.
Tìm xuân lặn lội bờ sông
Sa bồi thủy phá cát đông trắng đồng.
Cụ già tròn mắt ngóng trông
Đinh Dậu, tết đến có còn tình quê.
(Có qua rổi mùa lũ lụt)
Nếu bạn đọc để ý một chút thì sẽ nhận thấy điều này, thơ Cát Đen rất truyền thống nhưng cũng hiện đại: Truyền thống ở thể thơ lục bát, thơ 7, 8 chữ; truyền thống ở những tình tự dân tộc, tình quê hương, tình thương yêu đối với phận khó nghèo, niềm tin yêu đời hiến dâng, nhưng hiện đại ở những tứ thơ mới. Lục bát của Cát Đen không mặc áo ca dao, thơ 7, 8 chữ Lãng mạn nhưng cái Tôi trữ tình đã chan hòa trong mọi người. Nỗi buồn, sự cô đơn bế tắc, nỗi thống khổ trong thơ Lãng mạn nhường chỗ cho những cảm xúc tinh khôi.
Thí dụ, hãy so sánh cảnh thu dưới đây trong thơ Cát Đen với Tiếng thu (Lưu Trọng Lư), Đây mùa thu tới (Xuân Diệu):
Em không nghe rừng thu. lá thu kêu xào xạc, con nai vàng ngơ ngác đạp trên lá vàng khô?
(Tiếng thu-Lưu Trọng Lư)
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng; Đây mùa thu tới – mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng.
(Đây mùa thu tới-Xuân Diệu)
Và mùa thu trong thơ Cát Đen:
Nắng mùa thu em đi lặng lẽ
Vừa đi vừa nghỉ ngắm bờ tre
Bãi mía, nương dâu làm của lễ
Ngô được mùa tay Chúa chở che.
(Làng trên sông)
Mùa thu La Vang chiều nắng nhẹ Hàng cây khe khẽ gió du dương Đường quen, lối cũ về bên Mẹ Đôi chim thỏ thẻ lòng Mẹ thương.
Chiều nắng nghiêng chen qua kẽ lá
Đứng lại bên thềm ngó vẩn vơ
Ánh vàng nhảy nhót trên nền đá
Xa xa vọng lại tiếng tuổi thơ.
(Mẹ ơi! Con đã về)
Xin trân trọng giới thiệu và chia sẻ với bạn đọc điều này. Hồn thơ Cát Đen là một hồn thơ rất trong, rất tinh tế và rất dịu ngọt, dịu ngọt trong cả nỗi đắng cay cơ cực. Hồn thơ ấy lắng rất sâu để có thể tiếp cận được với Chúa Tình Thương một cách gần gũi chân tình, tưởng như Nước Trời hiển hiện ngay trong cõi đời thực này.
Vì thế bạn đọc cũng cần một tâm hồn thật tĩnh lặng, rũ bỏ sạch mọi vướng bận hồng trần khi tiếp cận với thơ Cát Đen, có vậy mới cảm nhận được Cái Đẹp trong thơ Cát Đen, bởi Cái Đẹp ấy chính là Thiên Chúa, một Thiên Chúa hóa thân trong những phận người khó nghèo, chan hòa trong máu các Thánh tử đạo, hiển hiện nơi bờ tre/ Bãi mía, nương dâu … Ngô được mùa tay Chúa chở che, và khắp nơi, những miền quê âm vang tiếng kinh.
Trong bài “Thầy cả Philipphe Bỉnh-tư liệu”[[1]], tôi đã giới thiệu tổng quát những nguồn tư liệu viết về Lm. Philipphê Bỉnh của GS-Lm Thanh Lãng, của PTS Võ Xuân Quế và của George E. Dutton trong cuốn A Vietnamese Mose…
Ở bài viết nhỏ này, tôi giới thiệu sơ lược thơ của Lm. Philipphê Bỉnh qua cái nhìn của George E. Dutton và qua những bài thơ trong Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo do Roland Jacques OMI sưu tầm và Đoàn Xuân Kiên chuyển và chú thích, để từ đó xác định vị trí của Bỉnh đối với dòng văn học Công giáo viết bằng chữ Quốc ngữ ngay từ khởi nguồn.
THẦY CẢ PHILIPPHE BỈNH VÀ SỨ VỤ MOSE
Dựa vào ghi chép trong các “Sổ sách” (Notes) và các tác phẩm khác (Bỉnh’s story) của Thầy cả Philipphê Bỉnh, kết hợp với thư từ Bỉnh gửi và nhận, George E.Dutton [[2]] đã dựng lại hành trình đi Lisbon, xem xét những nỗ lực thực hiện sứ vụ Mose và miêu tả lại cuộc sống của Bỉnh ở Lisbon hơn 3 thập kỷ (1796-1833).
George E.Dutton ghi nhận:
“Tôi là thầy cả Philiphê Bỉnh, người tỉnh Hải Dương, tổng Hạ Hồng, huyện Vĩnh Lại, làng Ngải Am, thôn Địa Linh. Tôi sinh năm 1759, cùng năm vua Jose của nước Bồ Đào Nha tiêu diệt Dòng Đức Chúa Giêsu trong lãnh địa của mình. Khi tôi mười bảy tuổi vào năm 1775 và vào nhà thầy tôi, Dòng đã bị phá hủy hai năm trước đó ở Rôma, vì Đức Giáo Hoàng Clêmentê XIV đã giải tán Dòng Đức Chúa Giêsu vào ngày 22 tháng 7 năm 1775. năm 1773. Tuy nhiên, trước khi giải tán dòng, và đầu năm đó, tám thành viên của dòng đã đến An Nam: Thầy Titô và Thầy Bảo Lộc [Paul] đã ra Quảng [Nam], còn lại các nhà truyền giáo, Sư Ni, Thiện, Phan, Luis, và Cần đã đến Đàng Ngoài [“Tonkin”]. Vì vậy, vào năm đó [1775], tôi đã đi với Thầy Luis và xuất gia”.
“Cha Luis,” là một tu sĩ dòng Tên người Ý, tên là Alexandre-Pompée Castiglioni,
Dòng Tên được ĐGH Phaolô III thiết lập Ngày 27.9.1540. Lm I-nhã (Iñigo Lopéz de Loyola) làm Bề trên Tổng quyền tiên khởi. Các thừa sai Dòng Tên đến Đàng Trong năm 1615 và Đàng Ngoài năm 1626 [[3]]. Alexandre de Rhodes, một tu sĩ dòng Tên, cập bến Hội An tháng 12 năm 1624.
Năm 1679, Giáo hoàng Innôcentê XI chia giáo phận Đàng Ngoài thành hai giáo phận: Tây Đàng Ngoài trao cho Hội Thừa sai Paris (MEP) trông coi, Đông Đàng Ngoài (ban đầu do MEP phụ trách) sau trao cho dòng Đa Minh. Điều này gây ra cuộc tranh giành quyền lực với dòng Tên kéo dài. Đến năm 1682, Giáo hoàng Innocent XI triệu hồi tất cả các tu sĩ dòng Tên ở Đàng Ngoài về trình diện tại Roma, và ra lệnh cấm gửi thêm bất kỳ nhà truyền giáo nào đến khu vực này. Ở Bồ Đào Nha, đến năm 1759, Pombal đã đóng cửa dòng Tên. Cộng đồng Công giáo dòng Tên Padroado của Lm Bỉnh ở Đàng Ngoài đã từ chối lời đề nghị từ MEP và các tu sĩ Đa Minh. Họ chờ đợi sự trở lại của các giáo sĩ dòng Tên Bồ Đào Nha.
Lm Philipphê Bỉnh và các bạn được cử đi Lisbon để cầu xin đức vua Bồ Đào Nha bổ nhiệm một Giám mục dòng Tên cho cộng đồng Padroado. Bỉnh đến Macao ngày 27.10.1794 để tìm đường sang Châu Âu. Nhưng ở đây, bị Giám mục Marcelino ngăn cản, Bỉnh phải trở về Đàng Ngoài (ngày 20. 5.1795). Sau khi quyên góp chuẩn bị cho chuyến đi lần 2, ngày 23.1.1796, Bỉnh đến Quảng Đông và ba ngày sau đến Macao. Ở đây, Bỉnh cố tránh sự ngăn cản của các Giám mục tông tòa. Phái đoàn của Bỉnh đã lên con tàu St. Anne của Anh, ra khơi vào khoảng trưa ngày 15. 2.1796. Sau một hành trình dài và gian nan, Bỉnh đến Lisbon vào mùa hè năm 1796. Bỉnh được nhiếp chính hoàng tử Dom João đón tiếp, sắp xếp chỗ ở, và hỗ trợ tài chính trong thời gian phái đoàn của Bỉnh ở Lisbon.
Thật không may cho Lm. Philipphê Bỉnh. Ông đến Lisbon lúc hoàng gia Bồ Đào Nha có nhiều xáo trộn, khiến cho những kiến nghị của ông không được giải quyết. Nữ hoàng Maria I lên ngôi năm 1777 sau cái chết của cha mình là José I. Rồi tai họa ập đến, con trai bà là thái tử José chết vì đậu mùa. Ngay sau đó, con gái bà chết khi sinh nở, cháu trai mới sinh của bà cũng chết, sau đó là con rể của bà…Bà trở nên điên loạn, các bác sĩ không thể cứu chữa. Bà qua đời năm 1816.
Ở Lisbon, Lm. Philipphê Bỉnh đã gửi cho hoàng tử Dom João 15 thỉnh cầu. Bỉnh cũng được hoàng tử tiếp kiến nhiều lần. Ngày 22.10.1801, Dom João chính thức bổ nhiệm một giám mục Padroado đến Bắc Kỳ. Đó là Giám mục Manuel Galdino 32 tuổi, dòng Phanxicô. Nhưng Vatican quyết tâm ngăn cản. Khâm sứ Pacca đã làm áp lực đưa Galdino đến Macao, thay vì đến Bắc Kỳ theo thỉnh nguyện của Lm. Philipphê Bỉnh. Sứ vụ thất bại, Lm. Philipphê Bỉnh lại nhờ người đệ trình thỉnh cầu trực tiếp Giáo hoàng Pius VII, nhưng thỉnh cầu của ông bị từ chối.
Mùa thu 1807, Bồ đào Nha trở thành mục tiêu của lực lượng Pháp-Tây Ban Nha của Napoléon. Hoàng gia đầu hàng và đi lánh nạn ở Brazil. Họ ở đó 15 năm. Lm. Philipphê Bỉnh xin đi theo nhưng bị từ chối. Từ nay nguồn tài trợ từ hoàng gia bị cắt đứt, Lm. Philipphê Bỉnh sống ở Lisbon như một người lưu vong, ông tiếp tục sứ vụ trong vô vọng.
Sau khi hoàng gia Bồ Đào Nha lưu vong ở Brazil, Lm. Philipphê Bỉnh và các bạn ông phải thay đổi chỗ ở. Rời tu viện Necessidades ngày 19.6.1807, Bỉnh đến Casa do Espirito Santovà sinh hoạt như một linh mục Công giáo địa phương. Ở đây, linh mục lưu động được thuê cử hành thánh lễ, giải tội, rửa tội và các bí tích khác tại các nhà thờ khắp thành phố. Nguồn thu nhập chính của các Linh mục, kể cả Lm. Philipphê Bỉnh, là ở việc được thuê cử hành các mục vu tôn giáo. Giáo dân quyên góp trả công cho họ.
