VĂN HỌC CÔNG GIÁO-GIÁO PHẬN XUÂN LỘC

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK: buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

Giới thiệu Văn học Công giáo đương đại

VĂN HỌC CÔNG GIÁO-GIÁO PHẬN XUÂN LỘC

Bùi Công Thuấn

***

            Giáo phận Xuân Lộc được thành lập từ năm 1965, tách ra từ Tổng giáo phận Sàigòn. Giáo phận nằm trong địa bàn tỉnh Đồng Nai và thành phố Dĩ Antỉnh Bình Dương. Hiện nay,  giáo phận Xuân Lộc có số giáo dân đông nhất trong các giáo phận ở Việt Nam, với khoảng 1.015.315 dân,  trong tổng số dân trên địa bàn là 3.097.107 người.

Dịp kỷ niệm 25 năm thành lập, giáo phận đã trùng tu xây dựng Trung tâm Đức Mẹ Bãi DâuTượng đài Chúa Kitô Núi Tao Phùng (Vũng Tàu), sau giao lại cho giáo phận Bà Rịa. Dịp kỷ niệm 50 năm thành lập, giáo phận xây dựng Trung tâm Đức mẹ Núi Cúi bên hồ Trị An (QL 20, huyện Thống Nhất, Đồng Nai) với tượng đài Đức Mẹ cao 50m.

(Tượng Đức Mẹ Núi Cúi cao 50m tính từ chân đế)

I. MỤC VỤ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT CỦA GIÁO PHẬN XUÂN LỘC

            Tông huấn Giáo Hội ở Châu Á dạy rằng: ”Trong tiến trình gặp gỡ các nền văn hóa khác nhau của thế giới, Giáo Hội không những truyền đạt các chân lý và giá trị của mình, cũng như đổi mới các nền văn hóa ấy từ bên trong, mà còn thu dụng những yếu tố tích cực có sẵn từ các nền văn hóa ấy. Đây là con đường buộc các nhà truyền giáo phải đi qua khi giới thiệu đức tin Kitô Giáo và biến nó thành một phần trong di sản văn hóa của một dân tộc” (21§2)

            Giáo phận Xuân Lộc thực hiện lời dạy ấy trong tất cả hoạt động Mục vụ văn hóa của mình.

Trước hết là sự lan tỏa trong cộng đồng như “muối men” trong bột.

            Nhiều văn nghệ sĩ người Công giáo hiện diện trong tất cả các Ban chuyên môn của Hội VHNT Đồng Nai. Họ cùng sinh hoạt, sáng tác như mọi hội viên và đóng góp xây dựng văn hóa nghệ thuật quê hương.

Ban Âm nhạc có các nhạc sĩ Công giáo Maria Nguyên Nhung, Bảy Thứ, Hồng Việt, Ngọc Tuyên, trong nhóm sáng tác Sao Mai do Lm  Phạm Liên Hùng sáng lập. Ngoài ra còn có NS Lệ Hằng (hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam);NS Đoàn Quang Trung (Trưởng Ban Âm Nhạc), người đoạt 18 giải thưởng âm nhạc từ Trung ương đến địa phương Đồng Nai, Bình Dương, Kontum, Đà Lạt. Giáo phận Xuân Lộc còn có nhạc sĩ Công giáo nổi tiếng là NS Thế Thông, Ns Mai Nguyên Vũ…

Ban Mỹ thuật có nhiều nghệ sĩ Công giáo. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Bùi Viết Đồng là người đoạt nhiều giải thưởng quốc gia và quốc tế. Các nghệ sĩ nhiếp ảnh Lò Văn Hợp, Đỗ Văn Cư cũng là những nghệ sĩ tài hoa…

Nhà văn Công giáo trong Ban Văn học có: Bùi Công Thuấn,  Nguyễn Thị Khánh, Hạnh Vân…

Về hoạt động văn hóa nghệ thuật: Giáo Phận đã tổ chức những đại hội thánh ca toàn giáo phận tại Tòa Giám mục Xuân Lộc. Các đoàn hợp xướng khoảng 500 ca viên. Chẳng hạn Liên hoan “Ca mừng Emanuel” Gp Xuân Lộc năm 2013 [1]. Các liên hoan thánh ca đã tạo ra nét đẹp văn hóa nghệ thuật Công giáo đồng thời tạo ra bầu khí thánh thiêng trong cộng đồng.

Giáo phận Xuân Lộc đã xây dựng cơ sở Đại Chủng viện có chỗ tu học cho 500 Chủng sinh, xây dựng Tòa Giám mục, Nhà hưu dưỡng Linh mục, trạm xá, trường Cao đẳng Nghề Hòa Bình, cơ sở Caritas Việt Nam. Những cơ sở này vừa là cơ sở cho những sinh hoạt của giáo phận, vừa đóng góp rất hiệu quả vào các hoạt động văn hóa xã hội của cộng đồng. Hội đồng Giám mục Việt Nam đã nhiều lần họp thường niên tại Tòa Giám mục Xuân Lộc. Nơi đây, năm 2012 cũng đã tổ chức thành công Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á châu lần X (The Federation of Asian Bishop’Conferences/ FABC X). Nơi đây cũng nhiều lần tổ chức lễ tấn phong Giám mục, có hàng vạn giáo dân tham dự: Lễ tấn phong Đức Giám mục Tôma Nguyễn Văn Trâm (07/5/1992), ĐGM Đaminh Nguyễn Chu Trinh (11/11/2004), ĐGM Tôma Vũ Đình Hiệu (10/10/2009), ĐGM Giuse Đinh Đức Đạo (05/4/2013), ĐGM Gioan Đỗ Văn Ngân (31/5/2017).

Giáo phận đã xây dựng Trung tâm hành hương Đức Mẹ Núi Cúi. Nơi đây đã trở thành Trung tâm của lòng tin đối với người Công giáo và trở thành công trình văn hóa du lịch của tỉnh Đồng Nai. Trung tâm được xây dựng bên hồ Trị An. Khu vực được phép xây dựng tượng đài Đức Mẹ và các công trình rộng hơn 13 hecta trên tổng diện tích hơn 100 hecta. Kinh phí tương đương với công trình Trung tâm Đức Mẹ La Vang do sự đóng góp của giáo dân giáo phận cùng với hội đồng Linh mục và các ân nhân trong Gia đình AnrêGia đình Anrê Núi Cúi. Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Trung tâm ngày 18/9/2015 có 100 ngàn giáo dân tham dự cùng với Các Đức Hồng Y, các Đức Giám mục trong Hội đồng Giám mục và các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Lm Đaminh Ngô Công Sứ-Trưởng Ban Truyền thông giáo phận nhận xét: Đó là một “cuộc biến hình vĩ đại”, “một phép màu” của Thiên Chúa; “là cuộc hành hương của cả dân Chúa, của 12 giáo hạt, như xưa kia 12 chi họ Israel hân hoan hướng về núi thánh”.

Đến nay (2021) Công trình đã hoàn thành tượng đài Đức Mẹ cao 50 mét (tượng trưng cho Kim khánh giáo phận). Thân tượng cao 33m tượng trưng cho 33 năm Chúa Giêsu xuống thế gian cứu độ nhân loại. 11 hạng mục công trình đang được xây dựng đều mang ý nghĩa Kinh thánh. Ngay cả hồ Trị An ở bên cạnh cũng được Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli, đại diện Toà thánh, so sánh với Biển hồ Galile thời Chúa Giêsu. Quảng trường của công trình có thể chứa hàng triệu người nếu Đức Giáo hoàng có dịp thăm Việt Nam trong tương lai.

 Toàn bộ công trình do Tiến sĩ-Kiến Trúc sư Ngô Viết Nam Sơn (con của KTS Ngô Viết Thụ, người xây dựng Dinh Độc Lập-Sài gòn) thiết kế và Tiến sĩ Nguyễn Văn Hiệp hiện đang là Giám đốc Học viện Kiến trúc Thành Phố, nguyên là Giám đốc Sở Xây dựng Thành phố HCM xây dựng. Tượng Đức Mẹ do nhà điêu khắc Xuân Thu vẽ kiểu. Tượng có nét của tượng Đức Mẹ Lộ Đức nhưng cũng có nét riêng của Núi Cúi.[2]

(Họp mặt tác tác giả đoạt giải VHNT Đất Mới 2016)

Giáo phận cũng tổ chức giải Văn hóa nghệ thuật Đất Mới từ 2011 đến nay, quy tụ đông đảo các tác giả Công giáo và ngoài Công giáo trong 24 giáo phận: An Giang, Bà Rịa, Bắc Ninh, Ban Mê Thuột (Buôn Ma Thuột), Bùi Chu, Caàn Thô, Đà Lạt, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Hóa, Kontum, Lạng Sơn, Long Xuyeân, Nha Trang, Ninh Bình, Phát Diệm, Phú Cường, Quy Nhơn, Sàigòn, Thanh Hóa, Thái Bình, Vinh, Vĩnh Long.

Trong 10 năm đầu, mỗi năm trao giải một lần. Từ năm thứ 11 (2020-2022), hai năm trao giải một lần để các tác giả có thời gian đầu tư nâng chất lượng tác phẩm. Giải gồm các bộ môn: Thơ, Truyện ngắn, Truyện dài, Kịch bản văn học, Ảnh đẹp Công giáo và phim ngắn. Các Đức Giám mục giáo phận đã nhiều lần gặp gỡ văn nghệ sĩ tham dự giải, chia sẻ về Mục vụ văn hóa, khích lệ tinh thần sáng tạo và hướng dẫn nhiệm vụ loan báo Tin Mừng bằng nghệ thuật.

Về mục đích tổ chức giải, thông báo của Ban tổ chức ghi rõ: “Các văn kiện của giáo hội về mục vụ văn hoá và các tác phẩm của Đức cha Đa Minh, nhất là bộ truyện dài“ĐẤT MỚI”, đã khơi gợi ước muốn xây dựng những giá trị văn hoá nghệ thuật Công Giáo nơi cộng đồng dân Chúa. Vì thế, Ban Văn Hoá Giáo phận Xuân Lộc tổ chức giải Văn Hoá Nghệ Thuật Đất Mới”

Thông báo này được bổ sung: Văn học nghệ thuật là lãnh vực quan trọng của văn hoá góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị tinh thần của con người. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hoá, việc gìn giữ những giá trị văn hoá dân tộc, chống lại ảnh hưởng xấu cuả văn hoá thực dụng, ngoại lại, phi nhân, trở nên cấp bách và cần thiết hơn bao giờ, đặc biệt trong việc gìn giữ và giáo dục đức tin đối với người trẻ, trong gia đình, giáo xứ và các môi trường  xã hội. Để góp phần vào công cuộc xây dựng văn hoá Công Giáo trong Giáo Phận, Ban Văn Hoá giáo phận Xuân Lộc tổ chức cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật”

Ban Văn hóa giáo phận Xuân Lộc do Lm Phaolô Đoàn Thanh Phong (Trưởng ban), Lm GB Trần Ngọc Bảo (Phó ban), Lm Phêrô Nguyễn Quang Khương (Phó ban) kết hợp với Ban Truyền thông do Lm Đaminh Ngô Công Sứ (Trưởng ban) tổ chức các buổi lễ trao giải hàng năm.

Trong 10 năm của Giải Văn hóa Nghệ thuật Đất Mới, riêng Giáo phận Xuân Lộc đã có

115 nghệ sĩ tham gia và đoạt giải (trong tổng số 202 tác giả đoạt giải).

Riêng năm 2020, có 124 tác giả tham gia. Giáo tỉnh Hà Nội: 21, Giáo tỉnh Huế:15,

Giáo tỉnh Sàigòn: 88. Tác giả Công giáo 111, tác giả ngoài Công giáo: 13. Tác giả Đại Chủng viện: 4, các dòng tu: 18, Đan viện: 6, Hội Nhà văn Việt Nam và các Hội trung ương: 05.

Năm 2020 có 1149 tác phẩm tham gia: Ca khúc: 85; Thơ: 911 bài (25 tập thơ); Truyện ngắn: 118; Truyện dài: 15; Kịch: 16; Phim ngắn: 04; (chưa kể tác phẩm ảnh đẹp Công giáo). Nếu tính cả 10 năm, số tác giả và tác phẩm tham gia là rất lớn. Đó là một tiềm năng.

Như vậy, Giải VHNT Đất Mới đã có sức lan tỏa rộng khắp. Các bộ môn nghệ thuật đều có tác phẩm đoạt giải và thành phần tác giả tham dự khá đa dạng. Điều này phản ánh tiềm lực phong phú của văn học Công giáo hôm nay. Các tác phẩm văn học cũng phản ánh được nhiều mặt đời sống Công giáo và đặt ra nhiều vấn đề về lương tâm Công giáo trước thời đại.

Về nghệ thuật, tính chuyên nghiệp ngày càng được nâng cao. Đã xuất hiện các tác giả là hội viên các Hội VHNT Trung ương (Hội Nhà văn, Hội sân khấu, Hội Nhiếp ảnh…). Điều đáng kể là số tác giả, tác phẩm truyện dài ngày càng nhiều, Kịch bản phim truyện (phim nghệ thuật) đã bắt đều có những tác giả chuyên nghiệp tham gia. Hai thể lọai truyện dài và Kịch bản phim truyện nghệ thuật mở ra khả năng phản ánh rộng hiện thực đời sống Công giáo, đồng thời nâng chất lượng giải lên một tầm vóc mới so với những năm đầu của giải. Đạo diễn Xuân Thành (Hà Nội) đã tham gia kịch bản phim Đi về hướng mặt trời, và từ kịch bản này, anh đã thực hiện một phim truyện Công giáo đương đại được công luận quan tâm[3]. Lm Ngọc Bảo (Phó Ban Văn hóa Gp Xuân Lộc) cùng với nghệ sĩ Hồ Vân đã bắt đẩu thực hiện những phim truyện Công giáo ngắn hứa hẹn nhiều triển vọng. Xin lưu ý rằng, trong quá khứ, văn học Công giáo Việt Nam có rất ít tác phẩm truyện dài và hầu như chưa có phim Công giáo. Ban tổ chức giải cũng khuyến khích thể loại phim tư liệu Công giáo, song đến nay chưa có tác phẩm đoạt giải.

Bạn có thể đọc 2 truyện dài tiêu biểu của VHNT Đất Mới: Ôi tôi hồng phúc của Teresa Nguyễn Phương Thảo (Canada), Đóa hồng thứ 40 của Vinh Kiu (Hà Nội) và đọc Tuyển tập 10 năm Đất Mới theo link [4].

Nhìn chung những hoạt động Mục vụ văn hóa của giáo phận Xuân Lộc khá đa dạng,  đem đến những kết quả tốt đẹp cho cộng đồng.

(Bìa tuyển tập 10 năm tác phẩm đoạt giải VHNT Đất Mới)

II. NHỮNG KHUÔN MẶT TIÊU BIỂU          

1.Song Nguyễn là tác giả văn học Công giáo tiêu biểu của giáo phận Xuân Lộc, cũng là khuôn mặt tiêu biểu của văn học Công giáo đương đại. (Mời đọc chuyên luận: “Tiếp cận thế giới nghệ thuật của Song Nguyễn[5].)

            Song Nguyễn là bút danh của Đức Giám mục Đaminh Nguyễn Chu Trinh, Giám mục giáo phận Xuân Lộc (2004-2016), người sáng lập Giải VHNT Đất Mới. Người cùng với giáo phận Xuân Lộc xây dựng Trung tâm Đức mẹ Bãi Dâu, tượng đài Chúa Kitô núi Tao Phùng (Vũng Tàu, thời chưa chia tách giáo phận Bà Rịa) và Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi. (Đức cha đã nghỉ hưu song hiện là Giám đốc xây dựng Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi ).

Song Nguyễn đã in 15 tác phẩm gồm truyện ngắn, truyện dài, truyện dài tư liệu, hồi ký.

             1. Một Đời Dâng Hiến, truyện dài. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2009.

             2. Đất Mới, truyện dài 3 tập. Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2018.

             3. Đồng Hành, truyện dài. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2010.

4. Định Hướng, truyện dài. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2011.

5. Chuyến Xe Về Trời, tập truyện ngắn 1. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2011.

6. Còn Một Niềm Tin, tập truyện ngắn 2. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2011.

7. Suối Nguồn, tập truyện ngắn 3. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2011.

8. Người Cha Hiền, tập truyện ngắn 4. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2012.

9. Những Người Mẹ, tập truyện ngắn 5. Nhà xuất bản Tôn Giá, 2012.

10. Chỉnh Hướng, truyện dài. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2013.

11. Đồng Cỏ Xanh, truyện dài. Nhà xuất bản Phương Đông, 2013.

12. Vì sao sáng, truyện dài. Nhà xuất bản Tôn giáo, 2015.

13. Tiếng Kêu, truyện dài. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019.

14. Đường lên Núi Cúi. Truyện dài tư liệu. Nxb Hồng Đức, 2019.

15. Đường đến Núi Cúi-Hành trình của Đức tin, Hồi ký. Nxb Đồng Nai. 2021

         (Bạn có thể đọc tác phẩm chính của Song Nguyễn theo link[6])

            Song nguyễn viết văn là để chia sẻ những suy niệm sống qua trải nghiệm của bản thân, những suy nghiệm dưới ánh sáng Tin Mừng. Trong “Lời mở đầu” tác phẩm, Song Nguyễn cho biết: “Viết lại những mảnh đời, những số phận, những trải nghiệm, tác giả chỉ có ý rút ra cho đời mục vụ của mình những bài học từ cuộc sống. Hay nói khác đi, tác phẩm là những bài suy niệm sống qua các nhân vật. Và nếu có thể, chia sẻ với bạn bè tất cả những kinh nghiệm quý báu này. Mục đích chỉ đơn giản như vậy”.

