ĐỌC, VIẾT & PHÊ BÌNH VĂN CHƯƠNG-Phần II

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

Chuyên đề dành cho người trẻ Công giáo viết văn

ĐỌC, VIẾT & PHÊ BÌNH VĂN CHƯƠNG-Phần II

TÁC PHẨM VĂN HỌC

Bùi Công Thuấn

Chuyên luận có 3 phần.Bạn có thể tải về đọc cả chuyên luận Đọc, Viết & Phê bình văn chương theo link:

***

CÁC YẾU TỐ CỦA TÁC PHẨM VĂN HỌC

Mọi yếu tố của tác phẩm đều có ý nghĩa Lý luận bởi chúng tạo nên một cấu trúc, chúng liên kết nhau thành một hệ thống với những quy luật nội tại. Cấu trúc tạo nên nội dung, tức thế giới tư tưởng-thẩm mỹ của tác phẩm. Thế giới tư tưởng-thẩm mỹ này có ý nghĩa riêng, nhiều khi biệt lập với ý định chủ quan của tác giả.

Vì thế, khi viết hoặc đọc văn chương, người viết, người đọc cần chú ý đến tất cả mọi yếu tố của tác phẩm.

Xin lưu ý, tác phẩm là thành tố trung tâm của văn học. Không có tác phẩm thì không có văn học. Các thành tố khác xoay quanh tác phẩm là nhà văn, người đọc, các trào lưu, các hiện tượng văn học, môi trường thời đại của văn học. Thí dụ, ngày xưa ở Việt Nam, khi chữ Quốc ngữ chưa phát triển, tác phẩm văn học viết bằng chữ Hán và chữ Nôm phổ biến rất hạn chế, bởi công chúng hầu hết không đọc được hai thứ chữ này. Văn học dân gian truyền miện phát triển là vì vậy. Ngày nay, môi trường công nghệ toàn cầu hóa, văn chương bị. lép vế so với các loại hình nghệ thuật truyền thông đa phương tiện.

***

Thế nào là tác phẩm văn học? Câu trả lời thật không dễ dàng.

Điều gì tạo nên sự khác biệt giữa một văn bản văn chương và một văn bản không

phải văn chương (thí dụ văn bản hành chính), giữa một bài “thơ” và một bài “không thơ”? Khi nào một văn bản trở thành một tác phẩm? Tại sao một bài tứ tuyệt 4 câu được gọi là tác phẩm, sánh ngang với một tác phẩm sử thi?  

Để xác lập các vấn đề trên, cần phải xem xét các đặc trưng của văn chương (tức là những đặc điểm khu biệt giữa văn chương và các loại hình khác).

Thử phân biệt Thơ Con cóc (thơ dân gian) và bài thơ Vịnh con cóc (thơ Nôm) của Lê Thánh Tông. Đã có nhà lý luận hết lời ca ngợi “thơ con cóc” là thơ hay.

   Thơ con cóc  
Con cóc trong hang  
Con cóc nhảy ra

 Con cóc nhảy ra  
Con cóc ngồi đó
 
Con cóc ngồi đó  
Con cóc nhảy đi
Vịnh con cóc  
Bác mẹ sinh ra vốn áo sồi,
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi.
Chép miệng nuốt ba con kiến gió,
Nghiến răng chuyển động bốn phương trời.

Có một sự thật là nhiều người làm thơ nhưng văn bản viết ra lại là “thơ con cóc”.

            1.Nhan đề

Nhan đềchứa đựng nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Nhưng Nhan đề còn tạo sự hấp dẫn người đọc, định hướng cho người đọc tiếp cận tác phẩm. Cho nên, việc đặt nhan đề tác phẩm sẽ định hướng nhiều điều trong quá trình viết: Nhan đề giúp tác giả không lạc lối, giúp tác giả thể hiện chủ đề, định hướng tác giả khắc họa nhân vật, xây dựng tình huống.

Có nhiều cách đặt nhan đề: lấy tên nhân vật chính (truyện Chí Phèo), lấy một chi tiết đặc trưng (Đồng hào có ma của Nguyễn Công Hoan, Hai đứa trẻ của Thạch Lam), lấy một hình ảnh có ý nghĩa tư tưởng (truyện Đôi mắt của Nam Cao; Vợ nhặt của Kim Lân; Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu……

Viết hay đọc truyện, đầu tiên phải khám phá nhan đề tác phẩm. Thí dụ, ngày nay nhiều người gọi tác phẩm của Nguyễn Du là Truyện Kiều, mà quên mất nhan đề tác phẩm là “Đọan trường tân thanh”(nghĩa là: Tiếng kêu mới đứt ruột). Người đọc bỏ qua thông điệp của Nguyễn Du mà chỉ nói đến nhân vật Thúy Kiều.

Thử đọc truyện ngắn:

Người canh gác

          Franz Kafka

Tôi chạy qua người canh gác thứ nhất. Thế rồi sợ hãi, tôi chạy ngược trở lại và nói với người canh gác: “Tôi đã chạy qua đây lúc ông đang nhìn đi chỗ khác”. Người canh gác nhìn chằm chằm về phía trước chẳng nói năng gì. “Tôi nghĩ đúng ra mình không nên làm như vậy.” Tôi thưa. Người canh gác vẫn không nói gì hết. “Ông im lặng nghĩa là tôi được phép đi qua phải vậy không?”.

Nhan đề “Người canh gác” có giúp bạn hiểu tác phẩm không?

Truyện ngắn Chí Phèo, lúc đầu có tên là Cái lò gạch cũ; khi in thành sách lần đầu năm 1941, Nhà Xuất bản Đời mới – Hà Nội tự ý đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Năm 1946, Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo khi in lại trong tập Luống cày (do Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội). Tại sao một tác phẩm lại có thể có những nhan đề khác nhau? Và những nhan đề này tạo hiệu ứng khác nhau thế nào khi người đọc khi tiếp nhận tác phẩm?

2.Cốt truyện.