Cuộc cách mạng năm 1820 ở Bồ Đào Nha làm thay đổi cục diện và làm suy yếu quyền lực hoàng gia. Ngày 3.7.1821, vua João VI được quân cách mạng yêu cầu trở về Bồ Đào Nha. Thời gian sau đó, hoàng tộc trở nên lộn xộn, họ không còn quan tâm đến thỉnh nguyện của Lm. Philipphê Bỉnh.
Những người bạn của Bỉnh lần lượt qua đời. Mùa hè 1824 là anh Trung, trước đó là anh Ngần. Lm. Philipphê Bỉnh suy gẫm về cái chết của mình. Sứ vụ Mose của ông hoàn toàn thất bại. Cộng đồng Công giáo dòng Tên Padroado “ly khai” ở Đàng Ngoài đã kết thúc.
Lm Philiphê Bỉnh để lại một sự nghiệp sáng tác đồ sộ bằng chữ Quốc ngữ.
Trong cuốn sách của mình, George E. Dutton đánh giá cao sự nghiệp văn chương (writings) của Bỉnh: Ông viết: “Thanh Lãng, một trong những người viết tiểu sử trước đó của ông, lưu ý, Bỉnh là một học giả trên nhiều lĩnh vực: sử học, ngôn ngữ học, thần học, học giả văn học, và chúng ta cũng có thể thêm vào đó, nhà dân tộc học.” [[4]]
George E. Dutton cho rằng Lm. Philipphê Bỉnh là nhà văn Việt Nam đầu tiên viết nhiều nhất bằng chữ quốc ngữ [[5]], vừa là người sáng tạo trong việc sản xuất sách bằng tiếng Việt Công giáo, vừa là người tiên phong trong cách tổ chức và trình bày chúng. Bỉnh kết hợp và đan xen các yếu tố lịch sử Việt Nam, các sự kiện trong Kinh thánh và các mốc truyền giáo của Công giáo trong một khung thời gian chung. Bỉnh mở rộng hình thức thể loại “truyện” đến tầm cỡ gần như sử thi. Truyện An Nam Đàng Ngoài và Truyện An Nam Đàng Trong là đóng góp quan trọng nhất của Bỉnh đối với truyền thống truyện kể lịch sử Việt Nam: Bỉnh lấy bối cảnh ở quê hương ông và viết về người dân Việt Nam. Về phương diện này, Bỉnh đã trở về cội nguồn Việt của thể loại “truyện”…Thơ của Bỉnh nằm trong truyền thống “thơ đi sứ” của văn chương Việt nhưng với những nội dung ghi chép hoàn toàn khác…
Qua những nghiên cứu của George E.Dutton, có thể nhận ra, Felippe do Rosario Bỉnh (tên Công giáo của Bỉnh) là nhà văn Công giáo lớn của văn học Công giáo Việt Nam mà phần lớn tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ của ông, cho đến nay, chưa được giới nghiên cứu quan tâm đầy đủ.
GEORGE D. DUTTUN ĐỌC THƠ CỦA PHILIPPHE BỈNH
Đó là những bài thơ trong cuốn Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo [[6]]. Những bài thơ này Bỉnh viết ngay khi ông vừa trải qua những biến cố trong hành trình thực hiện sứ vụ. George E.Dutton ghi nhận những biến cố ấy cùng những bài thơ Bỉnh làm để thể hiện tâm tình, nghĩ suy của mình:
Đây là những bài thơ George E.Dutton giới thiệu: [[7]]
Ở Macao, Bỉnh bị Giám mục Marcelino cản trở không thể đi GOA, sau đó phải về Bắc kỳ, Bỉnh làm thơ:
(Giáp Dần niên Ngày mồng 4 tháng chạp năm là 1794)
Dutton dịch
Obstacles Preventing the Priests from Traveling [[9]]
We are stupefied at being fated to weakness, how dare they block us?
Grieved at our departure being prevented by one in a position of high saintliness.
The chasing wolf herds the sheep [through] the confusing storm;
Chasing the bees, and crushing the ants, causing both so much hardship.
I have been blocked by the generous Lord, so that I do not become too proud
All my labors have been for naught as they’ve all been turned back.
But our envoy’s banner hurries forward and still waves ever onward Aiding the sacred hours and minutes whose duration we cannot know.
Đến Macao lần thứ hai, sau nhiều thất vọng, nhóm của Lm. Philipphê Bỉnh cũng tìm
con tàu Anh tên là St. Anne để đi châu Âu. Bỉnh coi đây là phép lạ của thánh Anne (mẹ của Đức Trinh Nữ Maria) đã cứu giúp Bỉnh. Con tàu ra khơi trưa ngày 15. 2. 1796. Ông làm thơ:
Mừng được trẩy sang bên tây thơ
Năm vừa sáu lẻ tháng đầu xuân
Thánh ý xui nên vẹn mọi phần
Bể bắc tuy rằng nghìn dặm dán
Trời tây nhường đã một bên gần
Trước là đội đức trên Thiên Chúa
Sau nữa cam lòng dưới vạn dân
Bĩ cực thái lai là thể ấy
Thật tay công chính khéo quân phân
(Bính Thìn niên, Mồng 6 tháng giêng năm 1796)
Bản dịch của Dutton:
Rejoicing at Having Begun the Journey to the West [[10]]
The year has just commenced, the sixth day of the month that begins the spring,
The will of the saints has brought about a completed wholeness.
We are in the northern seas, and even though we still have thousands of miles to cross,
The western sky seem already a bit nearer.
Ahead lies the virtue of the Lord of Heaven above,
Behind lies the support of a myriad people below.
The times of hardship will become a period of joy
For truly his hand distributes each wisely and equitably.76
Trong cuộc hành trình, con tàu không gặp cướp biển nhưng gặp cơn bão lớn 3 ngày đêm. Khi bão qua đi, Bỉnh làm thơ:
Gặp trận bão ở giữa biển khơi thơ
Chưng thủa mênh mông giữa biển xa
Thiên thần thổi một trận phong ba
Cơn mưa sán đến như non nước
Ngọn sóng giồi lên sánh nóc nhà
Người giữ gìn buồm người bẻ lái
Kẻ ăn năn tội kẻ kêu ca
Ba ngày lại tạnh, ơn lành giúp
Sáng trước bên đông lại tró ra
Hoà
Đang lúc khơi chừng vượt bể xa
Trời tây thoắt biến nổi phong ba
Gian nan ngọn sóng lo vì nước
Xô xát dòng châu lệ sự nhà
Khẩn nguyện cầu bầu Phương tế các
Cậy trông lời chép thánh Luca
Mây mù gió quét lâng lâng sạch
Vầng nhật phương đông lại mọc ra
[Bính thìn niên Ngày 12. 3.1796]
Bản dịch của Dutton:
A Poem on Encountering a Storm on the Open Seas [[11]]
As evidence of the vast immensity in the distances of the ocean
The angels of heaven blew up a powerful storm.
The squalls of rain rose up like mountains of water,
The peaks of the waves rose as high as the rooftops of houses.
As for those holding the sails, and those holding the rudder,
They regretted their crimes, and called out with laments.
It was three days before the storm ceased and we were fortunate to be given help
As the brightness before us to the east emerged once again.
Tan bão, thuyền lệch hướng, lại lo cướp biển. Nhóm của Bỉnh chủ yếu giúp kéo buồm, hạ buồm nhưng cũng hỗ trợ đốt đèn cho những chuyến đi biển ban đêm, xem la bàn và canh đất. Các công việc khác bao gồm gỡ những sợi dây gai dầu lớn của con tàu và múc nước biển mỗi sáng để làm sạch sàn tàu. Để giết thời gian, Bỉnh nói chuyện với bảy hoặc tám thủy thủ người Bồ Đào Nha trên tàu. Bỉnh đã làm thơ về việc giúp các công việc trên tàu:
From the time that we were able to find this merchant ship
We resolved to help repair the tangled ropes.
We assembled the necessary sail ropes, though covered with snow
And each time we unraveled them, our heads would be covered with frost.
Only once did we stand on land as we crossed the endless waters.
For many months we traveled everywhere in the four directions.
We insignificant ones obeyed the orders we had committed to accepting.
Thank you, Lord, for your many mercies.
Con tàu của Bỉnh đến đảo St. Helena, nó đã đi hơn 7.500 dặm trong 40 ngày, St. Helena là một trong những nơi xa xôi nhất trên trái đất, rộng 47 dặm vuông có những vách đá dựng đứng và núi cao hơn 2.600 feet so với mặt nước biển. Bỉnh ở lại đây hơn 3 tuần.
As for the road into the future, no one knows how long it will be.
We covered ten thousand miles, pushed by the currents of the four winds.
We have suffered one tragedy, but already completed three stars.
The eastern sky continues to the court of the silver clouds;
From the northern seas we have already crossed over the layers of waves.
Now I have slaked a portion of that thirst,
For the great drought we’ve experienced has been followed by a downpour.
Dutton bình bài thơ:
Bài thơ phản ánh những gian khổ của cuộc hành trình và những bất trắc lớn mà nó kéo theo. Bỉnh nói về biển và gió, những dòng sông và hòn đảo mà ông và những người bạn đồng hành đã đi ngang qua, ở lại hoặc đã qua. Bỉnh kết thúc câu thơ bằng phép ẩn dụ về thức ăn, nhu cầu về nước và cơn khát tinh thần mà họ đã phải chịu đựng trong thời kỳ hạn hán khô khốc. Theo quan điểm của Bỉnh, việc họ đến Bồ Đào Nha không chỉ là cơn mưa mùa xuân mà là một trận đại hồng thủy tràn ngập. Nó thể hiện cho sự bối rối giàu có khi cuối cùng [họ] đặt chân lên đất liền một lần nữa, một vùng đất có tiềm năng hồi sinh không chỉ cho nhóm của Bỉnh mà còn cho cộng đồng mà Bỉnh đại diện. Bài thơ vừa là sự phản ánh những khó khăn mà nhóm của Bỉnh và cộng đồng lớn hơn của họ đã phải chịu đựng, vừa là sự bày tỏ hy vọng về những gì Lisbon có thể mang lại [[15]]
Đoàn của Bỉnh được bố trí lưu trú tại cộng đồng Oratorian. Bỉnh được đón tiếp nồng nhiệt khi họ đến khu nhà Necessidades. Bỉnh làm thơ bày tỏ lòng biết ơn giáo đoàn đã che chở đoàn của mình:
Tặng các cụ nhà dòng ông thánh Philiphê thơ
Cám ơn các cụ ở nhà này
Bởi xót con chiên lạc đến đây
Mọi lẽ bảo ban đều rạng tỏ
Hai phần cấp dưỡng được no đầy
Hằng ngày tế lễ Ba Ngôi thánh
Tuần lễ jê jun một bữa chay
Thánh sủng xin thêm cho các cụ
Ra tay cứu vớt lũ dân ngây
[Bính Thìn niên Ngày mồng 2 tháng Augustus năm 1796]
Because of your compassion for these lost sheep who arrived here,
Advising us in all matters with great clarity,
Nurturing us to satiation in both body and soul.
