10 NĂM “GIẢI VHNT ĐẤT MỚI” CỦA GIÁO PHẬN XUÂN LỘC

10 NĂM GIẢI VĂN HÓA NGHỆ THUẬT ĐẤT MỚI

Giáo phận Xuân Lộc 2010-2020

***

Bùi Công Thuấn

Đức cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh, người sáng lập Giải VHNT Đất Mới

        Giải Văn hóa Nghệ thuật Đất Mới được Ban Văn hóa kết hợp với Ban Truyền thông Giáo phận Xuân Lộc tổ chức trao giải lần thứ nhất năm 2011, đến nay là lần trao giải thứ 10 (năm 2020). Sự duy trì một giải Văn hóa nghệ thuật trong thời gian dài là một nỗ lực rất lớn về Mục vụ văn hóa của giáo phận Xuân Lộc. Trong tình hình hoạt động văn học nghệ thuật ở các giáo phận trong cả nước còn trầm lắng, Văn chương thị trường “…chiều theo thị hiếu thấp kém của một bộ phận công chúng, hạ thấp chức năng giáo dục, nhấn mạnh một chiều chức năng giải trí…truyền bá các tác phẩm độc hại, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân và đất nước… “ (Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị ngày 16/6/2008), thì Giải Văn hóa nghệ thuật Đất Mới với “ước muốn xây dựng những giá trị văn hoá nghệ thuật Công giáo nơi cộng đồng dân Chúa” là một hoạt động giàu ý nghĩa và thật đáng trân trọng.

Đón các tác giả

MỤC ĐÍCH TỔ CHỨC GIẢI

Tông Huấn Giáo Hội Tại Châu Á (ECCLESIA IN ASIA của ĐGH J.Paul II) dạy rằng: “…Con đường của những nhà rao giảng Tin Mừng là làm cho đức tin Kitô giáo trở nên một thành phần của di sản văn hoá của dân tộc.

Giải Văn hóa-Nghệ thuật Đất Mới là một hoạt động nằm trong chương trình Mục vụ Văn hóa của giáo phận Xuân Lộc, đáp lại lời dạy của Giáo hội.

Thông báo đầu tiên của giáo phận Xuân Lộc nói rõ về mục đích của Giải:

 “Các văn kiện của Giáo hội về Mục vụ văn hoá và các tác phẩm của Đức cha Đa Minh Nguyễn Chu Trinh, nhất là bộ truyện dài “Đất Mới”, đã khơi gợi ước muốn xây dựng những giá trị văn hoá nghệ thuật Công giáo nơi cộng đồng dân Chúa…Vì thế Ban Văn Hoá giáo phận Xuân Lộc tổ chức giải Văn Hoá Nghệ Thuật Đất Mới.

Thông báo tiếp theo, Giáo phận nói rõ hơn về tầm quan trọng của Văn hóa- nghệ thuật:

“Văn học nghệ thuật là lãnh vực quan trọng của văn hoá góp phần gìn giữ và phát huy những giá trị tinh thần của con người. Trong xu thế hội nhập toàn cầu hoá, việc gìn giữ những giá trị văn hoá dân tộc, chống lại ảnh hưởng xấu cuả văn hoá thực dụng, ngoại lại, phi nhân, trở nên cấp bách và cần thiết hơn bao giờ, đặc biệt trong việc gìn giữ và giáo dục đức tin đối với người trẻ, trong gia đình, giáo xứ và các môi trường  xã hội. Để góp phần vào công cuộc xây dựng văn hoá Công Giáo trong Giáo Phận, Ban Văn Hoá giáo phận Xuân Lộc tổ chức cuộc thi sáng tác VHNT Đất Mới”.

THỐNG KÊ TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM CÁC NĂM

 2011201220132014201520162017201820192020
Tác giả223645606192103125155124
Thể loạiThơTruyện ngắnTruyện dàiKịch BảnCa khúcPhim ngắnẢnh đẹp Công giáo
Số tác phẩm (10 năm)6815 bài (103 tập thơ)5413966  660  04577 ảnh đơn + 56 bộ ảnh

Các tác giả tham gia giải ngày càng mở rộng ra các giáo phận trong cả nước: Tổng GP Sài Gòn, Tổng GP Huế, Tổng GP Hà Nội, giáo phận Hưng Hóa, Giáo phận Long Xuyên, giáo phận Quy Nhơn…và nhiều tác giả ngoài Công giáo.

Năm 2020 có 124 tác giả:

Tác giảHà NộiHuếSài GònCông giáoKhông Công giáoĐại Chủng việnDòng tuĐan việnHội Nhà văn
TS211588111130418065

Giải cũng mở rộng thêm các bộ môn. Lúc đầu chỉ có bộ môn Thơ, Truyện ngắn, Truyện dài, Ca khúc và Kịch bản văn học. Năm 2017 có thêm bộ môn Ảnh nghệ thuật “nét đẹp Công giáo” và năm 2020 có thêm giải Phim ngắn với chủ đề: “Sống đạo”, mở rộng khả năng phản ánh hiện thực đời sống Công giáo và làm phong phú sắc màu nghệ thuật của giải.

CÁC GIÁ TRỊ ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC

  1. Nhìn trong tiến trình lịch sử văn học

Trong thực tế, văn chương Công Giáo tại Việt Nam còn rất khiêm tốn bên cạnh lịch sử văn chương dân tộc. Kể từ khi đạo Công giáo truyền vào Việt Nam đến nay, đã có khá nhiều các nhà văn hóa Công giáo ở nhiều lĩnh vực, song trong lĩnh vực sáng tác văn chương, định vị được với lịch sử văn học dân tộc chỉ có một số tên tuổi. Đáng kể là Felippe do Rosario Bỉnh (1759-1833), Đặng Đức Tuấn (1806-1874), Nguyễn Trường Tộ (1827-1871), Huỳnh Tịnh Paulus Của (1834-1907), Trương Vĩ Ký (1837-1898), P.J.B Nguyễn Trọng Quản (865-1911), nhà thơ Hàn Mạc Tử (1912-1940), Lm Kim Định (1915-1997), Lm Thanh Lãng (1924-1978), nhà thơ Xuân Ly Băng (1926-2017), GS Nguyễn Văn Trung, Đức Giám mục J.B Bùi Tuần, Song Nguyễn (Đức Giám mục Daminh Nguyễn Chu Trinh), Lm Trăng Thập Tự, nhà thơ Lê Đình Bảng… Về thể loại, các tác phẩm văn học Công giáo hầu hết là thơ. Những thể loại khác như truyện ngắn, truyện dài, kịch là rất ít.