Cốt truyện là những cột trụ để dựng truyện. Mỗi câu chuyện được dựng bằng một cốt truyện. Cốt truyện hay thì truyện mới hay. Nhưng cốt truyện là gì? Cốt truyện là sự kết nối các tình huống tạo ra bước ngoặt số phận của nhân vật, làm phát triển nội dung dẫn đến kết thúc. Trong cốt truyện, tình huống là yếu tố quan trọng. Truyện hay luôn có nhiều tình huống bất ngờ. Người đọc không thể đoán được tình huống kết thúc.

Từ cốt truyện, nhà văn phát triển cốt truyện theo nhiều tuyến, triển khai viết văn tạo thành nội dung tác phẩm. Giống như, khi đã có kèo, cột, có bộ khung nhà, người ta tiến hành lợp mái, làm vách, lắp đặt cửa cái, cửa sổ và thiết kế nhiều vật dụng khác để hoàn chỉnh căn nhà có thể ở. Nhà văn xây dựng từng chương, phân cảnh, phân đoạn, xây dựng nhân vật, các quan hệ xã hội, miêu tả các tình huống, thêm thắt các tình tiết…tất cả được sắp xếp theo những nguyên tắc của cấu trúc để hoàn chỉnh tác phẩm.

            Thí dụ, Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều của Nguyễn Du) có cốt truyện như sau: Kiều gặp Kim Trọng-Gia biến-Kiều bán mình vào lầu xanh lẩn I-gặp Sở Khanh, gặp Thúc Sinh, Hoạn Thư-vào nhà Bạc Bà, Bạc Hạnh, lầu xanh lần II, gặp Từ Hải, bị Hồ Tôn Hiến lừa, Kiều phải trầm mình ở sông Tiền Đường. Tái hợp với Kim Trọng. Truyện cấu trúc theo 3 bước: hợp-tan-hợp.

            Thạch Lam thường kể những truyện không có cốt truyện, mỗi truyện là một bài thơ trữ tình buồn.

            3.Cấu trúc truyện.

Cốt truyện được kiến tạo theo một mô hình nào đó tạo ra cấu trúc. (Thí dụ, khi đã có cột, kèo, bộ khung, cánh cửa…người làm nhà sẽ dựng căn nhà theo kiểu nhà nào? Nhà Việt hay nhà Rông, kiểu nhà Thái Lan hay nhà hình ống…)

            Cấu trúc truyện Trung đại Việt Nam thường theo mô hình: Hợp-Tan-Hợp, hoặc kiểu kết thúc có hậu (Đoạn trường tân thanh, Lục Vân Tiên…)

Cấu trúc truyện độc đáo sẽ tạo nên sự đặc sắc, mới mẻ của truyện.

Cấu trúc có giá trị tạo nghĩa (nghĩa của của văn bản nằm trong cấu trúc), vì thế khi đọc truyện, người đọc phải nắm được cốt truyện và cấu trúc truyện, có vậy mới giải mã được ý nghĩa tác phẩm. Thí dụ, nếu truyện Kiều được Nguyễn Du kết thúc ở tình huống Kiều trầm mình ở sông Tiền Đường chết, thì ý nghĩa tác phẩm sẽ khác.

Có nhiều kiểu cấu trúc tác phẩm

Thông thường tác giả thường kể chuyện theo tuyến thời gian (hiện tại-hồi tưởng quá khứ- trở về hiện tại), hoặc cấu trúc kép (kể chuyện trong kể chuyện).

            Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân có cấu trúc kịch.

            Thạch Lam kể chuyện không có cốt truyện

            Chí Phèo của Nam Cao có cấu trúc vòng tròn

            Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi được cấu trúc theo những lần ngất đi và tỉnh lại của nhân vật Việt. Mỗi chương gồm một phần miêu tả hiện tại kết hợp với hồi tưởng sự việc ở quá khứ.

            Người mẹ cầm súng cũng của Nguyễn Thi lại cấu trúc theo chương hồi.

            Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được cấu trúc bằng 6 tình huống liên tiếp

            Lời nguyền hai trăm năm của Khôi Vũ được kể theo cấu trúc hai tuyến thời gian song song ngược chiều và hồi tụ ở kết truyện

            Một người Hà Nội của Nguyễn Khải kể chuyện bằng nhiều phân cảnh (theo tuyến thời gian). Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp cũng cấu trúc bằng những phân cảnh (như truyện phim).

            Truyện cười sử dụng cấu trúc tương phản với nhiều thủ pháp gây cười (kiểu nhân vật hài, ngôn ngữ hài, tình huống hài, sử dụng các yếu tố tục…) và kết thúc bằng một tình huống tương phản. Kết thúc này bất ngờ, giải quyết tất cả các mâu thuẫn truyện, tạo nên tiếng cười (xin đọc truyện Trạng Quỳnh).

            Như vậy cấu trúc truyện là một yếu tố sáng tạo độc đáo của mỗi nhà văn. Người viết văn và đọc văn không thể không quan tâm đặc biệt đến cấu trúc tác phẩm.

            Chủ nghĩa Siêu thực, chủ nghĩa Hậu Hiện đại phá vỡ logic cấu trúc truyền thống của tác phẩm. Trong một tiểu thuyết có nhiều chương, có thể đọc chương nào trước cũng được.

            Các truyện dự Giải VHNT Đất Mới thường có cấu trúc rất cũ: miêu tả một hành động truyện đang xảy ra ở hiện tại rồi nhân vật nhớ về sự việc ở khứ rồi tác giả trở về hiện tại để kết truyện (cấu trúc 3 bước: Hiện tại-Quá khứ-Hiện tại)

            Người làm thơ bắt chước kiểu thơ 7, 8 chữ của thơ lãng mạn, thường có cấu trúc liệt kê ý, mỗi khổ thơ triển khai 1 ý. Người đọc thơ chỉ cần đọc khổ thơ đầu đã có thể đoán được nội dung cả bài.

            4.Ngôi trần thuật

Ngôi trần thuật là người kể chuyện, là nhân vật xưng “Tôi”, thường là tác giả.

Có khi Tôi là tác giả hóa thân vào một nhân vật trong truyện. Đọc truyện do Tôi kể, người đọc tin đó là truyện thật của tác giả. Khi đã lấy được lòn tin của người đọc, tác giả mới hư cấu (tức là “bịa như thật”). Nếu ngay từ đầu truyện, người đọc biết tác giả “bịa đặt” thì sẽ không ai đọc nữa. Truyện càng “thật” bao nhiêu, càng hấp dẫn bấy nhiêu. Và nhân vật Tôi, người kể chuyện (ngôi trần thuật), có vai trò quan trọng trong dựng truyện là vậy.

