10 KHUÔN MẶT “THI CA CẦU NGUYỆN”-Phần II

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK: buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

10 KHUÔN MẶT “THI CA CẦU NGUYỆN

PHẦN II. THƠ CỦA NT BÍCH NGỌC, TỪ THANH HÀ, THANH HƯƠNG,

HAI TÊ MIỆT VƯỜN, NGÒI BÚT NHỎ

Bùi Công Thuấn

***

Tôi đã đọc hơn 60 tác giả xuất hiện trên các số Thi Ca Cầu Nguyện, trong các tác giả ấy, thơ Sơn Ca Linh và thơ Cao Danh Viện tôi đã có bài viết riêng [[1]]. Trong bài viết này, tôi tập trung viết về 10 khuôn mặt thơ của Thi Ca Cầu Nguyện (chọn tình cờ) để khảo sát về các khuynh hướng của thơ ca Công giáo đương đại. Dù 10 khuôn mặt thơ được chọn không phản ánh đầy đủ phong trào làm thơ Công giáo trong cả nước, nhưng trong quá trình hơn 10 năm sáng tác của CLB Thi Ca Cầu Nguyện, người đọc có thể nhìn thấy những xu hướng thơ Công giáo đáng quan tâm.

6.THƠ CỦA Nt BÍCH NGỌC

Thơ Bích Ngọc chủ yếu là thơ suy niệm: Mỗi bài thơ đều chọn một câu Kinh Thánh làm đề từ  rồi từ đó tác giả suy diễn các ý nghĩa của câu kinh thánh ấy, có bài tổng hợp thêm ý nghĩa từ những nguồn Kinh thánh khác để phục vụ chủ đề. Sau khi suy niệm ý nghĩa, tác giả thường rút ra ý nghĩa hành động cho đời tu của mình. Thể thơ duy nhất được dùng để viết suy niệm là Song thất lục bát. Cấu trúc chính để trình bày suy nhiệm là dẫn Kinh thánh, sau đó trình bày ý nghĩa. Kết bài là rút ra bài học đức tin. Ngôn ngữ thơ có chọn lọc. Cách gieo vần, tính nhạc của thơ được bảo đảm.

Sự thuyết phục của thơ suy niệm là sự khám phá những ý nghĩa sâu sắc của Kinh thánh và lòng chân thành của tác giả. Thơ Bích Ngọc có nhiều bài, nội dung vẫn là những tín niệm cũ, ngôn ngữ cũ, suy niệm cũ, đôi khi những suy niệm chưa sâu sắc về thần học, có rất ít những khám phá mới mẽ về ý nghĩa Kinh thánh từ chiêm nghiệm của chính bản thân tác giả..

Đây là những chủ đề suy niệm (Tên bài thơ và câu Kinh thánh làm đề từ):

Thiên Chúa tình yêu

Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3, 16)

Thần lương no thỏa

Thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống” (Ga 6, 55)

Hiến dâng phụng sự

Chính anh em hãy cho họ ăn“(Lc 9, 13)

Bài này suy niệm từ phép lạ 5 chiếc bánh và 2 con cá

Ngôi Ba Thiên Chúa Huyền siêu

                        Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha” (Ga 20, 22)

Đến với muôn dân:“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20)

Hiệp thông với Chúa: Để họ được nên một như chúng ta là một” (Ga 17,22)

Tuân giữ lời Chúa:Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.” (Ga,14,23)

Con đường Giê su:Thầy là Đường, là Sự thật và là Sự sống” (Ga 14, 6)

Cánh cửa Giê su: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10, 9)

Đoàn chiên Chúa:“Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi thì lớn hơn tất cả.” (Ga 10,29a)

Vui mừng vì thấy Chúa:“Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”Ga 20, 20)

Xin đọc một bài tiêu biểu về cách triển khai suy niệm của Bích Ngọc trong một bài thơ:

MỤC TỬ NHÂN LÀNH

“Tôi chính là Mục tử nhân lành”(Ga 10,11).

Đức Giêsu chính là Mục tử

Đưa đàn chiên lữ thứ đến nơi

Quê hương vĩnh cửu Nước Trời

Đồng xanh suối mát ngọt Lời Thánh ân

Chúa tự hiến ân cần chăm sóc

Từng con chiên bảo bọc dắt dìu

Chiên mang thương tích quạnh hiu

Máu Người thanh tẩy sớm chiều chở che

Chúa đã nói chiên nghe tiếng Chủ

Dặn lòng con quyến rũ xem thường

Chỉ nghe tiếng gọi yêu thương

Của người Mục tử trên đường tìm con

Chúa thấu suốt từng con chiên nhỏ

Như mẹ hiền biết rõ con thơ

Nhu cầu cuộc sống ước mơ

Linh hồn thể xác cậy nhờ Chúa ban

Chúa là cửa tuôn tràn sự sống

Mở chân trời hy vọng vô biên

Giêsu Mục tử dịu hiền

Phục sinh giải thoát đàn chiên của Người

Chúa là cửa cho con ẩn náu

Người bảo vệ chiến đấu vì con

Làm Chiên hy tế vẹn tròn                                   

Ý Cha vâng phục sắt son tấc lòng

Chiên tản mác cánh đồng nhân thế

Người kiếm tìm bồng bế trên tay

Yêu thương chăm sóc từng ngày

Đàn chiên hiệp nhất sum vầy mến thương.

Nt. Bích Ngọc

            Là một nữ tu, Bích Ngọc nói nhiều đến sự chọn lựa đời tu của mình:

MÔN ĐỆ CHÚA

“Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10, 37).

Trên trần thế nghĩa tình cha mẹ

Thật thiêng liêng trời bể sánh tày

Nhưng yêu cha mẹ hơn Thầy

Thì không xứng đáng với Thầy Giêsu

Môn đệ Chúa khước từ toan tính

Phải yêu Người hơn chính bản thân

Giêsu Thánh Giá chọn phần

Vì yêu đinh đóng nhục nhằn cô liêu 

Môn đệ Chúa tim yêu mở rộng

Cho nhân gian cuộc sống chan hòa

Chân thành tình mến bao la

Yêu thương: đồng phục Nước Cha thế trần

Kẻ bé mọn hiện thân của Chúa

Hãy trao ban chan chứa tình thân

Như ly nước lã hồng ân

Sẽ mang phần thưởng muôn phần mai sau

Ai tiếp đón những người nhỏ bé

Bị cộng đồng khinh rẻ bỏ rơi

Chính là tiếp đón Ngôi Lời

Đấng luôn hiện diện trong người anh em

Môn đệ Chúa ca khen yêu mến

Đức Giêsu đã đến truyền ban

Yêu thương phủ khắp nhân gian

Ngày mai Thiên quốc vô vàn triều thiên

Môn đệ Chúa, con xin dâng hiến

Mạng sống này tận hiến dâng Cha

Yêu thương phụng sự thiết tha

Noi gương theo Chúa chính là Tình Yêu

Nt. Bích Ngọc

            Nhìn vào những bài thơ trên, người đọc nhận ra ngay thơ Bích Ngọc hoàn toàn vắng bóng đời sống hiện thực. Ngoài kia có bao nhiêu vấn đề người giáo dân đang phải đối mặt, có bao nhiêu thảm cảnh đáng xót thương. Sự dữ, cái ác và sự bất công thống trị một cách tàn bạo. Con người bị dìm trong hố sâu tội lỗi. Thơ Bích Ngọc không quan tâm đến những vấn đề ấy. Bích Ngọc mới tiếp cận điều luật thứ nhất là “Mến Chúa” mà chưa thực hiện điều luật thứ hai là “Yêu người”. (Lưu ý rằng, “làm thơ” không chỉ là cầu nguyện mà còn là hành động).

Ngày xưa, Đức Giêsu đến với mọi kiếp người, lắng nghe tiếng kêu đau khổ của muôn dân, và hành động cụ thể để cứu giúp họ, đem đến Tin Mừng cứu rỗi cho họ. Bởi vì, Người nói: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.”(Mc 10, 45)

Tiếng thơ Công giáo phải là tấm lòng và hành động của người Samari nhân hậu (Lc 10, 29-37) mà Đức Giêsu đã dạy. Người còn nói rõ trong ngày cánh chung: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.”(Mt 25, 45).Vì thế tác giả thơ Công giáo cần viết về những con người bất hạnh với tấm lòng “yêu người”, bởi họ là hiện thân của Chúa trong hoàn cảnh cụ thể. Điều này thơ ca Công giáo còn hạn chế.

7. THƠ CỦA TỪ THANH HÀ

            Từ Thanh Hà có cách nói bộc trực, miễn là diễn được ý. Ngôn ngữ thơ Từ Thanh Hà là ngôn ngữ thông tin, không phải ngôn ngữ nghệ thuật. Ý, tứ, lời, nội dung thể hiện cách cảm cách nghĩ của người bình dân: chân thành và thuần thục những gì mà một giáo dân đã được giáo huấn từ nhỏ. Không có khám phá sáng tạo gì về những đề tài mình viết, cũng không đem vào thơ những trải nghiệm đức tin của bản thân, thành ra thơ Từ Thanh Hà rất cũ, trăm bài cũng chỉ nhắc lại bấy nhiêu ý tứ đã thành công thức. Nhiều khi cách diễn đạt “nôm na”(dùng khẩu ngữ) làm nản lòng người đọc.