Nguyên nhân là do lịch sử truyền giáo ở Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, Giáo hội mới chỉ chăm lo xây dựng những nền tảng Hội Thánh. Chẳng hạn, xây dựng nhà thờ, đào tạo chủng sinh, thành lập các giáo phận, giáo xứ, in ấn kinh sách, Việt hóa các nghi lễ phụng vụ, tổ chức các nề nếp sinh hoạt Mục vụ, cử hành các Bí tích; đồng thời tập trung vào việc rao giảng Tin Mừng thông qua cử hành Phụng vụ. Hơn nữa văn học nghệ thuật là một lĩnh vực đòi hỏi tài năng, tâm huyết và lòng nhiệt thành, lại phụ thuộc rất nhiều vào bối cảnh xã hội, vì thế văn chương Công giáo chưa trở thành một bộ phận có những đóng góp giá trị vào sự phát triển chung của văn học dân tộc. Điều này thể hiểu.

Giải Văn hóa-Nghệ thuật Đất Mới là một hoạt động Mục vụ của giáo phận Xuân Lộc trong nỗ lực “làm cho đức tin Kitô giáo trở nên một thành phần của di sản văn hoá dân tộc” như lời dạy của Giáo hội. Còn cần nhiều thời gian những giá trị của Giải mới có thể lan tỏa.

Tuy vậy, sự phát triển của Giải thật đáng mừng. Giải đã quy tụ được nhiều tác giả Công giáo và ngoài Công giáo, trong đó các cây bút chuyên nghiệp xuất hiện ngày càng nhiều. Mỗi năm, Ban Văn hóa giáo phận đều in được một tuyển tập các tác phẩm đoạt giải. Đó là một niềm hy vọng. Với 541 truyện ngắn và 39 truyện dài, Giải đã có được một số vốn kha khá so với số tác phẩm tiểu thuyết Công giáo tính từ Truyện Thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản đến nay. Và điều đáng mừng hơn là Giải VHNT Đất Mới đã trở thành một hoạt động văn hóa của giáo phận có sức thu hút ngày càng rộng trong mọi thành phần dân Chúa để cùng nghĩ suy, cùng sáng tạo, cùng khẳng định những giá trị của Tin Mừng.

            2. Giá trị của “Văn hóa nghệ thuật Đất Mới

Đặc sắc các tác phẩm của Giải không chỉ phản ánh đời sống Công giáo trong một không gian, thời gian rộng, không chỉ đặt ra những vấn đề thách thức lương tâm Công giáo trước thời đại, mà còn thể hiện phong phú vẻ đẹp của tư tưởng Nhân văn dưới ánh sáng Mỹ học Kitô giáo.

  Mỹ học Kitô giáo khám phá cái đẹp của Con người trong hình ảnh Thiên Chúa: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa” (Stk 1, 27). Tư tưởng Nhân văn Kitô giáo là tư tưởng về tình yêu thương Con người, giải thoát Con người khỏi đau khổ, tội lỗi và sự chết. Đó chính là tình yêu Thiên Chúa dành cho con người qua Đức Kitô: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình (Ga 15, 13 ).

Tư tưởng này rất gần gũi với tư tưởng Nhân văn của dân tộc. Người Việt nhìn bản chất Người là Đẹp: “Người ta là hoa đất”, coi trọng giá trị Con người (“Một mặt người hơn mười mặt ruộng”), và lấy thái độ sống “Thương người như thể thương thân” làm phẩm hạnh hàng đầu.

Con người ở đây chính là những “người thân cận” (Mt 22, 39) với mình trong mọi hoàn cảnh của đời sống.

Các tác phẩm VHNT Đất Mới nhìn Con người với một niềm tin yêu, trong sáng và hy vọng, rất khác với cái nhìn bi quan, cái nhìn hạ thấp phẩm giá con người, coi “tha nhân ấy là địa ngục” (J.P.Sartre), trong nhiều tác phẩm văn chương đương đại khai thác thị hiếu bản năng, cổ vũ lối sống thực dụng, vị kỷ, vô luân…

Bạn đọc có thể tiếp cận được những giá trị của tư tưởng Nhân văn Công giáo trong các tác phẩm của Giải (xin đọc Tuyển tập 10 năm).

            3. Khẳng định những giá trị văn hóa Công giáo

            Đã có những lúc, do hoàn cảnh nhất định, trong văn chương Việt Nam xuất hiện những tác phẩm miêu tả sai lệch về đời sống người Công giáo, chẳng hạn Bão Biển của Chu Văn, Cha con và của Nguyễn Khải…

Các tác phẩm của Giải VHNT Đất Mới khắc họa thành công hình ảnh các Linh mục, nữ tu sống “Đời dâng hiến” là những người hết lòng vì đoàn chiên, dù phải đối mặt với những hoàn cảnh khốc liệt, phải hy sinh mạng sống; đồng thời phản ánh được thực tại sống “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” của người Công giáo Việt Nam ở khắp nơi trên quê hương đất nước. Không gian nghệ thuật mở rộng từ vùng sông nước miền Tây Nam bộ đến núi rừng Tây Nguyên, Tây Bắc; từ Việt Nam đến các giáo hội ở Châu Phi trong khoảng thời gian từ trước 1945 đến nay với nhiều biến động lịch sử.