Trong một tiểu thuyết có thể đổi nhiều ngôi trần thuật để tạo ra sự đa dạng của góc nhìn.

Nhân vật Tôi trong Ký hay Tùy bút, là chính tác giả.

Cần phải lưu ý rắng, dù Tôi là chính tác giả, thì nhân vật “Tôi” cũng phải được xây dựng, nghĩa là có phẩm chất thẩm mỹ, và có nhiệm vụ góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng. Nếu không Tôi sẽ là nhân vật thừa. Chẳng hạn, tác giả qúa phô trương về mình, đưa “nguyên xi” con người xã hội của mình vào trang văn (không phải nhân vật thẩm mỹ), nhân vật Tôi ấy sẽ là phản cảm với người đọc

Cho nên, trong tác phẩm, tác giả thường ém mình đi.

            5.Góc trần thuật

Góc trần thuật là vị trí người trần thuật quan sát sự việc, anh ta thấy gì, cảm nghĩ gì và phản ứng thế nào khi thuật lại sự việc (thử so sánh với việc tường thuật bóng đá, người ta đặt máy quay ở nhiều góc khác nhau để biết chính xác đường bóng bay).

Sáng tạo nghệ thuật rất cần những góc nhìn riêng, bởi góc nhìn riêng giúp khám phá những vấn đề mà ở góc nhìn khác không thấy. Góc nhìn riêng cũng khám phá được vẻ đẹp riêng, tạo nên phong cách riêng. Với một nghệ sĩ nhiếp ảnh, góc nhìn có tính quyết định giá trị thẩm mỹ của bức ảnh chụp.

            Nói cho đúng, “góc trần thuật” chính là quan điểm, tư tưởng từ đó tác giả nhận thức hiện thực, giải quyết những vấn đề đã nhận thức.

Trong truyện Một người Hà Nội, nhân vật đồng chí Khải (cũng là tác giả Nguyễn Khải) đã đứng trên lập trường người lính thuộc giai cấp vô sản để nhận xét tính cách Tư sản của bà cô Hiền. Anh ta quyết không dính dáng gì với bà cô này.

Nguyễn Du kể chuyện Kiều dưới góc nhìn của thuyết “Tài mệnh tương đố”(tài và mệnh ghen ghét nhau, người có tài thì bị trời dày ải), từ đó ông dùng Thiên mệnh của Nho giáo, chữ Tâm của Phật giáo để giải quyết vấn đề.

            Gẫm hay muôn sự tại trời

            Trời kia đã bắt làm người có thân

Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao…

Đã mang lấy nghiệp vào thân

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa

Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài

 Góc trần thuật làm lộ ra tư tưởng, thái độ, tính cách của tác giả.

 Truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam là hiện thực được nhìn qua mắt của Liên, một đứa trẻ miền quê. Với góc nhỉn này, hiện thực chưa được khám phá ở những mâu thuẫn xã hội của cuộc đấu tranh giai cấp. Vì thế Hai đứa trẻ là một truyện lãng mạn

Chuyện của Chí Phèo (Nam Cao) được kể lại qua nhiều góc nhìn. Có khi là dân làng Vũ đại (đọan mở đầu và đoạn cuối, dân làng coi Chí chỉ là một tên lưu manh, tự kết liễu là đáng đời), có khi là Bá Kiến (khi chứng kiến cảnh Chí ăn vạ), khi là chính Thị Nở (Lúc nấu cháo hành cho Chí ăn) và Chí Phèo (lúc tỉnh rựơu)…Với nhiều góc nhìn, hiện thực hiện lên phong phú đồng thời tạo nên chất đa thanh trong giọng kể.

Những góc nhìn hẹp (con mắt bé bằng hạt đậu) không thể thấy được bầu trời cao rộng. Nguyễn Du là nhà thơ lớn vì có con mắt nhìn sáu cõi thế gian, có tấm lòng thấu suốt nghìn đời (nhận xét của Mộng Liên Đường chủ).

            6.Giọng trần thuật

Giọng trần thuật là giọng văn, giọng kể chuyện của tác giả (không phải giọng nói của nhân vật). Giọng trần thuật là một yếu tố tạo phong cách nghệ thuật. Một tác giả có giọng riêng, đó là dấu hiệu anh ta có phong cách.

Người đọc đã gặp giọng báng bổ của Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương; Giọng kiêu bạc của Nguyễn Tuân, giọng trữ tình tài hoa của Nguyễn Bính, Giọng đồng bằng Bắc bộ của Nam Cao, Kim Lân, Giọng lính của thơ Phạm Tiến Duật (Bài thơ về tiểu đội xe không kính), giọng Nam bộ của Nguyễn Thi, Nguyễn Ngọc Tư…

Giọng văn là kết quả sự phối hợp giữa dùng từ, dùng thành ngữ, sử dụng phối hợp âm vẩn Bằng/ Trắc, nhịp điệu, những thói quen diễn đạt, những tầng vỉa văn hóa chứa đựng ngôn ngữ và “cái tạng riêng” của người kể chuyện (ngôi trần thuật- cũng là tác giả).

Tác giả văn học cần có giọng riêng, giống như ca sĩ, mỗi ca sĩ phải có chất giọng riêng mới đứng được trong lòng khan giả

Giọng hồn hậu của Thạch Lam

Giọng lạnh lùng của Nam Cao

Giọng triết luận của Nguyễn Khải

Giọng đểu của Đỗ Kh.

Giọng lột trần trắng phớ của Nguyễn Huy Thiệp.