            Đây là khổ thơ viết về Thánh Thể

            Không men tấm bánh, rượu nho kia

Đã hóa nhục thân Chúa đầm đìa…

Hầu cứu muôn người xa ách tội

Vậy mời nhau đến để chung chia

                        (Ôi nhiệm mầu!-TCCN 318)

            Đây là cảnh đón tiếp Chúa xuân

Rắn hổ phun hơi gây tội ác

Ngựa ô tung vó trải Tin Mừng

Khắp nhân gian nhộn nhịp kết hoa trưng

Để chào đón Chúa Xuân đang ngự đến

            (Chúa xuân đang đết-TCCN 308)

            Đây là lời nhắc nhở mọi người

Tự tại an nhiên thế đủ rồi,

Chúa cho chừng nớ hưởng vầy thôi,

Bon chen càng lắm càng thêm rối,

Mêt sức, chưa xong hỏng cái tôi.

Tính kỷ đi nhe đừng để lỡ,

Cánh chung ập tới tất tiêu đời

Vậy nên tìm sống bằng Lời Chúa ,

Có đúng vậy không chư vị ơi ?

                                    (Đừng để lỡ-TCCN 309)

Và nay như thế đã Mồng Ba,

Cục tác mò ăn của mợ Gà,

Xin Chúa quan phòng và chúc phúc,

Hầu cho mọi sự được thăng hoa.

Mọi người vui vẻ bắt tay vào,

Công việc nhỏ to cũng chẳng sao

Tất cả lao công vì Đức Chúa

Để rồi Ngài thưởng cỗ mâm cao

(Kinh sáng-TCCN 309)

            Trong nhiều bài thơ, Từ Thanh Hà cũng suy niệm Kinh Thánh, nhưng không bám sát văn bản Kinh Thánh, mà chỉ nhắc lại thấp thoáng những gì minh nhớ. Có khi thoát ly hoàn toàn chủ đề đọan Kinh thánh. Xin đọc:

LÀ MỘT…

Mt 28, 16-20

Cha, Con và Thánh Thần là Một

Chung tạo dựng trái đất bầu trời

Cùng muôn sinh vật khắp nơi

Gồm luôn tất cả con người chúng ta.

Từ cảnh vật bao la hùng vĩ

Đến tinh cầu tỷ tỷ sáng soi

Thú, cầm phân loại rạch ròi

Rồi nào cây cỏ muôn loài tươi xinh

Hoa rực nở khoe hình dưới nắng

Tất cả, Người ban tặng cho ta

Thế nên cần phải nhận ra

Phải tri ân mãi, tụng ca đời đời

Trong ân sủng Ba Ngôi cực thánh

Ban cho ta sức mạnh dấn thân

Tin Mừng rao giảng cho dân

Đây là cùng đích, điềm cần chăm lo

Vậy phải sống sao cho thanh khiết

Những xấu xa nên biết từ ngày

Phù vân chớ để lấm tay

Thiên đàng hạnh phúc hăng say kiếm tìm.

         Từ Thanh Hà. 26-5-2015-(TCCN 221)

            Bài thơ tập trung nói về Chúa Ba Ngôi, không liên quan gì đến đọạn Kinh thánh (Mt 28, 16-20) được lấy làm cảm hứng. Đoạn Kinh thánh tập trung vào việc Chúa truyền cho môn đệ đi rao giảng Tin Mừng:

“Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 16-20).

Có lẽ trong đoạn Kinh thánh (Mt 28, 16-20) có nói đến Ba Ngôi: “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” nên tác giả làm thơ bám vào đấy để “tán” (suy niệm) chăng, nếu vậy, Từ Thanh Hà tỏ ra không hiểu rõ chủ đề đoạn Kinh thánh nói gì.

Bài thơ sau đây cũng suy niệm Kinh thánh (Ga 4, 5-42) nhưng người làm thơ trình thuật Kinh thánh không đầu không đuôi, chỉ ghi một câu: “Xin cho tôi nước ấy/ để được sống đời”:

NƯỚC HẰNG SỐNG

    (CN 3 MC – Ga 4, 5-42)

“Xin cho tôi nước ấy

Để được sống đời”

Như lời Ngài đã phán

Xin quảng đại Chúa ơi !

Cha ông tôi đã chết

Dù đã uống nước này

Vậy xin Ngài rộng tay

Cho chúng con được sống !

Chúng con đầy tội lỗi

Muốn được sống an hòa

Và được ơn thứ tha

Những chi đà trót phạm.

Nguồn nước thật cao siêu

Chảy đúng ba giờ chiều

Ấy là ngày thứ sáu

Chúa đã chết vì yêu

Vì yêu Chúa hiến mình

Thành của lễ hi sinh

Hiến tế trên thập giá

Chúc tụng Chúa quang vinh!

Từ Thanh Hà (TCCN 315, tr.29)

Trong đoạn Kinh thánh, Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.”(Ga 4, 15 ). Không có câu nào là: “Xin cho tôi nước ấy/ Để được sống đời”. Vì câu thơ của Từ Thanh Hà để trong ngoặc kép (“…”), tức là trích dẫn nguyên văn, nên tôi phải đối chiếu với văn bản Kinh thánh để bảo đảm tính chân lý của Lời Chúa, và bảo đảm tính nguyên tắc khi trích dẫn Lời Chúa không được làm sai lệch. Về việc trình thuật Kinh thánh, Từ Thanh Hà đã không bảo đảm những nguyên tắc tối thiểu ấy. Với độc giả người Công giáo đã được học Kinh thánh, họ có thể thông cảm, nhưng với người đọc khác tôn giáo, họ sẽ hiểu sai lệch thế nào!

Hướng về công chúng để làm thơ loan báo Tin Mừng nhất thiết phảo bảo đảm tính chân lý của Tin Mừng, lòng nhiệt thành của người rao giảng và ngôn ngữ thơ phải được chọn lọc cho phù hợp với nội dung trình bày. Không phải thơ viết cho công chúng, người viết cứ “Nôm na” thế nào cũng được, vì như vậy là giết chết thơ và làm hỏng mục đích của thơ tôn giáo.

8. THƠ THANH HƯƠNG

            Giữa hàng vạn bài thơ phong trào làm theo công thức, tìm được một đóa hoa thơ sáng tạo như tìm được một dòng suối mát trong giữa khô hạn, và niềm tin rằng dù là thơ tôn giáo, thơ vẫn là thơ, vẫn đem đến cho người đọc niềm hy vọng. Đấy là điều tôi ghi nhận được ở thơ Thanh Hương.

            Xin đọc:

THƠ GỞI THÁNH THỂ CHÚA

Bài thơ con viết giữa mùa hè

vọng tiếng ve, nồng sắc phượng

ngọt ngào thêm hương tím bằng lăng

dậy muôn lòng yêu mến

con gởi về, kính Mình Máu tình yêu

bài thơ tháng sáu…

thơm hương ủ lâu của thóc trấu

đợi mưa, lên mầu ngọt đất

đợi nắng, hòa nước mắt hóa mạ non

đợi mồ hôi thành hạt cơm giòn

câu thơ ngát lũy tre chon von

có tiếng ầu ơ ngang tầm gió

là tiếng mẹ, ru quê còn gian khổ

con gởi về, nơi góc nhỏ thánh đường

màu sắc bốn mùa của quê hương

nước mắt, mồ hôi đang hóa ngọc

như xưa… sương sa mạc, mưa Manna

nuôi đất Hứa nở hoa

Hôm nay, trời tháng sáu!

hồng ân thời Cựu Ước, đang ngọt ngào trong tấm bánh

dấu tình yêu muôn thuở

mà con người vẫn cứ dang dở đi tìm…

nhọc nhằn gieo cấy quang vinh

Bài thơ con gởi lời nguyện xin

ngày mai, trên hành trình mới

mỗi bước tới, là gieo yêu thương

mỗi hy sinh, là niềm tin giữa đời thường

Thanh Hương 22-6-2014

                                    (TCCN 222. Đăng lại trên TCCN 328)

            Bài thơ có nhiều tứ thơ mới lạ, sáng tạo. Tâm tình thơ rất thật, không theo công thức của Thi Ca Cầu Nguyện, dù sử dụng lại nhiều từ đã quen song những cách diễn đạt mới có khả năng tạo ngạc nhiên, gây ấn tượng. Vâng, đó là thơ, là ngôn ngữ, là nhạc, là tâm hồn, tất cả phải mới mẻ, sáng tạo.