            Các tác phẩm của Song Nguyễn phản ánh một diện rất rộng đời sống người Công giáo Việt Nam suốt từ trước 1945 đến hôm nay (2021). Tất cả hợp thành một bộ sử thi, điều này chưa hề có trong lịch sử văn học Công giáo. Song Nguyễn cũng đối thoại với những vấn đề của thời đại mà văn chương thế tục đã phản ánh không trung thực về người Công giáo (Thí dụ tác phẩm Bão biển của Chu Văn).

Tác phẩm của Song Nguyễn cũng mở ra con đường sáng tạo của nhà văn Công giáo. Đó là sự chọn lựa đề tài, tìm kiếm nhân vật, ghi lại những cảnh đời, những số phận (nội dung phản ánh hiện thực), sử dụng bút pháp, thái độ diễn ngôn và mục đích sáng tác.

Hướng về công chúng để chia sẻ nên Song Nguyễn viết bằng lối văn gần gũi thân tình. Đặc biệt là, tác phẩm của Song Nguyễn được viết dưới ánh sáng Mỹ học Kitô giáo và chủ nghĩa Nhân văn của Tin Mừng[7].

2. Bùi Công Thuấn-Nhà phê bình văn học (Hội viên Hội Nhà văn)-nhạc sĩ. Đã in các tác phẩm [8]:

            1.Việt Nam mãi mãi yêu người. Tuyển tập ca khúc. 1988

            2. Hạnh. Tập truyện ngắn. Nxb Hội Nhà văn. 2005

            3. Chút tình tri âm. LLPB. Nxb Hội Nhà văn. 2009

            4. Những tìm tòi nghệ thuật của Anh Đức. Chuyên luận. Nxb Đồng Nai. 2009

5. Những dòng sông vẫn chảy. LLPB. Nxb Hội Nhà văn. 2011

            6. Hoa đỏ bên sông. LLPB. Nxb Hội Nhà văn. 2014.

            7. Tiếp cận thế giới nghệ thuật của Song Nguyễn. Nxb Hội Nhà văn. 2014,

              tái bản 2019.

            8. Văn chương Việt Nam, Những gì còn với mai sau. Nxb Hội Nhà văn 2016.

            9. Nhà văn Đồng Nai. LLPB. Nxb Đồng Nai. 2018

            10. Những mùa vàng văn học Công giáo. Nxb Hội Nhà văn 2020.

Bạn có thể quan tâm một số bài viết về văn học Công giáo như: thơ Xuân Ly Băng, thơ Trăng Thập Tự, Thơ Lê Đình Bảng, thơ Trần Mộng Tú, Thơ Trần Vạn Giã, Truyện ngắn Nguyễn Trung Tây, Tư tưởng mỹ học Kitô giáo. “Lịch sử văn học Công giáo” và những vấn đề; Văn học Công giáo-giáo phận Quy Nhơn, Văn học Công giáo-giáo phận Phát Diệm.[9]

                          CÁC TÁC GIẢ XUÂN LỘC ĐOẠT GIẢI VHNT ĐẤT MỚI

            3. Cao Danh Viện đoạt giải nhất thơ 2015 với 3 tác phẩm: Trường ca Họ từ những đau khổ lớn lao mà đến, Mùa hoa mân côi, Đường thánh giá với tâm tình Ma đơ len; đoạt giải nhất thơ và truyện ngắn năm 2016 với tác phẩm: Kinh ngợi khen, suy niệm Kinh thánhCùng Mẹ chúng con đi (truyện ngắn). Xin đọc bài viết riêng về thơ Cao Danh Viện.[10]

            4. Catarina Nguyễn Thị Lam (Song Lam) đọat giải thơ nhiều năm của Giải VHNT Đất Mới: Bên đời thinh lặng (Tập thơ. Hạng nhì. 2012); Đánh mất (truyện ngắn, KK. 2013), Thơ tình Mân Côi (Tập thơ. KK. 2015), Diễm ca lòng thương xót Chúa (Tập thơ. KK. 2016); Về đất Mẹ (thơ. KK 2017), Lắng trong sương (Tập thơ. KK 2018); Khúc Thần nhạc (Tập thơ. Hạng ba. 2019), Tấu lạy Bà (Tập thơ. KK. 2020).

Song Lam cũng xuất hiện trên nhiều diễn đàn khác như “Thi ca cầu nguyện” hoặc các trang văn chương Công giáo. Song Lam có sức sáng tạo dồi dào, tình cảm thơ mạnh mẽ, ngôn ngữ thơ trau chuốt, có ý thức tìm một lối đi riêng. Thơ Song Lam đa phần là các bài thơ 7, 8 chữ, kiểu Thơ lãng mạn (1930-1945) theo phong cách thơ Hàn Mạc Tử. Lối thơ này đã cũ. Khi Song Lam sử dụng lại nhưng thiếu sáng tạo cái mới, ngôn ngữ tượng trưng khiến cho thơ trở nên xa lạ với cuộc sống, thơ phiêu diêu ở cõi nào xa khuất hẳn đời thực. Cứ theo một lối đi như vậy, thơ Song Lam không vượt lên để trở thành một khuôn mặt thơ với những đường nét riêng. Song Lam cần tiếp cận các thể thơ hiện đại, hòa mình với đời sống thực để nghe nhịp đập trái tim mình với cuộc sống, nói bằng ngôn ngữ cuộc sống, có vậy thơ mới trở thành tiếng nói của ngày hôm nay, của cuộc sống này.

5. M.Vinc Nguyễn Thị Chung (Đan viện Xitô Thánh mẫu Vĩnh Phước), tác giả nhiều truyện dài đoạt giải Đất Mới: Đâu là hạnh phúc thật (Truyện dài. Hạng nhì. 2015), Thử chết một lần (truyện dài, KK 2016), Khi trái tim lên tiếng (truyện dài, KK. 2018), Chàng xe ôm (Truyện dài. Hạng nhì, 2019).

Nhận xét truyện dài Chàng xe ôm:

Từ Bắc vào Nam kiếm sống, Nhân chạy xe ôm. Gia đình Nhân có 3 người chết vì bom B52 Mỹ, mẹ bị tông xe chết, cha đi tù vì dính vào ma túy. Nhân trở thành đứa trẻ mồ côi vô gia cư.

Vào Sài Gòn, lúc đầu Nhân được ông bà Nghị cưu mang. Sau khi ông bà Nghị chết, Nhân theo Tường, một người bạn cũ chạy xe ôm. Tường là trẻ mồ côi cũng lưu lạc từ Bắc vào Nam. Nhờ Nam cầu nguyện với Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Tường được chữa khỏi ung thư, từ đó Nhân theo đạo.

 Trong chuyến xe vào nam, Nhân quen với Thảo, một cô bé 13 tuổi, con nhà giàu có. Sau này Thảo dành cho anh một tình yêu sâu nặng nhưng anh phải chia tay Thảo. Anh đã lấy Nga, một cô gái định tự tử vì bị phụ tình. Nhân chạy xe ôm nuôi vợ con. Không ngờ Nga bị Quân là người yêu cũ quyến rũ, cô bỏ Nhân và trở thành gái bao của hắn. Hắn bán Nga cho các đại gia. Nga phải trốn về Cà Mau với cái bụng bầu. Cô vô cùng hối hận vì đã phản bội Nhân.

Một người bạn đưa Nga về Vũng Tàu để chờ sinh. Nhân đưa con đi biển. Vô tình anh  đã cứu được Nga lúc cô định tự tử lần 2. Đứa con trong bụng cô ngộp nước chết. Nhớ lời Chúa dạy trong đoạn Kinh thánh về người đàn bà ngoại tình, anh tha thứ cho Nga, và cho cô về sống chung với con.

Nhưng rồi Nhân lại bị tai nạn chấn thương sọ não và được Nga chăm sóc. Nhân hồi phục. Trên đường về, anh tự nhủ “giá như không có Niềm Tin vào Chúa, chắc chắn bây giờ gia đình anh cũng tan nát như bố mẹ anh ngày trước, và các con anh cũng phải chia cắt, rồi chúng lại trở thành những đứa trẻ mồ côi”. Gia đình đòan tụ trong tin yêu.

Chàng xe ôm được viết bằng lối văn mộc mạc, cấu trúc truyện mạch lạc, cốt truyện hấp dẫn, suy niệm lẽ đạo sâu sắc. Tuy nhiên vẫn có những hư cấu chưa thật thuyết phục, Nhân được xây dựng quá lý tưởng so với đời thực.

6. Petrus Dương Kim Quới. Tác giả đoạt nhiều giải thưởng Đất Mới cả ở thể loại thơ

 và văn: Số  phận người (Tập thơ, hạng nhất. 2011), Một Nhà- Tim đỏ trong khăn, Mùa xuân nảy lộc (Thơ. Hạng nhất. 2012), ba tập thơ: Người Mẹ Ấy, Ánh Sao Lasan, Quê Hương Dũng Lạc (Hạng I. 2013), Hát nói trên đỉnh núi (Thơ. Hạng nhì. 2015), Hai Cào (truyện ngắn. Hạng nhì. 2016). Bài văn tế dưới chân Núi Cúi (Thơ. KK. 2016), Những ngày Chúa nhật (Tập thơ. KK. 2018), Nữ tỳ Thánh Thể (Thơ song ngữ Pháp-Việt. KK 2019), “Kỷ nguyên Núi Cúi” (Tập thơ, hạng III. 2020). Tác giả Petrus Dương Kim Quới sử dụng điêu luyện các thể thơ truyền thống, giàu vốn sống, vốn tri thức, rất chú trọng nghệ thuật ngôn ngữ.

            7. Maria Phạm Thị Lành: Tác giả nhiều truyện dài đoạt giải: Huỳnh đệ vàng (Truyện dài. Hạng ba. 2014), Lối về (Truyện dài. Giải nhất. 2016), Phía sau hố thẳm tội lỗi (truyện ngắn. KK. 2016), Hương Thạch thảo (Truyện dài, Hạng nhất. 2018).

            Nhận xét về truyện dài Hương Thạch Thảo:

Hương Thạch Thảo là một tiểu thuyết hay về tình yêu của Tuấn Vỹ và Thạch Thảo.

Thảo là cô sinh viên đỗ thủ khoa ngành Sư phạm Âm nhạc, gia đình nghèo. Cha mẹ cô mất vì tai nạn xe ngay trong ngày cô tốt nghiệp. Tuấn Vỹ tốt nghiệp Quản trị Kinh doanh. Ba mất, anh phụ mẹ coi công ty. Họ tình cờ quen nhau trong ngày lễ bế mạc kết thúc khóa huấn luyện Giáo lý viên cấp Hai của Giáo hạt. Tình yêu của họ bị mẹ của Vỹ cản trở. Bà Vĩnh Phát không chấp nhận Thảo vì gia đình cô không môn đăng hộ đối. Khi Vỹ đã cưới Thảo, bà tìm mọi cách chia cắt đôi trẻ. Nhất là từ khi Thảo không còn hy vọng sinh con. Bà hành hạ Thảo và đối xử tàn nhẫn để cô bỏ đi. Yêu Vỹ, Thảo nhẫn nhục chịu đựng. Khi Vỹ đi Mỹ học, bà Vĩnh Phát còn đối xử tàn bạo với Thảo hơn nữa. Bà bắt cô làm việc nặng như người ở, liên tục ép cô ly hôn. Khi Thảo sinh bé Bình Yên, bà bắt đứa nhỏ và ép cô phải ra đi. Thảo đi trong một đêm mưa bão, và gia đình Vỹ tin là cô đã chết đối ở suối.

10 năm sau Thảo trở về ngôi nhà xưa. Bây giờ Thảo là cô giáo Bích dạy tiểu học. Bích dạy lớp bé Bình Yên con của Vỹ. Vỹ mời cô đến nhà dạy kèm cho con. Cô chứng kiến Kiều (vợ sau của Vỹ) hành hạ bé Bình Yên. Trong khi đó Vỹ vẫn tin là Thảo còn sống. Anh bị mù cả hai mắt nên không biết Bích là ai. Dũng là bạn thân làm việc với Vỹ. Dũng phát hiện ra Bích là Thảo. Không thể né tránh, Thảo kể lại việc mình bị xe tông, được đưa về Sài gòn chữa rồi được Lm dòng Chúa Cứu Thế đưa sang Mỹ học. Cô thành đạt và trở về mong tìm gặp bé Bình yên. Dũng kể lại việc tìm kiếm Thảo vô vọng. Vỹ kể lại sau khi trở về biết rõ sự việc anh đã khóc thương Thảo mù mắt. Anh phải lấy Kiều để chăm sóc bé Bình yên. Bây giờ bà Vĩnh Phát đã chết, Kiều cũng tự nguyện ra đi. Hiểu rõ sự tình, Thảo đồng ý nối lại tình xưa. Vỹ, Thảo và bé Bình Yên ôm nhau khóc trong hạnh phúc.

Truyện đề cao tình nghĩa thủy chung Công giáo, đề cao sự nhẫn nhục, đức hy sinh và sự tha thứ; đề cao sự tín thác vào Chúa. Mọi đau khổ của Thảo đều được quy chiếu về sự đau khổ của Chúa torng cuộc khổ nạn và cậy trông vào Lòng Thương xót Chúa. Truyện có cấu trúc truyền thống: gặp gỡ, ly tán và đoàn tụ. Truyện khởi đi ở hiện tại rồi tái hiện quá khứ và trở về hiện tại giải quyết vấn đề của quá khứ. Tác giả có kỹ thuật viết điêu luyện, sử dụng đối thoại để kể thay vì viết những đoạn tường thuật dài dòng. Màu sắc lãng mạn pha trộn với màu sắc trinh thám tạo nên sự hấp dẫn.

Do có chủ đích tô đậm sự chịu đựng vị tha Công giáo, tác giả đẩy nhân vật vào những hoàn cảnh không thể có thật trong đời thật, vì thế truyện kém thuyết phục. Một cô gái trẻ, đỗ thủ khoa Đại học, ngành sư phạm âm nhạc, sống trong thời hiện đại lại cam chịu mọi sự hành hạ, sỉ nhục của mẹ chồng, giống như phụ nữ thời phong kiến. Không thể có một cô gái như thế trong thời đại toàn cầu hóa. Không thể có sự tình cờ kỳ diệu như trường hợp của Thảo. Cô bỏ đi, trong túi không có đồng nào, bị xe tông, được đưa về Sài gòn chữa bịnh, được giải phẫu thẩm mỹ và được một Linh mục dòng Chúa Cứu Thế đưa sang Mỹ học và làm việc. Cô thành đạt rồi trở về, với bằng thạc sĩ, Thảo chấp nhận dạy tiểu học chỉ để tìm con. Việc bác sĩ nói Thảo không thể có con vậy mà cô vẫn sinh bé Bình Yên dù thiếu tháng; việc Vỹ bị mù đã mười năm, vẫn có thể chữa khỏi là những việc chỉ có trong tiểu thuyết lãng mạn. Ngay cả việc Vỹ khóc thương Thảo đến bị mù cũng là điều không thế có trong thời đại hôm nay. Nếu được miêu tả hiện thực hơn (thay vì lãng mạn), Hương Thạch Thảo sẽ có sức thuyết phục hơn.

            8. Phạm Vinh Sơn. Tác giả truyện dài có phong cách trẻ trung. Tác phẩm đoạt giải: Hồn Nhiên tuổi thơ (truyện dài. Hạng II. 2012), Lời thề trong nước mắt (truyện ngắn. Hạng I. 2013), Bé Hai (Truyện dài. Hạng II. 2014), Tiếng khóc chào đời (Truyện dài. KK. 2015)

            Nhận xét về truyện dài Bé Hai:

Bé Hai thuật lại cuộc đời của Dì Bé, Sr.Marie Goretti,

Truyện khởi đi từ khiBé Hai còn nhỏ đến cuối đời.

Bé Hai lúc nhỏ đi lạc, sống bụi, được Lượm, anh cả trong nhóm bụi đời cưu mang, rồi được chú Tư nuôi. Thời gian trôi đi, Bé Hai tìm được mẹ, trở lại đời sống bình thường. Bé Hai được dì Tiên dạy chữ, học kinh, sau chi tốt nghiệp THCS, Bé Hai đi tu dòng. Bề trên cho Bé Hai sang Pháp du học, tốt nghiệp Tiến sĩ xã hội học, trở về phục vụ nhà dòng. Dì Bé tổ chức Mái Ấm Hoa Hồng, cô nhi viện Thiên Phúc, nhà cơ nhỡ, nhà tu sinh…

Tập truyện có quy mô phản ánh khá rộng, một không gian rộng từ Kiên Lương-Rạch Giá miền Tây (Nam bộ) lên Sài Gòn, lên Căn cứ Rừng Lá, và mở rộng sang Provence nước Pháp. Một thời gian dài, truyện tái hiện hành trình của cả một đời người.

Giá trị của tác phẩm là ở lòng yêu thương, trân trọng đối với những thân phận “dưới đáy” xã hội, và miêu tả con đường thăng tiến của họ trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Tiêu biểu là Dì Bé.

Tác giả Phạm Vinh Sơn có khả năng viết những cảnh đối thoại đời thường thật tự nhiên (ngôn ngữ kịch), rồi nhân đó đưa vào những thông tin mới đẩy câu chuyện phát triển về phía trước. Kiểu ngôn ngữ này cũng che lấp được sự non tay trong khả năng miêu tả bối cảnh, miêu tả sự vận động tâm lý, sự vận động thời gian của tác giả. Phạm Vinh Sơn sử dụng bút pháp lý tưởng hóa, gán cho nhân vật những phẩm chất phi thường, làm những việc phi thường không thể có trong đời thực.