Nguyễn Huy Thiệp viết: “

“Nhìn vào danh sách hơn 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều chỉ là những người già nua không có khả năng, sáng tạo và hầu hết đều… “vô học”, tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào “cảm hứng” để tuỳ tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa, nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả. Giai thoại có một nhà thơ nói về tình cảnh thơ ở trong bài thơ sau đây (tôi đã đưa chuyện này vào trong tiểu thuyết của tôi vì nó quá hay) khá tiêu biểu cho thực tế đó: “Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ/ Hôm qua nó bảo: Dí thơ vào l…/ Vợ tôi nửa dại nửa khôn/ Hôm nay lại bảo: Dí l… vào thơ!”, tôi cũng không phủ nhận cảm tình của nhân dân đối với thơ nhưng quả thực trên thực tế cái danh nhà thơ là một thứ nhìn chung chỉ là nhăng nhít, hữu danh vô thực, chẳng ai muốn dây vào nó: nhà thơ đồng nghĩa với sự chập cheng, hâm hấp, quá khích, vớ vẩn, thậm chí còn lưu manh nữa.

        (Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn. 2004)

            Khi có nhiều giọng trần thuật xuất hiện, người ta gọi là giọng đa thanh. Thí dụ đoạn mở đầu truyện Chí Phèo. Nhân vật Chí Phèo vừa đi vừa chửi, người đọc nhận ra có nhiều người đối thọai với Chí, mặc dù lúc ấy chỉ có mình Chí vừa đi vừa chửi, không có ai là đối tượng trực tiếp của Chí.

            Rất dễ nhận thấy rằng, không phải người viết văn nào cũng có giọng riêng. Giọng văn cũng góp phần tạo hiệu ứng của diễn ngôn trong tác phẩm

            7.Nhân vật và Hình tượng nhân vật

            Nhân vật là yếu tố trung tâm của tác phẩm. Nhân vật thể hiện nội dung, chủ đề, tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Những tác phẩm lớn là tác phẩm xây dựng được hình tượng nhân vật lớn. Những nhân vật ấy, từ trang văn bước vào cuộc đời, đi trước nhân loại, soi tỏ lương tri thời đại. Có thể kể: Hamlet (trong kịch Hamlet của Shakespears), anh ta tay cầm cái hộp sọ, vừa đi vừa hỏi “Tồn tại hay không tồn tại, đó lả vấn đế!”; Jean Valjean (trong Những người khốn khổ của Victor Hugo) ăn cắp 5 ổ bánh mì cho cháu mà bị tù 19 năm khổ sai. Ra tù, anh ta ăn trộm đồ của nhà Giám mục Myriel, và bị cảnh sát bắt. Ngỡ phải tù mọt gong, trái lại, Valjean được Giám mục bỏ qua. Anh ta vừa đi vừa hỏi, đời là gì, anh ta là ai? Ông già Xantiago (Ông già và biển cả của E. Hemingway) sau khi kéo bô xương con cá kiếm lên bờ, ông vác cột buồm về lều, vừa đi vừa ngã. Người ta bảo, đó là hình ảnh Đức Giêsu vác thập giá. Ông già vác thập giá chính số phận mình…, Tú Bà, Sở Khanh (trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du) vẫn đang đầy dẫy trước mặt chúng ta trong xã hội hôm nay…

            Mỗi nhân vật đều có nguyên mẫu ngoài đời. Nhưng không được đồng nhất nhân vật văn học và nguyên mẫu. Bởi nguyên mẫu là con người xã hội, trái lại, nhân vật được khắc họa bằng hư cấu. Nhân vật mang tư tưởng-thẩm mỹ của tác giả. Thí dụ: nhân vật Từ Hải là mẫu người lý tưởng của Nguyễn Du.

            Nhân vật được khắc họa bằng lời nói, suy nghĩ, cảm xúc, hành động; bằng các mối quan hệ với nhân vật khác, trong những hoàn cảnh, tình huống khác. Mỗi nhân vật có một số phận trọn vẹn.

Xây dựng nhân vật, nhà văn phải tuân thủ các nguyên tắc của bút pháp. Nhân vật lãng mạn khác với nhân vật hiện thực. Thí dụ, nhân vật Hiện thực được xây dựng bằng điển hình hóa, trái lại, nhân vật Lãng mạn được xây dựng bằng những cá thể hóa, rất riêng. Bá Kiến (truyện Chí Phèo) là nhân vật điển hình cho bọn cường hào ở nông thôn xưa. Huấn Cao và Quan ngục trong Chữ người tử tù là những tính cách độc đáo.

Có 3 kiểu nhân vật tùy theo phương thức thể hiện: nhân vật trữ tình, nhân vật tự sựnhân vật kịch.

            Nhận vật trữ tình là nhân vật tâm trạng. Nhân vật này hiện diện trong thơ, trong Tùy bút. Nhân vật trữ tình không có chân dung, không có số phận, chỉ có một dòng tâm trạng trôi chảy (thí dụ: bài Qua Đèo Ngang là tâm trạng của Bà Huyện Thanh Quan, Tương tư của Nguyễn Bính, Vội vàng của Xuân Diệu).

Nhân vật tự sự là nhân vật trong truyện, ký. Nhân vật này có chân dung, có cuộc sống và số phận như một con người ngoài đời, chịu sự chi phối của cuộc sống. Nhân vật này vận động theo những quy luật của hiện thực (quy luật tâm lý, môi trường xã hội, đạo đức, tôn giáo, phong tục tập quán…).

Trong tiểu thuyết Một linh hồn, tác giả Thụy An khi xây dựng nhân vật “có đạo”, đã không theo những chuẩn mực luân lý Kitô giáo. Châu là con trong gia đình có đạo, nhưng anh ta lại bỏ Thanh lúc cô sắp sinh con để lấy cô gái con chủ đồn điền rồi đi học ở Pháp. Phủ Tịch có vợ ba con, vậy mà hắn định làm lễ cưới với Vân trong nhà thờ một cách rực rỡ. Di cũng là con nhà có đạo, “Thỉnh thoảng chàng lại tìm đến sự an ủi trong nhà thờ”, nhưng lại đi tìm gái lén lút ở bờ sông, và vô phúc cho Di, anh đã gặp mẹ con Vân. Riêng với Vân, trong lúc đau khổ, nàng hai lần định trầm mình dưới sông tự tử. Những hành vi như thế người theo Chúa không được phép làm [[1]]

            Mỗi thể loại, mỗi kiểu bút pháp lại có một kiểu nhân vật riêng: Thần thoại, Truyền thuyết, Cổ tích, Ngụ ngôn, Truyện cười; nhân vật của Tiểu thuyết Hiện thực, Tiểu thuyết Lãng mạn, truyện Truyền kỳ, Chủ nghĩa Hiện thực huyền ảo, Chủ nghĩa Hiện Sinh, Chủ nghĩa Siêu thực, chủ nghĩa Hậu hiện đại…

            Nhân vật của Kịchnhân vật hành động. Trên sân khấu, nhân vật kịch không thể ngồi suy tư. Kịch bản không thể miêu tả nội tâm nhân vật. Mỗi lời thoại của nhân vật đều hàm chứa hành động kịch.