            Trong thơ Thanh Hương, có một tâm tình cũng rất mới so với tâm tình của Thi Ca Cầu Nguyện, đó là nỗi buồn trước thực tại lòng đạo bị phai nhạt, trong khi đó, Thi Ca Cầu Nguyện lại luôn ca hát véo von về những điều “giáo huấn” tốt đẹp. Xin đọc:

TÌM VỀ GIỮA MÙA CHAY

Về giữa chay…

có lắng yên của sa mạc dịu hiền

có nét duyên lời thánh ca vắng trống điệu

có mây tím vời vợi trong mắt kẻ tội khiên

Về giữa chay…

vẫn cây Thánh Giá treo mấy mùa lặng yên

vẫn lời kinh vừa bi thương, vừa bóng bẩy

dưới chân ấy! vẫn nguyên hồn xác tật nguyền

Về giữa chay…

niềm khô hạn như tháng nắng võ vàng

vì vắng niềm đau, phút tao phùng Con gặp Mẹ

vắng đời dâu bể, kết hợp theo Thánh Giá đi đàng

Về giữa chay

Xin làm nhân chứng, cho đời ai chứng nhân!

Xin vững tin dẫu chưa lần đơm trái ngọt

Xin gieo mình mục nát, mong nẩy lộc gian trần

Thanh Hương, 21-3-2015 (TCCN 212, tr.15)

Những tứ thơ mới lạ viết về mùa Chay có sức gây xốn xang tận đáy tim. Nếu đọc lại nhiều lần bài thơ và suy gẫm, người đọc sẽ thấy nỗi thấm thía đọng rất sâu.

Bài thơ sau đây là một “cảm nghiệm” Kinh thánh của Thanh Hương

HOA TRÁI SA MẠC

Hoa bỗng thắm giữa rêu phong vắng lặng 

Trái hóa ngọt từ mật đắng rừng sâu

Áo hoang địa chợt lộng lẫy sắc màu

Nước trào dâng thương đồng khô cằn cỗi

Bởi ai hát hùng vang lời mời gọi

Thổi lay lay rừng lau sậy xạc xào

Thấm hoang vu giọng tha thiết khát khao

“Hãy dọn đường, và sửa cho ngay thẳng”

Gồ ghề san bằng, cỏ xanh mượt nắng

Lối quanh co uốn thẳng lụa sông Vân

Thung lũng sâu đầy nhịp thở trong lành

Kìa! Thiều quang chân trời đang thấp thoáng

Mây gọi gió thôi ngừng bay lãng đãng

Gom về nguồn để lắng dịu bình yên

Dọn hồn hoang trong sa mạc tịch huyền

Mới nghe trọn bước Ngài đang ngự giá

Mới khắc khoải trong từ tâm bản ngã

Con đường được yêu, và biết yêu thương

Vì Gioan ẩn sau những vô thường

Để ta có cuộc giao duyên tuyền vẹn

Thảo mộc hương duyên điểm trang hò hẹn

Đường tìm Người không hoa gấm xôn xao

Bỏ lại sau những phù phiếm ồn ào

Sẽ gặp Đấng là đường Chân, Thiện, Mỹ

Người ở nơi những điều thật giản dị

Gạn bớt đi những ảo mộng xa xôi

Đi tìm nhau và tìm đến với Người

Học từ bỏ, yêu thương và chia sẻ

Trời sa mạc trải qua bao thế hệ

Ẩn dấu hồng ân Thiên Chúa chúc lành

Ban sức mạnh, ai tâm tịnh lòng thanh

Từng ngày sống dọn đường ngay nẻo chính

                        Hương Sion . TCCN 94             

            Thanh Hương dùng chữ “Cảm nghiệm” thơ mà không dùng chữ “suy niệm”. Bởi “Suy niệm” mới chỉ là bước nhận thức. Thanh Hương kết hợp “nhận thức” với những gì mình đã trải nghiệm tâm linh thành “Cảm nghiệm”. Cho nên thơ vừa có vẻ đẹp trí tuệ (suy niệm Kinh thánh) vừa có vẻ đẹp của đời bể dâu được thăng hoa trong chính bản thể người thơ. Điều này khác rất xa xa với kiều thơ “giáo huấn”, người làm thơ dạy dỗ người khác, chứ không tự dạy dỗ mình. Thanh Hương để cho tất cả những gi mà tâm hồn mình được tái sinh tự nở hoa, hồn thơ bay bổng tự do trong ánh sáng của Cái Đẹp, có khi kết hợp Cái Đẹp và Cái Bi thương (hai phạm trù của Mỹ học), tạo nên một sự quyến rũ rất lạ: Nỗi buồn chồng chất lên nỗi buồn ẩn sâu dưới Cái Đẹp. Tìm về giữa mùa Chay là một bài như thế (xin đọc thêm: Theo Chúa về đâu, Nếu một mai, Xuân vắng, Về mùa thương khó, Mỗi ngày là một chuyến đi…)

            Rất tiếc những bài thơ có sáng tạo độc đáo như thế không nhiều. Khi tiếp cận những đề tài Thần học (Tình yêu Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần, Bước theo Thần Khí), Thanh Hương đã không dám mạnh tay phóng bút mà chỉ diễn đạt lại những gì giáo hội đã dạy. Đó là sự cẩn trọng cần thiết. Dù trình bày lại những tín niệm, thơ Thanh Hương vẫn bất chợt lấp lánh nét sáng tạo, nhờ thế Thanh Hương giữ cho thơ của mình một vẻ riêng, một cõi riêng.

Thanh Hương không đăng nhiều bài trên Thi Ca Cầu Nguyện, trái lại Thi Ca Cầu Nguyện đăng lại nhiều bài (TCCN 493 đăng lại TCCN 337; TCCN 397 đăng lại TCCN 324…). Tôi nghĩ Thanh Hương không chạy theo số lượng thơ mà tuân thủ những quy luật sáng tạo mình đã chọn lựa. Con đường tư duy đó là: Suy niệm Kinh thánh, kết hợp với trải nghiệm bể dâu, chờ đến khi cảm xúc lãng mạn thăng hoa, thì hồn thơ sẽ cất lời. Đó là những dấu hiệu của một hồn thơ  có màu sắc thẩm mỹ riêng có thể phát huy.

9.THƠ CỦA “HAI TÊ MIỆT VƯỜN”

            Trong CLB Thi Ca Cầu Nguyện, có những tác giả có bút danh gây ấn tượng, chẳng hạn các bút danh Gã Tuần Phiên, Hồ Giang A (ả giang hồ), Cao Bồi Già, Hai Tê Miệt Vườn, Viễn Dzu Tử. Tôi chọn thơ của “Hai Tê Miệt Vườn” để khảo sát, vì cái tên Hai Tê Miệt Vườn gợi ra  chất dân dã đồng quê, khác hẳn chất Cowboy Mỹ của Cao Bồi Già, hay chất “bụi” của ả giang hồ (tác giả không viết hoa bút danh, tức là hiểu theo nghĩa thực của từ). Tôi nghĩ khi chọn bút danh tác giả đều gửi gắm trong đó một thông điệp nào đó mà tác phẩm của họ là lời giải đáp. Chẳng hạn bút danh Tản Đà ghép từ hai chữ núi Tản Viên và Đà giang. Bút danh Nam Cao ghép từ tổng Cao Đà, huyện Nam Xang. Có khi cũng chẳng có thông điệp gì, chỉ là để gây sự chú ý. Tuy nhiên, trong văn học, nhan đề của tác phẩm lại chứa đựng nội dung, tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm.

            Tôi thống kê 50 số Thi Ca Cấu Nguyện rải từ đầu đến số 511. Thời gian đầu Hai Tê Miệt Vườn chưa tham gia. Thời gian sau đó mỗi số thường đăng 2 bài. Từ số 400 trở đi bắt đầu đăng nhiều, mỗi số từ 6, 8 và 10 bài, có tuần 12 bài (số 473-474) đặc biệt số 510&11 đăng 26 bài. Trong một tuần mà viết được 12 bài thơ, có thể kể đó là một “kỷ lục” về sáng tác.

            Hai Tê Miệt Vườn làm thơ lục bát dễ như ta thở. Thơ lục bát của ông rất nhuần nhuyễn về phối âm Bằng/ Trắc, gieo vần, dùng từ và diễn đạt. Ông có thể làm thơ mọi đề tài như thể “xuất khẩu thành thơ” (lời nói ra khỏi miệng là thành thơ). Đó cũng là đặc điểm của người Việt Nam, bởi tiếng việt là ngôn ngữ giàu nhạc điệu, người Việt lại thích ca hát ví von. Ngày nay, một quan chức Hội Nhà văn VN gọi Việt Nam là cường quốc thơ. Các Câu lạc bộ thơ như Câu lạc bộ Thơ Việt Nam11.878 hội viên. Câu lạc bộ thơ Lục Bát, CLB thơ Đường có thành viên ở nhiều tỉnh khắp Bắc, Trung, Nam. Họ sinh hoạt có quy chế hẳn hoi, có xuất bản tuyển tập, có họp mặt, có kế hoạch quảng bá vv…). Danh phận “nhà thơ” có lẽ vì thế mà “lạm phát”. Tôi gọi người làm thơ là “tác giả” (composer), và chỉ goi tác giả nào đó là “nhà thơ” khi anh ta có phẩm chất thi sĩ và thực sự là “người sáng tạo”.