Every day there are offerings to the three saints
And for weekend fasts you provide fasting meals.
May the saints shower even more favors upon all your priests
For extending your hands to rescue this group of men. 23 (chương 4)
Trong những năm đầu ở Lisbon, nhóm của Bỉnh thường xuyên bị ốm nhẹ. Cuối năm
1799, anh Nhân bị bệnh nặng. Các linh mục Oratorian mời bác sĩ đến chăm sóc tận tình. Nhóm của Bỉnh được đi nghĩ dưỡng ở Caldas da Rainha (Suối nước nóng của Nữ hoàng), một thị trấn spa nhỏ cách Lisbon 80 km về phía bắc. Họ ở đây khoảng một tháng rưỡi và rất tốn kém, nhưng chi phí do hoàng gia bảo trợ (ngân khố Nhà nước). Bỉnh đã kỷ niệm chuyến nghỉ dưỡng này bằng một bài thơ:
Vịnh thú Caldas thơ
Thú nào bằng thú Cạ lừ đà [âm đọc của Caldas]
Đến tiết trời thu khách nhởn nhơ
Mấy dặm đàng cù người rổng rểnh
Một nguồn nước suối kẻ xông pha
Ngày ngày hợp mặt vui đầm ấm
Bữa bữa lăn tay chén hê ha
Thong thả âu đà nhờ lộc nước
Khen ơn tạo hoá cảnh này ra
[Canh thân niên Thượng tuần tháng Juliuj năm 1800]
How long have we been overseen by temporary bishops
that now we welcome having an official one in the official mold.
The rotten poplar wood chosen to represent the Holy See,
[Has been replaced] so that our overseer is now a man of great talent, holder of a
doctorate
Adding to this, our dawn, is the renown of the Ruler
Who followed the example of the earlier powers of his blessed ancestors
Invoking the Padroado
So we now naturally lean upon and hold a firm hand
That will suppress the wolf and pacify and drive away our enemies.
Ngày 7. 8.1814, Giáo hoàng Pius VII chính thức tuyên bố Đoàn của Chúa Giê-su (dòng Tên) đã được khôi phục. Bỉnh làm thơ vui mừng:
Mừng Dòng sống lại thơ
Từ được tin lành lót đến tai
Lâng lâng giũ trút nỗi quan hoài
Mừng rày đã rõ câu khôi phục
Kẻo trước còn mơ chữ thái lai
Ấy lửa giấu hình mà sáng gió
Thật cây vững gốc có bền dây
Jê su hội sĩ nay càng thịnh
Lời phán đời xưa thật chẳng sai
Bản dịch của Dutton:
Poem Giving Thanks That the Order Lives Again [[20]]
From the time the news reached my ears
I felt a great sense of relief, being able to shake off my feeling of sadness.
I rejoice that [the order] has now already clearly been restored
For I had earlier feared this was still but a dream of fortunate words.
These flames conceal the image of the morning wind.
Truly this is a firm cornerstone with a solid support.
Jesus’s representatives now flourish more than ever.
The words spoken in past times were truly not false.
Quan sát những bài thơ trên của Bỉnh, nếu chỉ đọc bản dịch của Dutton, người đọc khó
cảm nhận được những giá trị của thơ ông. George E.Dutton đọc thơ Bỉnh theo quan điểm “Phản ánh luận” (văn học phản ánh hiện thực) để xem xét cuộc sống và việc Bỉnh thực hiện sứ vụ. Ông không quan tâm đến những giá trị khác của thơ Bỉnh. George E. Dutton tỏ ra am hiểu tiếng Việt sâu sắc khi ông liên kết được hoàn cảnh của Bỉnh để chú giải ý nghĩa bài thơ, giúp người đọc hiểu thơ Bỉnh hơn. Những bài thơ của Lm. Philipphê Bỉnh mà Roland Jacques OMI sưu tầm và Đoàn Xuân Kiên (người chuyển và chú thích thơ) đã không làm được như Dutton.
Có thể nói, các tác giả đã đọc thơ Bỉnh mới chỉ chú ý tính chất “du ký”. Họ bỏ qua tình điệu tâm hồn Bỉnh, cũng chưa quan tâm đến những đóng góp của Bỉnh đối với thơ Quốc ngữ Việt Nam đương thời.
NHỮNG GIÁ TRỊ THƠ CỦA PHILIPPHÊ BỈNH
Nếu đọc riêng lẻ một bài thơ của Bỉnh, tách bài thơ ấy khỏi hoàn cảnh phát sinh được
miêu tả trong Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo, người đọc khó cảm nhận được tình ý thơ Bỉnh, bởi theo truyền thống thi ca phương Đông, ngôn ngữ thơ Bỉnh là ngôn ngữ ẩn dụ, và tác giả phương Đông để cho người đọc tự tìm ra những ẩn ý (“ý tại ngôn ngoại”).
Xin thử đọc:
Mừng được trẩy sang bên tây thơ
Năm vừa sáu lẻ tháng đầu xuân
Thánh ý xui nên vẹn mọi phần
Bể bắc tuy rằng nghìn dặm dán
Trời tây nhường đã một bên gần
Trước là đội đức trên Thiên Chúa
Sau nữa cam lòng dưới vạn dân
Bĩ cực thái lai là thể ấy
Thật tay công chính khéo quân phân
(Bính Thìn niên, Mồng 6 tháng giêng năm 1796)
Lm. Philipphê Bỉnh đã không đề cập gì đến những trở ngại do các Giám mục Tông tòa
ở Macao gây ra cho ông. Bỉnh biết rõ những âm mưu, thủ đoạn chính trị của các Giám mục Marcelino, sau đó là Giám mục Manuel Galdino đối xử với ông, và đối xử với cộng đồng giáo dân Padroado “ly khai” theo ông, buộc ông phải từ bỏ sứ mệnh Mose của mình, buộc giáo dân dưới quyền của dòng Tên phải phục tùng các Giám mục Tông tòa. Tất cả những mối quan hệ trần tục ấy không làm vẩn đục hồn thơ Bỉnh. Hồn thơ ấy trọn vẹn một niềm tín thác thánh ý Thiên Chúa: “Thánh ý xui nên vẹn mọi phần”, trọn vẹn các nhân đức Tin-Cậy-Mến “…đội đức trên Thiên Chúa / Sau nữa cam lòng dưới vạn dân”. Và trong khổ đau, Bỉnh vẫn lạc quan: “Bĩ cực thái lai là thể ấy/ Thật tay công chính khéo quân phân”.
Người đọc nhận ra sự hòa hợp tư tưởng Đông-Tây rất mới lạ trong bài thơ. Lm. Philipphê Bỉnh sử dụng thành ngữ : “Bĩ cực thái lai” thể hiện tư tưởng Việt, thể hiện lòng tin vào Trời của người Việt: “gẫm hay muôn sự tại trời” (Truyện Kiều). Thơ ông cũng mang cốt cách phóng khoáng của một đấng nam nhi, tung hoành “bể Bắc, trời Tây” (mà sau ông, Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) mới nói nhiều về “Chí nam nhi”. Bỉnh đặt mình trong chiều kích rộng lớn: chiều Trời-Đất (Thiên Chúa-vạn dân); chiều Đông-Tây (bể Bắc, trời Tây); chiều tâm linh Mến Chúa-yêu người: ”Trước là đội đức trên Thiên Chúa/ Sau nữa cam lòng dưới vạn dân”.
George E.Dutton đã không khám phá ra những chiều kích tâm hồn này của Bỉnh, vì thế không giải thích được sự kiên trì, bền bỉ của Bỉnh trong hơn ba thập kỷ ông thực hiện sứ vụ, dù ông gặp biết bao nhiêu trở ngại.
Điều mới mẻ mà Lm. Philipphê Bỉnh đem vào thơ ca Việt đương thời là tư tưởng thần học Thiên Chúa giáo, niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng tạo dựng tất cả (câu 2), Đấng quan phòng mọi sự (câu 5); Đấng giàu lòng yêu thương (câu 8); và ý thức phục vụ “vạn dân” (câu 6-giới răn Mến Chúa-yêu người), trong khi tư tưởng Thiên Mệnh của Nho giáo là một ý niệm khắc nghiệt, con người phải cam chịu số phận do trời định đoạt:
“Gẫm hay muôn sự tại trời/
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
(Đoạn trường tân thanh-Nguyễn Du)
Điều mà Bỉnh gọi là “Bĩ cực thái lai” không phải chỉ là một kinh nghiệm sống của phương Đông, mà là niềm tin vào ân đức của Thiên Chúa trong thần học Kitô giáo: Con đường cứu rỗi là con đường thánh giá. Có đi qua thập tự con người mới tới vinh quang Phục Sinh.
“Trước là đội đức trên Thiên Chúa
Sau nữa cam lòng dưới vạn dân
Bĩ cực thái lai là thể ấy
Thật tay công chính khéo quân phân”
Đọc bài thơ này, người đọc cũng nhận ra thơ Đường luật của Bỉnh đã Việt hóa gần gũi
và hiện đại hơn cả thơ đường luật của Nguyễn Khuyến (1835-1884), là người sống sau ông. Lm. Philipphê Bỉnh dùng văn nói hàng ngày (khẩu ngữ), và giọng điệu nói bình dân như: “xui nên”, “tuy rằng”, “nhường đã”, “trước là”, “sau nữa”, “là thế ấy”, điều này giúp cho thơ ông mang được hơi thở giọng điệu của nhân dân.
Xin đọc một bài khác:
Vịnh bổn đạo phương tây giữ lễ thơ
Dẫu dân dù nhẫn đấng làm quan
Ngày lễ ai ai bỏ việc vàn
Đền thánh đàn om cung nhạc nhã
Đàng cù sấm dậy tiếng xe loan
Người phô cẩm tú chiều thanh quí
Kẻ ướp hương hoa vẻ cát nhàn
Vào trước bàn thờ chầu Thánh Thể
Tai nghe Thầy giảng Thánh Evan
Hoà
Có đấng đồng trinh chẳng phải quan
Ông Bà đi lễ khác muôn vàn
Thương Già chống gậy theo chân khách
Xót Trẻ trèo non quặn ruột loan
Một lúc mất Con càng thảm thiết
Trăm đàng khốn Mẹ chẳng an nhàn
Ba ngày lại thấy trong Đền thánh
Bõ lúc đi tìm những khóc van.
Bạn đọc Công giáo có thể tiếp nhận ngay ý nghĩa bài thơ, mặc dù có một vài từ hơi cổ.
Điều đáng ngạc nhiên là “hiện thực” được nói đến trong thơ hoàn toàn mới lạ so với hiện thực thơ Nôm của các nhà thơ Việt đương thời.