Tất nhiên tác giả được quyền hư cấu để nhân vật thực hiện được chủ đề tư tưởng. Dù vậy, tác giả cần bảo đảm chân lý nghệ thuật. Kỹ thuật viết đối thoại đời thường đã kéo dài tác phẩm không cần thiết. Tác giả cần miêu tả sâu sắc bối cảnh xã hội, sự vận động bên trong của nhân vật và lý giải cho được (một cách khoa học) sự phát triển tất yếu của tính cách và số phận nhân vật, thay vì dùng các yếu tố ngẫu nhiên rồi suy diễn thành ý Chúa an bài…

            Bé Hai là một bài ca về tình yêu Thiên Chúa.

            9. Maria Hà Thị Thúy Diễm, tác giả nhiều truyện dài đoạt giải: Con hoang (Hạng II. 2011), Những nốt nhạc nên đời (Truyện dài. Hạng II. 2013), Xương bánh đúc (Truyện dài. Hạng III.  2015), Khóc muộn (Truyện ngắn. Hạng III. 2018). Hà Thúy Diễm có lối viết trẻ trung, ngôn ngữ dành cho tuồi teen.

            Nhận xét về truyện dài Con Hoang

Con Hoang là câu chuyện của cô sinh viên tên Nga, bị bố bỏ rơi 12 năm trong mái ấm Hoa Hồng của các Sr.

Lòng hận thù đã làm cho Nga trở nên cực đoan, quyết liệt từ chối, khi người cha trở lại tìm con. Truyện kết thúc khi cha con đoàn tụ trong ánh sáng của tư tưởng nhân văn Công Giáo: ”Sự tha thứ quả là một phép màu. Nó không những làm cho con người được thanh thản mà đồng thời nó làm cho con người được lớn lên”. Nga đã tha thứ lầm lỗi của cha mẹ, của bà nội, là những người đã thiếu trách nhiệm Nga và tìm lại được tổ ấm yêu thương của mình,

Truyện có cấu trúc giản dị, mạch truyện phát triển theo tuyến tính thời gian. Các sự kiện đều tập trung vào nhân vật chính tên Nga, bắt đầu từ tai nạn bị xe tông đến khi đoàn tụ với gia đình.

Trong tác phẩm có nhiều bi kịch. Bi kịch thứ nhất là bi kịch con hoang. Nga phải sống trong mặc cảm tủi hận mình là con hoang bao nhiêu năm trời. Cha của Nga lấy mẹ Nga trong một tình thế đã rồi, khiến bà nội phải chấp nhận. Bà nội là người có quyền lực quý tộc đã bắt cha của Nga phải bỏ Nga vào nhà cô nhi, sau đó bắt ông phải lấy vợ khác để có con nối dõi tông đường. Cha của Nga rất thương mẹ con Nga, nhưng không thể cãi lời mẹ. Ông đã lén lút suốt 12 năm thăm Nga và mua quà sinh nhật cho con, với niềm hy vọng mỏi mòn sẽ đem con trở về gia đình.

Bên cạnh bi kịch gia đình Nga, một bi kịch gia đình khác cũng căng thẳng, quyết liệt không kém. Đó là tình cảnh gia đình Phong, bạn trai của Nga. Ba anh là người miền Nam, lính không quân. Trong một trận đánh, máy bay của ông bị bắn rớt. Ông bị thương rất nặng. và được ông bà ngoại và mẹ anh chăm sóc. Khi giải phóng, ba đang bị thương nên không trở về Nam được.Tình yêu phát sinh giữa hai người. Ông ngoại đuổi hai người ra khỏi nhà. Ba thú nhận với mẹ trong miền Nam ba đã có vợ và một người con trai. Mẹ bất chấp tất cả. Mẹ sinh hai chị và Phong. Rồi mọi việc phải đến đã đến. Người vợ miền Nam của ba tìm đến gặp mẹ Phong để nhận lại chồng, vì lo cho phần rỗi linh hồn của ông ấy. Sau cùng mẹ Phong trả ba Phong về cho mẹ lớn. Mẹ nói “Cái gì không phải là của mình thì mãi mãi không là của mình, và ngược lại”.

Giải quyết được bi kịch của Phong, Hà Thị Thúy Diễm giúp hé mở con đường giải quyết bi kịch của Nga. Đấy là triết lý thương người như thể thương thân. Từ bi kịch của mình, Phong đã chia sẻ bi kịch của Nga, nhờ đó đỡ nâng cho những khốn khó, hóa giải những cực đoan của Nga, đưa Nga trở về với gia đình đoàn tụ trong hạnh phúc yêu thương. Đoạn miêu tả sự đối mặt với bi kịch giữa bà nội, cha của Nga và dì Trâm là một đoạn viết rất hay.

Ngòi bút Hà Thị Thúy Diễm tỏ ra chắc tay khi xây dựng nhân vật bà Phú Thịnh quyền uy, cực đoan và sự khó khăn của cha Nga khi họ bàn tính để đón Nga về (chương tám).  Đặc sắc ngòi bút của Hà Thị Thúy Diễm  là viết những đoạn đối thoại tuổi teen sinh động. Truyện phát triển tự nhiên, nhưng thường có những đột biến kịch tính xuất hiện tạo độ căng cho mạch truyện. Nhiều chi tiết thú vị làm cho câu truyện trở nên hấp dẫn.

Tuy vậy, Hà Thị Thúy Diễm chưa thật sâu sắc trong miêu tả tâm lý nhiều nhân vật, chưa thấu đáo những sâu kín trong tâm lý lứa đôi và chưa sử dụng nhiều kiểu bút pháp hiện đại trong dựng truyện. Nói cách khác, về bút pháp, Con Hoang vẫn thuộc về bút pháp “truyền thống”. Giá trị của Con hoang là ở tư tưởng Nhân Văn Công Giáo khi miêu tả, phân tích, lý giải những vấn đề gai góc của gia đình Việt Nam đương đại. Từ đây hé mở cho người đọc thấy nhiều vấn đề xã hội rộng lớn hơn, đặc biệt là những vấn đề của giới trẻ Công Giáo.

***

Xuân Lộc còn những khuôn mặt triển vọng khác như: Maria Hồ Thị Phương Anh (truyện dài Đóa Quỳnh bất tử. 2017), Têrêsa Nguyễn Như Hà (hai tập thơ Haiku. 2017), Trần Thế Huy (Truyện dài Người hành khất trước cổng tu viện. 2016). Nguyễn Thị Thanh Hương (Hương Sion- Thơ), Nguyễn Thị Khánh (Thơ), Hoàng Trọng Sĩ (Thơ), M. Innocentio Nguyễn Thị Duyên, O.Cist. (Truyện dài Di trú tới Thiên Chúa), Maria Goretti Ng Thị Tú Xuân (với các truyện dài Ngựa chứng trong tu viện. 2015; Vòng xoáy yêu thương. 2018; và Ngã tư thập tự. 2019),… Bạn có thể đọc tác phẩm của các tác giả trên trong các tuyển tập tác phẩm đoạt giải VHNT Đất Mới hàng năm [11].

(Đức Giám mục Đaminh Nguyễn Chu Trinh trao giải thơ)

IV. NHỮNG TÁC GIẢ TIÊU BIỂU THUỘC GIÁO PHẬN KHÁC

ĐOẠT GIẢI VHNT ĐẤT MỚI

1. Tác phẩm thơ

            Đề tài, thể loại thơ rất phong phú. Bên cạnh thơ trữ tình, thi ca cầu nguyện còn có thơ diễn ca sách Cựu Ước. Đã xuất hiện thơ dành cho thiếu nhi và thơ dịch. Các tác giả tham gia bằng các tập thơ có chất lượng nghệ thuật tốt.

            Phaolô Trần Trung Hậu. TGp Sài gòn (Kể chuyện Tin Mừng. KK. 2017; Tập thơ: Châm ngôn Kinh Thánh diễn thơ. Hạng I. 2019; Tập thơ Xuất Hành. Lục bát diễn thơ. KK. 2020)

            Phêrô Bùi Văn Nghiệp. TGp Sàigòn (diễn thơ Sách Tôbia. Hạng II. 2017; Sách Giu-đi-tha. Hạng I. 2018; ba trường ca: Sách Sáng Thế, Sách Étte, Sách Tông Đồ Công Vụ. Hạng I. 2020)

            Phêrô Lê Thanh Xuân. TGp Sài gòn (Trường ca Gieo hạt tin yêu. Hạng I. 2017)

            Anna Nguyễn Đỗ Thái An. Gp Đà Nẵng (Hai tập: Nguyện tâm thơSuy niệm 14 chặng đường thánh giá Chúa Giêsu. KK. 2016; Tập thơ Theo chân người Mục tử. KK. 2017; hai tập: Chuyện kể nơi mồ hoang Bảo vệ sự sống. KK. 2020) 

            Lm Giuse Trần Văn Đỉnh (Đình Chẩn). Gp Phát Diệm (Hồn thơ Thiên linh- Tiên Sa Hài Đồng Giêsu. Dịch và tổng hợp thơ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Hạng II. 2020)

            Mạc Tường. Gp Quy Nhơn (Thơ Mạc Tường. Hạng III. 2015)

            Nguyễn Vũ Hồng Kha. Gp Quy Nhơn (Thơ Dâng. Hạng II. 2018)

            Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist. Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn. Ninh Bình (Tập thơ Sống đạo. KK.2018; Tập thơ thiếu nhi Bông hồng nhỏ. Hạng III. 2020)

2.Truyện ngắn hay

            a. Những tác giả hội viên Hội Nhà văn Việt Nam là những nhà văn đã thành danh đã góp cho Giải VHNT Đất mới những truyện ngắn hay với những phong cách riêng:

            Nhà văn Lê Quang Trạng, An Giang, có những truyện ngắn đầy sáng tạo mang tính tư tưởng: Tình yêu của Chúa (hạng I. 2015), Những tiếng chuông trầm (Hạng I. 2017), Chúa luôn bên mọi người (KK. 2016), Thư gửi người họa sĩ tương lai (KK. 2018)

            Nhà văn Phêrô Nguyễn Văn Học, Hà Nội, đặt ra nhiều vấn đề xã hội nóng bỏng, truyện giàu vốn sống và giàu chất thẩm mỹ: Tình người (Hạng I. 2018), Ngã lên cỏ thơm (Truyện dài. KK. 2016).

            Nhà văn Nguyễn Thị Khánh Liên, Nha Trang, viết truyện nhẹ nhàng, có duyên. Truyện của Khánh Liên giàu tình người: Người yêu dấu ơi (Hạng III. 2020), Lời nguyện cầu cho biển (KK. 2016)

            Nhà văn Võ Diệu Thanh, An Giang viết truyện giàu ý nghĩa tư tưởng: Người đàn bà đẹp (Hạng II. 2016)

            b. Những khuôn mặt truyện ngắn đầy triển vọng đã gây ấn tượng trong giải VHNT Đất Mới bằng những truyện ngắn đặc sắc:

            Đinh Thành Trung, Hà Nội, có cách viết rất lạ trong truyện ngắn Marina (Hạng III. 2020)

            Giuse Nguyễn Ngọc Bích, Hưng Hóa, viết truyện đậm chất dân tộc thiểu số: Những bắp ngô của thằng Tráng (Hạng III.2019)

            Giuse Phạm Đình Duy, Nha Trang, có nhiều truyện gây ấn tượng ngay lần đầu tiếp xúc (Tập truyện ngắn gồm 10 truyện. Hạng I. 2020)

            Phê rô Phạm Minh Châu, Nha Trang, có lối viết gọn ấn tượng (Một lần vấp ngã. KK. 2019; Đong tấm lòng. KK. 2020).

            Vinc Chung Thanh Huy, Sài gòn, truyện có phong cách ngôn ngữ Nam bộ (Ở phải. Hạng II. 2020; Những ánh sao đêm. KK. 2017; Câu chuyện chiều mưa. KK. 2016)

            Phạm Thị Yến, Thanh Hóa, truyện giàu chất hiện thực kết hợp một cách sáng tạo với nhiều kiểu bút pháp, đề cập đến những vấn đề nóng của thời đại (Người gác đền. Hạng I. 2019).

            Maria Nguyễn Thị Hồng Lài, Sài gòn, có nhiều truyện cảm động: Hương hoa hồi (KK. 2020); Một đời hiến thân (KK. 2019); Món quà vô giá (Hạng III. 2015)

            Những cây bút sau đây để lại được ấn tượng cho người đọc ngay lần đầu tiếp xúc với tác phẩm:

            Phê rô Nguyễn Bá Định (Trái tim làng cùi. KK. 2018); Giuse Nguyễn Minh Trí, Ban mê thuột (Lật đá cửa mồ. KK. 2020); Tô Phục Hưng, Cần Thơ (Vị Linh mục trên địa ngục trần gian. KK. 2016); Dương Cao Cảnh, Cần Thơ (Trái cấm tân thời. KK. 2019; Mái trường chủng viện. KK. 2017); Giuse Nguyễn Văn Vậng, Cần Thơ (Chiếc áo vá. KK. 2020); Maria Madalenna Đặng Hoàng Hương Giang, Kontum (Yêu thương quay về. KK. 2015); Nguyễn Đức Quang, Nha Trang (Tiếng chuông. Hạng nhì. 2017); Maria Thân Thị Hồng Kiều, Quy Nhơn (Chính Người đã chọn. Hạng II. 2015); Pet Ngô Gia Hy, Quy Nhơn (Câu chuyện của Chúa. KK. 2015); Nguyễn Đức Tín, Vinh (Tình đời. KK. 2016); Trần Thị Hằng Nga, Vinh (Một khoảng trời chung. KK. 2016)

3. Truyện dài.

Có 38 tác phẩm truyện dài đoạt giải VHNT Đất Mới trong 10 năm (riêng Gp Xuân Lộc có 25 tác giả). Đây là vốn quý của văn học Công giáo. Truyện dài là thể loại chủ lực của văn học. Văn học Công giáo trong quá khứ có rất ít truyện dài. Văn học sử ghi nhận Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1887) là truyện viết bằng Quốc ngữ đầu tiên (với kỹ thuật phương Tây). Vũ Ngọc Phan ca ngợi tiểu thuyết Một linh hồn của Thụy An (1941). Điều này làm cho nhiều nhà nghiên cứu văn học Công giáo ngộ nhận. Một linh hồn không phải tác phẩm văn học Công giáo. Thụy An chỉ lấy bối cảnh Công giáo làm nền cho nhân vật. Trong truyện có rất nhiều điều sai lạc về tín lý Công giáo.

Vì thế 38 truyện dài đoạt giải là phần đóng góp có giá trị cho vốn văn học Công giáo đương đại. 38 truyện được viết ở nhiều kiểu bút pháp và phong các nghệ thuật. Nội dung đề cập đến nhiều vấn đề xã hội, vấn đề tư tưởng và đời sống Công giáo hôm nay. Nghệ thuật thể hiện nhiều truyện dài đạt đến nghệ thuật tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Tuy vậy cũng cần thấy rõ hạn chế về kiến tạo tác phẩm của những cây bút phong trào.

Phần nhận xét chung đã tin trong tuyển tập 10 năm tác phẩm đoạt giải Đất Mới[12] (xin đọc theo link). Ở đây, chúng tôi chỉ ghi nhận tên tác giả tác phẩm (theo giáo phận):

Bà Rịa. Giuse Ngô Quốc Việt. Về gieo hạt giống yêu thương. KK

Bùi Chu. Giuse Nguyễn Xuân Bảo. Trở về. KK

Cần Thơ. Fx. Dương Cao Cảnh. Gia đình hãy là dấu chỉ lòng thương xót của Chúa. III. 2018

Canada. Tê rê sa Nguyễn Phương Thảo. Ôi tội hồng phúc. I. 2017

Hà Nội. Giuse Lê Ngọc Thành Vinh. Maria ngoại truyện. KK. 2019; 

                                                            Đóa hồng thứ 40. I. 2020.

Hà Nội. Nguyễn Văn Học. Ngã lên cỏ thơm. KK. 2016

Hải Phòng. Maria Đặng Kim Thoa. Sứ mạng. III; Thieân Chuùa Cha cuûa Toâi. II. 2016

Hưng Hóa. Maria Đỗ Thị Hồng Nhanh. Đời làm hạt. KK. 2019

Phú Cường. Maria Hà Thị  Thúy Diễm. Nt. Con hoang. II. 2011; Những Nốt Nhạc Nên Đời.

                    II. 2013;  Xương bánh đúc. III. 2015

Thanh Hóa. Maria Phạm Thị Yến. Hai đứa trẻ . KK. 2017

Vĩnh Long. Trầm Thị Sương. Những ngày còn lại. II. 2017

Xuân Lộc.

Maria Hồ Thị Phương Anh. Đóa Quỳnh bất tử. KK. 2017

           Phạm Thị Khiết Tâm. Người tù số 8. KK. 2015; Người mẹ một chân. KK. 2016

           Phạm Thị Lành. Huỳnh đệ vàng III.2014; Lối về. I. 2016. Hương thạch thảo. I. 2018

Teâreâsa Bùi Thị Hồng Ân – Maria Bùi Thị Hoài Ân. Ngọn đèn dầu nhỏ. III. 2017

Teâreâsa Phạm Thị Khiết Tâm. Mưa rừng. KK. 2017

Trần Thế Huy. Người hành khất trước cổng tu viện. III. 2016

           P. Vinh Sơn. Bé Hai. II. 2014; Tiếng khóc chào đời. KK. 2015

Trần Tiến Cảnh. Hồn Nhiên tuổi thơ ; Ước mơ của ba cây táo. II. 2012

Giuse Phạm Hồng Đức. Xa xứ. KK. 2019

M. Innocentio Nguyễn Thị Duyên, O.Cist. Di trú tới Thiên Chúa. II

M. Vinc Nguyễn Thị Chung. Đâu là hạnh phúc thật. II. 2015.  Thử chết một lần. KK.

                                      2016; Khi trái tim lên tiếng. KK. 2018; Chàng xe ôm. II. 2019.