Nói như thế để thấy rằng, tác giả Hai Tê Miệt Vườn cũng là một tác giả trong xu thế chung của thơ ca Việt đương đại.

            Xin đọc vài bài trong cùng một số Thi Ca Cầu Nguyện để nhận dạng đặc điểm thơ Hai Tê Miệt Vườn:

            Thi Ca Cầu Nguyện số 498, ngày 20/9/2020, Chúa nhật 25 thường niên A, chủ đề Tin Mừng (Mt, 20, 1-16a), Hai Tê Miệt Vườn có 10 bài:

            Cách thức suy tôn, Tôn vinh thập giá, Cam kết lần cuối, Sống lời giao kết, Chớ có ghe tức, Được vào làm việc, Mát Thêu theo Chúa, Bài ca tử đạo, Trái tim sầu bi, Được mang thánh tích.

            Xin đọc 3 bài (xin lưu ý những chữ tôi in đậm)

                   CÁCH THỨC SUY TÔN

          (Mừng Lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Ki-tô chính bằng cuộc sống bởi nhờ hy sinh hằng ngày của mỗi người).

                        Suy tôn thập giá của Ngài,

                   Chỉ trên môi miệng mau phai chóng tàn.

                        Vậy ta cần sống hiên ngang,

                   Bước theo Đức Chúa giữa ngàn đau thương.

                        Bởi đây mới thật là đường,

                   Giê-su Đức Chúa nêu gương suốt đời.

                        Khi Ngài hiến trọn con người,

                   Đúng theo ý định Cha Người đề ra.

                        Đây là bài học cho ta,

                   Để ta bắt chước mới là tôi trung.

                        Ngõ hầu ta sống đến cùng,

                   Con đường thập giá thủy chung nghĩa tình.

                        Bởi nhờ chấp nhận đóng đinh,

                   Bản thân cuộc sống vì tình mến thương.

                        Vậy là đi đúng con đường,

                   Chính Thầy Chí Thánh khai trương trên trần.

                                                            14/09/2020

                   ĐƯỢC VÀO LÀM VIỆC

                   “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho” (Mt 20, 7)

Được vào làm việc trong vườn,

Là ta được Chúa yêu thương kêu mời.

Vậy ta đem cả cuộc đời.

Tận tâm làm việc như người tôi trung.

Quyết tâm lao động đến cùng,

Giúp ta sống được thủy chung với Ngài.

Đời ta có một tương lai,

Thật là tốt đẹp ngày mai huy hoàng.

Tiền công được nhận đầy tràn,

Khiến cho cuộc sống an toàn sướng vui.

Bao nhiêu đói khổ chôn vùi,

Cuộc đời thất nghiệp đẩy lùi thật xa.

Chính nhờ tình Chúa bao la,

Ngài luôn đổi xuống chan hòa trên ta.

Bởi vì ta biết tỏ ra,

Tôi trung tài giỏi của Cha trên trời.

(Chúa nhật XXV Thường Niên năm A, 20/09/2020)

                        BÀI CA TỬ ĐẠO

Bài ca tử đạo vang lên,

Viết bằng mực máu trung kiên đến cùng.

Bởi nhờ ngài sống tín trung,

Con đường thập giá thủy chung nghĩa tình.

Thế nên hiến trọn đời mình,

Chết cho chân lý vì tình mến thương.

Trở thành như một tấm gương,

Thật là trong sáng con đường Phúc Âm

Giúp cho ai bị lỡ lầm,

Trở về chính lộ thoát vòng vong nô.

Cuộc đời lại được điểm tô,

Chính bằng phẩm chất Ki-tô Nước Trời.

Vậy là trở lại làm người,

Đúng theo tiêu chuẩn Chúa Trời đề ra.

Cuối đời tất cả gặp Cha,

Chính là Thiên Chúa bao la ân tình.

                         (Mừng lễ thánh Tô-ma Thiện, tử đạo Việt Nam dưới thời vua Minh Mạng tại Nhan Biêu, Quảng Trị ngày 21/9/1838).

          Trong cả ba bài thơ trên, tác giả Hai Tê Miệt Vườn như một nhà Nho, nêu cao đạo đức phong kiến, dạy dỗ thần dân đạo đức của kẻ làm “tôi trung”. Tác giả đem chuẩn mực ấy áp dụng vào đời sống người Công giáo:  người Công giáo phải sống “tín trung”,” thủy chung, nghĩa tình” với Chúa. Tín hữu phảiđi đúng “con đường Phúc Âm, con đường Thập giá”, phải “hiên ngang” trước mọi thử thách hy sinh, luôn nêu gương. Bởi vì “Thiên Chúa bao la ân tình », bởi vì « Chính nhờ tình Chúa bao la”, nên ta “ trở lại làm người,/Đúng theo tiêu chuẩn Chúa Trời đề ra”.

           Tác giả luôn vẽ ra viễn cảnh tốt đẹp ngày mai: no đầy ơn phúc, được gặp Cha trên trời (sau khi chết được lên Thiên đàng).

Đời ta có một tương lai,

Thật là tốt đẹp ngày mai huy hoàng.

Tiền công được nhận đầy tràn,

Khiến cho cuộc sống an toàn sướng vui.

Bao nhiêu đói khổ chôn vùi,

Cuộc đời thất nghiệp đẩy lùi thật xa

            (Được vào làm việc)

Cuối đời tất cả gặp Cha,

Chính là Thiên Chúa bao la ân tình.

            (Bài ca tử đạo)

          Tác giả như một người nắm chắc chân lý, xác tín quyết tâm về những điều mình kêu gọi người khác: “Vậy ta cần sống hiên ngang/ Bước theo Đức Chúa giữa ngàn đau thương./ Bởi đây mới thật là đường,”.

          Xin lưu ý rằng đạo đức Nho giáo là đạo đức chính trị để giai cấp thống trị cai trị dân, bảo vệ quyền thống trị “con vua thì lại làm vua”. Đạo đức ấy áp dụng vào đời sống Kitô hữu cách nào cũng bị “vênh” vì con đường của Đức Giêsu là con đường Cứu Độ nhân loại. Con đường đó là con đường Đức Tin, không phải con đường chính trị. Đức Giêsu đã nói rõ: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”(Ga 18, 36), và nhiều lần người khẳng định “Lòng tin của anh đã cứu anh”(Mc 10, 52). Đức Tin là một hồng ân Chúa ban, không phải là ý thức đạo đức chính trị. Công Đồng Vaticanô II khẳng định: “Để có được, đức tin này cần phải có ân sủng đi trước và trợ giúp của Thiên Chúa, cùng với những sự giúp đỡ bề trong của Chúa Thánh Thần, Đấng chạm đến tâm hồn và hướng nó về Thiên Chúa, mở mắt tâm trí và ban cho ‘tất cả mọi người niềm vui ngọt ngào để chấp nhận và tin vào chân lý’” (Hiến Chế Tín Lý Dei Verbum, 5)

          Cho nên khi tác giả kêu gọi người khác: “Vậy ta cần sống hiên ngang”; ta “Quyết tâm lao động đến cùng”,”vì ta biết tỏ ra, Tôi trungtài giỏi … »…những điều như thế xa lạ với lời Chúa dạy: Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường“(Mt 11,28). Xin cứ nhìn vào Chúa trong cuộc khổ nạn, đâu có chỗ nào Chúa “sống hiên ngang”, Chúa chỉ hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa Cha, mà không theo ý riêng.

          Trong quan hệ với môn đệ, Đức Giê su nói: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết.”(Ga 15,15), cho nên không có khái niệm tôi trung(phong kiến) trong đạo đức Công giáo.

          Một vài chi tiết dẫn từ Kinh thánh cho thấy những “công thức” mà Hai Tê Miệt Vườn sử dụng cần phải được nhận thức lại cho đúng với những gì giáo hội dạy.

          Thơ của Hai Tê Miệt Vườn đầy ắp nhiệt tình theo Chúa, nhiệt tình kêu gọi, giáo huấn. với một niềm tin đơn sơ và cách vận dụng Kinh thánh theo trí hiểu của Nho giáo. Đó là một ưu điểm. Chỉ có điều, nội dung thơ của Hai Tê Miệt Vườn, dù viết về đề tài nào, cũng đều theo những công thức đã có sẵn, tác giả chỉ rập khuôn nhắc lại, không có suy nghiệm sáng tạo. Vì thế thơ không đọng lại được trong lòng người đọc.

10. THƠ CỦA “NGÒI BÚT NHỎ”

          Trên Thi Ca Cầu nguyện , có ít thơ của Ngòi Bút Nhỏ. Nhiều số Thi Ca Cầu Nguyện đăng lại bài của Ngòi Bút Nhỏ ở những số trước. Thí dụ:  TCCN số 474 đăng lại bài số 318; TCCN số 475 đăng lại bài số 319; TCCN số 479 đăng lài bài của số 323. TCCN số 487 đăng lại bài của số 331.

          Tuy vậy, thơ cùa Ngòi Bút Nhỏ có những nét riêng và có sức hấp dẫn mà ít tác giả Thi Ca Cấu Nguyện khác có được.