Ở bài xướng, Lm. Philipphê Bỉnh ghi nhận việc “bổn đạo phương Tây giữ lễ”. Ông bày tỏ sự ngạc nhiên lớn lao về lòng sùng đạo của giáo dân phương Tây. Dù là dân hay quan, ngày lễ họ đều bỏ việc để đến nhà thờ. Họ phô bày vẻ đẹp cẩm tú ngát hương hoa của những người thanh quý an nhàn khi đi nhà thờ. Tiếng nhạc vang hòa trong đền thánh (“Đền thánh đàn om cung nhạc nhã”), ngoài đường tiếng xe tấp nập. Tất cả những ồn ào hân hoan ấy là ở ngoài nhà thờ. Không khí trong nhà thờ thật trang nghiệm, thánh thiện: “ Vào trước bàn thờ chầu Thánh Thể/ Tai nghe Thầy giảng Thánh Evan”. “Hiện thực” này ở Lisbon ngày nay độc giả có thể gặp ở mọi giáo xứ Việt Nam trong những ngày lễ. Đó chính là tính hiện thực và chất hiện đại trong thơ của Bỉnh.
Ở bài thơ “hòa”, nội dung là một “hiện thực” khác. Bạn đọc Công giáo sẽ nhận ra ngay nội dung bài thơ là “diễn ca” đoạn Tin Mừng Luca 2, 41-52:
“Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.
Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.”
Đối chiếu bài thơ và đoạn Tin Mừng của Luca, người đọc sẽ khám phá những sáng tạo của Lm. Philipphê Bỉnh. Ông vửa bảo đảm chân thực nội dung ý nghĩa của Kinh thánh, vừa tạo dựng hình hượng văn học, vừa bày tỏ tính cảm kính mến gần gũi của mình với thánh Giuse và Mẹ Maria lặn lội tìm con khi hai người lạc mất con.
“Thương Già chống gậy theo chân khách
Xót Trẻ trèo non quặn ruột loan
Một lúc mất Con càng thảm thiết
Trăm đàng khốn Mẹ chẳng an nhàn”
Vẫn là cách sử dụng khẩu ngữ và giọng điệu bình dân, nhờ thế nội dung Kinh thánh trở nên hết sức gần gũi với người Việt. Thơ Bỉnh không nặng nề điển tích như thơ trung đại Việt chịu ảnh hưởng văn học Trung Quốc. Bỉnh đã “diễn ca” (cảm nhận) Kinh thánh theo cách riêng. Ông không kể lại sự việc trong Kinh thánh như một bản sao, mà sáng tạo một không gian mới, dựng lại hình tượng các nhân vật trong bối cảnh mới, thẩm thấu được tình ý sâu sắc của Kinh thánh, và hòa lòng mình vào “hiện thực” Kinh thánh đang diễn ra. Điều này khác với việc “thuật lại” Kinh thánh như thường thấy trong các Diễn ca (ở thì quá khứ- tức là một “hiện thực chết”).
Như vậy, bài thơ Vịnh bổn đạo phương tây giữ lễ thơ(cả xướng và hòa) đã đem vào
thơ ca Việt một ”hiện thực” hoàn toàn mới. Bỉnh đã thực hiện một bước “cách tân” trong quá trình Việt hóa thơ Đường luật. Ông dùng khẩu ngữ và ngữ điệu nói bình dân, nội dung thơ ghi nhận cuộc sống của chính ông và bối cảnh Lisbon đương thời (1796-1830), ngữ liệu thơ là ngữ liệu Kinh thánh và bối cảnh phương Tây, thoát hẳn điển ngữ Trung Quốc trong văn học trung đại Việt Nam. Điều này phải chờ đến Nguyễn Khuyến, người đi sau Bỉnh (1835-1888), mới thực hiện được. Bạn đọc có thể tìm thấy những đ8ạc điểm này trong những bài thơ khác của Bỉnh, bởi Bỉnh có riêng một “thi pháp” cho thơ của ông.
Giá trị hiện thực và giá trị tư tưởng là những giá trị nổi trội của thơ Bỉnh. Điều mà tôi gọi là “hiện thực mới” trong thơ Bỉnh không chỉ có nội dung như “thơ đi sứ” như trong thơ Việt. Bỉnh còn ghi nhận đời sống sinh hoạt ở Lisbon, chiến tranh Pháp-Tây Ban Nha với Bồ, những quan hệ với bạn và với giáo dân cộng đồng Công giáo dòng Tên Padroado …
Xin đọc các bài thơ:
Về hành trình đi Lisbon của Bỉnh (chất du ký): Bản hội các Thầy viên hành thơ, Kẻ thù ngăn trở thơ, Ở tạm nơi thành Macao thơ, Làm ngăn trở chẳng cho Thầy cả trẩy thơ , Bản hội kí Văn Lịch trẩy đến Macao lại trở về thơ, Buồm cột tầu thơ, Ra khơi vào lộng thơ, Những thành phương Thiên trúc thơ, Thành Cố Lâm Bô thơ, Sở bị Phalansa ăn cướp thơ, Mừng được trẩy sang bên tây thơ, Giúp việc kéo dây đi tầu thơ, Tới đất Ma lai thơ, Gặp trận bão ở giữa biển khơi thơ, Tới thành bà thánh Helena thơ,
Về tình hình xã hội ở Bồ Đào Nha (chất hiện thực và tâm linh): Mừng sinh nhật Hoàng Thái tử thơ, Phalansa phá thành Roma thơ, Vua Napoles giúp thánh Igreja mà đánh Phalansa thơ, Thượng vị Russia đánh được Phalansa thơ, Được vào chầu chực trong đền Vua thơ, Mừng truyền chức Vít vồ mới chính Đông kinh thơ, Mừng Dòng sống lại thơ, Tự tình thơ. Ngợi khen kính chức Thầy cả thơ, Ngợi khen tên cực trọng rất thánh Đức Bà thơ, Tìm thấy thánh Câu rút thơ, Vịnh bổn đạo phương tây giữ lễ thơ, Tạ Quan Bà cho thuốc cao thơ, Khuyến bạn thơ, Khuyến tình thơ chư giáo hữu, Khuyến tình thơ chư đạc đức,…
Dù đã có những yếu tố mới mẻ, nhưng khi sử dụng hình thức thơ Đường luật, thơ của Lm. Philipphê Bỉnh vẫn còn ảnh hưởng thi pháp của thơ trung đại Việt. Đâu đó phảng phất không khí thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Xin đọc: Bản hội các thầy viên hành thơ; Vịnh chúc Quan đại tể tướng thơ; Bản hội kí Văn Lịch trẩy đến Macao lại trở về thơ…
Giá trị tư tưởng mới mẻ trong thơ Bỉnh chính là ở chỗ từ bỏ tư tưởng phong kiến phương Đông (Phật, Nho, Lão), và đem vào thơ Việt tư tưởng thần học Kitô giáo, lòng Nhân ái Công giáo và ánh sáng của Tin mừng. Ông cũng thay thế điển ngữ Trung Quốc bằng nguồn ngữ liệu văn hóa phương Tây. Bỉnh là nhà văn, nhà thơ Quốc ngữ tiên phong trong việc tiếp cận những thể loại văn chương phương Tây (như Dutton đã phân tích ở chương 8 của cuốn sách A Vietnamese Mose. đd). Thí dụ, ở thể loại “Truyện”, Bỉnh kế thừa kiểu “truyện” truyền thống và mở rộng đến tầm vóc sử thi, Bỉnh viết lịch sử Việt Nam theo chuẩn mực phương Tây, Bỉnh đem những yếu tố thi pháp phương Tây vào thơ và đặc biệt Bỉnh dùng nhân xưng đại từ “Tôi” trong tác phẩm văn xuôi như một sự khẳng định cá tính sáng tạo: “Tôi là linh mục Philiphê Bỉnh…”. Ở Việt Nam, người đồng thời với Bỉnh, cũng là người đầu tiên đưa tên mình vào thơ Nôm để khẳng định tính chất cá nhân trong văn chương là nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1772-1822; “Này của Xuân Hương đã quệt rồi”-Mời trầu).
VỊ TRÍ VĂN HỌC CỦA THẦY CẢ PHILIPPHÊ BỈNH
Những tác phẩm của Lm Philipphê Bỉnh là đầu nguồn giàu có của văn học Công giáo Việt Nam viết bằng chữ Quốc ngữ. Đọc thơ của Lm Philipphê Bỉnh, dù thơ ấy được sáng tác cách chúng ta hơn hai thế kỷ, người đọc hôm nay vẫn cảm nhận được sự gần gũi hiện đại. Đó là thơ của một cốt cách thi nhân thuần Việt bền vững, thơ của một Linh mục tinh ròng những phẩm chất Mục tử, và một Philipphê Bỉnh, có những đóng góp rất quý giá cho văn học Công giáo viết bằng chữ Quốc ngữ.
Ước gì rồi đây toàn bộ tác phẩm của Lm Philipphê Bỉnh được Giáo hội giới thiệu ở Việt Nam. Được như vậy, các nhà nghiên cứu văn học sẽ không thể không công nhận sự đóng góp của văn học Công giáo vào những thành tựu chung của văn học dân tộc.
Tháng 12/ 2022
[1] Bùi Công Thuấn: Thầy cả Philipphê Bỉnh-tư liệu-https://buicongthuan.wordpress.com/2022/12/05/thay-ca-philipphe-binh-tu-lieu/
[2] George E. Dutton-A Vietnamese Moses-Philiphê Bỉnh and the Geographies of Early Modern Catholicism. UNIVERSITY OF CALIFORNIA PRESS 2016.
[4] Dutton: “As one of his earlier biographers,Thang Lãng noted, Bỉnh was a scholar across a range of disciplines: historian, linguist, theologian, literary scholar, and, to this we might also add, ethnographer.(Chương 7. Tr. 204)
[5] Xin lưu ý: Bỉnh viết nhiều tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ trong khoảng 1807-1830, cùng thời với thời Nguyễn Du (1766-1820) viết Truyện Kiều bằng chữ Nôm (trước hoặc sau 1802).
[6] Trong bàu viết này, tôi dùng “Những bài thơ trong Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo” do Roland Jacques OMI sưu tầm và Đoàn Xuân Kiên chuyển và chú thích. Định Hướng tùng thư xuất bản và phát hành lần thứ nhất 2004.
[7] Trong sách của Dutton chỉ có bản dịch tiếng Anh. Ông có ghi chú nguồn thơ tiếng Việt của Bỉnh, viết tắt là NT.
[14] Duttun: NT, 443.[ Philiphê Bỉnh, Nhật trình kim thư khất chính chúa giáo (Golden book recording a journey to seek an official religious leader), 1796–1826, ms. Borgiana Tonchinese, Bibliotica Apostilica Vaticana (Dutton, chương 4, tr. 98)]
Thầy Cả Philipphê Bỉnh sống lưu vong ở Lisbonne hơn 30 năm. Ông đã để lại những tác phẩm quốc ngữ (chép tay) được lưu trữ trong thư viện Vatican. Các học giả nghiên cứu về Philipphê Bỉnh đánh giá đó là một kho tàng văn học Công giáo hết sức quý báu liên quan đến nhiều lĩnh vực văn hóa Việt. Dù vậy, cho đến nay, mới chỉ có 2 tác phẩm của Philipphê Bỉnh là Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo (1797) và Sách sổ sang chép các việc (1822) được sao chép lại và phổ biến. Điều rất lạ là, đã có nhiều Linh mục, du học sinh Việt Nam học ở Rome, nhưng tuyệt nhiên, không ai quan tâm đến việc sao chép, chuyển dịch những tác phẩm của Thầy Cả Philipphê Bỉnh để giới thiệu với độc giả Việt Nam đương đại. Món nợ tinh thần này đòi hỏi những nhà nghiên cứu văn học Công giáo phải trả lời. Bởi khi viết những tác phẩm này, Thầy Cả Philipphê Bỉnh hướng đến đối thọai với thế hệ bạn đọc Việt trong tương lai.