Maria Goretti Ng Thị Xuân. Vòng xoáy yêu thương. II. 2018; Ngã tư thập tự. III. 2019;

                                               Ngựa chứng trong tu viện.KK

Maria Pacome Hồ Thị Phượng, O.Cist. Ba ơi! Khi nào mẹ về?KK

Phêrô Trần Thế Huy. Đôi bờ xa cách. KK. 2018

(Bạn có thể đọc các tác phẩm trên theo link:[13])

4.Về kịch bản văn học.

            Kịch bản của các tác giả đoạt giải Kịch VHNT Đất Mới dưới đây đã đạt được những phẩm chất nghệ thuật nhất định. Một vài kịch bản đã có những màu sắc nghệ thuật riêng.

Đạo diễn Nguyễn Xuân Thành. TGp Hà Nội có kịch bản Đi về hướng mặt trời (Kịch bản phim. Hạng III. 2020). Tác giả đã dựng thành phim Công giáo và được các Đấng bản quyền khích lệ.

Nghệ sĩ Sân khấu Ngô Lương Thu, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Ninh Bình (Đức tin. Khuyến khích. 2020),

Lê Quang Trạng. Gp Long Xuyên (Bài thuốc thần kỳ. Hạng I. 2017).

Phêrô Bùi Văn Nghiệp, TGp Sài gòn (Hành quyết song hùng. Hạng I. 2018).

Maria Đỗ Thị Hồng Nhanh, Nt TGp Sài gòn (Món quà kỳ diệu – Kịch thơ. Hạng I. 2020).

Hồ Phương Anh. Xuân Lộc (Hành trình tử đạo của thánh Anê Lê Thị Thành. Khuyến khích 2018).

Maria Nguyễn Thị Hồng Lài. Gp Lạng Sơn (Lời hứa với Chúa Giêsu . Hạng II. 2020)

Têrêsa Phạm Thị Thanh Lan. Gp Đà Lạt. (Cha như là một vì sao-Kịch thơ về Cha Trương Bửu Diệp tử đạo.Hạng III. 2018.

(Đạo diễn Nguyễn Xuân Thành, người đoạt giải kịch bản phim truyện)

5. Ca khúc và Ảnh đẹp Công giáo (Không ghi nhận trong bài viết này)

THAY LỜI KẾT

            Các hoạt động Mục vụ văn hóa của giáo phận Xuân Lộc còn đang diễn ra và hướng về phía trước nên những ghi nhận ở đây mới chỉ định hướng một góc nhìn và mở ra những triển vọng, bởi tiềm năng văn hóa, văn nghệ của giáo phận rất phong phú nhưng chưa được phát huy như kỳ vọng của các Đấng bản quyền.

Các Đức Giám mục chủ chăn của Gp Xuân Lộc rất quan tâm đến mục vụ văn hóa nghệ thuật trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Việc xây dựng những công trình văn hóa xã hội (Trung tâm hành hương Đức Mẹ Núi Cúi); tổ chức giải VHNT Đất Mới, và các hoạt động bác ái xã hội bên cạnh các sinh hoạt tôn giáo (Cổ vũ Lòng Thương Xót Chúa)…đã tạo nên một đời sống tâm linh sốt sắng trong giáo phận, một bộ mặt xã hội đẹp (Tốt đạo đẹp đời) ở Đồng Nai, và một sự kết nối trong Chúa Thánh Thần trong cộng đồng giáo dân trong và ngoài nước.

            Các văn nghệ sĩ Công giáo thấm nhuần lời nhắc nhở này của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II trong thư gửi các nghệ sĩ năm 1999:

            “Trong toàn cảnh văn hóa rộng lớn của mỗi dân tộc, các nghệ sĩ có một chỗ đứng đặc biệt. Khi nghe theo cảm hứng để sáng tạo ra các tác phẩm vừa đáng giá vừa đẹp đẽ, các nghệ sĩ chẳng những đã làm giàu cho di sản văn hóa của quốc gia và nhân loại, mà còn phục vụ công ích qua sự phục vụ xã hội hết sức đặc biệt của mình.”[14]

            Có thể ghi nhận một điều, Văn học Công giáo của giáo phận Xuân Lộc đã có những đóng góp nhất định làm giàu thêm kho tàng văn học Công giáo đương đại và lời mời gọi của giáo hội vẫn đang thúc giục ở phía trước.

Tháng 2/2022

***


[1] https://www.youtube.com/watch?v=r7i2GGPbx4M

[2] Về công trình Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi xin đọc hai tác phẩm của Song Nguyễn: Đường lên Núi CúiĐường đến Núi Cúi-Hành trình của Đức tin. Bạn có thể download theo link:

https://www.mediafire.com/file/vtdl2qbvh8903p4/ĐƯỜNG+LÊN+NÚI+CÚI-BCT-+tp+Full.rar/file

https://www.mediafire.com/file/cg4bbvm4jbvj3x8/00+ĐƯỜNG+ĐẾN+NÚI+CÚI+-official.rar/file

[3] https://www.youtube.com/watch?v=UZ-3E-vf6Po

[4] Ôi tội hồng phúc:

https://www.mediafire.com/file/t5znls8o8f3i436/Ôi+Tội+Hồng+Phúc-Teresa+Nguyễn+Phương+Thảo.pdf/file

Đóa hồng thứ 40:

https://www.mediafire.com/file/xt5qo27mnnvl7es/08.+ĐÓA+HỒNG+THỨ+40-+211+tr.rar/file

Tuyển tập 10 năm Giải VHNT Đất Mới:

https://www.mediafire.com/file/q2erhsvadk7ggng/TUYỂN+TẬP+10+NĂM+ĐẤT+MỚI+2020.rar/file

[5] Bùi Công Thuấn-Tiếp cận thế giới nghệ thuật của Song Nguyễn. Nxb HNV 2014, tái bản 2019

[6] https://www.mediafire.com/file/5lf0gykmzclhyz4/Tác+phẩm+của+Song+Nguyễn.rar/file

[7] Xin đọc bài Tư tưởng nhân văn Công giáo trong tác phẩm của Song Nguyễn trong Tiếp cận thế giới nghệ thuật của Song Nguyễn (Sđd ghi chú 4)

[8] Bạn có thể đọc hai cuốn sách: Tiếp cận thế giới nghệ thuật của Song Nguyễn và cuốn Những mùa vàng văn học Công giáo theo link:

https://www.mediafire.com/file/qwcautth2cghlqs/NHỮNG+MÙA+VÀNG+-+official.rar/file

https://www.mediafire.com/file/3dp0zcqcioi7rce/Ti%25E1%25BA%25BFp_c%25E1%25BA%25ADn_Song_Nguy%25E1%25BB%2585n-b%25E1%25BA%25A3n_in_2019.rar/file

[9] Bạn có thể đọc những bài viết chính của Bùi Công Thuấn trong Những mùa vàng văn học Công giáo và theo link:

  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

[10] Thơ Cao Danh Viện: https://buicongthuan.wordpress.com/2020/12/07/tho-mic-cao-danh-vien/

[11] 1.Tuyển tập 2014

https://www.mediafire.com/file/20j5l3e61r6xxla/TUYỂN+TẬP++2014.rar/file

2.Tuyển tập 2015

https://www.mediafire.com/file/xg9y9oaepclbg9z/TUYỂN+TẬP+2015.doc/file

3.Tuyển tập 2016

https://www.mediafire.com/file/jd0z8x8tnlwnrqo/TUYỂN+TẬP+2016-.rar/file

4.Tuyển tập 2017

https://www.mediafire.com/file/atwddvnd33kua1u/TUYỂN+TẬP+2017.doc/file

5.Tuyển tập 2018

https://www.mediafire.com/file/a9pp3zcno3rkv7s/TUYỂN+TẬP+2018.rar/file

6.Tuyển tập  2019

https://www.mediafire.com/file/7qvdliwylisy756/TUYỂN+TẬP+ĐẤT+MỚI+2019-dàn+trang.rar/file

7.Tuyển tập 2020

https://www.mediafire.com/file/uc81a0uoklatzx8/TUYỂN+TẬP+2020.rar/file

[12] Tuyển tập 10 năm tác phẩm đoạt giải VHNT Đất Mới:

https://www.mediafire.com/file/q2erhsvadk7ggng/TUYỂN+TẬP+10+NĂM+ĐẤT+MỚI+2020.rar/file

[13] Truyện dài Đất Mới

https://www.mediafire.com/file/59nifksxbv24u4v/TRUYỆN+DÀI+ĐẤT+MỚI.rar/file

[14] http://huangiao.com/index.php/van-kien/duc-giao-hoang/thu-luan-luu/item/1529-thu-duc-thanh-cha-gioan-phaolo-ii-gui-cac-nghe-si-1999

THƠ NGUYỄN HỮU HỒNG MINH

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK: buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

MƯỜI KHUÔN MẶT THƠ TRẺ ĐƯƠNG ĐẠI

NGUYỄN HỮU HỒNG MINH

Bùi Công Thuấn

***

Nguyễn Hữu Hồng Minh (trái)-Nguyễn Quang Thiều (phải)

CHUYỆN LÙM XÙM

Ngày 14/02/2022 trong lễ kết nạp hội viên mới, Hội Nhà văn Việt Nam đã “treo” kết nạp Nguyễn Hữu Hồng Minh vào Hội, mặc dù Nguyễn Hữu Hồng Minh  được chính Chủ tịch Hội Nguyễn Quang Thiều mời [1].

Trước đó, ngày 04.01.2022, Chủ tịch Hội đã ký Quyết định số 12 /QĐ-HV kết nạp 36 hội viên mới năm 2021 từ kết quả kỳ họp Ban Chấp hành lần thứ 3 bầu chọn, trong quyết định này có tên Nguyễn Hữu Hồng Minh. Quyết định này đã được công bố trên trang vanvn.vn của Hội Nhà văn [2].

Chuyện lùm xùm xảy ra từ bài viết của Lê Thiếu Nhơn (Hội đồng thơ) đặt vấn đề về bài thơ Lỗ thủng lịch sử của Nguyễn Hữu Hồng Minh, sau đó một vài người hùa theo. Có lẽ sợ dư luận nên Hội Nhà văn Việt Nam “treo” kết nạp Nguyễn Hữu Hồng Minh chăng? Điều này đã tạo ra nghi vấn lớn trong công luận. Bởi vì khi trao giải Thơ của báo Văn nghệ, công luận phản ứng dữ dội nhưng Hội Nhà văn vẫn bao biện việc trao giải, không có rút lại quyết định. Nhưng đối với Nguyễn Hữu Hồng Minh, chỉ vì một bài của Lê Thiếu Nhơn, Hội Nhà văn đã loại Minh mà không có một lời giải thích, công luận cho rằng việc “treo” kết nạp này là một “cuộc đấu đá” nội bộ!

Lê Thiếu Nhơn nói về Nguyễn Hữu Hồng Minh như thế này: Nếu anh vẫn thừa nhận “Lỗ thủng lịch sử” là tác phẩm tâm đắc của bản thân, thì anh đừng nên cầm tấm thẻ Hội viên Hội Nhà văn VN”;”Nguyễn Hữu Hồng Minh viết văn xuôi rồng rắn gì để được kết nạp”;”thứ chữ nghĩa giẻ rách “…Rõ là giọng điệu đầy đố kỵ và cố ý loại trừ. (Xem phụ lục).

Văn hóa Việt lấy việc tôn trọng Con người làm gốc. Mời một ngưởi đến nhà, hẳn nhiên đó là một người bạn và thái độ mời là biểu hiện sự trân trọng. Không ai mời bạn đến nhà liền sau đó lại đuổi bạn đi. Chủ tịch Hội Nhà văn mời Nguyễn Hữu Hồng Minh vào Hội, các Hội đồng chuyên môn đã xét, Ban Chấp hành đã có quyết định kết nạp, vậy mà Hội lại gạt Minh ra. Đó là sự  bêu nhục một Con Người. Thật không sao hiểu nổi!

Bài thơ Lỗ thủng lịch sử của Nguyễn Hữu Hồng Minh xuất hiện năm 2003 [3], trong trào lưu “Thơ Trẻ” đầu thế kỷ XXI, đến nay đã 19 năm. Trào lưu này có góp vào sự cách tân thơ ca Việt đương đại. Tất nhiên, như mọi trào lưu, Thơ Trẻ cũng có những mặt hạn chế. Lỗ thủng lịch sử được viết bằng nhận thức (ý thức về nghệ thuật) và thủ pháp Hậu Hiện đại, nên rất “khác biệt” với cách đọc truyền thống (Lưu ý: thời đại hôm nay là thời đại tôn trọng sự khác biệt, tôn trọng Cái Khác- ‘The Others”).

Lấy một bài thơ cách nay 19 năm để “treo” kết nạp hội viên là điều không hợp lý. Hồ sơ kết nạp hội viên ít nhất có 2 tác phẩm, và khi kết nạp, hội viên được đánh giá trên “sự nghiệp” sáng tác cùng với những đóng góp cho văn học nước nhà. Không bao giờ kết nạp hội viên chỉ căn cứ vào 01 bài thơ. Tôi ngờ rằng Ban Chấp hành Hội Nhà văn không biết bài thơ này, cả Lê Thiếu Nhơn (Hội đồng thơ) cũng giả bộ không biết bài này! Tôi hơi ngạc nhiên vì nhà thơ Inrasara (Chủ tịch Hội đồng thơ), một người rất tích cực cổ vũ Hậu Hiện đại lại không lên tiếng về trường hợp này! (Phãi chăng khi đã là Chủ tịch Hội đồng Thơ Hội Nhà văn anh đã hết “Hậu Hiện đại?)

Nếu là “treo” thì đến bao giờ mới hết “treo”, vì 20 năm nữa, bài thơ “Lỗ thủng lịch sử” vẫn còn đó, Thơ Trẻ đầu thế kỷ XXI vẫn còn đó, thế nghĩa là Nguyễn Hữu Hồng Minh sẽ không bao giờ được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Sao lại có một “cái án” nặng nề và thiếu tình người vậy! Án nặng nhất là án chính trị (Quang Dũng, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Phan Khôi…),  Nguyễn Hữu Hồng Minh chưa bao giờ bị kết án chính trị. Các nhà thơ nhà văn vụ án Nhân Văn Giai Phẩm còn được phục hồi danh dự Hội viên Hội Nhà văn và được trao giải thưởng Nhà nước, vậy mà cái “án treo” Nguyễn Hữu Hồng Minh phải chịu lại là cái án suốt đời, vậy đâu còn là nhân văn!

 Nhân văn phải là phẩm chất hàng đầu trong đối xử với đồng nghiệp trong Hội Nhà văn. Đối xử với nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh như thế này gây thất vọng đối với hội viên Hội Nhà văn và những người có ý muốn vào Hội, gây ra những tai tiếng trong cộng đồng, bởi những ngôn ngữ mỹ miều của Hội khác hẳn với hành động thực tế![4].

***

Nhân dịp này, tôi đăng lại những dòng đã viết về Nguyễn Hữu Hồng Minh trong bài viết “10 Khuôn mặt thơ trẻ đương đại” đăng năm 2009. Bài này cũng in trong cuốn Chút tình tri âm-Bùi Công Thuấn-10 Khuôn mặt thơ trẻ đương đại. Nxb HNV. 2009

___________

Ghi chú

[1] Báo Tuổi Trẻ:

https://tuoitre.vn/nguyen-huu-hong-minh-khong-co-ten-trong-danh-sach-hoi-vien-moi-hoi-nha-van-viet-nam-20220213065231657.htm

[2]https://vanvn.vn/hoi-nha-van-viet-nam-ket-nap-36-hoi-vien-moi-nam-2021/

[3]https://tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=1512

[4]Báo Tuổi Trẻ: Chủ tịch HNV trả lời phỏng vấn của Tuổi trẻ ngày 06/02/2021:

https://tuoitre.vn/chu-tich-hoi-nha-van-viet-nam-nguyen-quang-thieu-cac-nha-van-hay-viet-that-me-dam-20210114092132869.htm

***

Phụ lục

Bài thơ Lỗ thủng lịch sử,

Bài viết của Lê Thiếu Nhơn (Hội đồng Thơ-HNV)

Bài đáp trả của Nguyễn Hữu Hồng Minh.

___________________

MƯỜI KHUÔN MẶT THƠ TRẺ ĐƯƠNG ĐẠI

NGUYỄN HỮU HỒNG MINH

***

Một thế hệ  mới

Đó là một thế hệ có trình độ học vấn cao, đa tài và hoạt động ở nhiều lĩnh vực xã hội. Họ có ý thức mới trong sáng tạo nghệ thuật và có nhiều điều kiện giao lưu quốc tế. Họ khẳng định một thế hệ mới, thế hệ trẻ hôm nay, thế hệ trẻ cuả  một đất nước mở cưả và hội nhập, hoàn toàn khác với thế hệ nhà thơ đi trước trưởng thành trong chiến tranh. Nguyễn Hữu Hồng Minh cho biết :“ có xu thế thăm dò và cổ vũ mọi tìm kiếm, mọi thể nghiệm trong nghệ thuật Thơ của người viết trẻ…. Đó là thế hệ dò tìm, phác họa chân dung, gương mặt của chính mình sau chiến tranh. Nói cách khác, giả sử cha anh chúng tôi đã sinh trưởng vào thời điểm như chúng tôi, thế hệ của e-mail, chat, internet…, khi thông tin đang mở rộng và thu hẹp lại thế giới, thì chắc họ cũng phải trăn trở, cũng phải thể nghiệm như chúng tôi. Không còn cách nào khác. Và chúng tôi, nếu sinh ra vào bối cảnh đất nước đang có chiến tranh thì cũng phải lên đường cầm súng, bảo vệ Tổ quốc. Đó là niềm tin, lòng tự hào và ý thức dân tộc. Dò tìm gương mặt mới cuả thế hệ “[5].