Các tác phẩm VHNT Đất Mới cũng lên tiếng mạnh mẽ trong việc bảo vệ sự sống, bảo vệ thai nhi, bảo vệ gia đình là cái nôi của mọi giá trị văn hóa truyền thống và đời sống tâm linh. Những vấn đề về môi trường sống, môi trường thiên nhiên, môi trường văn hóa cũng được nhiều tác giả quan tâm, đặc biệt khi đất nước hội nhập toàn cầu hóa và các làn sóng xâm lăng văn hóa đang làm băng hoại con người hôm nay…

Các tác phẩm VHNT Đất Mới cũng đề cập nhiều đến những vấn đề của người trẻ, đó là sống đức tin trong một môi trường xã hội có một nền văn hóa khác biệt với văn hóa Kitô giáo, hay trong một bối cảnh xã hội khắc nghiệt (Truyện dài Đóa hồng thứ 40); vấn đề tình yêu và tình dục, vấn đề hôn nhân khác tôn giáo, vấn đề hạnh phúc…

            Với những gì đã đạt được, Giải VHNT Đất Mới hy vọng sẽ góp phần làm phong phú văn chương nghệ thuât Công giáo và ngày càng có nhiều tác phẩm giá trị về tư tưởng và nghệ thuật làm nở hoa Mục vụ văn hóa của Giáo hội.

            4. Định hình nghệ thuật Công giáo

            Nghệ thuật Công giáo có đặc điểm gì? Đó là nền nghệ thuật lấy tư tưởng Mỹ học Kitô giáo làm lý tưởng thẩm mỹ, lấy chủ nghĩa Nhân văn Kitô giáo làm nội dung. Nền nghệ thuật ấy có cội nguồn là Kinh thánh (cả Cựu Ước và Tân Ước). Điều này có thể nhìn thấy rõ trong hội họa, âm nhạc, kiến trúc…phương Tây.

Các tác phẩm tham gia Giải VHNT Đất Mới kế thừa các truyền thống nghệ thuật của Giáo hội và của dân tộc và dần dành định hình nét riêng trong việc chọn đề tài, trong cách kiến tạo tác phẩm, xây dựng nhân vật, kiểu bút pháp và cách thể hiện. Ngày càng có sự phong phú về màu sắc thẩm mỹ của nhiều phong cách nghệ thuật, ngày càng có sự công phu trong tìm tòi sáng tạo. Từ một giải địa phương, các tác phẩm của Giải đã có thể sánh ngang với nhiều giải thưởng văn học trong nước về phẩm chất để tự khẳng định sự đóng góp những giá trị mới của văn học Công giáo vào dòng chảy văn học đương đại. Tất nhiên, sự đóng góp này còn khiêm tốn, nhưng đã là những tín hiệu vui.

Thí dụ, các tác phẩm Diễn ca Kinh thánh đều có dấu tích thể loại Diễn ca của dân tộc; Giải VHNT Đất Mới đã có những công trình lớn thi hóa Kinh thánh bằng các thể thơ, Phú dân tộc như: Châm Ngôn Kinh thánh diễn thơ (Trần Trung Hậu), Sách Tôbia & Sách Giu-đi-tha (Bùi Văn Nghiệp), Sách Sáng Thế, Sách Étte, Sách Tông Đồ Công Vụ, Sách Xuất Hành; Lịch sử cứu độ (1000 khúc thơ-Nguyễn Tiến Mỹ), Dệt thơ Lời Chúa năm A-B-C, trường ca về các thánh tử đạo (Nguyễn Hữu Tâm, Cao Danh Viện). Tác giả Nguyễn Thị Như Hà có hai tập thơ hơn 900 bài Haiku, trích 440 câu trong các sách Huấn ca, Châm ngôn, Is, Ai ca, Diễm ca; Giêrêmia; A-mốt; Ê-phê-xô; Mt; Ga; Lc; 2Côrintô; Mikha; Gióp; Tv; 2Samuel, Đệ nhị luật. Đó là một công trình đồ sộ.

  Các ca khúc Đất Mới tiếp tục nền thánh ca của Giáo hội kết hợp với bản sắc âm nhạc Việt. Giải VHNT Đất Mới còn góp thêm những sáng tác mới về Đức Mẹ Núi Cúi.        

Truyện dài Đất Mới là một thành công đặc biệt. Bởi truyện dài là một thể loại khó đòi hỏi tài năng và tâm huyết. Những năm đầu của Giải có rất ít truyện dài. Đến nay, sau 10 năm Giải đã có 39 truyện dài, trong đó đã có những tác phẩm thực sự giá trị về nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Thí dụ truyện dài Những nốt nhạc nên đời (2013), Bé Hai, Huỳnh Đệ Vàng (2014), Hương Thạch Thảo (Phạm Thị Lành 2018 ). Nổi trội hơn cả là: Ôi tội hồng phúc (Nguyễn Phương Thảo-Canada. 2017) và Đóa hồng thứ 40 (2020)…

Từ truyện vừa (đoản thiên tiểu thuyết) Thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản đến thơ Hàn Mạc Tử là một chặng đường tìm tòi sáng tạo, văn học Công giáo đã ghi được dấu ấn với lịch sử văn học dân tộc. Thế hệ kế tiếp là các nhà thơ Xuân Ly Băng, Trăng Thập Tự, Lê Đình Bảng, nhà văn Song Nguyễn, Cao Gia An…

Gần đây, các công trình Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam (Võ Long Tê, 1965), Văn học Công giáo Việt Nam-Những chặng đường (Lê Đình Bảng-2009), các bộ sách 6 cuốn Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt Nam (Lê Đình Bảng sưu tâp 2009) và bộ sách 5 cuốn Có một vườn thơ đạo (Trăng Thập Tự chủ biên 2012) đã khẳng định được có một nền văn học Công giáo Việt Nam khá phong phú. Tạp chí Nghiên cứu văn học của Viện Văn học số tháng 7/2020 đã thực hiện chuyên san: “Văn hóa, Văn học Công giáo Việt Nam-Diện mạo và đặc sắc”như là  sự khẳng định sự tồn tại của văn học Việt Nam trong dòng chảy văn học dân tộc.