            Thành bại của việc kiến tạo tác phẩm là ở khà năng khắc họa nhân vật của tác giả. Tiểu thuyết đương đại, Tiểu thuyết mới có khuynh hướng đưa nhân vật có thật ngoài xã hội vào tác phẩm. Cũng có kiểu nhân vật đám đông, nhân vật không tên, không chân dung.

            Hình tượng nhân vật.

            Khi nhân vật mang ý nghĩa tư tưởng- thẩm mỹ, nó trở thành hình tượng.

Hình ảnh Gióng trong truyện Thánh Gióng là đứa trẻ lên 3, vươn vai thành tráng sĩ, cưỡi ngựa sắt ra trận đánh tan giặc Ân. Gióng lên núi Sóc sơn và bay về trời. Hình ảnh Gióng trở thành biểu tượng cho sức mạnh của lòng yêu nước, của Chủ nghĩa yêu nước anh hùng của dân tộc Việt. Gióng trở thành một hình tượng. Gióng về trời là về với mẹ Âu Cơ, khác với An Dương Vương xuống biển là về với cha (Lạc Long Quân ở dưới biển).

            8.Chủ đề

            Chủ đề là vấn đề tác giả đặt ra qua câu truyện kể.

Những tác phẩm hay thường có chủ đề sâu kín.

Một tác phẩm không chỉ có một chủ đề. Thí dụ: Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu có 3 chủ đề. Truyện Phùng đi chụp ảnh có một chủ đề. Truyện người đàn bà bị bạo hành có một chủ đề. Hai câu truyện ấy hợp lại tạo nên chủ đề thứ ba “Chiếc thuyền ngoài xa”.

Thực ra, không dễ nắm bắt được chủ đề nếu không đọc kỹ tác phẩm. Thí dụ truyện Em bé làm luận, Linh nghiệm (của Trần Huy Quang. 1992), Bóng anh hùng (của Doãn Dũng 2009),

Chủ đề nằm ở nhan đề truyện: Đôi mắt, Chiếc thuyền ngoài xa

Chủ đề do nhân vật thể hiện. Nhân vật Chí Phèo, nhân vật Thúy Kiều.

Chủ đề con do cấu trúc truyện tạo ra. Thí dụ: cấu trúc của Đoạn trường tân thanh

Chủ đề còn nằm trong lời bình ngoại đề

            Đọc truyện nếu không nắm được chủ đề thì chưa phải là đọc truyện, mới chỉ đọc được nội dung câu chuyện.

            Viết truyện cần phải xác lập rõ chủ đề, bởi vì chủ đề dẫn dắt mọi yếu tố kiến tạo tác phẩm

9.Tư tưởng

            Nói tư tưởng của tác phẩm thì cần xác định đó là tư tưởng toát ra từ hình tượng, cấu trúc và nghệ thuật kiến tạo tác phẩm hay là tư tưởng của tác giả thể hiện trong tác phẩm?

            Tác giả-con người xã hội và tư tưởng xã hội của anh ta không phải là tư tưởng của tác phẩm, dù có chi phối việc kiến tạo tác phẩm. Điều cần xem xét là tư tưởng của tác phẩm, tức là tư tưởng toát ra từ hình tượng nghệ thuật, từ cấu trúc đến nghệ thuật kiến tạo tác phẩm. Bởi tác phẩm là một cấu trúc nghệ thuật biệt lập với tác giả, bản thân cấu trúc của tác phẩm có ý nghĩa riêng, có khi không đồng nhất với ý nghĩa mà tác giả muốn chuyển tải trong tác phẩm và sẽ có khoảng cách rất xa với sự tiếp nhận của người đọc.

            Hãy xem xét vài thí dụ

            1.Truyện Chí Phèo kể lại số phận của nhân vật Chí Phèo (nội dung). Chí là đứa trẻ không cha mẹ ở làng Vũ Đại, người ta lượm được bên cái lò gạch bỏ không. Lớn lên, Chí làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Chí bị Bá Kiến vô cớ cho đi ở tù. Ra tù, Chí tìm Bá kiến trả thù. Chí giết được Bá Kiến. Nhưng không thể làm người lương thiện, Chí tực sát. Thị Nở là người đàn bà bị Chí hiếp trong một đêm trăng. Khi Chí chết, “thị nhìn trộm bà cô rồi nhìn nhanh xuống bụng: – Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào? Ðột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua…”

            Tư tưởng chính của Nam Cao thể hiện trong tác phẩm là chủ nghĩa nhân đạo. Nam Cao đứng về phía người bị áp bức mà lên tiếng đòi quyền sống lương thiện cho họ. Trước khi giết Bá Kiến, Chí khẳng định: “Tao muốn làm người lương thiện”… “- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”

            Nhưng tư tưởng toát ra từ cấu trúc vòng tròn của tác phẩm (mở đầu truyện là cái lò gạch bỏ không với Chí Phèo cha-Kết thúc truyện cũng là cái lò gạch bỏ không và có thể là một Chí Phèo con) chứa đựng một ý nghĩa tư tưởng khác. Cuộc đấu tranh của người nông dân với cường hào ở nông thôn mãi mãi bế tắc. Bá Kiến chết, Chí Phèo chết  tiếp nối sẽ là con Bá Kiến và Chí Phèo con. “tre già măng mọc”. Đó là cái nhìn theo triết lý duy tâm cũ, triết lý tuần hoàn như: một năm có 4 mùa xuân, hạ, thu, đông; đời người trải qua sinh, lão, bịnh, tử.