            Xin đơn cử một vài trường hợp

Nguyễn Vĩnh Tiến, Đại học Kiến trúc Hà nội, tốt nghiệp loại giỏi, Cao học Pháp Ngữ (Master Francophone) “Toulouse-Hà nội 2001-2004”. Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty CP Kiến Trúc & Thương Mại ViệtPháp (T-group), là người ‘ bay giữa kiến trúc, nhạc và thơ” . Văn Cầm Hải, Cử nhân Văn Khoa, Cử nhân Luật khoa. Tu nghiệp báo chí tại Hà Lan 2002, được mời tham gia chương trình Viết Văn Quốc Tế tại University Of Iowa (The University of Iowa, International Writing Program), Mỹ, 2005. Nguyễn Thuý Hằng, họa sĩ, tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Tp HCM, học nâng cao về hội họa đương đại tại Mỹ. Lê Vĩnh Tài,  Đại học Y Khoa Tây Nguyên, Buôn Ma Thuột, làm nghề tự do. Phan Huyền Thư, tốt nghiệp đại học Tổng hợp khoa Văn năm 1993, là biên kịch hãng phim Tài liệu và khoa học trung ương. Nguyễn Vĩnh Nguyên khoa ngữ văn, Đại học Đà Lạt, 2001, là phóng viên văn hóa của báo Sài gòn Tiếp thị. Vi Thuỳ Linh, Đại học báo chí. Trần Ngọc Tuấn, Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Hữu Hồng Minh, nhà thơ, nhà văn, nhà báo, từng được trung tâm văn học Literaturwerkstatt (Berlin) và Viện Goethe Institut (Munich) tổ chức dịch tác phẩm và mời sang Đức  nói chuyện, giao lưu, đọc thơ, được giới thiệu  trên tạp chí Thi Bình (số 5.2005) Hàn Quốc, được đánh giá là một trong số ít những nhà thơ trẻ triển vọng, có nhiều cách tân đột phá của thi ca Việt Nam hiện đại.

Nguyễn Huy Thiệp đã từng nhận xét như thế này, và tôi tin rằng ông đã ngộ nhận. ” Nhìn vào danh sách hơn 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều chỉ là những người già nua không có khả năng, sáng tạo và hầu hết đều… “vô học”, tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào “cảm hứng” để tuỳ tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả.[6]

Trong bài viết này, tôi sẽ tiếp cận thơ trẻ ở ý thức sáng tạo cuả tác gỉa, ở thi pháp và phong cách (nếu có) để thử phác họa chân dung từng nhà thơ, định hình gương mặt cuả một thế hệ nhà thơ mới, qua những tên tuổi ít nhiều đã tự khẳng định mình trong thơ ca

1. NGUYỄN HỮU HỒNG MINH

Nguyễn Hữu Hồng Minh là người được  tạp chí Thi Bình (số 5.2005) Hàn Quốc,  đánh giá là một trong số ít những nhà thơ trẻ triển vọng, có nhiều cách tân đột phá của thi ca Việt Nam hiện đại .

Thơ cuả anh là thơ tư tưởng. Anh suy tư sâu sắc những trải nghiệm hiện sinh. Hiện sinh với anh là hiện sinh quy tử (Being toward the Death).

 ”Sự sống thật là sự sống réo trên đầu sự chết”

                                                   (Sự  Sống Thật)

Anh thấy sự chết hiển hiện trong tất cả tồn tại.

“ Tôi thấy cái chết ló dạng trong những câu thơ tôi vưà viết…

Chúng ta người đã chết lại bàn cãi quá ồn ào về cái chết

                                                          ( Sự Vụ )

Hiện hữu đối với Nguyễn Hữu Hồng Minh  là hiện hữu thưà và dơ bẩn  (Ghi Chép Rời), hiện hữu phân rã (Sóc Trăng, Lỗ Thủng Lịch Sử ). Con người xa lạ với chính mình, xa lạ với tha nhân. ”Giưã chúng ta những bến không bờ/ Những bờ không bến/ Chúng ta nhị nguyên “ (Giưã Chúng Ta). “Đôi khi tôi giật mình vì một tiếng nói xa lạ/ như tôi tìm được thanh đới mình từ cổ họng những người đã chết” (Tiếng Nói Bội Trương). NHHM không thể hình dung nổi người yêu cuả mình  giưã một “cuộc tồn tại không tình yêu, không em trơ vắng hoang điạ những ngón tay đồ tể khai quật hoa văn xác ướp “ (Mẫu Tự). Tất cả vui lấp trong cát, tuyệt vọng. “Em ơi, hãy bới cát tìm cuống họng cho anh/ để anh tập đánh vần lại chữ A / A!A!A! / Trước một đời sống cát “ (Bài Cát).

Nguyễn Hữu Hồng Minh  mất phương hướng trong cõi hiện sinh mảnh vỡ. Hắn là một kẻ không đầu, không tay chân, không cả dương vật, không tiếng nói. Một Ngày Tự Do cũng là tự do ý thức về cái chết, hiện sinh Chậm Như Thùng Thuốc Nổ .

Nhưng khi hắn cần dương vật thì hắn biết bỏ quên ở Sài gòn

Hắn cần đầu thì mới hay vứt ở Hà Nội

Hắn cần khua khoắng chân tay thì đã rụng rơi đâu đó ở Cà Mau

Trong giấc mơ hắn không rõ hắn đã nói điều gì với Bạc Liêu, Sóc Trăng, An Giang

Dạng háng! Hãy dạng háng!

Hắn kêu lên với những tiếng của lỗ đít…”

                                  (Lỗ Thủng Lịch Sử)

“ Y lang bang đâu khi không đầu ?

                                 (Ăn Hải cảng)

Nguyễn Hữu Hồng Minh  trăn trở nhiều về thơ ca, nhưng thơ ca cũng chết, anh bế tắc.

Mi không phải là thi sĩ!

Khốn nạn mi không phải là thi sĩ!

Đừng ảo tưởng!

Chữ nghĩa đã hoá gạch đá xây mồ táng mi…

Giã từ thôi, giã từ.

Trên bàn tay bại liệt của mi ngòi bút trơ cạn dòng suối máu…

                                                                                    (Giã từ)

Có thể nhận thấy Nguyễn Hữu Hồng Minh  còn đang trải nghiệm hiện sinh,  anh chưa đạt tới ý thức về nỗi chết bằng Haller trong Sói Cô Đơn (Steppenwolf ) cuả Hermann Hesse. Anh nhận ra một thế giới xa lạ nhưng chưa nhìn thấy cái xa lạ, phi lý như trong Kẻ Xa Lạ (L’étranger ) và Ngộ Nhận (Le malentendu) cuả A. Camus. Anh vẫn còn hăm hở “ăn“ trong cuộc hiện sinh và “Không nghĩ mình có thể ăn nhiều thế “ (Ăn Hải Cảng) mà chưa chưa trải nghiệm trạng thái buồn nôn cuả J.P.Sartre. Anh chưa vượt qua được hiện sinh như S. Kierkegaard hay Nietzsche. Nguyễn Hữu Hồng Minh  mới chỉ chạm tới tư tưởng về hiện sinh. Có thể anh sẽ còn đi tiếp hành trình tư tưởng cuả mình trong thơ ca.

Về nghệ thuật, Thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh  chưa vượt qua được những thành tựu cuả người đi trước. Thơ anh giàu chất suy tưởng, nhưng suy tưởng cuả anh không phong phú bằng Chế Lan Viên, anh thể hiện tư tưởng hiện sinh nhưng anh chưa tiếp cận được cách viết dòng ý thức như thơ Thanh Tâm Tuyền (bài thơ Phẫu Tích là một bài có cách viết gần như bài thơ ĐEN cuả Thanh Tâm Tuyền). Khi anh viết về những trải nghiệm ăn chơi, người đọc còn nhận thấy ảnh hưởng cuà Đỗ. KH. Anh đem cái tục vào thơ như kiểu nói tục ở đầu đường xó chợ.

“Hoảng loạn và kinh sợ khi hắn phát hiện ra mình vẫn sống mà làm việc với những xác chết

Đi đứng ngoằn nghèo như ma trơi, linh hồn quỉ nhập tràng luôn dụ khị hắn làm những trò mê cuồng và quái đản

Hắn muốn làm tình với Nguyễn Thị Thu Huệ – Hắn tàn bạo điều đó

Hắn muốn hiếp Lê Thị Mỹ Ý – Hắn thèm muốn điều đó

Hắn không nứng trước Phan Thị Vàng Anh – Hắn khẳng định điều đó

Hắn yêu Ly Hoàng Ly – Hắn mãi tôn thờ điều đó

Hắn sợ hãi lỗ nẻ của Vi Thùy Linh – Hắn khiếp hãi điều đó

Nhân loại chui ra từ háng – Hắn quả quyết điều đó

Dân tộc Việt là một dân tộc mê lồn – Hắn xác tín điều đó”

                                                            ( Lỗ Thủng Lịch Sử )

Đọc những dòng thơ trên, người đọc hẳn hoài nghi về ý thức sáng tạo Hậu hiện đại của anh. Anh cho rằng: “Thực ra ngôn ngữ rất ít hoạt động. Nó “ngủ” là chính. Nó chỉ thức dậy và quậy tung náo loạn do ý thức điều khiển của bộ não và cảm giác. Nó cũng không có từ đẹp hay từ xấu. Từ đẹp hay xấu là do cảm quan cá nhân của người sử dụng và bối cảnh sử dụng..”. Nói về nhà thơ nhà văn, anh chủ trương: “Tại sao khi họ dám xây dựng, tạo ra được 1 nhân vật thì lại không dám để mình biến thành một nhân vật trong mắt kẻ khác?”,  vì thế anh dùng từ “vô tư” và nêu đích danh những đồng nghiệp văn chương làm đối tượng chơi chữ cuả mình.

Tôi nghĩ rằng, văn chương, ngôn ngữ không chỉ là con chữ trung tính, không phải là trò chơi, mà là văn hoá, tư tưởng, và thẩm mỹ. Anh làm một thứ “thơ không thơ”, “thơ rác”, thơ dơ”, “thơ nghĩa địa” như một vài “nhà thơ trẻ” đương thời. Anh lật đổ những “đại tự sự “ về văn chương, đạo đức, chính trị, văn hóa để làm một kẻ phá phách (xin đọc Lỗ thủng lịch sử). Anh dùng cái ấy (Cái Tục) vỗ vào mặt đồng nghiệp cuả anh. Đó là sự xúc phạm không thể chấp nhận. Xin nhớ, họ là những người có nhân cách, là những nhân vị xã hội, một Con Người với tất cả giá trị văn hoá, lịch sử và truyền thống dân tộc. Anh đánh đồng họ với cái giống cuả anh, và muốn đối xử với họ chỉ bằng cái giống bản năng sinh vật thì hẳn đó là một sự tha hoá, không còn là nghệ thuật nưã (thực ra “nghệ thuật” của Hậu hiện đại là phá hủy nghệ thuật của chủ nghĩa Hiện đại).

 Nguyễn Hữu Hồng Minh   chưa định hình được một khuôn mặt thơ với những giá trị tư tưởng, nghệ thuật cuả riêng anh. Anh chỉ chạy theo trào lưu Hậu Hiện đại (Đỗ. KH, nhóm Mở Miệng…) để đạp đổ những giá trị mà cộng đồng này, dân tộc này đang giữ gìn và xây dựng. Chính vì thế anh bị công đồng phản đối (Cộng đồng diễn dịch).

***

Nguồn: Bùi Công Thuấn-Chút tình tri âm10 Khuôn mặt thơ trẻ đương đại.  Nxb HNV .2009

Bài: 10 Khuôn mặt thơ trẻ đương đại đã đăng một phần trên Văn nghệ Trẻ, tạp chí Thơ số 2/2009

http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=8942

____________________

Ghi chú

[5] Nguyễn Hữu Hồng Minh, Bản chất ngôn ngữ và tính hư cấu trong thơ hiện đại

[6] Nguyễn Huy Thiệp: Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn, Tạp chí Ngày Nay, Hà Nội, số 6, 15.3.2004 )

Vũ Quần Phương: Song thoại về cái mới của thơ ca: “tôi rất cảm tình với thơ của Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải”(Phongdiep.net)

***

PHỤ LỤC

LỖ THỦNG LỊCH SỬ

Nguyễn Hữu Hồng Minh

Nhiều khi hắn thấy dương vật hắn đang ở Sàigòn,

Đầu hắn ở Hà Nội

Và tay chân thì rơi rụng đâu đó ở Sóc Trăng

Buổi sáng ở miền Trung, trưa ở miền Nam,

Chiều ở miền Bắc, tối ở miền Tây

Ly cà phê nhìn ra tháp Rùa đắng như máu hắn

Cơn điên rồ chùa Mã Tộc, ngày tháng bạc Kênh Xáng

Những người đàn bà Miên, ôi vóc dáng màu da muộn phiền biết bao nhiêu!

Những sợi khói như những cái thòng lọng dụ hắn treo cổ

Nhiều khi trong mơ thấy mình đã chết. Xác thối, diều cắt quạ tha. Hắn khoái trá cho điều ấy!

Linh hồn hắn treo đâu đó trên một cọng lông háng của em gái Hải Phòng làm điếm ở Trung Quốc

Lảm nhảm ở Vĩnh Long, bợ đít ở Cần Thơ, dạng háng ở Cà Mau,

Cạo mặt ở Bạc Liêu, quắn như điên ở Hà Khẩu, động cỡn ở Sa Pa, say ở Lào Cai

Miệng còn kêu Đặng Thiều Quang, hãy chết đi Quang!

Chửi rủa ở Huế, cúng bái ở Quảng Bình, bắc cặc đái ở Mỹ Sơn và đi ỉa ở Hội An

Đụ trên sông Thu và bú lồn trên sông Hương

Khạc nhổ trên sông Gianh, rượt đuổi chém nhau trên sông Hàn

Khinh bỉ nòi Việt trên sông Hồng, miệt thị giống Hoa trên sông Nậm Thị

Hắn cắt mọi khoanh đời dấu vào tác phẩm

Những suy nghĩ non tơ đã kịp mọc tóc trong hộp sọ rắn như đá của hắn

Bản chất hắn là Cộng sản, là Cộng sản!

Hắn cười cợt méo mó như một lỗ thủng của lịch sử

Hoảng loạn và kinh sợ khi hắn phát hiện ra mình vẫn sống mà làm việc với những xác chết

Đi đứng ngoằn nghèo như ma trơi, linh hồn quỉ nhập tràng luôn dụ khị hắn làm những trò mê cuồng và quái đản

Hắn muốn làm tình với Nguyễn Thị Thu Huệ – Hắn tàn bạo điều đó

Hắn muốn hiếp Lê Thị Mỹ Ý – Hắn thèm muốn điều đó

Hắn không nứng trước Phan Thị Vàng Anh – Hắn khẳng định điều đó

Hắn yêu Ly Hoàng Ly – Hắn mãi tôn thờ điều đó

Hắn sợ hãi lỗ nẻ của Vi Thùy Linh – Hắn khiếp hãi điều đó

Nhân loại chui ra từ háng – Hắn quả quyết điều đó

Dân tộc Việt là một dân tộc mê lồn – Hắn xác tín điều đó

Nhưng khi hắn cần dương vật thì hắn biết bỏ quên ở Sài gòn

Hắn cần đầu thì mới hay vứt ở Hà Nội

Hắn cần khua khoắng chân tay thì đã rụng rơi đâu đó ở Cà Mau

Trong giấc mơ hắn không rõ hắn đã nói điều gì với Bạc Liêu, Sóc Trăng, An Giang

Dạng háng! Hãy dạng háng!

Hắn kêu lên với những tiếng của lỗ đít…

Sàigòn, 12.2003

 

“Lỗ thủng lịch sử” của ai? 09/02/2022
Lê Thiếu Nhơn 8-2-2022

Tranh thủ vớt vát mấy ngày xuân đi gặp gỡ bạn bè để ba hoa, nào ngờ tôi nhận quả đắng.

Vừa giáp mặt, vị giảng viên đại học khả kính đã ném cho tôi cái nhìn rất dữ dằn, và gằn giọng:
“Cậu là ủy viên Hội đồng Thơ của Hội Nhà văn VN đấy à? Cậu bỏ phiếu kết nạp cái loại viết những câu bẩn thỉu vào Hội, để phỉ báng người yêu thi ca à?”.

Tôi chưng hửng, không hiểu chuyện gì xảy ra. Thấy tôi ú ớ, vị giảng viên đại học khả kính bảo: “Vào Facebook Nhất Phương mà đọc”.

Tò mò và chua chát, tôi tìm Facebook Nhất Phương của nhà văn Trúc Phương. Ngày 26/1, nhà văn Trúc Phương in hai văn bản “thơ hậu hiện đại”, trong đó có bài “Lỗ thủng lịch sử” nhằm mỉa mai chất lượng chuyên môn Hội Nhà văn VN.