Thực ra, Kinh thánh (Cựu Ước và Tân Ước) là một kho tàng hết sức đồ sộ mà các nhà văn Công giáo có thể học tập và sáng tạo. Kinh Thánh kể rất nhiều câu chuyện. Đặc biệt là những dụ ngôn Đức Giêsu trực tiếp kể. Đó là những truyện ngắn sâu sắc về tư tưởng, phong phú về nghệ thuật và đặc biệt là có khả năng khai mở tâm linh người nghe, đem đến cho người nghe Ơn Cứu Độ. Xin đọc đoạn Kinh Thánh kể về người đàn bà ngoại tình bị ném đá (Ga 8, 2-11), cuộc đối thoại của Đức Giêsu với chị em Mac-ta (Ga 11, 1-45), Đức Giêsu đối thoại với Philatô (Ga 18, 28-38), Đức Giêsu kể dụ ngôn người Sanari nhân hậu (Lc 10, 29-37), dụ ngôn Người cha nhân hậu (Lc 15, 11-32), dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó (Lc 16, 19-31)…Những câu chuyện ấy đã trở thành tâm thức của nhân loại suốt hơn 2000 năm qua.

            Gần đây, tác phẩm thơ Dưới cái cây ánh sáng của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, hiện là Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, khai thác rất hay ý tưởng về Thánh giá và cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.

Nhìn lại như thế để các tác giả tham gia Giải VHNT Đất Mới tự hào về những gì cha ông đã làm được, và nỗ lực hơn nữa sáng tạo những tác phẩm giá trị đóng góp cho văn học dân tộc.

VỀ VIỆC TỔ CHỨC GIẢI

            1. Nỗ lực của toàn giáo phận.

            Sự thành công của Giải về tổ chức là nỗ lực của toàn giáo phận. Trước hết là của các Đức cha giáo phận. Đức cha Đaminh Nguyễn Chu Trinh là người khởi xướng tổ chức Giải, Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo, người tiếp tục mở rộng mục vụ Văn hóa. Các Ban Truyền thông, Ban Văn hóa, Ban Thánh nhạc và Ban Giáo dân phối hợp tổ chức mọi mặt, từ trang trí sân khấu, tổ chức hội trường, chuẩn bị tài chính, chuẩn bị giải thưởng, in ấn tác phẩm, khách mời, tổ chức họp mặt tác giả, chuẩn bị các tiết mục công diễn phụ họa (Múa của các dòng Tu như Hội dòng Mến Thánh Giá, Hội dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Linh Mục, hội dòng Thánh Gioan Thiên Chúa, các thầy Đại Chủng viện thánh Giuse Xuân Lộc, ca đoàn Sao Mai, ca đoàn và các đoàn thể giáo xứ Russeykeo; Giới Hiền mẫu và Gia trưởng của Giáo xứ Chính Tòa v.v…Tất cả tạo nên một chương trình trao giải hoành tráng và hiện đại. Ngày trao Giải VHNT Đất Mới trở thành một sự kiện văn hóa đặc thù của giáo phận.

            2. Sự nhiệt tình tham gia của các tác giả.

            Một giải thưởng văn nghệ chỉ thực sự thành công khi có nhiều tác giả tham gia.      Giải VHNT Đất Mới có nhiều tác giả tham gia nhiều năm, tham gia ở nhiều thể loại, cả thơ, văn, truyện và kịch. Các tác giả đều nỗ lực vượt lên chính mình so với lần trao giải trước.

 Xin đơn cử, Thầy Petrus Dương Kim Quới tham gia giải từ ngày đầu. Thầy đạt giải thưởng cả ở bộ môn thơ, truyện ngắn và ca khúc. Nhóm Sao Mai gồm các nhạc sĩ Nguyên Nhung, Đoàn Văn Sửu, Viết Phương, Hồng Việt, Ngọc Tuyên có tác phẩm đạt giải hầu như ở khắp các năm; nhiều nữ tu viết truyện dài, đạt giài nhiều lấn như: nữ tu Maria Hà Thị Thúy Diễm (đạt giải truyện dài Con Hoang. 2011, Những nốt nhạc nên đời. 2013, Xương bánh Đúc. 2015, truyện ngắn Khóc Muộn. 2018). Nữ tu Maria Vinc Nguyễn Thị Chung (đạt giải các truyện dài Đâu là hạnh phúc thật. 2015; Thử chết một lần. 2016; Khi trái tim lên tiếng. 2018; Chàng xe ôm. 2019). Maria Phạm Thị Lành (truyện dài Huỳnh Đệ vàng.2014; Phía sau hố thẳm tội lỗi 2016, Hương Thạch Thảo. 2018) Tác giả thơ Catarina Nguyễn Thị Lam (Song Lam) đạt giải các năm 2012, 2013, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019); tác giả trẻ Lê Quang Trạng (Long xuyên) đạt giải truyện ngắn và Kịch các năm 2015, 2016, 2017, 2018)…

            Có thể nhận thấy chính sự tham gia nhiệt tình và nỗ lực sáng tạo không ngừng của các tác giả làm nên thành công của Giải. Đó là sự thành công của sự quy tụ gặp gỡ nhiều cây bút Công giáo và ngoài Công giáo, thành công ở sự phong phú thể loại và bút pháp, thành công ở phạm vi rất rộng của việc phản ánh hiện thực đời sống Công giáo và sự thể hiện giàu có vẻ đẹp tư tưởng Nhân văn Kitô giáo.

HY VỌNG NHỮNG MÙA VÀNG

            10 năm Giải VHNT Đất Mới là một niềm hy vọng. Tuy chưa có nhiều tác giả tác phẩm nổi trội song giải đã quy tụ được một đội ngũ người sáng tác Công giáo đông đảo có tiềm năng, trong đó có nhiều người trẻ; khơi gợi và phát huy niềm say mê văn chương Công giáo ở họ, mở ra nhiều ngả đường sáng tạo. Sau 10 năm Giải VHNT Đất Mới cũng đã có những đóng góp nhất định vào nền văn học Công giáo đương đại, và biết đâu những gieo mầm hôm nay sẻ đem đến mùa vàng sum suê trong tương lai. Cánh đồng Mục vụ văn hóa đã mở ra mênh mông những mùa gặt.