            2. Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) của Nguyễn Du

            Truyện có cấu trúc 3 phần:

            Phần I (8 câu thơ): Nguyên Du nêu luận đề: “Tài Mệnh tương đố”:

Trăm năm trong cõi người ta, 
             Chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét nhau
.” 

            Phần II (từ câu 9 đến câu 3240): Kể chuyện cuộc đời của Thúy Kiều, Nguyễn Du chứng minh cho luận đề “Tài Mệnh tương đố”.

            Phần III (14 câu): Nguyễn Dư nêu giải pháp hóa giải số mệnh:

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài”.

            Như vậy tư tưởng của Nguyễn Du trong Đoạn trường tân thanh là tư tưởng của Phật giáo. Toàn bộ tư tưởng Phật giáo quy về chữ Tâm. Một bài kệ viết: “Tâm tức Phật/ Phật tức tâm/ Tức tâm tức Phật/ Thời thời như vậy”. Giải pháp của Nguyễn Du là dùng chữ Tâm để xóa NghiệpMệnh. Tiếc thay, trong tác phẩm, Kiều đi tu nhiều lần nhưng đời nàng vẫn khổ.

            Đoạn trường tân thanh (với cấu trúc và hệ thống và hình tượng nghệ thuật) có ý nghĩa tư tưởng khác: Kiều khổ vì sống trong một xã hội đầy dẫy bọn buôn thịt bán người, bọn đầu trâu mặt ngựa. Bước ra khỏi cửa, Kiều lọt vào lầu xanh, “Thoắt buôn về thoắt bán đi/ Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Quan lại, từ tên quan mặt sắt đen sì (câu 1409) đến Hồ Tôn Hiến trọng thần (câu 2451) đều là bọn vô lại. Trong xã hội đó, đồng tiền quyết định vận mệnh con người. Từ góc nhìn đó, hiện lên tình cảm nhân đạo của Nguyễn Du. Và Nguyên Du được đề cao là nhà thơ nhân đạo chủ nghĩa: Mộng Liên Đường chủ nhân (1820) nhận xét: “…Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột… Tố Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trong thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ sut cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy(bản dịch của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim). 

Đau đớn thay, phận đàn bà! 
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

            (Câu 83-84-Đoạn trường tân thanh)

Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu? 

                                    (Câu 115-116-Văn tế thập loại chúng sinh-Nguyễn Du)

            Như vậy chính tư tưởng của tác phẩm làm nên giá trị tác phẩm. Một tác phẩm lớn phải là tác phẩm có tư tưởng lớn. Ông già và biển cả (The Old Man anh The Sea) của E. Hemingway là tiểu thuyết có nội dung hết sức đơn giản nhưng là một tác phẩm lớn. Ông già Xantiago đánh cá ba ngày lênh đên trên biển. Sau những bầm giập, ông trở về với bộ xương của con cá kiếm. Ông kéo bộ xương cá lên bờ và vác cột buồm về lều. Có lúc ông đã vấp ngã. Tư tưởng của tác phẩm là: Biển cả càng bao la kỳ vĩ bao nhiêu thì Con Người (ông già) càng kỳ vĩ bấy nhiêu. Bằng sức mạnh của chính mình, Con Người chiến thắng mọi trở ngại (như biển), đạt được những ước mơ (ông gìa ước mơ đánh bắt được con cá lớn).

            Ngoại trừ Nguyễn Du, Cao Bá Quat, các nhà văn Việt Nam không viết được kiểu tác phẩm tư tưởng như F.Kafka; J.P.Sartre; A.Camus…

            Những dụ ngôn Đức Giêsu kể trong Kinh thánh không chỉ là những truyện ngắn hay về tư tưởng (tư tưởng Nhân văn Ki tô giáo) mà còn có ý nghĩa tâm linh.

            Xin đọc: Dụ ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó (Luca 19, 19-31)

“Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.

“Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!

“Ông Áp-ra-ham đáp: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được”.

Ông nhà giàu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này !”

Ông Áp-ra-ham đáp: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. Ông nhà giàu nói: “Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối”.

Ông Áp-ra-ham đáp: “Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin”.

            Người có đức tin Kitô giáo, nghe dụ ngôn này, sẽ thức tỉnh tâm linh, và tự hỏi lại linh hồn mình, tự xét lại ý nghĩa của cuộc sống trần thế của chính mình, từ đó xác tín những gì Kinh thánh đã dạy..

            10. Bút pháp

                        Bút pháp nghệ thuật” là một thuật ngữ mà nội hàm chưa được xác định một cách khoa học. Người ta nói đến “bút pháp tả thực”, “bút pháp tượng trưng”, “bút pháp ước lệ”, “bút pháp phúng dụ, huyền thoại”, “bút pháp trào lộng, giễu nhại”…[[2]]. Đã có sự nhầm lẫn giữa bút phápthủ pháp nghệ thuật trong những cách gọi như vậy. Chẳng hạn, bút pháp ước lệ là bút pháp đặc trưng của văn học trung đại, bút pháp tả thực là cách viết đặc trưng của Chủ nghĩa hiện thực, nhưng “trào lộng, giễu nhại” chỉ là thủ pháp gây cười. Thủ pháp này được dùng trong nhiều kiểu loại văn học. Thí dụ, trong Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng, một tác phẩm Hiện thực phê phán. Giếu nhại là một thủ pháp có tính đặc trưng của Hậu Hiện đại.

            Bút pháp là những nguyên tắc người viết phải tuân thủ khi kiến tạo tác phẩm theo một lý thuyết văn học (…Ism) nào đó: chẳng hạn, Chủ nghĩa Ấn tượng (Impressionism)

Chủ nghĩa Lãng mạn (Romanticism), Chủ nghĩa Hiện thực phê phán (Critical Realism), Chủ nghĩa Siêu thực (Surrealism), chủ nghĩa Hậu Hiện đại (Postmodernism)

Chủ nghĩa Lãng mạn đề cao cái riêng, vượt lên trên cái đời thường. Tác phẩm Lãng mạn thường vắng bóng đời sống hiện thực (xin đọc: Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử, Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư…). Bút pháp lãng mạn lấy Cái Tôi cá nhân chủ quan làm trung tâm, miêu tả thiên nhiên mỹ lệ và để tình cảm chảy tràn trên trang văn.