Bài “Lỗ thủng lịch sử” được cho là của Nguyễn Hữu Hồng Minh, tân hội viên Hội Nhà văn VN. Rất nhiều ý kiến còm vào Facebook Nhất Phương, bày tỏ sự phẫn nộ về “Lỗ thủng lịch sử”. Nhà thơ Lê Hồng Thiện dùng chữ “tởm lợm”, nhà văn Kim Quyên bình luận “thật khủng khiếp cho cái gọi là thơ”, nhà thơ Nguyễn Trác kêu “thật quái đản”. Còn nhà báo Dương Liên Chi – nguyên Trưởng phòng Văn hóa Văn nghệ của Ban Tuyên giáo Thành ủy TP.HCM thì cho rằng: “Người này “được” gọi là “nhà…” sao ạ? Như một thứ sâu bọ! Sao lại mang thứ rác rưởi này vào Hội Nhà văn?”.

Cảm thấy việc này có liên quan đến tự trọng nghề nghiệp của mình, tôi xin trình bày rõ ràng. Hội đồng Thơ không bỏ phiếu kết nạp Nguyễn Hữu Hồng Minh. Khi Hội đồng Thơ họp, lãnh đạo Hội Nhà văn VN có thông báo: “Nguyễn Hữu Hồng Minh đã đạt phiếu quá bán của Hội đồng văn xuôi, nhưng anh ấy chủ yếu làm thơ. Có thể chuyển sang kết nạp ở chuyên ngành thơ không?”. Tất cả 9 thành viên của Hội đồng Thơ đều phản đối.

Còn Nguyễn Hữu Hồng Minh viết văn xuôi rồng rắn gì để được kết nạp, thì nhường quyền trả lời cho Hội đồng văn xuôi.

Tôi cũng không biết nhà văn Trúc Phương đã lấy văn bản “Lỗ thủng lịch sử” từ nguồn nào, nên tôi phải chụp lại màn hình để làm bằng chứng. “Lỗ thủng lịch sử” có phải của Nguyễn Hữu Hồng Minh không? Tôi nghĩ, chính Nguyễn Hữu Hồng Minh cần lên tiếng cho minh bạch. Nếu không phải của anh, thì anh đính chính. Nếu đúng là của anh, thì văn bản in trên Facebook Nhất Phương có phải nguyên tác do anh viết ra không?

Nếu anh vẫn thừa nhận “Lỗ thủng lịch sử” là tác phẩm tâm đắc của bản thân, thì anh đừng nên cầm tấm thẻ Hội viên Hội Nhà văn VN. Tôi chưa bao giờ đánh giá cao khả năng văn chương của Nguyễn Hữu Hồng Minh. Thế nhưng, bây giờ Hội Nhà văn VN đã lỡ công nhận tư cách cầm bút của anh, thì anh ở độ tuổi 50 nên sòng phẳng đối thoại với bạn đọc và đồng nghiệp thật nghiêm túc, thật đàng hoàng.

Dù không muốn đưa thứ chữ nghĩa giẻ rách lên trang của mình, nhưng xin miễn cưỡng “sao y” toàn bộ “Lỗ thủng lịch sử” trên Facebook Nhất Phương, mà vì nó khiến tôi bị vị giảng viên đại học khả kính có chút hiểu nhầm và mắng xối xả.
Nguồn: https://baotiengdan.com

  _____________________  


NGUYỄN HỮU HỒNG MINH NÓI VỀ “LỖ THỦNG LỊCH SƯ”
Phùng Hiệu thực hiện
Chủ nhật ngày 13 tháng 2 năm 2022 2:49 PM


TNc: Việc BCH khóa 10 kết nạp Nguyễn Hữu Hồng Minh gây nhiều ý kiến trái chiều. Theo trang vanchuongphuongnam.vn, ông đã có lời. Trang nhà xin đưa bài để bạn đọc cùng nhìn nhận. Theo tờ Ngày nay thì ông Nguyễn Hữu Hồng Minh nói được mời vào Hội Nhà văn VN: https://ngaynay.vn/nguoi-trong-cuoc-va-trong-gioi-noi-gi-ve-bai-tho-lo-thung-lich-su-post117841.html

 ***
Ngay sau khi trang Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam công bố danh sách kết nạp hội viên mới năm 2021 có tên nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh thì lập tức có một số nhà văn đăng bài thơ “Lỗ thủng lịch sử” của anh viết gần 20 năm trước lên mạng phản ứng dữ dội. Rất nhiều ý kiến bày tỏ sự phẫn nộ và cho rằng đó là một thứ thơ tởm lợm, quái đản, rác rưởi, cuồng dục… Bên cạnh đó, còn có một hai nhân vật trong bài thơ viết thư gửi nhiều nơi, trong đó có gửi đến một vài thành viên trong Hội đồng thơ để phản ứng về việc Hội Nhà văn Việt Nam kết nạp nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh. Ngoài ra, dư luận cũng không đồng tình về việc kết nạp khi đọc bài Lỗ thủng lịch sử. Về việc này, sáng nay, qua cuộc trò chuyện với Nguyễn Hữu Hồng Minh anh cho tôi biết anh đang lên núi du xuân ở Đà Nẵng và cũng không quan tâm lắm đến việc này. Khi tôi hỏi anh có công nhận bài “Lỗ thủng lịch sử” là bài thơ của anh thì anh công nhận và cho biết thêm:

-“Cách đây 20 năm khi đang làm việc ở tờ VnExpress, một trong 3 người (hai người kia là Dịch giả, Nhà nghiên cứu Đinh Bá Anh, Nhà văn Dịch giả Trần Tiễn Cao Đăng) khởi động trang văn học điện tử đầu tiên ở VN, tôi đã chứng kiến dòng văn học bùng nổ mạnh mẽ qua internet, Hậu Hiện Đại. Tôi viết bài “Lỗ thủng lịch sử” bằng sự sáng tạo và có một góc nhìn trực diện vào đời sống văn học lúc đó, bối cảnh Hậu hiện đại manh nha nhìn qua lăng kính Việt Nam đang lẻ loi, ngơ ngác trước dòng chảy cuồn cuộn phức tạp trên thế giới. Những nhân vật có thật, tôi có chọn lọc kỹ càng được đưa vào thơ theo quan điểm quy chiếu Văn học và Lịch sử. Có nghĩa tách từ đời sống thật đưa vào văn chương đã thành một nhân vật sáng tạo dù dấu vết đây đó vẫn còn. Và theo thời gian nếu tác phẩm sống được thì sẽ đi cùng Lịch sử. Tôi nói rõ đó là tham vọng có thật của tôi lúc đó, ngày 29, 30 tuổi tôi tràn trề khát vọng khai phóng, phá đổ mọi biên giới thành trì trong sáng tạo. Quan điểm này sau này viết trong “Vỉa từ” (đã xuất bản trong nước) tôi đã cô đặc thành như sau: “Thượng đế đã chết? Vâng, thì Thượng đế đã chết nhưng Nguyễn Hữu Hồng Minh vẫn chưa chết! Hắn vẫn có quyền sáng tạo những bài thơ ngang với quyền hạn của Thượng đế! “. Nếu bạn đọc lĩnh hội được Lý thuyết tinh thần cấp tiến không thành trì cản trở, không giới biên ngôn ngữ đó thì sẽ hiểu phần nào bài thơ “Lỗ thủng lịch sử”. Rất tiếc chúng ta quá mô phạm nên nhìn bài thơ chạm giới, vi phạm thuần phong mỹ tục!”.

 Nhiều ý kiến cho rằng “Lỗ thủng lịch sử” không phải là thơ vì thơ thì ngôn ngữ phải đẹp đẽ bay bổng, văn vẻ sang trọng, nghệ thuật và nền tảng đạo đức được trưng dụng vào thơ. Không thể đưa những câu chữ tục tĩu, dục vọng và sự xúc phạm vào thơ. Anh nghĩ sao về những ý kiến này?

NHHM: Câu hỏi của anh trực diện, sắc bén. Nhưng tôi xin trả lời cũng bằng câu hỏi: Tại sao thơ thì cứ phải đẹp đẽ sang trọng, là nền tảng đạo đức? Ở đâu ra một quan niệm cứng nhắc như vậy!? Ngôn ngữ có bền mặt, lộn trái. Chữ có thanh tao có tục tĩu! Nếu tôi muốn thể nghiệm một bài thơ “Hố đen” được không? Một bài thơ “Khinh bỉ”, “Kinh dị” được không? Đọc giả có thể chọn đọc hay không đọc! Đâu thể đã vào nhà thổ mà còn rao giảng đạo đức! Thơ hậu hiện đại công phá và đòi hỏi sự rõ ràng như vậy đó!

– Khi viết “Lỗ thủng lịch sử” anh nêu tên thật của những nữ nhà văn thành danh như Nguyễn Thị Thu Huệ, Ly Hoàng Ly, Phan Thị Vàng Anh, Vi Thùy Linh, Lê Thị Mỹ Ý vào trong thơ bằng những câu từ được cho là nhạy cảm, trần tục, dục vọng, thậm chí là sĩ nhục nhân vật, anh có thấy đấy là điều xúc phạm đến họ?

NHHM; Tôi cho rằng làm thơ là loại hình nghệ thuật sáng tạo. Việc đưa các nhân vật vào thơ không có hàm ý ác hại. Nhân vật trong thơ có tính cách khác ở ngoài hiện thực. Nhân vật hiện diện trong tác phẩm sẽ đi vào lịch sử bằng hình tượng nghệ thuật sáng tạo thì không phải đấy là sự sĩ nhục. Và khi làm thơ đôi khi phải cần đến những ngôn từ trần tục hơn nữa. Nhà văn có quyền sáng tạo và thơ ca không phải là những văn bản tố cáo! Nếu tâm hồn anh độc ác ở đâu anh cũng sẽ thấy câu thơ man rợ. Nếu tâm hồn anh giễu nhại, thánh thiện anh thấy tất cả hóm hỉnh và mọi thứ là trò đùa, trò chơi! Đó cũng chính thông điệp của câu ngạn ngữ mà tôi rất thích “Loài người thì khóc, Thượng đế thì cười”.

– Nếu vì sự phản ứng của dư luận và những nhân vật trong thơ mà Hội Nhà văn Việt Nam thu hồi quyết định kết nạp hội viên đối với anh thì anh nghĩ gì?

NHHM: Tôi nghĩ điều đó không quan trọng. Cái quan trọng lớn là liệu Hội Nhà văn Việt Nam có chấp nhận hay tiếp nhận cái mới, cái sáng tạo và những tác phẩm hiện đại là giá trị lao động của tôi hay không, đó là điều đáng nói. Còn có kết nạp hay không thì tôi vẫn là tôi. Tôi vẫn sống, vẫn viết như bấy lâu nay. Trong sáng tác cái quan trọng là giá trị tác phẩm để lại có được đồng nghiệp, bạn đọc, văn đàn ghi nhận, nhớ đến hay không? Còn anh có là hội viên làm đến chức vụ gì đi nữa mà không có tác phẩm có giá trị lưu lại thì không ai nhớ đến anh cả, như vậy thì xem như vô nghĩa đối với một người làm công việc sáng tác. Do có một vài thành viên trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam gọi điện gợi ý tôi nộp đơn vào Hội cho vui, cho có tính tổ chức nên tôi mới nộp, chứ mấy mươi năm qua tôi không nghĩ đến điều này.

– Dư luận cho rằng anh nên xin lỗi các nhà văn là những nhân vật được anh đưa vào trong “Lỗ thủng lịch sử” và cả bạn đọc?

NHHM: Có nhiều tác phẩm ra đời từ mấy trăm năm qua đã đi vào lịch sử khi tác giả nhận định sai lệch, hoặc bôi nhọ về một nhân vật hay nhiều nhân vật lớn như Quang Trung Nguyễn Huệ, Gia Long Nguyễn Ánh thì ai xin lỗi? Xin lỗi như thế nào? Còn riêng “Lỗ thủng lịch sử” nếu như các nhân vật trong tác phẩm có yêu cầu xin lỗi thì tôi mới xin lỗi. Và tôi còn phải xem ai yêu cầu, có đúng là người tôi chọn lựa để xây dựng, hóa thân thành nhân vật vĩnh cửu trong tác phẩm của mình hay không? Chứ ai đó ngộ nhận, cho rằng đó là mình thì không thể được! Còn việc trùng tên trong cuộc sống này là bình thường. Nếu không nói là vô lý hay phi lý. Một triết gia nổi tiếng của Hy Lạp cổ đã viết “Không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông” huống hồ dòng sông đó đã chảy qua 19, 20 năm! Tôi xin lỗi cái gì đây!? Bóng của nước hay dòng nước? “Cô gái đến từ hôm qua” như nhạc sĩ Trần Lê Quỳnh viết đã không còn là cô gái đó! Tại sao các bạn chỉ trích điên cuồng làm một Bài thơ bị tổn thương thì không để ý đến tội ác trong hành vi của mình? Lại bắt ra vài nhân vật trong bài thơ bắt cha đẻ sáng tạo xin lỗi!? Đấy, cuộc đời nó phi lý thế đấy! Phi lý đến tận cùng! Mà còn phải nói đến nhân vật trong thơ bị tổn thương thì phải trách những người khơi lại bài thơ để suy diễn sau 19 năm! Ai là người bắt đầu câu chuyện này máu còn ở trên tay kẻ đó!

Phùng Hiệu thực hiện
Nguồn: http://trannhuong.net/tin-tuc-55806/nguyen-huu-hong-minh-noi-ve-lo-thung-lich-su.vhtm

ĐƯỜNG ĐẾN NÚI CÚI-SONG NGUYỄN

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK: buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

Giới thiệu Hồi ký Song Nguyễn

ĐƯỜNG ĐẾN NÚI CÚI

Hành trình của đức tin

***

Bìa sách Đường đến Núi Cúi-Hành trình của đức tin

Lời Tác Giả Song Nguyễn

Mới đây, tôi có nhờ Cha Đaminh Quach Duy Hợp đọc lại bản thảo Hồi ký “Hãy Ca Tụng Chúa”. Cha rất tâm đắc, nhất là phần viết về hành trình thành lập và xây dựng Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi. Tôi nói: “nếu cha đọc thấy hay và muốn chia sẻ cho nhiều người thì cha có thể tách phần viết về Núi Cúi để làm thành một tập sách riêng”: khởi nguyên đưa đến Núi Núi và việc xây dựng Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi có những điểm thuận lợi và khó khăn gì? Những ai đang góp công góc sức để có được Núi Cúi hôm nay và đến Núi Cúi có gì lạ?

Sau khi tách riêng phần viết về Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi, tôi nhờ quý thầy Petrus Dương Kim Quới – nhà thơ, thầy Micae Bùi Công Thuấn – nhà văn – nhà phê bình văn học… đọc lại và hoàn chỉnh giúp văn bản văn. Tôi cũng nhờ cha tìm thêm vào cuốn sách những hình ảnh về Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi để nội dung cuốn sách sinh động và phong phú. Hy vọng sự cố gắng và thành tâm của tác giả có thể giúp ích cho nhiều người.

Phần tôi, sau khi hoàn thành sứ vụ Giám mục giáo phận (2004-2016), được đảm nhận công việc xây dựng Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi là một hồng ân lớn lao thêm vào những hồng ân khác nữa Chúa đã tín nhiệm thương ban cho tôi, nhất là đời Giám mục. Nên tôi chỉ biết dành hết sức để tạ ơn Chúa và Đức Mẹ Vô Nhiễm, thánh cả Giuse, thánh Đaminh- quan thầy, các thánh Tử Đạo Việt Nam, cách riêng 6 vị thánh Tử đạo tại quê hương Phú Nhai.

Tôi cũng tri ân lời cầu nguyện và sự trợ giúp của quý Đức Cha, Đức Ông, cha Tổng Đại Diện, quý Kiến Trúc Sư và Kỹ sư, cùng tất cả mọi người thân hữu xa gần, trong và ngoài nước đã cùng tôi xây dựng Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi.

Xin tất cả cùng tôi dâng lời tạ ơn Thiên Chúa và Đức Mẹ, cùng cầu bình an cho Giáo hội, cho quê hương Việt Nam và tất cả mọi người.

Tôi xin chân thành cảm tạ với lòng biết ơn.

Tác giả

GM. Đaminh Nguyễn Chu Trinh

  Giám đốc TTHH Đức Mẹ Núi Cúi

_______________________________________________________________

TRUNG TÂM CỦA LÒNG TIN

(Giới thiệu Đường đến Núi Cúi, Hành trình của đức tin-trích Hồi ký của Song Nguyễn)

Bùi Công Thuấn

***

          “Đường đến Núi Cúi, Hành trình của đức tin” là một phần Hồi ký của Song Nguyễn[1], được Nhà xuất bản Đồng Nai ấn hành quý IV 2021. Song Nguyễn là bút danh của Đức cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, nguyên Giám mục giáo phận Xuân Lộc (2004-2016). Người đã in 15 tác phẩm[2].

Trong Hồi ký, Đức cha Đaminh nói với mọi người đến Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi: “xin mọi người khi bước vào Trung tâm Đức Mẹ linh thánh này, trung tâm của lòng tin, hãy cùng chúng tôi dâng lên Thiên Chúa lời tôn vinh Thiên Chúa, kính Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội – đỉnh cao của đức tin, kính các thánh Tử Đạo Việt Nam – nhân chứng của đức tin đã ban cho Giáo phận Xuân Lộc nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Giáo phận để những ai đến Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi này với lòng tin sẽ lãnh nhận ơn thánh Chúa…”.

Trung tâm được xây dựng trên diện tích 20.827m2 trong tổng số diện tích 107 mẫu. Đây là một công trình thế kỷ của Giáo phận Xuân Lộc. Kinh phí xây dựng tương đương với Vương cung Thánh đường La Vang. Dự kiến Trung tâm là nơi có thể họp mặt hàng triệu giáo dân đón tiếp Đức Giáo hoàng trong tương lai khi Người sang thăm Việt Nam. Trung tâm có Nhà nguyện Thánh Thể, Tượng đài Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội cao 50m, Đền thánh, Nhà đa năng, Nhà Điều hành, Nhà Bệnh xá, Nhà Mục vụNhà Đón tiếp. Các kiến trúcđều hướng về “tôn vinh quyền năng Chúa, kính Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, kính các thánh tử đạo nhân chứng đức tin”.