***

VÀI HÌNH ẢNH

Trao giải thơ
Giải ca khúc
Hợp xướng ca khúc đoạt giải
Múa minh họa
Tuyển tập tác phẩm đạt giải VHNT Đất Mới 2018-2019
Bìa tuyển tập 10 năm giải VHNT Đất Mới
Bìa tuyển tập tác phẩm đạt giải VHNT Đất Mới 2020

NGUYỄN DU-ĐÔI ĐIỀU NGẪM NGHĨ

NGUYỄN DU (1765-2020)-Đôi điều ngẫm nghĩ

Bùi Công Thuấn

Kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du, Hội Kiều học, UBND tỉnh Nghệ Tĩnh, Bộ Văn hóa- Thể thao va Du lịch, Hội Nhà văn Việt Nam đã có nhiều hoạt động để tôn vinh nhà thơ lớn của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cũng đã có rất nhiều người nghiên cứu viết về Nguyễn Du. Chỉ riêng một hội thảo quốc tế với chủ đề “Đại thi hào dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du- Di sản và các giá trị xuyên thời đại” do Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức ngày 08.08.2015. đã có hơn 100 tham luận, trong đó có 13 tham luận đến từ các học giả Pháp, Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc, Đài Loan… với những hướng tiếp cận mới mẻ.

Tôi đã định không viết gì thêm, nhưng thấy lòng mình vẫn có điều muốn chia sẻ, bởi cho đến nay, Nguyễn Du và Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) vẫn thôi thúc chúng ta về những điều còn ẩn mật.

Tám câu đầu Đọan trường tân thanh (chữ Nôm)-Nguyễn Du
  1. NHÀ THƠ ĐI TÌM CHÂN LÝ

Ngoại trừ bài Long Thành cầm giả ca có nhắc đến nhà Tây Sơn, còn lại, Nguyễn Du im lặng trước hiện thực Việt Nam (1765-1820) suốt từ thời hậu Lê qua thời Quang Trung và Gia Long. Cả khi đi sứ Trung Quốc 1813, ông cũng không có dòng nào về những gì đang diễn ra ở triều đại nhà Thanh lúc ấy giờ. Đó là vấn đề cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng.

Các nhà nghiên cứu đều cho rằng Nguyễn Du là con cháu nhà Lê, lại làm quan cho nhà Nguyễn, mà đạo “trung hiếu” của nhà Nho đòi buộc “Trung thần bất sự nhị quân”, thành ra Nguyễn Du không tránh khỏi mặc cảm. Nhưng trong tình thế ông không thể  không ra làm quan với Gia Long, Nguyễn Du còn chứng kiến việc Gia Long trả thù tàn khốc nhà Tây Sơn, giết hại công thần Nguyễn Văn Thành, Bùi Thị Xuân, Đặng Trần Thường… thì thân phận một “hàng thần lơ láo” như Nguyễn Du nào có nghĩa gì. Cho nên giữ im lặng là thái độ phải lẽ của bậc thức giả.

Hơn nữa, Nguyễn Du còn được Gia Long trọng dụng, thăng chức liên tục. Ông không thể phủ nhận lòng ưu ái của Gia Long. Trên đường đi sứ qua Ải Nam Quan, ông đã viết:“Ơn vua như biển chưa mảy may báo đáp”. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du cũng viết: ”Rằng: Ơn Thánh đế dồi dào/ Tưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu”(câu 2489). Như vậy, Nguyễn Du đã đạt được “hùng tâm và sinh kế” là hai điều mà ông hằng ấp ủ mà có lúc ông bế tắc đến tuyệt vọng (Tạp thi 1, U cư 2, Mạn hứng 1,…).

Nhưng đọc thơ Nguyễn Du, người đọc không nguôi day dứt về những gì ông muốn chia sẻ. Trong bài My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù), ông tỏ lộ:

Ngã hữu thốn tâm vô ngữ dữ, 
Hồng Sơn sơn hạ Quế giang thâm
.

(Ta có một chút tâm sự, không biết bày tỏ cùng ai, 
Dưới chân núi Hồng Lĩnh, sông Quế Giang sâu thẳm.)

Và ông tự khóc thương thân trong bài Độc Tiểu Thanh ký:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

            (Không biết sau ba trăm năm nữa

                Ai là người trong thiên hạ khóc Tố Như)

Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du, người đọc thấy rõ hành trình tư tưởng của ông. Về cơ bản, Nguyễn Du là một nhà Nho. Lúc lưu lạc “thập tải phong trần”, sống trong nghèo khổ tha hương, ông hướng về lý tưởng “kinh bang tế thế” của nhà Nho, ông đau đáu mộng công danh, và than thở khôn nguôi vì tóc đã bạc mà chưa làm được việc gì.

(Dịch nghĩa:)

Cuộc thế trăm năm phó mặc gió bụi,

 Hết ăn nhờ ở miền sông lại ăn nhờ ở miền biển. 

Đã lâu rồi, lúc cao hứng, không còn ấp ủ giấc mộng gác vàng nữa, 

Nhưng hư danh nào đã buông tha kẻ bạc đầu này.

                                (Mạn hứng 1)

Cái dáng nho nhã bình sinh nay xơ xác như con phượng nhốt trong lồng.

Công danh thì như con rắn chui tuột vào hang lúc nào rồi.

                                (Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam quy)

Nhưng khi đã làm quan, được thăng chức, được cử đi sứ, Nguyễn Du lại không hề nhắc đến mộng công danh nữa. Ông nhận ra thân cá chậu chim lồng mà muốn về quê. Nghĩa là cái mộng công danh, cái lý tưởng ông theo đuổi ngày xưa đã không thỏa mãn ý nguyện của ông.

(Dịch nghĩa)

Những con oanh đẹp trong vườn vua ghen nhau vì sắc đẹp

Rau thuần già nơi quê cũ vẫn còn nấu canh được

                                    (Tống nhân)

Thân này đã làm vật trong lồng trong chậu 
Còn tìm đâu lại cuộc chơi phóng đãng 
Chớ nhìn chân trời mà than thân lưu lạc 
Phía nam sông nay đã là đất của vua rồi.