          Mỗi bài thơ của Ngòi Bút Nhỏ đều có câu Kinh thánh đề từ. Những câu này được chọn có ý thức và đặc biệt gây ấn tượng. Đọc một bài thơ của Ngòi Bút Nhỏ, người đọc phải đọc đầy đủ câu Kinh thánh ấy thì ý tứ bài thơ mới trọn vẹn, nghĩa là câu đề từ cũng là một phần máu thịt của bài thơ, bởi ý thơ khởi đi từ câu Kinh thánh ấy. Ngòi Bút Nhỏ trích dẫn khá rộng. Đó là các sách Sáng Thế Ký,  Huấn ca, Thánh vịnh, Isaia; Giê-rê-mi-a; Tân ước của các thánh sử Matthêu, Macô, Luca, Gioan; trích thư Êphêsô,… Ngòi Bút Nhỏ không buộc mình vào bài Kinh thánh Chúa nhật hàng tuần của Thi Ca Cầu Nguyện.

          Thơ của Ngòi Bút Nhỏ hầu hết là “thơ cầu nguyện”, đúng với “tôn chỉ”của Thi Ca Cầu Nguyện. Nhân vật Tôi suy niệm Kinh thánh rồi trò chuyện với Chúa, cầu xin Chúa những ý nguyện của mình. Giọng thơ nhỏ nhẹ, rất gần gũi, rất thân tình, như hai người đang bên nhau. Thiên Chúa là Cha, gần gũi lắm. Đức Giêsu là bạn người đồng hành trong mùa gặt mới, cũng là người chia sẻ mọi niềm vui nỗi muồn, là người bao dung thứ tha mọi lỗi lầm, là nguồn hạnh phúc của Tôi. Tôi luôn hân hoan reo vui trên đường dấn thân loan báo Tin Mừng, vì đời Tôi đã có Chúa ở bên và tương lai có Chúa dìu dắt bảo vệ.

          Những lời cầu nguyện như thế vừa rất riêng tư vừa chứa đựng tâm nguyện chung của mọi tín hữu nên thơ chạm được đến chỗ sâu xa trong lòng người đọc. Điều đặc sắc là những suy niệm và những lời cầu nguyện quen thuộc ấy lại được thể hiện bằng ngôn ngữ thơ mới lạ so với các tác giả Thi Ca Cầu Nguyện khác. Ngòi Bút Nhỏ không dùng lại ngôn ngữ đã được giáo huấn từ nhỏ (Ý, tình, lời đã cũ), không “lên mặt” đạo đức để dạy bảo, không cao rao kêu gọi cổ vũ thực hành đạo đức…Lời cầu nguyện của Ngòi Bút Nhỏ là riêng tư, xuất phát từ những gì mình “ngộ” ra khi được Lời Chúa soi sáng.

          Xin đọc:

NHÀNH LIỄU VEN SÔNG

“Chỉ có một Đấng khôn ngoan rất đáng sợ, ngự trên ngai của Người. Đó chính là Đức Chúa. Người đã tạo dựng, đã thấy, đã đếm và làm cho khôn ngoan nổi bật trên mọi công trình, nơi mọi phàm nhân, theo lòng quảng đại của Người, và Người đã rộng ban khôn ngoan cho những ai yêu mến Người.”(Hc: 1, 8-10)

Chỉ có một Đấng khôn ngoan rất đáng sợ

Ngự trên ngai của Người

Đó chính là Đức Chúa

Người đã tác tạo nên con

Và đã ban cho con một tấm linh hồn thơm thảo

Trên mọi công trình

Nơi mọi phàm nhân

Con nhận ra sự hiện diện của Ngài

Đấng khôn ngoan vượt trên muôn vàn trí hiểu!

Như nhành liễu ven sông

Con thấy trời mênh mông bát ngát

Xin hát dâng Ngài muôn khúc hát ngợi ca

Và một lòng thiết tha yêu mến!

Chúa đến bên con, sóng nước ngập bờ

Con ngờ đâu được chính Ngài thương đoái

Trí hiểu con được Đức Chúa ngự vào

Và hồn con trào dâng niềm cảm tạ

Bởi vì Đấng khôn ngoan đã ở với con rồi!

                                    20/2/2017

                                    Ngòi bút nhỏ

          Thơ Ngòi Bút Nhỏ có nhiều cái lạ có tính thẩm mỹ và có sức hấp dẫn, trước hết là cách đặt nhan đề thơ. Nhan đề có sức gợi hình ảnh, cảm xúc (tức là tạo ra một thế giới nghệ thuật) và gợi trí tò mò của người đọc. Ngay ở yếu tố đầu tiên này của tác phẩm, Ngòi Bút Nhỏ đã có ý thức sáng tạo. Thí dụ: nhan đề các bài Chiên và ánh trăng, Nhành liễu ven sông, Con thuyền và dòng sông, Gió lộng tràn về, Gié lúa trổ bông, Lên đường đi gặt lúa, Lời của hoa mặt trời,  Hãy xỏ gươm vào bao, Giữa biển đời hung hãn…

          Đọc thơ Ngòi Bút Nhỏ, người đọc có cảm giác tác giả viết rất tự nhiên, không gò bó vào niêm luật hay vần gieo của các thể thơ. Nếu đối chiếu với thi luật, thơ Ngòi Bút Nhỏ có nhiều chỗ sai vần, nhưng người đọc vẫn nhận ra đó là “thơ” đích thực. Yếu tố nào tạo ra phẩm chất thẩm mỹ ấy? Nếu quan sát, người đọc sẽ nhận ra ngôn ngữ thơ của Ngòi Bút Nhỏ giàu hình ảnh, giàu tính nhạc, chất giọng rất trẻ thơ, tác giả nói ra những điều hồn nhiên, và đặc biệt là tâm hồn reo vui vì cảm nhận được Chúa đang ở bên, Chúa đang đồng hành với mình trên mọi bước đường đời

Ôi, Giêsu!

Người đã đến bên con

Người đã đến bên con khi biển động

Người đã đến bên con cho gió lộng tràn về

Con bàng hoàng sợ hãi tưởng trong mơ

Nhưng bây giờ con tin, Người đã đến!

                        (Gió lộng tràn về)

Hôm nay, Người dắt tôi về

Cho hưởng tràn trề nguồn ánh sáng hân hoan! 

Ôi, Đức Chúa! Đấng từ bi nhân hậu

Con chẳng có gì để dâng Chúa, Chúa ơi

Dám xin Ngài nhận nơi con lời hoan chúc

Cùng đất trời, con nhảy múa reo vui!

            (Vui ngày trở lại)

          Quan sát hai khổ thơ trên, bạn đọc sẽ thấy không có câu nào vần với câu nào, cũng không  theo một thể thơ nào quen thuộc. Thơ như một dòng chảy cuồn cuộn mạnh mẽ, hồn thơ bay lên, bay lên; cảm xúc thơ dào dạt như các lớp sóng tràn. Cả thân xác, linh hồn, trí khôn, cảm xúc của người làm thơ quyện vào nhau trong niềm hoan lạc, niềm say sưa tự do: “Cùng đất trời, con nhảy múa reo vui”. Vâng, đó là “thơ”, là “sáng tạo”.

          Tôi đã đọc  hơn 70 bài thơ của Ngòi Bút Nhỏ. Nhiều bài được viết bằng “thi pháp” của Thánh Vịnh (xin đọc các bài: Cho lòng con no thỏa, Tế phẩm dâng Ngài, Xuyên bóng tối, Vui ngày trở lại…). Chúng ta biết rằng Thánh Vịnh ngập tràn mọi cung bậc cảm xúc. Lời văn của Thánh vịnh có rất nhiều hình ảnh đẹp. Nội dung của Thánh Vịnh bày tỏ bao nhiêu là nỗi niềm. Nhưng cô đọng vẫn là những lời cảm tạ, ngợi khen chúc tụng và tín thác vào Thiên Chúa. Thơ của Ngòi Bút Nhỏ cũng được viết bằng những tâm tình đó, ngôn ngữ giàu hình ảnh cảm xúc, khác với ngôn ngữ ý niệm, ngôn ngữ kinh sách của nhiều tác giả khác. Tôi nghĩ cách viết của Ngòi Bút Nhỏ cũng là một hướng tìm tòi làm mới Thi Ca Cầu Nguyện, góp phần làm mới thi ca Công giáo đương đại.

          Nếu được chia sẻ, tôi xin ghi nhận điều này. Thơ Ngòi Bút Nhỏ reo vui trong niềm hân hoan được sống bên Chúa (cảm xúc lãng mạn) nhưng thiếu sự sẻ chia với những phận người cùng khổ của đời dâu bể (chất hiện thực), nên thơ là tiếng nói của Cái Tôi “đời dâng hiến”, thơ chưa nói được tiếng lòng của vạn kiếp nhân sinh. Những bài thơ làm về sau đã bắt đầu lặp lại ý, tứ, lời của những bài trước đó gần như một công thức. Tính hồn nhiên trẻ thơ của Ngỏi Bút Nhỏ là một ưu điểm nhưng thiếu chiều sâu trải nghiệm khiến cho thơ của Ngòi Bút Nhỏ không vượt lên được thành thơ tư tưởng, con đường sáng tạo của Ngòi Bút Nhỏ chững lại. Điều này thật tiếc.