          Với một công trình tầm quốc gia và quốc tế như thế, làm thế nào Giáo phận Xuân Lộc có thể thực hiện được trong muôn vàn khó khăn? Đức cha Đaminh xác quyết: “Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi được mệnh danh là trung tâm của lòng tin. Lời Chúa nói chỉ cần có đức tin bằng hạt cải cũng có thể chuyển núi rời non. Với đức tin nhỏ bé đó, Giáo phận đã dám xây dựng Trung tâm Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội Núi Cúi”.

          Bạn đọc cuốn sách này, Đức cha Đaminh sẽ kể cho bạn nghe về hành trình đức tin của cả Giáo phận, không chỉ trong việc xây dựng Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi, mà ơn Chúa còn đổ tràn xuống cho Giáo phận trong suốt 50 năm thành lập. Chúa đã làm cho Giáo phận Xuân Lộc, những việc từ không ra có, từ có thành việc lớn, dù phải đối mặt với bao nhiêu trở ngại. Và đây là hồng ân của Chúa:

          Chỉ một đồng danh dự, cha chính Giuse Lâm Quan Trọng đã mua được 14 mẫu đất của công ty SIPH làm Tòa Giám mục – Chủng viện và khu dân cư. Công trình Đức Mẹ Bãi Dâu và Núi Tao Phùng là ơn đặc biệt Chúa ban cho Giáo phận dịp kỷ niệm 25 năm thành lập. Công trình Tòa Giám mục và Đại Chủng viện cũng là ơn Chúa thật lớn lao. Vì nơi đây đào tạo những Mục tử của Chúa cho cánh đồng truyền giáo mênh mông của Giáo phận. Ngoài ra Giáo phận còn xây dựng những công trình khác như: Trường Cao đẳng Nghề Hòa Bình Hố Nai, Trung tâm Bác ái Xã hội Caritas Việt Nam. Nhà Hưu các Linh mục tại Gia Viên. Nhà Bệnh xá Xuân Hòa.

          Và bây giờ là xây dựng Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi, dịp Giáo phận kỷ niệm 50 năm thành lập. Giáo phận lại được ơn Chúa đổ tràn:

          Ơn thứ nhất là tìm được mặt bằng Núi Cúi, nơi trời-núi-mây thanh khiết bên hồ Trị An.

          Ơn được chấp thuận cho xây dựng Trung tâm giữa muôn vàn khó khăn.

          Ơn tìm được người tài năng nhiệt thành công việc nhà Chúa để xây dựng Trung tâm. Đó là KTS-TS Ngô Viết Nam Sơn (con của KTS Ngô Viết Thụ, người xây dựng Dinh Độc lập nổi tiếng) và  PGS- TS Nguyễn Văn Hiệp (Giám đốc Học viện Kiến trúc Thành Phố). Cả hai cùng hợp tác thiết kế, xây dựng một Trung tâm đúng với ý nguyện của giáo phận, một Trung tâm có tầm vóc quốc gia, xứng đáng tôn vinh Chúa, kính Đức Mẹ và các thánh tử đạo Việt Nam. Và đặc biệt là nhà điêu khắc Xuân Thu đã thực hiện tượng Đức Mẹ có những nét riêng theo ý của Giáo phận.

          Ơn Chúa Thánh Thần đốt lửa sốt mến, nối kết mọi thành phần dân Chúa cùng cầu nguyện tín thác, cùng chung lòng, chung tay, góp sức.

          Riêng Đức cha Đaminh, người gánh trọng trách cùng với Giáo phận xây dựng Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi, Chúa còn đòi buộc ngài nhận lấy Thánh giá rất nặng nề. Nhưng ơn Chúa, qua sự bầu cử của Đức Mẹ Núi Cúi, đã gìn giữ Đức cha qua cơn hiểm nghèo, hơn thế ơn Chúa qua tay Đức Mẹ Núi Cúi còn ban cách riêng cho những ai tín thác vào Mẹ qua lời cầu của Đức cha Đaminh.

          Ngài kêu gọi mọi người: “Còn rất nhiều ơn lạ dành cho mọi người có lòng tin đến với Trung tâm Mẹ Núi Cúi. Hãy tiến lên núi, lên lâu đài của Đavid, trên đó có Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội đang đứng cúi xuống nhìn bạn, mỉm cười với bạn và lắng nghe bạn cầu nguyện. Hãy tâm sự, trút mọi tâm tư cho Mẹ để Mẹ sẻ chia với bạn. Hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể ngay bên đài Đức Mẹ, nơi mà Chúa đã chỉ cho tôi khi tôi trong cơn bạo bệnh”.

          Đức cha Đaminh-một người đã sống trọn đời với lòng tín thác vào Chúa và lòng yêu mến Đức Mẹ Vô Nhiễm một cách đặc biệt, Người đã được Chúa và Đức Mẹ Núi Cúi ban ơn cách riêng để trở thành chứng nhân giữa đời hôm nay. Đức cha Đaminh chia sẻ: “những ai đến Trung tâm Đức Mẹ Núi Cúi này với lòng tin sẽ lãnh nhận ơn thánh Chúa”như nhiều chứng nhân được kể trong sách này.

          Đọc cuốn sách này, bạn sẽ thêm lòng Tin, Cậy, Mến vào Đức Mẹ Núi Cúi và thêm lòng nhiệt thành cùng với Giáo phận xây dựng lâu đài của Đavid, trên đó có Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội đang đứng cúi xuống nhìn bạn, mỉm cười với bạn và lắng nghe bạn cầu nguyện”.         

***

Bạn đọc có thể download tác phẩm theo link:

https://www.mediafire.com/file/734ggnu5iiqcznv/%25C4%2590%25C6%25AF%25E1%25BB%259CNG_%25C4%2590%25E1%25BA%25BEN_N%25C3%259AI_C%25C3%259AI-official.docx/file


[1] Hãy ca tụng chúa-Hồi ký của Song Nguyễn gồm 3 phần: 1/.Những kỳ công của Chúa. 2/.Con đường Thánh giá. 3/.Đường đến Núi Cúi-hành trình của đức tin.

[2] Tác phẩm của Song Nguyễn:1. Một Đời Dâng Hiến, truyện dài. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2009.

2. Đất Mới, truyện dài 3 tập. Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2018.

3. Đồng Hành, truyện dài. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2010.

4. Định Hướng, truyện dài. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2011.

5. Chuyến Xe Về Trời, tập truyện ngắn 1. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2011.

6. Còn Một Niềm Tin, tập truyện ngắn 2. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2011.

7. Suối Nguồn, tập truyện ngắn 3. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2011.

8. Người Cha Hiền, tập truyện ngắn 4. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2012.

9. Những Người Mẹ, tập truyện ngắn 5. Nhà xuất bản Tôn Giá, 2012.

10. Chỉnh Hướng, truyện dài. Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2013.

11. Đồng Cỏ Xanh, truyện dài. Nhà xuất bản Phương Đông, 2013.

12. Vì sao sáng, truyện dài. Nhà xuất bản Tôn giáo, 2015.

13. Tiếng Kêu, truyện dài. Nhà xuất bản Hồng Đức, 2019.

14. Đường lên Núi Cúi. Truyện dài tư liệu. Nxb Hồng Đức, 2019.

15. Đường đến Núi Cúi-Hành trình của Đức tin, Hồi ký. Nxb Đồng Nai. 2021

HÀNH HƯƠNG-THƠ LÊ ĐÌNH BẢNG

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINHK:

buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

ĐỌC BÀI HÀNH HƯƠNG-CỦA LÊ ĐÌNH BẢNG
Bùi Công Thuấn


***
HÀNH HƯƠNG
Francis Lê Đình Bảng

1.Sao em chẳng cùng tôi lên rừng vắng
Mà chiêm bao muôn điềm lạ, ơn thiêng
Bốn mươi đêm ngày chay tịnh, hồn nhiên
Nghe suối hát mừng tự do phơi phới

Vừa nhan sắc, vừa nhung tơ, vời vợi
Vừa thơm tho, vừa kỳ diệu khôn lường
Bởi đất trời còn ướt đẫm mùi hương
Bởi lá thắm mở phơi lòng nhân đức

Sao em chẳng quỳ bên tôi, chầu chực
Hai đứa mình, hai ngọn nến song song
Mà trí khôn, cầm bằng sợi tơ không
Mà miệng lưỡi sượng sùng, chưa kịp nếm

Nguồn bí tích của Ba Ngôi mầu nhiệm
Thật trang nghiêm và thật rất phương phi
Có phải đây là lời của Tiên Tri
Trong sách Khải Huyền về giao ước mới?

2. Sao em chẳng cùng tôi vô tiệc cưới
Hai người khiêng trĩu nặng một chùm nho
Nơi đất đồng, mưa đổ hạt ban trưa
Thóc lúa mới chất đầy bồ, cơm bánh

Mai, em nhé, cùng tôi lên đền thánh
Mỗi ngón tay in dấu một điều răn
Này, lời vàng, em khẽ nói:” Xin Vâng!”
Dẫu trăm nhánh dòng khơi xa, biệt lệ

Về phương ấy, khấn xin đời dâu bể
Là Canaan? Hay cố quận Tầm Dương?
Mà đôi ta, như chim trích vô rừng
Sao tìm được dấu thơm xưa, chìm khuất?

Của biển hương dầu, bờ xôi, ruộng mật
Của Tháng Giêng ngon, như kẹo mạch nha
Tai trong ngần cùng nhạc suối reo ca
Mắt đã thấy cả mùa màng, chín tới…

3. Sao ta chẳng mừng nhau thêm một tuổi
Cưỡi ngựa tàu cau về lại sân nhà
Chàng ơi, chàng. Cơn mộng mị đêm qua …
Đôi nghê đá lạy thờ ngay trước cửa

Hôm nay, Biển Hồ quang mây, lặng gió
Và quanh đây, sao yên ả lạ thường?
Hình như…là choáng ngợp những hoa hương
Của ơn phước, của đào mai, hồng thắm

Của những mênh mang, vô cùng, vô tận
Những gương hồ lóng lánh vạt trăng khuya
Nơi bến bờ, chẳng ranh giới, phân chia
Của ngày đầu tiên, của thời đã mãn…

Của đất hứa thật gần, không rào cản
Đứng ở bờ đê, sông chảy, bồi hồi
Gọi mãi, gọi hoài, ơi Tháng Giêng ơi
Chim ngói từng đôi bay về làm tổ…

Hành hương cuốn ta đi bằng nhạc thơ với những hợp âm thuận quyến rũ, níu giữ ta trong vô vàn hình ảnh có sức gợi những điều tuyệt mĩ, và đưa ta đến những miền quê hương tuyệt vời kỳ lạ mà ta chưa từng ghé qua nhưng rất đỗi thân quen. Chỉ bấy nhiêu thôi, thơ Lê Đình Bảng đủ làm hồn trí ta ngất ngây trong cái đẹp miên viễn. Và ta không cần hiểu, bởi nếu bạn đọc chậm lại và cố hiểu cho đến ngọn ngành từng con chữ, bạn sẽ đánh mất cái hạnh phúc đọc thơ. Thơ Lê Đình Bảng không dễ hiểu mặc dù dễ cảm. Hãy cứ bay theo nhà thơ trong cảm xúc lãng mạn đến những miền tuyệt vời kỳ lạ của trí tưởng. Vâng, bài thơ rất quen mà rất lạ.

MỘT TÌNH YÊU “NHIỆM LẠ”

Hành hương là một bài thơ tình “nhiệm lạ”. Đó là lời của “hai đứa mình”, là lời hò hẹn lứa đôi: “Mai, em nhé, cùng tôi lên đền thánh”, là “lời vàng” chia sẻ gan ruột về những mầu nhiệm thiêng liêng vĩnh cửu, là những “bồi hồi vô tận” về bao điều chưa thành hiện thực mà đã “khơi xa biệt lệ”: “Đứng ở bờ đê, sông chảy, bồi hồi/ Gọi mãi, gọi hoài, ơi Tháng Giêng ơi”.
Nhưng lạ lùng ở chỗ:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” (Vội vàng-Xuân Diệu)
“Của Tháng Giêng ngon, như kẹo mạch nha” (Hành hương-Lê Đình Bảng)
Thơ tình Xuân Diệu gợi ra những xúc cảm nhục thể của một “cái Tôi” vị kỷ, hưởng thụ vội vàng trong tuyệt vọng, nên muốn “ôm”, muốn “riết”, cho chếnh choáng, cho no nê, cho đã đầy” cái “thanh sắc của thời tươi”(Vội vàng).

Trái lại, thơ tình Lê Đình Bảng lại dẫn ta vào những nơi tuyệt vời thanh khiết: “Sao em chẳng cùng tôi lên rừng vắng/…Bốn mươi đêm ngày chay tịnh, hồn nhiên”; ”Mai, em nhé, cùng tôi lên đền thánh/…Mà chiêm bao muôn điềm lạ, ơn thiêng;…/ Nguồn bí tích của Ba Ngôi mầu nhiệm/…Sao em chẳng quỳ bên tôi, chầu chực/ Hai đứa mình, hai ngọn nến song song/ Mà trí khôn, cầm bằng sợi tơ không…”.

Vâng, có lẽ đó là một không gian tình yêu diễm tuyệt hơn khả năng diễn tả của ngôn ngữ, một không gian tình yêu chưa hề xuất hiện trong thơ tình yêu Việt Nam bao giờ. Phải bằng trí trưởng “hồn nhiên” mới cảm nhận được. “Mà trí khôn, cầm bằng sợi tơ không”, tức là bằng trí tuệ nhẹ như sợi tơ không, không mưu cầu, không mê đắm, không dính mắc (nhà Phật gọi là “trí huệ Bát Nhã”). Điều lạ lùng là “trí khôn sợi tơ không” lại không gợi ra chút gì về Tánh Không” của nhà Phật như ta thường gặp trong thơ Việt.

Thơ tình yêu của Lê Đình Bảng nói được bao điều hạnh phúc của lứa đôi. Nhà thơ sáng tạo một thế giới đạo hạnh, trong lấp lánh như pha lê để diễn đạt niềm hạnh phúc tinh khôi ấy:

“Nghe suối hát mừng tự do phơi phới
Vừa nhan sắc, vừa nhung tơ, vời vợi
Vừa thơm tho, vừa kỳ diệu khôn lường
Bởi đất trời còn ướt đẫm mùi hương
Bởi lá thắm mở phơi lòng nhân đức”…
. . . . . . .
Của biển hương dầu, bờ xôi, ruộng mật
Của Tháng Giêng ngon, như kẹo mạch nha
Tai trong ngần cùng nhạc suối reo ca
Mắt đã thấy cả mùa màng, chín tới…
. . . . . . .
Và quanh đây, sao yên ả lạ thường?
Hình như…là choáng ngợp những hoa hương
Của ơn phước, của đào mai, hồng thắm
Của những mênh mang, vô cùng, vô tận
Những gương hồ lóng lánh vạt trăng khuya
Nơi bến bờ, chẳng ranh giới, phân chia
Của ngày đầu tiên, của thời đã mãn…
Của đất hứa thật gần, không rào cản

Nhưng tình yêu ấy là một tình yêu tiếc nuối, một tình yêu hoài vọng, một tình yêu chảy mãi vào thiên thu. Một loạt câu hỏi cảm thán làm cháy lòng về sự nuối tiếc: “Sao em chẳng cùng tôi …”; “Sao em chẳng quỳ bên tôi…”; “Sao ta chẳng mừng nhau…”; “Mà đôi ta, như chim trích vô rừng/ Sao tìm được dấu thơm xưa, chìm khuất?”; “Đứng ở bờ đê, sông chảy, bồi hồi/ Gọi mãi, gọi hoài, ơi Tháng Giêng ơi…”.

Người thơ ví mình như Từ Thức, khi về trần, tiếc nuối mãi một tình yêu rất đỗi thơm tho cùng Giáng Hương ở cõi tiên. Từ thức đã vào rừng tìm lại cõi xưa, nhưng làm sao tìm được “dấu thơm xưa” khi động tiên đã khép (truyện Từ Thức lên tiên). Người thơ cũng đặt đời mình vào thân phận dân riêng của Chúa, sống mãi kiếp lưu dày mà hoài vọng về Canaan (đất hứa). Ở bến Tầm Dương, nhà thơ hóa thân tri kỷ với Bạch Cư Dị và người kiều nữ trên sông mà cảm nhận “đời dâu bể” trong khúc Tỳ Bà Hành bất hủ:

“Về phương ấy, khấn xin đời dâu bể
Là Canaan? Hay cố quận Tầm Dương?
Mà đôi ta, như chim trích vô rừng
Sao tìm được dấu thơm xưa, chìm khuất?”

Lê Đình Bảng dắt chúng ta đi vào cõi nhiệm màu của thơ ca lãng mạn, bởi nó gợi ra bao nhiêu trí tưởng, nó nấu nung muôn vàn cảm xúc, và nó nâng đôi cánh tâm hồn ta bay bổng vào cõi

“Vừa nhan sắc, vừa nhung tơ, vời vợi
Vừa thơm tho, vừa kỳ diệu khôn lường
Bởi đất trời còn ướt đẫm mùi hương
Bởi lá thắm mở phơi lòng nhân đức”.