                             (Tân thu ngẫu hứng)

Một dòng sông đầy ngăn một xóm hẻo lánh 
Trong đó có một cao sĩ không ra khỏi cửa… 
Ta muốn treo mũ ra về theo ý nguyện 
Để cùng ông gảy đàn uống rượu vui hưởng tuổi già.
(Tặng nhân)

Đi sứ Trung Quốc(có nhà nghiên cứu cho rằng, trong 10 năm gió bụi trước khi ra làm quan, Nguyễn Du đã từng đi Trung Quốc), ông đã đi qua nhiều nơi,thăm những di tích danh nhân văn hóa, của lịch sử hàng ngàn năm ở Trung Quốc. Ta từ xa đến, muốn hỏi chuyện nghìn năm cũ (Hoàng Sào binh mã). Ông đứng trên lập trường Nho gia để đánh giá nhân vật lịch sử: “Ngày thường không thấu hiểu hai chữ “trung tín”/ Thì đến đâu cũng không giải quyết được vấn đề “sống và chết”. (Thuyền xuôi qua ghềnh Đại Than). Ông ca ngợi người trí dũng, nhân nghĩa. Ông chê trách kẻ tham tàn bạc ác.

Tầm nhìn của ông rất rộng. Ông quan sát lịch sử Trung Quốc từ thời Đế Nghiêu. Ở mỗi nơi, đứng trước di tích lịch sử, ông đối thoại với con người đã ghi dấu tại nơi ấy về cuộc đời họ, về ý nghĩa nhân sinh, về giá trị làm người. Đặc biệt, đứng trên lập trường dân tộc, ông mỉa mai chí anh hùng của Mã Viện chỉ là trò cười. Ông mượn mộ kỳ lân để tố cáo tội ác Minh Thành Tổ (Kỳ lân mộ). Với người Trung Quốc, ông ca ngợi Đế Nghiêu, vinh danh Tỷ Can, Nhạc Phi. Khen Âu Dương Tu: Một tấm lòng son để lại tiếng xưa nay (Mộ Bùi Tấn Công). Khen Lạn Tương Như bảo vệ được đất nước khỏi chiến tranh (Lạn Tương Như cố lý). Ca ngợi Kinh Kha: Thần dũng hiên ngang chỉ có mình ông. Ca ngợi Dự Nhương:”Chiếc gươm ngắn thời đó dài bảy tấc/ Riêng có tia sáng dài muôn trượng rọi thấu cổ kim”. Khen Chu Du: Đốt sạch trăm vạn quân họ Tào/ Trượng phu cũng đủ thỏa chí bình sinh”(Mộ Chu Du), khen người hiền Vinh Khải Kỳ (thời Xuân Thu), ca ngợi Hàn Tín, Văn Thiên Tường. Ông tôn vinh Đỗ Phủ là bậc thầy: Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời / Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt” (Mộ Đỗ Thiếu Lăng ở Lỗi Dương kỳ 1). Ông chia sẻ nỗi niềm của Khuất Nguyên:Ngàn năm trước ai hiểu người tỉnh một mình, /Bốn phương lòng trung biết gửi nơi nào?”, ông đồng điệu với Lý Bạch : Danh vọng coi thường như giẻ rách. Ông sánh mình với Liễu Tông Nguyên:”Một thân bị đày ải nơi xa sáu ngàn dặm / Văn chương nghìn thuở, là một trong tám nhà văn thơ lớn bậc nhất / Thời trai trẻ, ta cũng có tài ví như gỗ tốt / Nay bạc đầu, tự mình than vãn trước gió thu…”(Vĩnh châu Liễu Tữ Hậu cố trạch). Ông ghét bọn bất trung (Đáng xấu hổ họ Ngụy quê mùa tham sống / Dám hồ đồ gượng ép chia hai Trung với Lương– Mộ Tỷ Can). Ông nặng lời với Tần Cối:”Gác Cách Thiên lầu vàng đổ nát / Còn thằng gian lẩn quất chốn này/ Tim đen nọc độc chứa đầy/ Để cho sắt sống oan lây nghìn đời (Tượng Tần Cối 2). Ông chê Tào Tháo (72 ngôi mộ gió). Coi Tô Tần chỉ là kẻ nhỏ mọn (vì chỉ lo lợi lộc riêng không vì nước- Đình Tô Tần). Chê Quản Trọng sự nghiệp nhỏ.

Sự thật của lịch sử Trung Quốc là vậy, nhưng những con người và sự việc ở ngay trước mặt (Sở kiến hành, Trở binh hành…) cũng đâu có khác. Thành ra những gì Nguyễn Du thao thức lại là vấn đề của hiện sinh. Ấy là tất cả đã qua đi và sẽ qua đi, dù là Hạng Vũ, Hàn Tín, Kinh Kha, Chu Du, Tào Tháo, Hoàng Sào, Tôn Quyền, hay Lưu Bị,.. Cái gọi là sự nghiệp cũng chỉ là không. Đáng thương thay cho kiếp phù sinh.

Vua xưa dấu cũ đã xa rồi 
Triền miên sông Hán ngày đêm trôi
 

                (Chiều ở Hán Dương)

Rốt cuộc muôn khéo nghìn khôn cũng thành không tất cả 
Từ ngàn xưa đau lòng nước sông Chương
 
Ta nghĩ đến người xưa mà xót nỗi mình
 
Bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, thương kiếp phù sinh.
 

                           (Đổng Tước đài)

Gió thu lúc mặt trời lặn ngóng quê nhà 
Nước trôi mây nổi, sạch hết mưu đồ làm bá làm vua 
Đâu rồi đất Tôn Quyền tranh giành với Lưu Bị? 
Trông chỉ thấy xanh um một vùng cỏ hoang.

                  (Sở vọng)

Trăm vạn cờ xí vượt sông Hoàng Hà phía bắc 
Dưới đất Yên còn vùi gươm giáo 
Việc xa xôi xảy ra đã hai nghìn năm 
Mênh mông ở bên thành một bãi cát. 

                   (Hàn Tín giảng binh xứ)

Người nay cảm chuyện nghìn năm trước 
Đương thời nghĩ chuyện khó tính thông
 
Giỏi ra chỉ một sông Dương Tử
 
Thành bại theo dòng cuốn bể đông.

                  (Hoàng Châu trúc lầu)

Giàu sang trên đời như mây nổi 
Trăm năm rốt cuộc đều như thế
 
Quay đầu nhìn chỉ thấy một áng bụi mịt mùng.