            “Gió mưa là bệnh của giời

            Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”

                        (Tương tư-Nguyễn Bính)

Trong bài Tương tư, “Tôi” sánh với “giời”. Chỉ có tâm trạng của Tôi, hờn trách, hòai vọng rồi tuyệt vọng trong tình yêu, hoàn toàn vắng bóng xã hội Việt Nam giai đoạn 1930-1945.

Bút pháp tả thực của Chủ nghĩa Hiện thực, Chủ nghĩa Hiện thực Phê Phán hay Chủ nghĩa Hiện thực xã hội Chủ nghĩa yêu cầu miêu tả chân thực hiện thực thông qua điển hình hóa. Hiện thực thường xô bồ, phức tạp và mâu thuẫn. Nhà văn chọn những hoàn cảnh điển hình, những nhân vật điển hình, những tính cách điển hình để phản ánh hiện thực ấy. Nhân vật Chị Dậu (Tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố) là điển hình cho người phụ nữ nông thôn Việt Nam trước 1945. Nhân vật Chị Út Tịch (truyện ký Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi) là điển hình cho người phụ nữ Việt Nam thời đánh Mỹ…

Chủ nghĩa Siêu thực (surréalisme) do André Breton khởi xướng 1924 [[3]] muốn kết hợp “giấc mơ và hiện thực, thành một dạng hiện thực tuyệt đối là siêu thực”. Chủ nghĩa Siêu thực phủ định tính logic của lý trí, đề cao giấc mơ, sự huyền ảo, ngẫu nhiên… vì thế nếu dùng logic lý trí để đọc một tác phẩm Siêu thực, người đọc sẽ thất bại (xem tranh Sleeping của Salvador Dali)

tiếng ghi-ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi-ta ròng ròng
máu chảy

không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng

            (trích-Đàn ghita của Lorca-Thơ Thanh Thảo)

(Sleeping-tranh Siêu thực của Dali)

Bút pháp ước lệ, tượng trưng là bút pháp chính của văn học trung đại.

Nguyễn Trãi nói về sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn:

            Đánh một trận sạch không kình ngạc

            Đánh hai trận tan tác chim muông

            Cơn gió to quét sạch lá khô

            Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ

                        (Bình Ngô đại cáo)

Nguyễn Trãi đã dùng một loạt hình ảnh tượng trưng trong đọan trích trên.

Thí dụ, Nguyễn Du tả Từ Hải:

Râu hùm, hàm én mày ngài,

Vai năm thước rộng, thân mười thước cao”,

Đó không phải là hình ảnh tả thực của Từ Hải. Chẳng lẽ râu Từ Hải lại tua tủa như râu con cọp (râu hùm). Trong văn chương cổ, con hùm (con cọp) là biểu tượng cho người anh hùng, con rồng biểu tượng cho vua. Nói “râu hùm” là nói Từ Hải là người anh hùng.

Thủ pháp là những biện pháp nghệ thuật cụ thể trong miêu tả, khắc họa bối cảnh, chân dung nhân vật và trong mục đích diễn ngôn. Thí dụ “cường điệu” là một thủ pháp gây cười

Lỗ mũi em những tám gánh lông

Chồng yêu chồn bảo tơ hồng trời cho

            (Ca dao)

Nam Cao dùng thủ pháp cường điệu trong việc dùng từ kết hợp với biện pháp so sánh tăng cấp để khắc họa nhân vật Lang Rận:

“Anh chàng có cái mặt trông dơ dáng thật. Mặt gì mà nặng chình chĩnh như mặt người phù, da như da con tằm bủng, lại lấm tấm đầy những tàn nhang. Cái trán ngắn ngủn, ngắn ngùn, lại gồ lên. Đôi mắt thì híp lại như mắt lợn sề. Môi rất nở cong lên, bịt gần hai cái lỗ mũi con con, khiến anh ta thở khò khè. Nhưng cũng chưa tệ bằng cái lúc anh cười. Bởi vì lúc anh cười thì cái trán chau chau, đôi mắt đã híp lại híp thêm, hai mí gần như dính tịt lại với nhau, môi càng lớn thêm lên, mà tiếng cười, toàn bằng hơi thở, thoát ra khìn khịt. Trời đất ơi! Cái mặt ấy, dẫu cho mỗi ngày rửa ba lượt xà phòng, bà cựu trông thấy vẫn còn buồn mửa. Huống chi anh chàng lại bẩn gớm, bẩn ghê. Có lẽ mỗi buổi sáng ra cầu ao, anh ta chỉ nhúng mấy ngón tay, rửa độc một tí đầu mũi mà thôi”.

            Nguyễn Ái Quốc dùng thủ pháp “gậy ông đập lưng ông” trong truyện ngắn Vi hành.

            Khi viết cũng như khi đọc, việc nhận dạng bút pháp và thủ pháp của tác giả là điều cần yếu. Không thể dùng cách đọc một tác phẩm Hiện thực để đọc một tác phẩm được viết bằng bút pháp Lãng mạn. Thí dụ, không thể đọc Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân như đọc Chí Phèo của Nam Cao.

            Xin dẫn một chi tiết: “Sáu phạm nhân mang chung một chiếc gông dài tám thước. Cái thang dài ấy đặt ngang trên sáu bộ vai gầy. Cái thang gỗ lim nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn, nếu đem bắt lên mỏ cân, có thể nặng đến bảy tám tạ. Thật là một cái gông xứng đáng với tội án sáu người tử tù” (Chữ người tử tù).

Nếu giải thích đọan văn trên bằng cách viết hiện thực, thì làm sao 6 phạm nhân có thể mang chung một cái thang gông nặng đến bảy, tám tạ? nghĩa là mỗi người mang trên vai hơn một tạ!