TẠM KẾT

          Các tác giả còn đang sáng tác, con đường phía trước còn dài nên chưa thể kết luận được điều gì. Tôi chỉ ghi nhận được đôi điều theo góc nhìn của riêng mình (góc nhìn sáng tạo, theo lý luận văn học).

          10 khuôn mặt thơ Thi Ca Cầu Nguyện phản ánh nội lực thật sung sức trong sáng tạo của thơ Công giáo đương đại. Chỉ riêng bộ Diễn ca ba năm A, B, C của Lm Giuse Trần Việt Hùng đã là 1095 bài thơ (17.520 câu thơ lục bát). Các tác giả của CLB Đồng Xanh ThơCLB Thi Ca Cầu Nguyện sau 10 năm, mỗi người đã có trên 500 bài…và cả hai Câu lạc bộ này đã có trên 5 vạn bài. Đó là một gia tài đồ sộ.

          10 khuôn mặt Thi Ca Cầu Nguyện cũng thể hiện nhiều khuynh hướng sáng tác. Có “Huấn ca”, “Diễn ca” truyền thống, nhưng còn có thơ “suy niệm”, thơ “cảm nghiệm”, “thơ cầu nguyện” và thơ trữ tình (thơ thể hiện những tâm tình, những cảm nghiệm riêng của Cái Tôi), nhiều tác giả còn sáng tác cả “thơ thế sự”.Trong mỗi khuynh hướng sáng tác ấy, đã có những tác giả thành công nhất định.

          Khuynh hướng lấy cảm hứng từ Kinh thánh là khuynh hướng chung, nhưng khám phá Kinh Thánh và dùng Kinh thánh để “suy niệm” hay “cảm nghiệm” hoặc “cầu nguyện”, mỗi tác giả có cách viết riêng. Có khi là “diễn ca” nội dung bài Kinh thánh (Chúa nhật và lễ trọng) rồi từ đó nhận thức và đưa ra lời khuyên, lời kêu gọi, lời giáo huấn hay lời chia sẻ. Có tác giả chỉ mượn chủ đề đoạn Kinh thánh rồi nương theo mà khai bút. Ngòi Bút Nhỏ dùng đoạn Kinh thánh làm nội dung bài thơ, từ đó viết tiếp những nghĩ suy của chính lòng mình. Ở khuynh hướng này, có người hiểu sâu đoạn Kinh thánh và có khám phá mới mẽ, nhưng cũng có người chỉ viết lại những gì đã được Giáo hội dạy, viết như một công thức. Và có cả những tác giả, đôi khi hiểu chưa đúng nội dung đoạn Kinh thánh mà mình diễn giải.

          Về nghệ thuật. Những tác giả “thơ trữ tình” có lợi thế hơn về nghệ thuật thể hiện (Lm. Cao Gia An, Thanh Hương, Ngòi Bút Nhỏ…), ngòi bút thỏa sức vẫy vùng trong thế giới cảm xúc, khám phá vô hạn trong thế giới tưởng tượng, thâm nhập rất sâu đời dâu bể, và hoan ca trong Thiên đàng rực rỡ tráng lệ của Kinh thánh. Thể Diễn ca, Huấn ca, “thơ suy niệm” thường viết theo công thức. Nội dung, tình, ý, lời rất cũ, tức là dùng lại ý tứ đã được học trong kinh lễ mà không sáng tạo. Những bài thơ như thế không đọng lại được trong lòng người đọc.

          Và trên một nền thơ đầy nội lực như thế, tôi đã thấy xuất hiện những chân dung thi nhân, những người có khả năng đi tiếp con đường sáng tạo của Hàn Mạc Tử, Xuân Ly Băng, Trăng Thập Tự, Lê Đình Bảng… để làm nên một thế hệ “nhà thơ Công giáo” mới, và kiến tạo một nền thơ Công giáo hội nhập được với thơ ca dân tộc đương đại. Mừng lắm thay. Xin tạ ơn Chúa.

Tháng thánh Giuse/ 2022

Bạn có thể tải bản full “Mười khuôn mặt Thi Ca Cầu Nguyện” theo link:

https://www.mediafire.com/file/kwvc5qednkz82wz/10+KHUÔN+MẶT+THƠ+TCCN-bài+viết+Offical.pdf/file


[1] Bùi Công Thuấn-Thơ Sơn Ca Linh:

https://www.vanthoconggiao.net/2021/11/khuon-mat-tho-cong-giao-uong-ai-tho-son.html

Bùi Công Thuấn-Thơ Cao Danh Viện:

10 KHUÔN MẶT “THI CA CẦU NGUYỆN”-Phần I

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK: buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

10 KHUÔN MẶT “THI CA CẦU NGUYỆN

Phần I: THƠ CỦA LM. CAO GIA AN, LM. ĐAM KHUẤT DŨNG SSS,

LM. TRẦN VIỆT HÙNG, ĐINH VĂN TIẾN HÙNG, THẾ KIÊN DOMINIC

Bùi Công Thuấn

***

            Tôi đã đọc hơn 60 tác giả xuất hiện trên các số Thi Ca Cầu Nguyện, trong các tác giả ấy, thơ Sơn Ca Linh và thơ Cao Danh Viện tôi đã có bài viết riêng [[1]]. Trong bài viết này, tôi tập trung viết về 10 khuôn mặt thơ của Thi Ca Cầu Nguyện (chọn tình cờ) để khảo sát về các khuynh hướng của thơ ca Công giáo đương đại. Dù 10 khuôn mặt thơ được chọn không phản ánh đầy đủ phong trào làm thơ Công giáo trong cả nước, nhưng trong quá trình hơn 10 năm sáng tác của CLB Thi Ca Cầu Nguyện, người đọc có thể nhìn thấy những xu hướng thơ Công giáo đáng quan tâm.

1.THƠ CỦA LM. CAO GIA AN

            Được đọc thơ hay, đó là hạnh phúc; và tôi nhận được rất nhiều hạnh phúc khi đọc thơ của Lm. Cao Gia An (Roma). (Mời bạn vào Gia An’s blog)

Thơ Cao Gia An phong phú màu sắc tư tưởng-nghệ thuật. Đó là thơ của một hồn thơ vừa sâu sắc, vừa tinh tế; rất đời nhưng cũng rất thánh thiện; rất lãng mạn nhưng cũng rất thực; vừa dân dã vừa sang trọng cổ điển; vừa hồn nhiên trẻ trung vừa nặng trĩu suy tư. Nhưng trên tất cả, Cao Gia An có năng lực sáng tạo những tứ thơ mới, một kiểu tư duy thơ rất năng động, và một cái  nhìn nghệ thuật độc đáo (thí dụ bài Từ trên cao nhìn xuống).

Hồn thơ Cao Gia An mang mang tâm trạng tha hương của Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan (bài Lữ thứ, Ngày xưa ơi, Niệm khúc ngày về, Chiều, Lỗi hẹn với sông quê, Xin cho tôi một rẻo đất, Ly khúc), nhưng “Cái Ta” trữ tình vừa mang khí chất ngất ngưởng của Cao Bá Quát (bài Đong đưa phận người, Lỗi hẹn với sông quê) vừa ngọt ngào gần gũi của Xuân Diệu (Mùa thu bên khung cửa).

Trời xa ta với mình ta

Và bao vụn vỡ phù hoa chất chồng

Nghiêng tay rót chén rượu hồng

Nghiêng đời uống cạn chén nồng say sưa

            (Đong đưa phận người)

Ta đi trong ngày lộng gió
Mang theo chút nắng dịu dàng
Chút tình tươi như hoa cỏ
Chút hương mùa cũ chưa tan

            (Cẩm Tú Cầu)

Sông mây chảy ngược về ngàn
Ta lặn lội ngược trần gian
Về Nguồn

            (Ngược)

Thơ Cao Gian An có khuynh hướng thơ tư tưởng. Nhiều bài tra hỏi về lẽ đời, về phận người, về đời ta, về tình yêu, về đời “hư huyễn phù du”, về sự “dính mắc” của con người trong cõi vô thường; trăn trở con đường theo Chúa (Sứ mạng, Emmaus), thao thức nhận thức về mình (Canh thức), một Cái Ta cô độc, nhưng không hư vô, không tuyệt vọng, Cái Ta cô độc phiêu bạt lữ thứ nhưng “rất Người”, rất khao khát gắn bó với mọi người, khao khát một chốn quê để về. Kết thúc bài thơ là sự “Vượt qua”. Bóng dáng tư tưởng Thiền bỏ lại phía sau. Từ bóng tối, những vòng hào quang tư tưởng đã sáng lên.