THẦY CẢ PHILIPHÊ BỈNH (1759-1833)
(trang viết tay bằng chữ Quốc ngữ của Philipphe Bỉnh trong Sách sổ sang chép các việc)
Trong Sách sổ sang chép các việc, Philipphê Bỉnh viết tiểu sử của mình như sau:
“Tôi là Thầy Cả Philipphê Bỉnh, quê ở Hải Dương xứ, Hạ Haõu (Hoàng) phủ, Vĩnh Lại Huện, Ngải Am xã, Địa Linh tôn (thôn), sinh ra năm 1759 là năm vua Jose nước Portugal phá Dàõ (Dòng) Đ.C.J. ở traõ (trong) địa phận mh. Đến năm 17 tuổi là năm 1775 vào ở nhà Thầy, thì đã mất Dàõ ở th (thành) Roma được 2 năm vì Đức th’ Phapha Clemte thứ 14 phá Dàõ Đ.C.J.ngày 22 tháng 7 năm 1773…” (tr.1-2)
Gs-Lm Thanh Lãng trong bài giới thiệu Sách sổ sang chép các việc cho biết: Năm 1775 Bỉnh đi tu, học ở Kẻ Vĩnh, tu tập 20 năm, mãi năm 1793 mới thụ phong Linh mục. Ông được trao giữ chức quan trọng, gọi là chức Giữ Việc trong Giáo hội, tức là chức quản lý các tài sản, tiền bạc của Giáo hội. Chính chức vụ này cho ông cơ hội đi lại giữa Việt Nam-Macao-Goa.
Lúc ấy, ở Việt Nam bộc phát sự tranh chấp giửa hai phe truyền giáo: Dòng Tên và dòng Đa minh. Dưới sức ép của vua Pháp và Tây Ban Nha, ngày 21.7. 1773, Giáo hoàng Clêmentê XIV ra chiếu thư Dominus ac redemptor đóng cửa dòng Tên: “Ta muốn có sự hòa thuận lâu dài trong Hội thánh và ta cũng nghĩ rằng: Dòng Tên không còn giúp Hội thánh được như xưa, và còn nhiều lý do khác không cần kể ra đây, ta tuyên bố giải thể Dòng Tên, các hoạt động, các luật lệ và hiến pháp dòng này“[wiki].
Vì thế dòng Tên lập một phái đòan do Lm Bỉnh dẫn đầu, sang tận Bồ Đào Nha yết kiến nhà vua, xin vua can thiệp với tòa thánh. Phái đoàn lên đường năm 1796, vượt biển 6 tháng tới châu Âu ngày 24 tháng 7 năm 1796, nhưng việc không thành. Bỉnh và các thành viên trong đoàn phải lưu vong ở Lisbonne hơn 30 năm và mất ở đó. Ông thọ 74 tuổi.
Thời gian ở Lisbonne Linh mục Bỉnh đã viết 21 bộ sách.
Theo GS Thanh Lãng, Sách Sổ sang chép các việc trang 600-601 Bỉnh ghi 21 bộ sách sau: (chữ trong ngoặc ( ) là chú thích:
20. Truyện An Nam Đàng Traõ (Trong) cuyển nhị (1882)
21. Sách suy ngắm sự địa ngục cũ (cùng) chuyện khác.
Thanh Lãng cho biết ông còn viết thêm:
1.Dictionarium Annamiticum Lusitanum (1797)
(Tự điển tiếng Bồ Đào Nha-An Nam)
2.Truyện nhật trình cũ Fernad Mendes Pinto (1817)
3.Truyện bà thánh Anna (1830)
4.Dictionarium Annamiticum Lusitanum (bản khác, không có năm)
NHỮNG GHI NHẬN CỦA CÁC HỌC GIẢ
Giáo sư-Lm Thanh Lãng.
Trong bài viết giới thiệu Sách sổ sang chép các việc (Viện Đại học Đà Lạt xuất bản tại Sàigòn năm1968), Giáo sư-Lm Thanh Lãng nhận định:
1. Các cuốn sách sau đây của Philipphê Bỉnh có giá trị cực kỳ quan trọng:
Cuyển Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo (1797).
Truyện nhật trình cũ Fernad Mendes Pinto (1817)
Truyện An Nam Đàng Ngoài cuyển nhất (1882)
Truyện An Nam Đàng Traõ (Trong) cuyển nhị (1882)
Sách sổ sang chép các việc (1822)
2. Phân tích Sách sổ sang chép các việc, GS Thanh Lãng nhận xét:
“Đọc Sách sổ sang chép các việc, ta có dịp khám phá ở Philipphê Bỉnh một nhà văn hóa, một nhà thông thái, một nhà văn, một nhà ngôn ngữ học, ta có dịp làm quen với lối văn của Philipphê Bỉnh, chứng nhân của một lối văn mới, lối văn xuội tiếng nói hàng ngày của tồ tiên chúng ta, ta có dịp va chạm với một xã hội linh động, đau đớn là xã hội Việt Nam về thế kỷ XVIII, hơn thế ta còn có dịp may mắn chứng kiến, qua ngòi bút của ông, cái xã hội Tây phương xa lạ.”(tr. XIX).
Sau đó Thanh Lãng triển khai phân tích các nội dung:
Philipphê Bỉnh là nhà văn hóa, nhà thông thái.
Philipphê Bỉnh nhà văn nói và viết tiếng nhân dân. “Sách của Philipphê Bỉnh chỉ là sử dụng cái tiếng nói thông thường như trong câu chuyện hàng ngày của dân gian…Đọc cả một cuốn sách của Philipphê Bỉnh dài hàng ngàn trang, người dân quê sống dưới thế kỷ XX hiểu ngay, hiểu hết, không cần phải có chú thích gì cả”(tr.XXIII).
Philipphê Bỉnh nhà văn Việt Nam thứ nhứt viết hồi ký. “Về loại hồi ký tư riêng, có tính cách tâm tình này, “Sách sổ sang chép các việc” là loại sáng kiến đầu tiên; độc đáo, chưa ai làm trước đấy. Philipphê Bỉnh không viết một thứ hồi ký kiểu cách, vô vị. Trái lại, ông đã viết về đời ông, về bạn hữu ông, về thù địch ông, về xã hội ông, về thời đại ông, nghĩa là qua tập hồi ký này, ông đã vị trí hiện hữu ông trong tương quan cảnh trí xã hội. Như vậy, trong địa hạt hồi ký, Philipphê Bỉnh đã làm công việc phát minh, khởi xướng, mở đường sáng tạo…” (tr. XXIV).
Philipphê Bỉnh nhà Ngôn ngữ học Việt Nam đầu tiên. “Về công trình sáng lập, sửa chữa, kiện toàn… chữ quốc ngữ từ xưa cho đến giờ người ta chỉ nói đến toàn là người ngoại quốc, những là Đờ-Rốt, những là Pigneau de Béhaine, những là Taberd. Có ai nói đến tên tuổi Việt Nam nào!…
Thực ra, ngay từ cuối thế kỷ XVIII, Philipphê Bỉnh đã đưa ra những cải cách chữ quốc ngữ. Năm 1797, khi mới đến Lisbonne được một năm, ông đã biên soạn một bộ tự điển vừa Việt-Bồ, vừa Bồ-Việt.. Phần Bồ-Việt- là phần không có trong tự điển của Đờ-Rốt-thì hẳn nhiên là sáng kiến của Philipphê Bỉnhrồi…Philipphê Bỉnhđã có những cải cách lớn lao, nghĩa là trừ cuốn tự điển Việt-Bồ ra, tất cả cách sách vở khác củaPhilipphê Bỉnhđều đã áp dụng theo những cải cách mới.”(tr. XXVII).
Philipphê Bỉnh nhà Sử học đầu tiên theo Tây phương. “Ông là nhà sử thực sự trong hai bộ sử lớn: “Truyện Annam Đàng Ngòai” và “Truyện Annam Đàng Traõ”theo phương pháp chép sử của phương Tây. Ông không chỉ chép truyện vua chúa…Ông chú trọng nhất đến đời sống của nhân dân, của quảng đại quần chúng. Ngay khi chép sử Việt Nam, ông cũng không tách nó ra khỏi lịch sử chung của nhân loại: lịch sử của Philipphê Bỉnhthường bao giờ cũng là lịch sử Đông Tây đối chiếu…”(tr. XXIX).
Philipphê Bỉnh nhà họa sĩ vẽ xã hội Việt Nam. “Ngoài phần nói những nỗi bi thảm của nhân dân ta vào thời loạn về đời Lê mạt, Philipphê Bỉnhcòn ghi nhận một ít phong tục đặc thù…
Nhưng bức tranh linh động nhất mà Philipphê Bỉnhvẽ thời đại ông là bức tranh tôn giáo. Sự tranh chấp của các phe truyền giáo cũng làm nát bấy giáo hội Việt Nam hồi ấy. Hai phe một bên là dòng Đa Minh, một bên là dòng Tên, chẳng những cấp lãnh đạo tranh giành chia rẽ nhau mà còn tìm cách thanh toán lẫn nhau. Philipphê Bỉnhđã vẽ lại những sự tranh chấp đó bằng màu sắc cực kỳ đen tối…”
Philipphê Bỉnh, người mạc khải Tây phương xa lạ. “Trong các bộ sử của ông, nhất là trong hai cuốn hồi ký: “Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo” và “Sách sổ sang chép các việc”, Philipphê Bỉnh đã mạc khải cho chúng ta một Tây-phương giàu hơn, mạnh hơn, văn minh hơn, sung sướng hạnh phúc hơn”…
Thanh Lãng bày tỏ ước muốn của mình:
“Qua những nhận định trên đây, chúng ta thấy Philipphê Bỉnh quả là con người tò mò, xoi bói, muốn nhìn, muốn biết, muốn hiểu mọi sự xảy ra chung quanh ông. Ông thực là con người đam mê, tham lam muốn cho sách của ông không thiếu cái gì, nhất là luôn luôn mới lạ. Chính vì những mối đam mê, tham lam của ông mà ngày nay sự nghiệp của ông trở nên sự đam mê cám dỗ những nhà khảo cứu. Đọc Philipphê Bỉnh chúng tôi thấy bị lây cái đam mê, cái tham lam, cái cám dỗ của ông. Chúng tôi mong rằng cái lối đam mê ấy của ông sẽ lây ra nhiều người nhất là các tổ chức văn hóa, đặc biệt là những bậc có trách nhiệm với nền văn hóa của đất nước, dân tộc này.”(Sài gòn ngày 07 tháng 4 năm 1968)[tr. XXXVI đd]
PTS Võ Xuân Quế
(Viện Ngôn ngữ học-Trung tâm KHXH&NV quốc gia)
Võ Xuân Quế có bài viết giới thiệu tác phẩm thứ hai của Philipphê Bỉnh: Philipphê Bỉnh và sách quốc ngữ viết tay: “Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo” đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3. 1998 (tr.52-58). Ông cho biết, khi thực hiện đề tài khoa học “Bước đầu sưu tầm và nghiên cứu về lịch sử chữ Quốc ngữ” của Viện Ngôn ngữ học, thuộc Trung tâm KHXH&NV Quốc gia, ông được một nhà nghiên cứu người Pháp là Roland Jacques (cán bộ Viện quốc gia các ngôn ngữ và văn hóa Phương Đông-INALCO) cung cấp cho một bản photocoppy tài liệu viết tay bằng chữ Quốc ngữ của Philipphê Bỉnh, đó là cuốn sách: “Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo”. Cuốn sách dày 573 trang viết tay, khổ 13cm x18cm, trong đó phần văn xuối chiếm tới 533 trang, phần thơ chiếm 40 trang gồm 40 bài thơ làm theo thể Thất ngôn bát cú, và phần ghi âm tiếng Hán bằng chữ Quốc ngữ gồm 21 trang. Cuối sách có phần mục lục xếp theo chủ đề.