            11.Phong cách nghệ thuật

            Phong cách nghệ thuật là một phậm trù không dễ xác định tường minh. Phong cách bao gồm những đặc điểm sáng tạo xuất hiện bền vững, lộ ra bên, ngoài giúp người đọc có thể nhận dạng được khuôn mặt một tác giả văn học. Những đặc điểm này có cả trong nội dung và hình thức

            Thí dụ trong kiến trúc: nhà thơ Công giáo thường có tháp chuông vươn cao. Nhà chùa phương đông có mái cong. Đền thờ Hồi giáo có những đỉnh bầu tròn.

            Đọc văn thơ ta có thể nhân ra ngay khuôn mặt tác giả: Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Nam Cao, Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Huy Thiệp,… mỗi tác giả có phong cách riêng

            Không phải tác giả nào cũng có phong cách.

            Có phong cách tác phẩm, phong cách tác giả và phong cách thời đại.

            12.Bí mật của sự sáng tạo

            Nội dung của một tác phẩm tiêu tốn rất nhiều vốn sống của nhà văn, nhất là những bộ tiểu thuyết sử thi. Chỉ những nhà văn trải nghiệm sâu sắc với cuộc đời mới có thể viết tác phẩm lớn. Nguyễn Trãi phải trải qua 10 năm nằm gai nếm mật cùng Lê Lợi mới viết được Bình Ngô đại cáo; Nguyễn Du phải qua 10 năm lưu lạc gió bụi (thập tải phong trần), phải trải qua những biến động lớn của lịch sử mới viết được Đọan trường tân thanh

            Vốn sống chưa đủ làm nên tác phẩm, nhà văn còn cần vốn văn hóa, lịch sử và những hiểu biết nhiều mặt xã hội mới giúp cho tác phẩm tiếp cận được với đời sống. Hội Nhà văn thường cho hội viên đi thực tế để có vốn sáng tác là vì vậy. Muốn viết về Lê Lợi, nhất định phải đến Lam Kinh (Thanh Hóa), cũng vậy muốn viết về Hồ Quy Ly người viết phải đến Thành Nhà Hồ (Thanh Hóa).

            Để viết tác phẩm, nhà văn phải đi tìm nhân vật, tìm những câu chuyện, tìm những vấn đề. Tất nhiên phải có tài quan sát để nhận ra những người mình đã gặp ai có phẩm chất của một nhân vật văn học? Phải nghiền ngẫm xem vấn đề nào là vấn đề cả xã hội quan tâm và có giá trị lâu dài. Tất nhiên những vấn đề thời sự là đối tượng của báo chí, nhà văn không thể chạy theo thời sự. Và khó nhất là để viết một tác phẩm tư tưởng. Văn chương Việt Nam thiếu kiểu loại tác phẩm tư tưởng.

            Nhà văn cần có sự dũng cảm, sự say mê, tài năng và “cái thời” của mình. Khi tác phẩm được in ra, liệu mình có thể chịu đựng được gạch đá của dư luận, chịu được những áp lực chính trị? Chẳng hạn, Nguyễn Mạnh Tuấn “lên bờ xuống ruộng” vì in Cù lao Chàm (1984), Nguyễn Ngọc Tư chịu khổ sở vì Cánh đồng bất tận (2005), Năm 2000, Bùi Ngọc Tấn in Chuyện kể năm 2000. Sáchbị thu hồi và tiêu hủy. Bảo Ninh in Nỗi buồn chiến tranh, sáchbị cấm từ năm 1993 đến 2005. Đến năm 2006 mới được phép xuất bản trở lại …).

Không có tài, không có thời, thiếu say mê, thiếu sự dũng cảm thì không thể làm nhà văn. Mà “tài” và “thời” là do trời cho, không phải ai cũng có khả năng thiên phú. Nguyễn Du đã phát hiện ra quy luật: “Tài mệnh tương đố”, “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Rất nhiều nhà văn đã phải chịu một định mệnh oan khiên. Cao Bá Quát từng bị tru di tam tộc. Các nhà thơ Phan Khôi, Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm từng bị án trong vụ Nhân Văn giai phẩm (1955-1958)…

Nguyễn Huy Thiệp viết: “Viết ra được một tác phẩm không dễ. Viết hay thì lại càng khó. Nghề văn trong thời hiện tại là một nghề khó vào bậc nhất. Khi Internet phát triển, tác giả không thể tưởng tượng, “lừa bịp” hoặc “sáng tác” được. Thông tin để xử lý, cung cấp cho các chi tiết sự kiện văn học có quá nhiều. Nhà văn bắt buộc phải trở thành một nhà văn hóa, một nhà nghiên cứu…”(Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn).

Kết luận 2: Tác phẩm văn chương là một cấu trúc tư tưởng-thẩm mỹ. Mọi yếu tố của cấu trúc liên kết nhau trong một hệ thống nội tại (liên kết nhau theo kiểu tư duy nghệ thuật, liên kết để thể hiện chủ đề, liên kết trong trường tư tưởng…) và mọi liên kết đều có giá trị tạo nghĩa. Cũng phải chú ý tương quan tác phẩm với tác giả, với người đọc và thời đại sản sinh ra tác phẩm. 4 đối tượng này lại chi phối lẫn nhau. Đọc và viết một tác phẩm văn chương cần phải thâm nhập cho được thế giới tư tưởng-thẩm mỹ của tác phẩm. Điều này không dễ dàng khi người đọc đối diện với những tác phẩm lớn, những kiểu tư duy mới lạ và những kiểu cấu trúc chưa từng có trước đó.

***

(MỜI ĐỌC TIẾP PHẦN III)

Chuyên luận này có 3 phần, bạn có thể tải về bản full để đọc theo link:

(còn tiếp)Mời đọc ĐỌC, VIẾT & PHÊ BÌNH VĂN CHƯƠNG (Phần I)


[1] Bùi Công Thuấn-Đọc lại tiểu thuyết Một linh hồn của Thụy An

  Nguồn: Bùi Công Thuấn-Văn học Công giáo Việt Nam đương đại. Nxb HNV 2022.

[2] Mai Hải Oanh-Sự đa dạng về bút pháp nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới

[3] André Breton-Tuyên ngôn thứ nhất của Chủ nghĩa Siêu thực

http://triethoc.edu.vn/vi/chuyen-de-triet-hoc/triet-hoc-nghe-thuat/tuyen-ngon-thu-nhat-cua-chu-nghia-sieu-thuc_355.html