MỘT HỒN THƠ MÊNH MÔNG BỐN BIỂN

Lê Đình Bảng đem vào thi pháp thơ tình yêu Việt một hồn thơ dồn tụ vẻ đẹp của thi ca phương Đông, phương Tây và thi ca dân tộc. Chất tài hoa minh triết cùng với tâm thức tôn giáo rất sâu xa của nhà thơ đã trở thành máu thịt cho những câu thơ in đậm dấu ấn cá tính sáng tạo tài hoa và rất đỗi thánh thiện.

Thơ Việt trung đại nằm trong thi pháp thơ phương Đông, và chịu ảnh hưởng thơ Trung quốc cả về thể lọai, nội dung, cảm xúc và thi liệu. Lê Đình Bảng đã dẫn người đọc rời bỏ hẳn ảnh hưởng thơ Trung Quốc mà bước vào bầu khí vô cùng rộng lớn, choáng ngợp ánh sáng hương hoa mật ngọt của Kinh Thánh từ Cựu Ước đến Tân Ước. Xin đọc:
Hôm nay, Biển Hồ quang mây, lặng gió
Và quanh đây, sao yên ả lạ thường?

Canaan là vùng đất hứa trong Cựu Ước. Biển hồ (Galilê) trong Tân Ước là nơi đức Giê su tỏ lộ uy quyền tuyệt đối của Thiên Chúa trên vạn vật (Lc 8, 22-25). Khi Lê Đình Bảng dẫn những thi liệu như vậy, Kinh thánh đã trở thành cội nguồn cảm hứng sáng tạo và là ánh sáng tư tưởng mỹ học mới trong thơ Lê Đình Bảng.

Và đây là những tứ thơ hết sức lạ lùng:

Sao em chẳng cùng tôi vô tiệc cưới
Hai người khiêng trĩu nặng một chùm nho…
. . . .
Của biển hương dầu, bờ xôi, ruộng mật
Của Tháng Giêng ngon, như kẹo mạch nha
. . . . .
Tai trong ngần cùng nhạc suối reo ca
Đứng ở bờ đê, sông chảy, bồi hồi
Gọi mãi, gọi hoài, ơi Tháng Giêng ơi
Chim ngói từng đôi bay về làm tổ…

Tôi gọi đó là những tứ thơ lạ lùng bởi vì người đọc phải am tường Kinh Thánh mới cảm nhận được (đó là yêu cầu về tính trí tuệ khi đọc thơ Lê Đình Bảng). Biển hồ trong Kinh thánh là biển hồ Galilê, nơi Đức Giêsu dẹp yên bão tố (Lc 8, 22-25). Nhưng Biển hồ ấy “hôm nay lặng gió…yên ả lạ thường”, ý nghĩa của câu thơ đã chuyển. Một chùm nho nào có gì to tát gì, chỉ cần hai ngón tay ta có thể cầm một chùm nho, vậy mà Lê Đình Bảng viết: “Hai người khiêng trĩu nặng một chùm nho”. Bạn không thấy lạ sao? Xin đọc sách Dân Số (Cựu Ước), chương 13, câu 23[1] .

Tứ thơ “biển hương dầu, bờ xôi, ruộng mật” là hình ảnh rất quen và rất lạ. Quen vì nó gợi ra cảnh đồng quê Việt Nam. Người nông dân đắp đập be bờ để giữ nước trồng lúa. Bờ ruộng lúa cho xôi nếp thơm. Ruộng mía cho chứa chan mật ngọt. Hương đồng quê mênh mông như biển (bạn đọc có đứng giữa ruộng lúa mênh mông mới ướp hồn mình trong hương đồng gió nội ấy). Trong thơ Lê Đình Bảng, miền quê thật trù phú. Những hình ảnh ấy kết hợp với Kinh thánh (sách Xuất hành, chương 3, câu 8) tạo nên một tứ thơ lạ: “bờ xôi, ruộng mật”. Tôi gọi là tứ thơ “lạ” vì, viết về đồng quê Việt, người làm thơ thường khai thác cái nghèo khó, lam lũ, bão lụt, hạn hán (Xin đọc Nước lụt Hà Nam; Nước lụt hỏi thăm bạn của Nguyễn Khuyến). Chưa bao giờ có hình ảnh đồng quê Việt là “bờ xôi ruộng mật”; “Thóc lúa mới chất đầy bồ, cơm bánh”.

Tứ thơ sau đây đòi hỏi một sự hiểu biết, một liên tưởng, một trái tim tràn đầy tình yêu và một trí tưởng hết sức lãng mạn mới cảm nhận được (bởi nếu không trí tuệ, bạn đọc sẽ đối mặt với một bức tường sừng sững chặn mất lối đi vào thơ):

Đứng ở bờ đê, sông chảy, bồi hồi
Gọi mãi, gọi hoài, ơi Tháng Giêng ơi
Chim ngói từng đôi bay về làm tổ…

Câu thơ không có chủ ngữ. Ai đứng ở bờ đê? Ai gọi ai mà gọi mãi gọi hoài? Phải chăng là gọi chim ngói về làm tổ tháng Giêng? Điều này không bao giờ là hiện thực, bởi chim ngói chỉ bay về vào mùa thu (tháng 8, 9) khi cánh đồng lúa đã khoe sắc vàng. Như vậy, không thể đọc tứ thơ này bằng cảm quan hiện thực, mà phải đọc bằng tâm thức lãng mạn, vượt lên thời gian không gian. Người thơ đứng trên bờ đê hiện thực nhìn dòng sông thời gian chảy mãi không trở lại mà khát khao một “tổ uyên ương”. Tứ thơ “chim ngói từng đôi bay về làm tổ”, là một liên tưởng ẩn dụ cho khát khao hạnh phúc lứa đôi mà giờ đây đã không còn nữa. Như Từ thức xưa, người thơ “như chim trích vô rừng/ Sao tìm được dấu thơm xưa, chìm khuất? Một nỗi buồn rất sâu nhưng lại thăng hoa, hân hoan trong thế giới của cái đẹp “nhiệm lạ”, và đó là sự sáng tạo tài hoa của Lê Đình Bảng. Và dường như có một sự đồng điệu tài hoa nào đó với tiếng vang vọng “Diêu bông hời…ơi diêu bông” trong bài thơ Lá diêu bông của Hoàng Cầm.

Tôi gọi đó là một “hồn thơ mênh mông bốn biển” vì có sự kết hợp, hội tụ, chuyển hóa hồn thơ phương Đông với cội nguồn Kinh thánh và cái hồn nhiên của thi ca Việt. Trong tư duy nghệ thuật, Lê Đình Bảng chuyển rất nhanh thời gian, không gian và thi pháp tạo nên thế giới nghệ thuật chuyển độnbg không ngừng.

Về phương ấy, khấn xin đời dâu bể
Là Canaan? Hay cố quận Tầm Dương?

“Đời dâu bể” gợi ra câu thơ Kiều: “Trải qua một cuộc bể dâu”. Canaan là đất hứa trong Cựu Ước (xin đọc sách Dân số, chương 34), cố quận Tầm Dương gợi ra Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị [2]. Chỉ một câu lục bát, Lê Đình Bảng tổng hợp được ba cội nguồn thi ca hùng vĩ, tạo nên một tứ thơ vừa uyên bác trí tuệ, vừa làm nao lòng người đọc. Dòng sông tư tưởng thao thiết chảy trong trường kỳ lịch sử từ Cựu Ước đến hôm nay (“Hôm nay, Biển Hồ quang mây, lặng gió/ Và quanh đây, sao yên ả lạ thường?”) và đến ngày cánh chung được tiên tri trong sách Khải Huyền.

Tôi thích cái dân dã sang trọng trong thơ Lê Đình Bảng, hay nói cách khác Lê Đình Bảng đã làm cho cái dân dã trở nên sang trọng về thi pháp. Điều này phân định rạch ròi thơ ca dân gian với thi ca trí tuệ.

Sao ta chẳng mừng nhau thêm một tuổi
Cưỡi ngựa tàu cau về lại sân nhà
Chàng ơi, chàng. Cơn mộng mị đêm qua …
Đôi nghê đá lạy thờ ngay trước cửa

Hình ảnh trẻ con thôn quê chơi cưỡi ngựa bằng cái bẹ tàu cau trên sân nhà là hình ảnh hết sức hồn nhiên, dân dã. Cũng vậy, hình ảnh con nghê đá trước cửa là hình ảnh mang bản sắc Việt, sức mạnh che chở Việt (khác với con Kỳ Lân, con Tỳ Hưu). Con nghê đá có hình đầu Lân, răng rồng, thân chó (con Lân mình có vảy, con Tỳ hưu mình có cánh). Nói vậy để thấy rằng Lê Đình Bảng có ý thức sâu sắc khi chuyển hóa cái dân dã Việt thành bản sắc văn hóa Việt, nâng cái dân dã ca dao thành thi ca trí tuệ Việt.

Lê Đình Bảng đã phơi mở tất cả các giác quan để khám phá cái minh triết Việt trong mọi tầng vỉa văn hóa. Một thính giác rất nhạy cảm với âm nhạc (tai), một thị giác đậm sắc màu hội họa (mắt), cảm giác, vị giác, khứu giác tinh nhạy trước cái “thi vị” đời thường (choáng ngợp những hương hoa; miệng lưỡi…chưa kịp nếm), đồng thời ông còn cảm nhận được những cái vô hình tâm linh như một người “có con mắt trông thấu cả sáu cõi” (Nguyễn Du [4]),

Mà trí khôn, cầm bằng sợi tơ không
Mà miệng lưỡi sượng sùng, chưa kịp nếm
. . . . .
Tai trong ngần cùng nhạc suối reo ca
Mắt đã thấy cả mùa màng, chín tới…
. . . . .
Đứng ở bờ đê, sông chảy, bồi hồi
Gọi mãi, gọi hoài, ơi Tháng Giêng ơi

Tiếng gọi trên đê không phải tiếng gọi đò của Trần Tế Xương (bài Sông lấp), mà là âm vọng trong tâm thức đến thiên thu.
Trong Hành hương có rất nhiều từ của văn nói (khẩu ngữ hàng ngày), nhưng người đọc không hề có cảm giác về sự “bình dân hóa” thi ca. Đó là các từ: gọi mãi, gọi hoài; sao em chẳng; chầu chực; hai đứa mình; cầm bằng; miệng lưỡi; vô tiệc cưới; đôi ta như chim trích vô rừng.

Đồng thời cũng có nhiều từ của văn chương bác học được dùng dân dã: lá thắm mở phơi lòng nhân đức; Mà trí khôn, cầm bằng sợi tơ không; Mỗi ngón tay in dấu một điều răn; Là Canaan? Hay cố quận Tầm Dương?; Của ngày đầu tiên, của thời đã mãn (từ Sáng Thế Ký đến sách Khải Huyền)…

Cách dùng từ như vậy, cách thi hóa tri thức đông tây kim cổ như vậy, cách cảm nhận hiện thực, cảm nhận thời gian không gian, cách dệt những tấm thảm văn hóa đa sắc màu như thế, tạo nên cốt cách tài hoa riêng của Lê Đình Bảng. Cho nên “Cái Đẹp” thi ca của Lê Đình Bảng là cái đẹp trí tuệ của thơ Đường, là cảm xúc mỹ lệ của thơ lãng mạn và sự hồn nhiên minh triết của thơ ca dân gian Việt. Những sắc màu ấy hòa điệu làm nên sự quyến rũ của thơ ông, mà khi đọc thơ, ta không dễ tách bạch ra được.

Trong văn chương Việt, những phong cách tài hoa không có nhiều. Nhắc đến Nguyễn Tuân, đến Hoàng Cầm, người đọc nghĩ ngay đó là những nhà thơ, nhà văn tài hoa, bởi họ sáng tạo ra “Cái đẹp” mà người khác không có được. Lê Đình Bảng cũng là một nhà thơ Công giáo tài hoa, bởi thơ ông lấp lánh nhiều vẻ đẹp rất lạ. Lê Đình Bảng có tài dẫn người đọc đi khắp miền nhân gian, có tài kể những câu chuyện rất duyên. Thơ của ông giàu những tứ thơ mới lạ. Tư duy thơ của ông thay đổi nhiều hướng khám phá: thay đổi không gian, thời gian, thay đổi góc trần thuật, thay đổi giọng điệu, đổi vai người nói. Thơ Lê Đình Bảng là thơ điệu nói của thơ ca dân gian nhưng vẫn là thơ trữ tình của thơ lãng mạn.

Đây là sự đổi vai: nhân vật trữ tình xưng “Ta” đang trần thuật thì có tiềng gọi của một nhân vật nữ, làm thay đổi hẳn giọng điệu thơ, nội dung trần thuật chuyển tức thời sang một hướng khác, cơn mộng mị đêm qua là cơn mộng gì? Đôi nghê đá bỗng xuất hiện hết sức bất ngờ:
Sao ta chẳng mừng nhau thêm một tuổi
Cưỡi ngựa tàu cau về lại sân nhà
Chàng ơi, chàng. Cơn mộng mị đêm qua …
Đôi nghê đá lạy thờ ngay trước cửa

Chất tài hoa trong thơ Lê Đình Bảng đem đến cho người đọc nhiều điều thú vị. Đọc thơ Lê Đình Bảng, tâm hồn ta được tắm trong dòng suối mát những “bờ xôi, ruộng mật” của nhiều dòng sông văn hóa; trái tim ta tiếp nhận đủ mọi cung bậc tình cảm cùng với nguồn hạnh phúc thánh thiện diễm tuyệt. Con mắt trí tuệ ta nhìn thấy được Cái Đẹp mà ngũ uẩn đã che khuất, và hồn ta bay bổng trong mênh mông muôn trùng của sự giàu có, lạ lùng, kỳ vĩ của kho tàng văn hóa nhân loại.

Trên hết, nhà thơ dẫn ta vào Cái Đẹp của những chay tịnh trên rừng 40 đêm ngảy, của “Nguồn bí tích của Ba Ngôi mầu nhiệm/ Thật trang nghiêm và thật rất phương phi”.

HÀNH HƯƠNG

Hành hương không phải là “đi tham quan” những linh địa nổi tiếng, để biết, để cầu nguyện, xin ơn. Lê Đình Bảng dẫn ta trở về những miền quê hương tuyệt vời kỳ lạ. Đây là một hành trình tâm linh, cũng là con đường tình yêu. Mở đầu bài thơ là hành hương “lên rừng vắng để chiêm bao muôn điềm lạ, ơn thiêng” 40 đêm ngày chay tịnh. Tứ thơ gợi ra tâm tình Mùa Chay thống hối, ăn năn. Nhưng không phải vậy, mà đưa ta trở về thế giới “hồn nhiên”, “Nghe suối hát mừng tự do phơi phới”. Rồi ta đi lên đền thánh, tìm đến xứ sở Canaan (đất hứa), tạm dừng chân ở bến Tầm Dương mà chiêm nghiệm lời tiên tri trong sách Khải Huyền. Cuộc hành hương khởi đi từ buổi khai nguyên đến tận cùng thời gian (Của ngày đầu tiên, của thời đã mãn…”. Kết bài thơ là trở về “Đứng ở bờ đê, sông chảy, bồi hồi/ Gọi mãi, gọi hoài, ơi Tháng Giêng ơi”. Trở về với miền quê tinh khôi bản sắc Việt, “Cưỡi ngựa tàu cau về lại sân nhà”, gặp lại “Đôi nghê đá lạy thờ ngay trước cửa”.

Thơ tôn giáo của Lê Đình Bảng rất tinh diệu về tình, về ý, sâu sắc về tư tưởng và rất mới lạ về tứ, về cảm xúc, và thi pháp. Lê Đình Bảng nói những điều rất trang nghiêm thánh thiện nhưng lại rất tình. Hồn thơ rất thăng hoa nhưng lại rất “đời”, khác hẳn với Diễn ca, Thi ca cầu nguyện, Huấn ca của thơ Công giáo làm theo phong trào. Lên rừng vắng 40 ngày đêm chay tịnh để thanh luyện tâm hồn trở nên “hồn nhiên”; lên đền thánh để suy nghiệm “Nguồn bí tích của Ba Ngôi mầu nhiệm”, để lời tiên tri của sách Khải huyền giúp mạc khải tâm hồn ta Đó là cảm thức thơ tôn giáo. Nhưng vào rừng cũng là tiếp bước Từ Thức tìm kiếm cái mùi hương tiên nữ đã phai, là giữ lấy cái hạnh phúc không còn ở trần gian (cảm thức thế tục). Đất hứa Canaan, “miền đất tràn trề sữa và mật”[3] hay động tiên của Giáng Hương, tất cả chỉ là hoài vọng lãng mạn. Dầu vậy, Hành hương vẫn đọng lại trong hồn ta bao điều thao thức nghĩ suy.
Xin trở về đời thực để được đắm mình trong Cái Đẹp mà nhà thơ đã giúp ta “phơi mở lòng nhân đức”:

Và quanh đây, sao yên ả lạ thường?
Hình như…là choáng ngợp những hoa hương
Của ơn phước, của đào mai, hồng thắm

Của những mênh mang, vô cùng, vô tận
Những gương hồ lóng lánh vạt trăng khuya
***

Khai bút mùng 2 tết Nhân Dần (02/2/2022)
__________________________
[1]. Sách Dân số, chương 13:
https://augustino.net/kinh-thanh-cuu-uoc/sach-dan-so/13/
[2] Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị:
https://www.thivien.net/B%E1%BA%A1ch-C%C6%B0-D%E1%BB%8B/T%E1%BB%B3-b%C3%A0-h%C3%A0nh/poem-7Jx-9zMDy2CyYi7fIk3zRA
[3] Sách Xuất hành (3, 8): “Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Ca-na-an…”
[4] Mộng Liên Đường chủ nhân-Tựa Truyện Kiều
https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BB%B1a_Truy%E1%BB%87n_Ki%E1%BB%81u