                    (Đồ trung ngẫu hứng)

Nguyễn Du bế tắc trước vấn đề của hiện sinh:

Ta từ xa đến, muốn hỏi chuyện nghìn năm cũ. 
Nhưng ông lái đò lắc đầu như không nghe thấy!
                           (Hoàng Sào binh mã)

Thầm đọc bài ca hỏi trời, 
Trời cao, biết đâu mà hỏi?
(Bất mị)

Trong tất cả tác phẩm của Nguyễn Du, ông chưa bao giờ an nhiên trong Đạo, mặc dù có lúc ông muốn theo Đạo (Mộ xuân mạn hứng). Và dù đọc kinh Kim Cang ngàn lần, Lòng này thường định không xa rời đạo thiền/ Đạo Phật không tâm, không ý bao la vô tận,” nhưng khi Nguyễn Du nhìn xuống cuộc đời, “Cúi nhìn xuống thấy thành có nhiều sự đổi thay mà ngậm ngùi khôn xiết.”(Đề Nhị Thanh động). Nguyễn Du cũng không tìm thấy con đường giải thoát nơi Phật vì tâm của ông không lúc nào thôi xót xa thôi thúc trước hiện thực (Long Thành cầm giả ca, Thái Bình mại ca giả, Độc Tiểu Thanh ký, Trở binh hành, Văn tế thập loại chúng sinh…). Ông không sao lý giải được những vấn đề của ngàn năm và đành xuôi theo Thiên mệnh của Nho giáo.

Hành trình tư tưởng này tạo nên một giá trị đặc sắc thơ Nguyễn Du, đó là thơ tư tưởng. Tuy Nguyễn Du không vượt qua được thời đại của mình, nhưng ông đã tiếp cận được với vấn đề hiện sinh của ngàn đời. Ông nhìn hiện thực thời đại của ông bằng cái nhìn thấu suốt lịch sử ngàn năm qua và hướng về những thế kỷ sau ông. Tất cả rồi sẽ qua đi, sẽ chỉ còn lại đồ nát và hoang tàn, tất cả là hư không. Và vì thế, dù được Gia Long trọng dụng, ông vẫn thờ ơ với quan trường.

Trước sân, cây mai lại qua một mùa xuân nữa. 
Tâm sự anh hùng đã nguội lạnh, không còn nghĩ đến chuyện ruổi rong, 
Đường danh lợi làm luỵ đến sự khóc cười.

                                       (Xuân tiêu lữ thứ)

II HỒN THƠ NGUYỄN DU

Trong khi Nguyễn Du bế tắc về tư tưởng thì có một nơi hồn thơ ông luôn luôn hướng về, luôn rạng rỡ, luôn an lạc, đó là quê hương. Nơi có núi Hồng Lĩnh, sông Lam, có những tháng ngày ông tự nhận mình là “Hồng sơn hiệp lộ”, “Nam hải điếu đồ”. Dù là khi lưu lạc hay lúc làm quan, lúc đi sứ, thì quê hương luôn gọi ông trở về, và chỉ có nơi đó ông mới thực là chính mình.

Cố ráng mắt nhìn xem quê hương mình ở chỗ nào? 
Chỉ thấy vài chấm nhỏ, đó là những cánh chim hồng bay lên đám mây trắng.

                                                            (Thanh Quyết giang viễn diểu)

Có hình nên phải chịu vất vả 
Không bệnh mà lưng vẫn khom khom 
Ngoảnh đầu trông về bến sông Lam 
Lòng nhàn xin tạ từ chim âu trắng.

                               (Thu chí)

Lòng nhớ quê xa vạn dặm, quay đầu lại 
Mây trắng ở phía nam nhiều biết là bao.

                            (Ngẫu hứng)

Ở đất khách lâu năm, ngồi dưới bóng đèn mà rơi lệ. 
Quê hương xa nghìn dặm, nhìn trăng mà đau lòng. 
                                     
(Xuân dạ)

Hồng Lĩnh trong giấc mộng thiếu vắng những cuộc đi săn 
Ðầu bạc còn in dấu chân khắp núi song. 
                          (Hàm Đan tức sự)

Ta vốn có tính yêu núi 
Xa rồi nhớ bao nhiêu 
Nay trên đường đi Tiềm Sơn 
Tưởng như ở trong dãy Hồng Lĩnh. 

                (Trên đường Tiềm Sơn)

Nguyễn Du nhớ quê không phải là nhớ gia tộc và quá khứ vàng son, dường như điều ấy không làm vướng bận trái tim ông; ông cũng cũng không phải lo lắng nhiều về cuộc sống gia đình, không tha thiết bạn bè thù tạc, mặc dù tình cảm của ông vẫn dành cho họ.

Quê hương hạn hán hại việc nông 
Mười miệng trẻ thơ sắc đói cùng
 
Rau thuần cá vược mà nhớ quá
 
Cứ về cần chi gió thu trông.

                       (Ngẫu hứng 4)

Phía bắc Hoành Sơn, mười miệng kêu đói 
Góc đông thành vua, một thân nằm bệnh 
Các bạn quen biết lấy làm lạ tại sao ta sầu mộng 
Thiên hạ ai là người không ở trong mộng?

                              (Ngẫu đề)

Nguyễn Du tự tạc chính hồn mình vào thiên thu. Đó là một con người suy tư về hiện sinh, một nhà thơ, nhà thơ tư tưởng đầy ắp tình quê:

Bóng mây lững thững sớm chiều biến đổi, 
Lớp sóng cuồn cuộn kéo cả cổ kim đi. 
Cuộc trần thế trăm năm chỉ là giấc mộng khi mắt mở, 
Tựa lan can, lòng nhớ núi Hồng nơi ngàn dặm. 
Một mình bồi hồi ngắm bóng, chẳng nói năng gì, 
Mấy sợi tóc bạc phất phơ rủ xuống tà áo.

            (La Phù giang thủy ca độc tọa)

Truyện KiềuVăn chiêu hồn là những tra hỏi về hiện sinh sâu sắc vượt thời đại của Nguyễn Du. Ở hai tác phẩm này, hồn thơ Nguyễn Du là tình cảm nhân đạo có tư tưởng triết học và chiều sâu tâm linh, kết hợp với những trải nghiệm kiếp người dâu bể của chính Nguyễn Du. Nguyễn Du đã sống những ngày vinh hoa phú quý bên phụ thân, rồi đến những ngày tang tóc, lưu lạc đói khổ, có lúc phải đi ăn xin (khất thực). Ông cũng đã thấm thía những ngày trong tù (My trung mạn hứng). Ông không hiểu tại sao trên đất Trung Hoa no ấm lại có phận người tàn tạ (Long Thành cầm giả ca), phận người bất hạnh (Thái Bình mại ca giả), và ông tận mắt nhìn thấy người chết đói trên đường (Trở binh hành). Những oan khiên thì không sao kể xiết. “Oan này còn một kêu trời nhưng xa”, đặc biệt là thân phận con người trong chiến tranh phong kiến phi nghĩa.