Bài viết gồm 2 nội dung sau:
1. Vài nét về “Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo”.
2. Đôi điều trao đổi thêm về Philipphê Bỉnh và sách “Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo”.
Võ Xuân Quế giới thiệu khá chi tiết nội dung cuốn sách.
“Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo”(NTKTKCCG) là tập nhật ký ghi lại những sự việc chính xảy ra từ khi Philipphê Bỉnh và các cộng sự của ông bắt đầu cuộc hành trình sang Bồ Đào Nha và những năm tháng họ sống lưu vong ở đây. Ngoài phần ghi chép của Philipphê Bỉnh về cuộc hành trình, trong cuốn sách còn có 11 bức thư ông gửi đi và 7 bức thư ông nhận được của một số Linh mục và Thầy giảng khác gửi cho ông cùng cộng sự thời gian ông sống nơi đất khách quê người.
Mở đầu (phần “Tự sách”), Philipphê Bỉnh dành một trang trình bày vắn tắt nội dung, mục đích viết sách của ông và phân trần lý do vì sao ông ghi tên mình vào sách.
Tiếp theo phần “Tự sách”, Philipphê Bỉnh nêu lý do vì sao ông viết sách này là “ghi lại nguồn cơn lúc này mà ta chịu khó, thì cũng như tổ tông ta đã chịu khó năm 1688”. “Nguồn cơn” mà bổn đạo dòng Tên (Jésuites) ở Việt Nam chịu khó lúc bấy giờ là sự tranh chấp giữa dòng Đa Minh (Dominican) và Dòng Sai (MEP).
Sau phần “Tự sách” là “Nhật trình”. Philipphê Bỉnh ghi chép lại những sự kiện chính xảy ra từng năm, kể từ 1793 đến 1814 (21 năm). Chuyến đi khá trắc trở, mất gần 2 năm. Lúc đi có 8 người thì chỉ 4 người đến được Lisbonne. Lúc đầu, phái đoàn được vua Bồ Đào Nha che chở và giúp đỡ nhiều. Đoàn đã 15 lần đệ khải lên vua Bồ Đào Nha. Nhưng khi quân Pháp đánh chiếm Lisbonne, vua Bồ Đào Nha phải lánh ra nước ngoài (1807), tình cảnh của phái đoàn Philipphê Bỉnh gặp hết sức khó khăn.
Ngoài ra Philipphê Bỉnh còn ghi lại những nét chính của cuộc chiến tranh giữa Pháp và các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Italy lúc bấy giờ.
Võ Xuân Quế cho rằng 40 bài thơ ở cuối sách của Philipphê Bỉnh là những tài liệu qúy cho việc nghiên cứu thơ ca của các tác giả Công giáo ở nước ta hồi cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Ông nhận xét: “Nội dung của các bài thơ đã thể hiện ý chí quyết tâm ra đi vì việc đạo của Phái đoàn dòng Tên và nỗi niềm tâm sự của Philipphê Bỉnh trước những vui buồn mà con người và cảnh vật đã “gợi hứng” cho ông. Từ việc bị “Phalangsa ăn cướp”, “Kẻ thù ngăn trở, “Giúp kéo dây đi tầu”, “Gặp trận bão ở giữa biển khơi” đến việc “Tìm thấy Thánh câu rút”, “Mừng sinh nhật Hoàng Thái tử”, “Tạ Quan Bà cho thuốc cao”, “Mừng Dòng sống lại”…Philipphê Bỉnh đều làm thơ ghi lại.”
Sau khi ghi lại nội dung cuốn sách, Võ Xuân Quế trao đổi những vấn đề sau đây, chủ yếu là những vấn đề trong bài viết của GS Thanh Lãng trước đó:
1.Về thời điểm Philipphê Bỉnh viết Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo: GS Thanh Lãng cho rằng Philipphê Bỉnh viết cuốn sách này trước tiên, trước cả việc sao chép cuốn tự điển của Alexandre de Rhodes, nghĩa là trước 1797. Võ Xuân Quế căn cứ vào nội dung sách khẳng định cuốn sách (NTKTKCCG) chưa được Bỉnh viết xong trước 1814.
2. Về chuyến đi của Philipphê Bỉnh, trong Tạp chí văn hóa Á châu và sách Biểu nhất lãm văn học cận đại; sau đó là bài giới thiệu sách Sách sổ sang chép các việc, GS Thanh Lãng chưa trình bày rõ ràng và thống nhất. Căn cứ vào sách NTKTKCCG, Võ Xuân Quế khẳng định chuyến đi của Philipphê Bỉnh là sang Bồ Đào Nha đề cầu xin đức vua cử các giáo sĩ Bồ Đào Nha sang trông coi các giáo phận thuộc dòng Tên ở Việt Nam, tránh sự chèn ép của các giáo sĩ dòng Đaminh và dòng Sai, chứ không phải là “để dàn xếp với Tòa thánh” như các ý kiến của Thanh Lãng.
Về thời gian xuất phát của phái đoàn, Võ Xuân Quế căn cứ vào những ghi chép của Bỉnh, xác định lại: Phái đoàn của Philipphê Bỉnh không xuất phát từ Việt Nam vào cùng một ngày. Philipphê Bỉnh không phải rời Việt Nam ngày “4 tháng Chạp năm 1794”, và cũng không phải vào “đầu năm 1796” như các tài liệu đã viết về ông. Philipphê Bỉnh rời Việt Nam lần đầu ngày 1/9/1794, lần hai là cuối tháng 9/1795.
Võ Xuân Quế kết luận: “chúng tôi nhận thấy Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo là một tài liệu có giá trị về nhiều lãnh vực khác như văn hóa, văn học, đặc biệt là về lịch sử và ngôn ngữ”.
George E. Dutton
George E. Dutton là tác giả cuốn A Vietnamese Moses: Philiphê Bỉnh and the geographies of early modern Catholicism, Published byOakland, California: University of California Press, [2017]. Ông là Giáo sư Lịch sử Việt Nam tại Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Châu Á và Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á tại Đại học California, Los Angles
Nội dung cuốn sách có các chương:
1. Introducing Philiphê Bỉnh and the Catholic geographies of Tonkin
2. A Catholic community in crisis
3. Journeys : Macao, Goa, and Lisbon
4. Arrival in Lisbon and first encounters
5. Invoking the Padroado : Bỉnh and Prince Dom João
6. Waiting for Bỉnh in Tonkin and Macao
7. Life in Lisbon and the Casa do Espirito Santo, 1807-1833
8. The tales of Philiphê Bỉnh.
Riêng chương 8: The tales of Philiphê Bỉnh (Những truyện của Philipphê Bỉnh), George E. Dutton có những nhận xét khá toàn diện về tác phẩm của Bỉnh. Ông có những kiến giải sâu sắc với một tầm nhìn rộng (xin lược trích).
Ở phần tổng quan, George E. Dutton nhận định: Philipphê Bỉnh viết phần lớn các tác phẩm trong khoảng từ năm 1812 đến 1830, đặc biệt từ năm 1815 đến năm 1822. Tiếp xúc với sách trong thư viện ở Lisbon, Bỉnh đã thay đổi quan niệm về sách, về viết sách, về sắp xếp, và về xuất bản. Những cuốn sách của ông về các vị thánh Công giáo có ý nghĩa đối với người Công giáo Việt Nam. Bộ lịch sử Công giáo (Truyện An Nam Đàng Ngoài &Truyện An Nam Đàng Trong) nổi bật vì cách nó liên kết lịch sử và địa lý của người Công giáo Việt Nam với người Công giáo ở Châu Âu. Trong lời kể của Bỉnh, chính người Việt Nam là nhân vật trung tâm, nhiều người trong số họ chịu tử đạo vì niềm tin mới. Bỉnh nâng họ lên như những tấm gương về niềm tin, sự cống hiến và sự tận tụy. Trước đây, những gương mẫu như vậy được rút ra từ lịch sử Công giáo Châu Âu, giờ đây người Việt Nam trở thành gương mẫu trên mảnh đất quê hương của họ.
Sau đây là những nhận xét cụ thể của George E. Dutton về từng thể loại tác phẩm của Bỉnh:
BỈNH’S NOTEBOOKS (Những cuốn sổ ghi chép của Bỉnh)
Để hiểu những sáng tác (writings) của Bỉnh, trước tiên chúng ta cần xem xét các cuốn sổ mà ông đã thu thập và sắp xếp các tài liệu, sau đó ông chuyển thành những truyện và những ghi chép dài hơn.
Bỉnh là nhà văn Việt Nam viết nhiều nhất bằng chữ quốc ngữ. Những Sổ ghi chép của Bỉnh bao gồm cả sáng tác gốc và bản dịch tiếng Việt các tác phẩm ngôn ngữ khác. Chúng có thể được chia thành 4 loại, phần lớn là Phụng vụ và hướng dẫn:
1. Các bài bình luận về thánh lễ đến các mô tả về các thực hành sùng đạo, cho đến các phương pháp ghi nhớ dòng dõi của các giáo hoàng (Cuyển sách cắt nghĩa các kinh; Sách dạy xem lễ Misa; Sách cắt nghĩa các kinh lễ Misa; Truyện các đời Đ. Th’ Phapha …). Bỉnh cũng sao chép bằng tay hai tác phẩm đã xuất bản của Alexandre de Rhodes.
2. Đơn thỉnh cầu mà ông đã trình lên nhà cai trị Bồ Đào Nha từ năm 1796 đến năm 1807 để theo đuổi sứ mệnh cầu xin một giám mục cho Đàng Ngoài.
3. Thư từ ông trao đổi với đồng bào ở cả Macao và Bắc Kỳ.
4. “Những bài thơ du ký” (45 bài) làm từ năm 1793 đến 1815.