Trong Thi Ca Cầu Nguyện, không có thơ tư tưởng như thế. Xin đọc: Phố mới, Ngược, Tìm mình, Khói, Kiến càng, Mùa lá rơi, Khoảng cách, Tìm mình, Ru mình

“Một hình một bóng chênh chao

 Mình, hay chỉ chút hao hao giống mình?…

                        (Tìm mình)

Đường xa bụi cát mịt mùng

Người đi chân bỗng chập chùng bước chân

            (Chập chùng)

Ai biết sẽ về đâu
Khói trời bay tản lạc
           
(Khói)

Cao Gia An có những bài lấy cảm hứng Kinh thánh, nhưng Cao Gia An kể lại câu chuyện do mình sáng tạo (Về; Chỉ còn Đấng xót thương). Điều này hoàn toàn khác với thể thơ “Diễn ca” quen gặp. Giọng thơ chất chứa yêu thương. Cao Gia An kết hợp được bút pháp kể chuyện (tự sự) với nghệ thuật thơ (trữ tình), kiến tạo thành một tác phẩm sinh động ở góc trần thuật, đa thanh ở giọng điệu. Vấn đề được soi chiếu ở nhiều chiều kích. Tôi nghĩ các nhà thơ Công giáo có thể tham khảo cách viết này. Tất nhiên đòi hỏi người viết phải có năng lực sáng tạo, phải hiểu sâu sắc Kinh thánh và điêu luyện trong thể loại truyện thơ (Xin đọc Chỉ còn lại Đấng xót thương)

CHỈ CÒN LẠI ĐẤNG XÓT THƯƠNG

“Trong sách luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.

                        Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”(Ga 8,5)

Chỉ là để thử nhau thôi
Đâu có gì đâu để nói
Chuyện rõ như ban ngày rồi
Cần gì phải thưa với hỏi

Nhân danh ngàn năm luật lệ
Ngữ này ném đá cho xong
Đã thối đã hư đến thế
Tốt đẹp gì nữa mà mong…

Một người gục đầu lãnh tội
Trần ai tủi nhục ê chề
Một đoàn người thì rất vội
Giăng tay chặn kín nẻo về

Chỉ riêng Người là Đấng Thánh
Giàu sang muôn hộc từ bi:

Ai trong các ông sạch tội
Ném viên đá đầu tiên đi!..

Mọi người kéo nhau đi hết
Đá xanh lăn lóc trên đường

Một người về từ cõi chết
Nhờ bàn tay Đấng Xót Thương

Mọi người kéo nhau đi hết
Rộng thênh thang một con đường
Mọi điều đã qua đi hết
Chỉ còn lại Đấng Xót Thương

Cao Gia An, S.J
Lille, France – Mùa Chay 2016

            Tám câu đầu là lời bàn tán trực tiếp của đám đông. Tám câu giữa là cận ảnh tất cả các nhân vật (đám đông, người phụ nữ bị ném đá và Đức Giê su). Tám câu cuối, tác giả vừa kể, vừa tả vừa bình luận ấm áp tình người và sâu sắc về tư tưởng. Bài thơ để lại dư âm hạnh phúc về sự Cứu rỗi có sức lan tỏa (khác rất xa với kiểu thơ công thức).

            Đây là đọan tả tiếng đàn bầu. Vẫn là nghệ thuật so sánh nhưng Cao Gia An so sánh tiếng đàn bầu với những tứ thơ hoàn toàn khác với Nguyễn Du (tiếng đàn của Thúy Kiều  trong đêm tình tự – Đoạn trường tân thanh):

Buồn như nguyệt tận trăng tàn
Thương như một kiếm võ vàng vọng trông

Như người chinh phụ đợi chồng
Bóng khuya nghiêng giữa đêm đông ngậm ngùi

Dài như sợ nhớ khôn nguôi
Như bao tiếc hận chảy xuôi về trời

Bao là nước mắt mồ hôi
Là xương là máu bao đời… còn không?

Vang như tiếng cuốc gọi đồng
Mênh mang bao nỗi chất chồng nhiêu khê

Oằn cong như gánh mẹ quê
Ngả nghiêng như cánh cò về trong mưa

                  (Đàn Bầu-trong tập thơ: Tình thơ trên phận người)

            Và đây là không gian lãng mạn của thi nhân:

                        MÙA THU BÊN KHUNG CỬA

Này em ngồi bên khung cửa
Có thấy mùa Thu đang rơi
Mùa Thu về trên chiếc lá
Vàng phai lem luốc dấu đời

Từng ngày trôi từng chiều rơi
Vẫn em và khung cửa nhỏ
Lần tay tìm trong tiếng gió

Từng ngày xa từng ngày xưa

Thanh xuân qua như cơn mưa

Lưng chừng đời em sũng ướt
Gom về vỗ giấc mơ trưa
Chênh chao bên đời em bước

Này em ngồi bên khung cửa
Đang vá áo hay vá đời
Chiếc lá mùa Thu đang rơi

Vẫn nâng niu từng sợi nắng

Từng sợi mùa Thu lẳng lặng

Dệt vàng trời đất trinh nguyên
Dệt đời em vuông lụa trắng
Còn thơm hương vải tinh tuyền

Này em ngồi bên khung cửa
Có thấy mùa Thu đang rơi?
Tay nâng niu từng sợi nắng
Vá đi em, cả đất trời…

          Cao Gia An, S.J. – Roma 10.2018

            Bài Lục bát này khám phá nhiều tứ thơ mới lạ:

Ta đi ngược giữa phố người
Ngược con dốc nắng lên đồi tịch liêu
Đồi cao ngược gió hiu hiu
Trời cao ngược bóng phủ chiều thênh thang

Ta đi qua phố, qua làng
Qua đồi, qua núi, qua ngàn trùng xa
Qua ngã bảy, qua ngã ba
Qua vương víu, qua phù hoa trần hồng

Lắm khi ta lội ngược dòng
Quờ tay ngỡ chạm mặn nồng hôm xưa
Giật mình cứ ngỡ như vừa…
Men mùa cũ đẫm say sưa gót mềm

Lắm khi lội ngược dòng đêm
Lắm khi leo ngược dốc tìm trời cao
Trời cao lấp lánh muôn sao
Ngu ngơ ta với hụt vào mênh mông

Khi bàn tay chạm hư không
Chợt rụng rơi những vọng trông vô hình
Là khi ta gặp lại mình
Ngược mưa nắng, ngược linh đinh dòng đời

Ta đi ngược giữa phố người
Ngược tiếng khóc, ngược tiếng cười nhân gian
Sông mây chảy ngược về ngàn
Ta lặn lội ngược trần gian
Về Nguồn

            (Ngược)

Cao Gia An, S.J.
Torricella in Sabina – 18.09.2012

            Lm Cao Gia An cũng có những bài quan tâm đến thế sự, quê hương đất nước, (Lỗi hệ thống, Mùa vọng cho quê hương, Cong, Bao giờ.), chuyện đời ( Khôn và Ngu, Rửa tay), những bài giáo huấn (Anh và Người), thi ca cầu nguyện (Thêm lần nữa, Vào Chay. Xin đừng ngoảnh lại), thơ kêu gọi (Tỉnh thức, Mặt trời và chiếc bóng). Nghĩa là biên độ sáng tác của ngòi bút Cao Gia An rất rộng, không chỉ bó mình trong “Thi Ca Cầu Nguyện”.

Con đường sáng tạo của Lm. Cao Gia An còn thênh thang phía trước và hứa hẹn đóng góp nhiều thơ hay cho kho tàng thơ Công giáo đương đại.

2.THƠ CỦA LM. ĐAM KHUẤT DŨNG SSS.

            Thơ của Lm. Đam Khuất Dũng SSS nằm trong dòng “Huấn ca” của văn học truyền thống Công giáo và văn học dân tộc (ca dao, Dân ca, vè).

Gọi Huấn ca là “văn chương bình dân” vì dòng văn học này hướng về quảng đại quần chúng bình dân. Ngày xưa người bình dân thường thất học nên hình thức ca vè truyền khẩu được sử dụng để sáng tác, phổ biến và lưu truyền trong dân gian. Ca dao, vè, thường dùng thể lục bát dễ thuộc, dễ nhớ, dùng ngôn ngữ của người bình dân mộc mạc, nôm na. Chất liệu thi ca bình dân là sự vật, sự việc ở ngay xung quanh, ngay trong môi trường sống hàng ngày, gần gũi sống động. Ca dao, vè được sáng tác để chia sẻ, cổ vũ mọi người ngay trong hoàn cảnh sống đang diễn ra. Tuy ca dao, dân ca, vè sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, dùng nhiều tu từ, song mục đích thông tin (vè), mục đích bày tỏ (ca dao) là chính. Ca dao, dân ca sử dụng ba thể: thể Phú, thể Tỷ, thể Hứng để diễn đạt. Ngôn ngữ của ca dao là ngôn ngữ biểu cảm bộc lộ trực tiếp ý tưởng, khác với thơ. Thơ phô diễn ý tưởng bằng tứ…

“Trâu ơi ta bảo trâu này

 Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta…”

Cho nên “văn chương bình dân” là tiếng nói trực tiếp, là tiếng lòng bộc trực của người bình dân. Cái hay cái đẹp của văn chương bình dân là ở sự chân thành, ở tấm lòng yêu thương con người, yêu thương quê hương đất nước, ở hình ảnh đời sống người dân quê  (bài Tát nước đầu đình), và ở tính minh triết dân gian (thí dụ bài Thằng Bờm có cái quạt mo). Vì thế việc đọc “văn chương bình dân” sẽ rất khác cách đọc “văn chương bác học”. Bởi vì, về thi pháp, về tư tưởng Mỹ học, về mục đích sáng tác, đối tượng sáng tác của hai dòng văn học này khác nhau. Cho nên cái hay của một bài ca dao khác rất xa cái hay của một bài Tứ tuyệt Đường luật, hay một bài thơ Lãng mạn. Những nhà thơ nhà văn lớn của dân tộc đều học tập từ suối nguồn văn học dân gian (Truyện Kiều, Lục Vân Tiên chẳng hạn).