Buổi chiến trận mạng người như rác,
Phận đã đành đạn lạc tên rơi.
Lập lòe ngọn lửa ma trơi,
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương.

Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Nguyễn Du không thương người theo cái nhìn Phật giáo, tất cả chúng sinh đều mang kiếp khổ (Khổ đế). Nguyễn Du nhìn kiếp khổ bằng cái nhìn xã hội. Trong Văn chiêu hồn, Nguyễn Du chia làm 3 hạng người, ông dành cho họ tình yêu thương tùy vào chính những gì họ làm ở trong đời này. Với những kẻ có tham vọng quyền lực đế vương, những lăm cướp gánh non sông, những kẻ bài binh bố trận, mong cướp ấn nguyên nhung, những hạng người này gây nên bao nhiêu nghiệp chướng oan khuất, họ “Dãi thây trăm họ nên công một người”. Nếu có đáng thương là thương ở chỗ họ không hiểu cơ trời, nên rước lấy thảm bại. Hạng người thứ hai là những người mưu cầu giàu sang, công danh, phú quý. Nếu có đáng thương thì thương ở chỗ họ không biết tất cả chỉ là phù vân.“Của phù du dẫu có như không,/ Sống thời tiền chảy bạc ròng,/ Thác không đem được một đồng nào đi.” Loại người thứ ba, rất nhiều, gộp chung những người bất hạnh: kẻ vào sông ra bể, kẻ buôn bán, kẻ mắc vào khóa lính, cô gái lầu xanh lỡ thì, người hành khất, kẻ tù oan, đứa tiểu nhi, kẻ chìm sông lạc suối, người sảy cối sa cây, người leo giếng đứt dây, kẻ trôi nước lũ, kẻ lây lửa thành, người mắc sơn tinh thủy quái, người sa nanh sói, ngà voi, tất cả họ, “Sống đã chịu nhiều bề thảm thiết,…”Nguyễn Du thương xót cho kiếp người của họ bằng chính trải nghiệm hiện sinh của mình (ông đã từ sống trong đói khổ, trốn chạy lưu lạc, hành khất, tù đày…). Ông kêu gọi mọi người hãy thương lấy những con người bất hạnh, dù chỉ là một chút nhỏ nhoi, đó mới là con đường giúp giải thoát.

Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo,
Của có chi bát cháo nén nhang,
Gọi là manh áo thoi vàng,
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

Ai đến đây dưới trên ngồi lại,
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu.
Phép thiêng biến ít thành nhiều,
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh.

Có thể nhận thấy chính tình cảm nhân đạo kết hợp với những trải nghiệm hiện sinh đã nâng hành trình tư tưởng tra hỏi về chân lý ở Nguyễn Du lên một tầm cao vượt qua cả Nho, Đạo và Phật đến với mọi người, mọi thời đại. Nguyễn Du là nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của văn chương Việt Nam là vì vậy.

III. NHÀ THƠ HÔM NAY HỌC TẬP ĐƯỢC GÌ TỪ NGUYỄN DU

Nhà thơ hôm nay không thể có được những trải nghiệm hiện sinh dâu bể như Nguyễn Du,  và vì thế hồn thơ khó đạt tới tư tưởng triết học về bản thể, về nhân sinh, là nền tảng làm nên thơ tư tưởng của Nguyễn Du. Ngày nay, chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa hưởng thụ vật chất… nhiễm vào lối sống của người làm thơ, làm cho họ trở nên vô cảm, họ không thể vượt qua hiện sinh để đạt tới những chứng ngộ của kiếp người như Nguyễn Du. Nói vậy để thấy rằng, để trở thành nhà thơ tư tưởng là rất khó. Trong văn chương Việt Nam, những nhà thơ tư tưởng như Nguyễn Du có thể chỉ đếm trên đầu ngón tay. Và chỉ văn chương tư tưởng mới có sức sống lâu bền trong tâm thức người đọc.

Dù vậy, nhà thơ hôm nay có thể học được nhiều ở Nguyễn Du. Học sự uyên bác về lịch sử, văn hóa của mọi thời. Nhà thơ phải nuôi dưỡng một tình yêu quê hương sâu nặng, tình thương yêu con người bằng chính bản thể của mình. Và đặc biệt là học Nguyễn Du ở cách sử dụng tiếng Việt tinh tế, tài hoa và đầy sức mạnh. Nói đến sức mạnh thơ Nguyễn Du, ngoài tư tưởng triết học, tình cảm nhân đạo, thì bút pháp hiện thực đã làm nên những bài thơ bất hủ cho văn chương dân tộc. Trong Nguyễn Du có chất phóng khoáng của Tiên thi Lý Bạch, có cái dữ dội gân guốc của Thánh thi Đỗ Phủ, có cái tài hoa của Bạch Cư Dị và có bóng dáng cả Phật thi Vương Duy. Nhưng Nguyễn Du là Nguyễn Du, với dấu ấn của núi Hồng, sông Lam rất đậm, với những vấn đề nhân sinh được đặt ra còn làm bận tâm nhiều thời đại… và một Nguyễn Du của tiếng Việt tài hoa, sang trọng. Điều này nhiều thế hệ nhà thơ Việt Nam nữa vẫn khó vượt qua được. Nguyễn Du vẫn chờ đó.

Một mình bồi hồi ngắm bóng, chẳng nói năng gì,

Mấy sợi tóc bạc phất phơ rủ xuống tà áo.

              (La Phù giang thủ ca độc tọa)

Tháng 11. 2015

____________________________

Nguồn: Bùi Công Thuấn-Văn chương Việt Nam, Những gì còn với mai sau. Nxb HNV 2016