Từ 1815, Bỉnh chuyển sang nghiên cứu và sáng tác những bộ sưu tập dài mà ông gọi là “truyện”(Bỉnh began to research and compose lengthy collections of what he labeled “tales.”):
1.Ba tiểu sử dài về các bậc tiền bối Dòng Tên (Truyện ông thánh Ignacio ; Phanchico de Borja; Phanchico Xavie). Từ năm 1818 đến năm 1820, mỗi năm ông viết một cuốn.
2. Viết Lịch sử Công giáo La Mã ở Việt Nam (Truyện An Nam Đàng Ngoài , Truyện An Nam Đàng Trong).
3.Và tuyển tập truyện: Truyện bà thánh Anna (Tales of Saint Anne-1830), mẹ Đức Maria.
George E. Dutton đưa ra những lý giải sau đây về lý do và mục đích viết của Bỉnh:
Bỉnh cảm thấy có nghĩa vụ và trách nhiệm với những người đã cử ông đi .
Bỉnh gợi ý rằng — ông giống Moses, và các Nhà truyền giáo đi trước, vừa là người bảo tồn các truyền thống và câu chuyện, vừa là một loại dây buộc giữa quá khứ và hiện tại. Ông mong muốn được giao tiếp với các thế hệ người Công giáo Việt Nam mai sau. Bỉnh cũng hướng về mục đích tâm linh. Trong lời tựa cho tập đầu tiên của bộ Truyện An Nam, ông viết:
“Tôi là linh mục Bỉnh viết cuốn sách này để kính Đức Chúa Giêsu Nhân Lành, và cũng là Đức Mẹ Maria rất thánh, và Thánh Giuse, Thánh Joaquim, Thánh Anna, Thánh Inhaxiô, Thánh Phanxicô Xaviê, và tất cả của các thánh, bởi vì họ là những người đã giúp tôi viết tác phẩm này để anh em tôi có thể sử dụng nó”. —Tại thủ đô của Bồ Đào Nha vào năm 1822.
Giọng kể của Bỉnh mang nhiều nét của người kể chuyện truyền thống. Những “cuốn sổ” này cũng là một hình thức bầu bạn trong những khoảng thời gian ông cô đơn vì nó chứa đựng những tâm tư tuôn trào của ông.
Bỉnh nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của truyền khẩu và vai trò của nó trong xã hội Việt Nam như một nguồn giải trí và giác ngộ...phần lớn sản phẩm văn học của ông có thể được hiểu là vượt qua ranh giới giữa thế giới viết và thế giới kể.
NHỮNG YẾU TỐ SÁNG TẠO TRONG TÁC PHẨM CỦA BỈNH
1.Bỉnh vừa là người sáng tạo trong việc sản xuất sách bằng tiếng Việt về Công giáo, vừa là người tiên phong trong cách tổ chức và trình bày chúng
2.Vào thời điểm Bỉnh viết nhật ký, chữ quốc ngữ đã được sử dụng phổ biến hơn bởi những người Công giáo Việt Nam biết chữ. Ít nhất là trong cộng đồng của ông, quốc ngữ đã trở thành chữ viết được ưa chuộng trên thực tế.
3. Những quan niệm mới về thời gian có ý nghĩa sâu sắc đối với người Công giáo Việt Nam. Họ sống trong không gian và thời gian mới, sinh hoạt theo lịch phụng vụ: Mùa Chay, Tuần Thánh và Lễ Phục sinh; đồng thời cùng tồn tại với thế giới do chính quyền thế tục áp đặt.
Bỉnh kết hợp và đan xen các yếu tố lịch sử Việt Nam, các sự kiện trong Kinh thánh và các mốc truyền giáo của Công giáo trong một khung thời gian chung. Những quan niệm mới này đã thay thế những câu chuyện gốc chịu ảnh hưởng Trung Quốc.
Giờ đây, các tiêu chuẩn chính theo trình tự thời gian có thể là sự ra đời của Chúa Giê-su và trước đó là sự thành lập thế giới, trận Đại hồng thủy hoặc việc tiếp nhận Mười Điều Răn.
Theo nghĩa tâm linh, người Việt Nam có thể hiểu mình là một phần của dòng dõi có thể bắt nguồn từ Áp-ra-ham.
PHẢ HỆ VÀ KHUNG THAM KHẢO MỚI
NEW GENEALOGIES AND FRAMES OF REFERENCE
Ở nhiều cấp độ, Công giáo La Mã đại diện cho một thế giới quan mới. Những câu chuyện trong Kinh thánh trở thành một phần trung tâm của bản sắc Công giáo Việt Nam. Bỉnh đã nói rõ điều này trong Sổ ghi chép các công việc. Ông viết: “Our first and foremost ancestor is Adam”(“Trước hết tổ tông ta là ông Adam”).
Theo quan điểm của Bỉnh, sự hội nhập của người Việt vào dòng Kinh thánh này không chỉ đơn thuần là thần học mà còn là sinh học và do đó là phả hệ. Bỉnh coi chính người dân Việt Nam là hậu duệ của những người sống sót sau trận Đại Hồng Thủy được mô tả trong Cựu Ước
Bỉnh đã dựa vào nhiều nhân vật và tình tiết trong Cựu Ước để minh họa cho các câu chuyện của mình và truyền tải thông điệp của mình, thường xuyên là Môi-se. Bỉnh thể hiện mình giống dân Israel khi phải đối mặt với những nguy hiểm. Bỉnh còn tìm thấy giá trị đáng kể trong các câu chuyện về Vua Đa-vít, Giacop, Tobias. Bỉnh so sánh Giám mục Galdino với Judas, so sánh Giáo hoàng Clêmentê XIV với Pontius Pilate; so sánh các cuộc đấu tranh và đàn áp các Kitô hữu ở Đàng Trong với việc vua Hêrôđê giết con đầu lòng…
Bằng cách viện dẫn những con người, những câu chuyện và địa điểm trong Kinh thánh, Bỉnh và những người Công giáo Việt Nam khác đang khẳng định rằng những sự kiện và kinh nghiệm của những nhân vật trong Cựu Ước giờ đây thích hợp để phản ánh những trải nghiệm của chính họ.
TRUYỆN CỦA BỈNH TRONG TRUYỀN THỐNG TRUYỆN VIỆT NAM VÀ TRUYỆN CÔNG GIÁO
(Bỉnh’ “Truyện” and the Vietnamese and Catholic tradition of tales)
George E. Dutton nhắc đến truyền thống văn xuôi cổ của Việt Nam với các tác phẩm như Việt đinh u linh tập, Lĩnh Nam chích quái (Truyện kỳ lạ từ bụi đất Lĩnh Nam), Truyện kỳ mạn lục (“những bản ghi chép tự do về những câu chuyện kỳ lạ”) đầu thế kỷ 16 của Nguyễn Dữ; Thiền uyển tập anh (Tuyển tập những tác phẩm nổi bật các nhân vật trong vườn Thiền), được in năm 1337 giống như những câu chuyện về các vị thánh Công giáo.
Người đầu tiên sử dụng hình thức cổ tích để phổ biến đức tin Công giáo trong người Việt Nam là Geronimo Maiorica. Phép lạ của các vị thánh Công giáo trong truyện của Maiorica hoàn toàn phù hợp với thể loại truyện cổ tích về “những câu chuyện kỳ lạ” đã phổ biến vào thế kỷ XVI.
Các tác phẩm phong phú của Bỉnh ở thể loại “truyện” khiến ông trở thành một nhân vật quan trọng trong lịch sử phát triển của văn học tôn giáo Việt Nam. (xin lưu ý, George E. Dutton dùng chữ “Truyện” như một thuật ngữ cho riêng tác phẩm của Bỉnh. Ông viết: “ His “tales” are firmly situated within the longer trajectory of the truyện genre, one of the oldest recognized Vietnamese literary forms in prose. .” )
Sự cách tân của Bỉnh là ở việc mở rộng hình thức thể loại đến tầm cỡ gần như sử thi. Bốn tập truyện thánh sử của ông (Thánh Phanxicô Xaviê, Thánh Inhaxiô Loyola, Thánh Phanxicô Borgia, và Thánh Anne) mỗi cuốn trung bình hơn 650 trang.
Ông cũng giúp độc giả Việt Nam tiếp cận được một lượng lớn các tác phẩm văn học tôn giáo châu Âu. Bỉnh hiểu mình nằm trong một số phả hệ văn học. Đầu tiên, ông công nhận “chuyện kể” là một phần của tập tục Kinh thánh lâu đời, Bỉnh coi nhiệm vụ của mình là “viết những câu chuyện này bằng ngôn ngữ của chúng ta để mọi người có thể biết chúng.”
SÁCH GƯƠNG TRUYỆN:
(MORAL EXEMPLARS)
Bộ Sách gương truyện viết về các vị thánh Công giáo gồm hai tập. Bỉnh mô phỏng chặt chẽ cách tiếp cận của Maiorica.
Sách được cấu trúc theo hai nhóm nghĩa vụ tôn giáo: “Mười điều răn” và “Điều Răn của Giáo Hội”. Maiorica đã giới thiệu cho người Công giáo Việt Nam nhiều địa điểm đáng kinh ngạc trên khắp các vùng đất trong Kinh thánh và châu Âu. Truyện của Bỉnh cũng tập trung vào nhiều vùng địa lý ngoài Việt Nam.
THE HAGIOGRAPHIES
(Hạnh các thánh))
Bỉnh viết về cuộc đời ba nhân vật Dòng Tên: Phanxicô Xaviê, Inhaxiô thành Loyola và Phanxicô de Borgia. Đây là những tác phẩm thuộc thể loại thánh tích truyền thống của Công giáo mà Hippolyte Delehaye từng mô tả là “một hình thức văn học mới. . . một phần tiểu sử, một phần tán tụng, một phần bài học đạo đức”. Tales of Saint Francis Xavier (sách dày 589) trang là minh chứng cho phương pháp của ông. “tôi dám viết cuốn sách này để tôn kính Thánh Phanxicô Xaviê và xin mọi người cầu nguyện cho sự trợ giúp và sức mạnh để tôi có thể thực hiện nhiệm vụ này”(lời giới thiệu)
Hạnh các thánh (The Hagiographies) viết tiểu sử các thánh của Bỉnh là bài ca ngợi những anh hùng dòng Tên mà ôngyêu quý. Bỉnh liên kết những nhân vật Công giáo châu Âu với lịch sử Cơ đốc giáo Việt Nam, khiến chúng trở thành một phần của truyền thống văn học Công giáo của Việt Nam, và bởi vì cách Bỉnh kể và thêm vào những giai thoại và quan sát của riêng mình.
TRUYỆN ANNAM
(TALES OF ANNAM )
Truyện An Nam Đàng Ngoài và Truyện An Nam Đàng Trong là đóng góp quan trọng nhất của Bỉnh đối với truyền thốngtruyện kể lịch sử Việt Nam nói chung. Hai tập sách này là những văn bản đầu tiên và quan trọng nhất do Việt Nam sản xuất kể lại lịch sử đức tin Kitô giáo ở Việt Nam. Hai tác phẩm này, mỗi cuốn hơn 600 trang, theo dõi lịch sử Công giáo Việt Nam từ những ngày đầu vào cuối những năm 1500 đến đầu thế kỷ 19.
Truyện An Nam Đàng Trong chủ yếu đề cập đến cuộc sống và cái chết của các vị tử đạo thế kỷ 17 trong vương quốc nhà Nguyễn
-“Tôi nói về những sự kiện từ thời tổ tiên của chúng ta biết về Đức Giêsu diễm phúc và tôn thờ Người, cũng như về tất cả các thánh đã chịu chết vì đức tin, và tất cả những con người nhân đức, cùng với nhiều vấn đề khác, và tôi đã chia thành hai cuốn sách, trong đó Đàng Ngoài là quyển 1, Đàng Trong là quyển 2…” (Lời nói đầu).
Một phần đáng kể của những tập sách này dựa trên các bài viết và báo cáo của các nhà truyền giáo châu Âu. Bỉnh dựa vào những tài liệu thành văn của châu Âu và những tài liệu được truyền miệng của người Việt Nam để soạn thảo bản tóm tắt lịch sử Công giáo ở quê hương mình. Việc kết hợp 2 nguồn tư liệu này là một sự đổi mới đáng kể.
Hầu hết các tập truyện Công giáo viết bằng tiếng Việt trước đây, bao gồm toàn bộ truyện của Maiorica và thực tế là nhiều truyện của riêng Bỉnh, lấy bối cảnh ở các nơi khác trên thế giới, có các điển hình không phải người Việt.
Những câu chuyện của Bỉnh trong cả hai tập Truyện An Nam đều lấy bối cảnh ở quê hương ông và chủ yếu đề cập đến chính người dân Việt Nam bằng ngôn ngữ của họ. Về phương diện này, bằng cách viết về người Việt bằng tiếng Việt, Bỉnh đã trở về cội nguồn Việt của thể loại “truyện”.
Truyện An Nam Đàng Ngoài bắt đầu với câu chuyện Sáng tạo, sau đó chuyển nó qua sự ra đời của Chúa Giê-su và nguồn gốc của nhà nước Việt Nam tự trị. Bỉnh tua nhanh câu chuyện của mình đến thế kỷ XVI. Tại đây, ông giới thiệu sự ra đời của dòng Tên và sau đó là sự xuất hiện của de Rhodes ở An Nam. Chương thứ hai của tập sách, “Các Thầy Dòng Tên Đến Truyền Bá Đức Tin,” và 28 tám chương tiếp theo kể lại lịch sử phát triển và lan rộng của Công Giáo La Mã ở Bắc Kỳ. Phần lớn tài khoản này mô tả chi tiết nhiều cuộc cải đạo và tử đạo trong thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18. Tuy nhiên, nhìn chung, tập này chủ yếu tập trung vào lịch sử gần đây hơn.
Trong câu chuyện này, chính Bỉnh trở thành mắt xích mới nhất trong lịch sử lâu đời này của Công giáo Việt Nam, và Truyện An Nam trở thành Truyện Philiphê Bỉnh.
Truyện An Nam Đàng Trong tập trung mạnh mẽ vào những người đã tử vì đạo trong khoảng thời gian từ những năm 1620 đến những năm 1660.
Cuốn sách này không bắt đầu với nguồn gốc của Kitô giáo hay Công giáo La Mã. Thay vào đó, Bỉnh bắt đầu cuốn sách với phần giới thiệu về lịch sử và địa lý của vùng Đàng Trong, tập trung vào lịch sử của quá khứ tiền thân là vương quốc Champa và sự thôn tính dần dần của người Việt Nam. Cũng giống như cuốn sách nói về Đàng Ngoài, đỉnh điểm của cuộc đời này là quỹ đạo cuộc đời của chính Bỉnh vào những thập niên đầu thế kỷ XIX, bốn chương kết thúc tập trung chủ yếu vào lịch sử chính trị.
NHỮNG NĂM CUỐI: TRUYỆN KẾT VÀ CUỘC CHIA TAY SAU CÙNG
BỈNH’S LAST YEARS: ONE CONCLUDING TALE AND A FINAL FAREWELL
Sau khi viết xong hai tập An Nam Truyện năm 1822, Bỉnh hầu như ngừng viết.
Năm 1830, Bỉnh lại viết Tales of Saint Anne (Truyện bà Thánh Anna), dày hơn 600 trang. Một đóng góp quan trọng cho truyền thống văn học Việt Nam.
Cuối tháng Giêng năm 1832, ông bị tai nạn suýt chết tại tư gia. Khi đang trèo ra khỏi giường, ộng bị ngã và đập vào đầu rất dữ dội khiến ông bất động. Ông viết: “Tôi phải nằm trên giường trong ba tháng, và mỗi ngày có hai bác sĩ đến thăm tôi, và do đó tôi đã phải tiêu tốn một số tiền lớn, bởi vì Mỗi lần bác sĩ đến tôi phải trả một quan ba tiền hai mươi đồng, còn thuốc thì phải có người nhà đi mua nên tôi cũng phải trả tiền ở nhà thuốc. ”
Bỉnh đã thêm lời từ biệt vào trang cuối của Truyện kể về Thánh Anne:
“Cuối cùng khi tôi đã hồi phục và có thể rời khỏi giường, ban đầu tôi không thể đứng vững, nhưng cuối cùng tôi đã có thể bước những bước đầu tiên, và vào cuối tháng, tôi có thể tự mình thực hiện một buổi lễ, và tôi đã ước để tôi quan tâm đến việc hoàn thành cuốn sách này để ca ngợi Thánh Anna. Nhưng tôi không thể viết được vì tay tôi vẫn còn run, và vì lý do này vào cuối tháng giêng năm 1833, tôi đã chấm dứt nó. Tôi, linh mục Bỉnh ký tên, tạ ơn Chúa Giêsu Nhân Lành, Đức Mẹ Maria Rất Đầy Ơn Phúc, và Thánh Anna. Amen.”
Linh hồn của Bỉnh đã được giải thoát không lâu sau cuộc chia tay cuối cùng này, có lẽ vào tháng Ba năm 1833. Ông thọ 77 tuổi.
NHỮNG ĐỀ XUẤT
1.Qua nghiên cứu cuộc đời và tác phẩm của Thầy cả Philipphê Bỉnh, các học giả đều đánh giá cao những đóng góp của Philipphê Bỉnh đối với văn học Công giáo và văn học dân tộc thời kỳ đầu chữ Quốc ngữ.
Gs-Lm Thanh Lãng nhận định:
“Chín cuốn sách[1] trên đây là một bản thống kê hùng hồn cho ta thấy Linh mục Bỉnh là một học giả quảng bác đã biết nói một cách sở trường về rất nhiều vấn đề phức tạp: Ông là một thi sĩ với những vần thơ vừa có tính cách tự thuật vừa có tính cách tùy bút, vừa có tính cách ký sự; là một nhà chuyên viết hồi ký trong đó bộc lộ những tâm tình riêng tư với những cuốn như “Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo” hay cuốn “Sách Sổ sang chép các việc”; một nhà viết truyện ký làm việc không biết nhọc với những truyện như Truyện ông thánh Phanxicô. Truyện ông thánh Ignatio, Truyện bà thanh Anna và cuốn Gương truyện; là một sử gia tỉ mỉ của hơn 1000 trang, trang thủ bản bàn về lịch sử Việt Nam như bộ “Truyện nước Annam Đàng Ngoài chí Đàng Trão”, một nhà thần học với nhiều bài khảo cứu về các ân xá về các giới răn đạo Thiên Chúa; một nhà biên tập như việc sao cuốn tự điển của Alexandre de Rhodes; sau hết còn là một nhà dịch thuật như dịch cuốn “Nhật trình của ông Pernando mendes Pinto”. Tác phẩm của ông cho thấy ông là người đầu tiên chịu ảnh hưởng Tây phương một cách sâu xa, nhất là ảnh hưởng của giáo sĩ Alexandre de Rhodes”[2].
PTS Võ Xuân Quế kết luận: “chúng tôi nhận thấy Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo là một tài liệu có giá trị về nhiều lãnh vực khác như văn hóa, văn học, đặc biệt là về lịch sử và ngôn ngữ”.
George E.Dutton nghiên cứu toàn diện tác phẩm của Bỉnh và khám phá đặc điểm từng thể loại cả về nội dung và cách viết. Ông có những nhận định sâu rộng: Bỉnh là nhà văn Việt Nam viết nhiều nhất bằng chữ quốc ngữ (ở thời điểm của ông), vừa là người sáng tạo trong việc sản xuất sách bằng tiếng Việt Công giáo, vừa là người tiên phong trong cách tổ chức và trình bày chúng. Bỉnh kết hợp và đan xen các yếu tố lịch sử Việt Nam, các sự kiện trong Kinh thánh và các mốc truyền giáo của Công giáo trong một khung thời gian chung. Những quan niệm mới này đã thay thế những câu chuyện gốc chịu ảnh hưởng Trung Quốc. Bỉnh mở rộng hình thức thể loại truyện đến tầm cỡ gần như sử thi. Truyện An Nam Đàng Ngoài và Truyện An Nam Đàng Trong là đóng góp quan trọng nhất của Bỉnh đối với truyền thống truyện kể lịch sử Việt Nam: Bỉnh lấy bối cảnh ở quê hương ông và viết về người dân Việt Nam. Về phương diện này, Bỉnh đã trở về cội nguồn Việt của thể loại “truyện”…
2. Để có thể có cái nhìn toàn diện về tầm vóc những đóng góp của Linh mục Bỉnh đối với văn học chữ Quốc ngữ Việt Nam thời kỳ đầu, chúng ta cần nghiên cứu toàn diện các tác phẩm của ông. Điều này các nhà nghiên cứu ở Việt Nam không thể làm được vì số tác phẩm đồ sộ của Linh mục Bỉnh đang được lưu trữ ở thư viện Vatican. Ước mong các nhà nghiên cứu văn học Công giáo, các Linh mục, tu sĩ, sinh viên du học ở Roma xin phép sao chụp lại các tác phẩm của Linh mục Bỉnh và phổ biến cho độc giả Việt Nam. Công việc này đến nay đã quá chậm trễ.
Tháng 12/ 2020
_____________
Ghi chú
[1] Chín cuốn sách Thanh Lãng nghiên cứu là:
Nhựt trình kim thư khất chính Chúa giáo (1797)
Dictionarium Annamiticum seu Tunkinense lusitana et latina declaration
Sách Gương truyện (1815)
Truyện nhật trình ông Fernad Mendes Pinto.
Truyện ông thánh Phanxicô Xavier (1818)
Truyện ông thánh Ignatio lập Dòng Đức Chúa Giêsu (1819)
Truyện Nước Nam Đàng Ngoài chí Đàng Trong gồm: Truyện Nước Nam Đàng Ngoài và Truyện Nước Nam Đàng Trong.
Truyện bà thánh Anna.
[2] ”Dẫn theo Lê Đình Bảng trong cuốn Văn học Công giáo Việt Nam-Những chặng đường, Nxb Tự điển bách khoa, 2010, tr.145).