            Thơ của Lm Đam Khuất Dũng SSS là kiểu loại thơ như thế, nên việc đọc, tiếp cận thơ phải được xem xét ở những hệ quy chiếu khác.

SỐNG YÊU
(Suy niệm Ga 14, 15-21)

Lệnh truyền di chúc Thầy ban
Những ai tuân giữ giới răn thật lòng
Thánh Thần bào chữa cậy trông
Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp thông muôn đời
Muối men ướp mặn trần đời
Tình thương xót Chúa tha người thứ tha
Tim yêu chất ngất chan hòa
Sông sâu biển rộng bao la vô bờ

Con đây nhỏ bé đơn sơ
Chuyên chăm đáp trả phụng thờ sớm mai
Siêng năng dự lễ khẩn nài
Mân côi lần chuỗi miệt mài thực thi
Trung thành đức ái kiên trì
Không hề giết hại thai nhi lạnh lùng
Chẳng ham cờ bạc bần cùng
Gia đình son sắt thủy chung khang trường
Văn minh văn hóa tình thương
Nước trời hạnh phúc hướng đường con đi.
            Lm. Khuất Dũng sss
(Đây là nội dung bài thơ của Tin Mừng chúa nhật thứ 6 Phục Sinh).

Đọan Tin Mừng (Ga 14, 15-21):

“Nếu anh em Yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa

Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.  Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ Yêu mến Thầy. Mà ai Yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy Yêu mến. Thầy sẽ Yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”

            Tám câu đầu của bài thơ, tác giả trình bày lại nội dung đọan Tin Mừng bằng một cách nói tóm tắt “đại ý” (không gò bó theo đúng câu chữ của văn bản Tin Mừng). Phần còn lại tác giả nhập thân với giáo dân, nói lên niềm xác tín bằng hành động những gì Lời Chúa dạy: con tôn thờ Chúa sớm mai, siêng năng dự lễ, siêng năng lần chuỗi Mân Côi, kiên trì thực hiện đức ái. Trong sống đạo hôm nay (môi trường sống hiện tại, dùng ngôn ngữ hiện đại), con không tham gia vào “văn hóa sự chết”: giết hại thai nhi, cờ bạc, giữ thủy chung son sắt (không ly dị), xây dựng nền “văn minh tình thương”.

Những xác tín ấy là những điều cụ thể, ngắn gọn, trọng tâm mà người Mục tử muốn tín hữu của mình thực hiện ngay trong đời sống hàng ngày của mỗi người. Nếu giáo dân ghi nhớ và thực hiện những lời giáo huấn ấy, thì mục đích sáng tác loan báo Tin Mừng đã thành công.

 Đấy cũng là mục đích của Huấn ca Công giáo truyền thống (Huấn ca của Trần Lục của Xuân Ly Băng…). Bài thơ này nếu được đọc sau bài giảng lễ đoạn Tin Mừng (Ga 14, 15-21) sẽ được giáo dân cổ vũ nhiệt liệt. Bởi vì tính chất của văn chương bình dân là sáng tác, phục vụ công chúng ngay trong hòan cảnh sống. Nó mang tính đối thoại, chia sẻ và là tiếng nói chung của cộng đồng.

            Nói như thế không có nghĩa rằng thơ viết cho công chúng không có yêu cầu về nghệ thuật. Trái lại là khác. Văn chương bình dân có thi pháp riêng, có tư tưởng thẩm mĩ riêng, có mục đích, đối tượng, và cách thể hiện riêng. Nếu không nắm được những nguyên tắc sáng tác ấy, người làm thơ chỉ là người bắt chước một cách máy móc, không thể sáng tạo. Nhiều người không hiểu điều này, chỉ nghĩ “Nôm na” bình dân thì thế nào cũng được. Nói như thế thì làm sao giải thích được do đâu những bài ca dao có sức sống lâu dài trong lòng dân tộc? Ca dao, dân ca, tục ngữ đã góp phần giáo dục tâm hồn, phẩm chất và bản sắc Việt qua bao đời.

Xin đọc lại bài ca dao đầy tình yêu thương là bài “Trâu ơi ta bảo trâu này”. Bài “Hôm qua tát nước đầu đình” có nghệ thuật kể chuyện sinh động, tinh tế, ý nhị. Bài “Trèo lên cây bưởi hái hoa” là thơ tình của lứa đôi (thể giao duyên), chất chứa bao nỗi niềm. Bài “Thằng Bờm có cái quạt mo”, một bài kể chuyện, tuy rất giản dị, dễ hiểu, nhưng đã bao đời nay, mấy ai hiểu đúng ý nghĩa minh triết của nó! Thơ “giáo huấn” cần có những hình ảnh gây ấn tượng như “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…”. Ước mong Văn học Công giáo có nhiều thơ “giáo huấn” đẹp như Ca dao.

Xin đọc thêm thơ của Lm. Đam Khuất Dũng SSS: Niềm vui gặp Chúa, Tin (Mt 8, 5-11), Bé nhỏ (Lc 10, 21-24), Chân chính (Mt 7, 21. 24 – 27), Mù câm (Mt 9, 27 – 31), Nén bạc (Mt 24, 14 – 30), Mến Chúa yêu người (Mt 18. 21-35), Sống đạo yêu (Mt 18. 21-35), Lòng Chúa Xót Thương (Ga 3, 13-17), Giờ của Chúa (Ga 12, 20-33),Hãy theo Thầy (Mc 1, 14-20)

3.THƠ CỦA LM. TRẦN VIỆT HÙNG, Bronx New York

            Tôi tìm đọc thơ  của Lm Giuse Trần Việt Hùng (Bronx, NewYork) trên Thi Ca Cầu Nguyện và trên trang conggiaovietnam.net [[2]]. Lm Trần Việt Hùng có một bộ ba năm A, B, C thơ suy niệm Kinh thánh tất cả các ngày lễ trong năm. Suy niệm thơ được sắp xếp theo tuần từ Chúa nhật đến thứ Bảy: Các tuần thường niên, các mùa Vọng, mùa Chay, mùa Phục Sinh. Các lễ trọng, lễ kính.

            Tôi nhẩm tính mỗi năm có 365 ngày, mỗi ngày một bài thơ, ba năm A, B, C có tất cả 1095 bài thơ (365 x 3). Mỗi bài thơ 16 câu thơ lục bát, Lm Giuse Trần Việt Hùng đã viết 17.520 câu thơ lục bát dài gần gấp đôi cuốn “Sứ điệp tình thương” diễn ca Kinh thánh của Lm Fx. Nguyễn Xuân Văn (dài 9.764 câu lục bát-Nxb Tôn giáo 2001). Quả là một nỗ lực sáng tạo phi thường. Đó là chưa kể thơ làm theo những chủ đề khác của Lm Trần Việt Hùng.

            Thơ viết về Kinh Thánh, Lm Trần Việt Hùng gọi là “Thi ca suy niệm”, không phải là Thi Ca Cầu Nguyện. Điều này có gì khác biệt. Thi Ca Cầu Nguyện là thơ cầu nguyện. Tác giả Dzuy Sơn Tuyền đã nói rõ tâm tình cầu nguyện là “Tâm tình chúc tụng, thờ lạy, cầu xin, chuyển cầu, cảm tạ, ngợi khen” Thiên Chúa[[3]].

 “Thi ca suy niệm” của Lm Trần Việt Hùng nội dung chính là diễn ca Kinh thánh. Tác giả cũng diễn ca những sự việc trọng tâm của bài Kinh thánh mà không tự gò bó bám sát câu chữ của văn bản Kinh Thánh. Phần suy niệm rất nhẹ nhàng (thường chỉ nằm ở 2 câu cuối); không lộ diện việc dạy dỗ đạo đức (Huấn ca), không kêu gọi, khuyên răn với tư thế của bề trên. “Suy niệm” cũng không viết theo “công thức” có sẵn như Thi Ca Cầu Nguyện của các tác giả phong trào là giáo dân.

Thơ lục bát của Lm Trần Việt Hùng khá tự nhiên, ngôn ngữ được chọn lọc. Tâm tình là tâm tình chung, không có sự hiện diện của “Cái Tôi” hay Cái Ta” (như trong thơ trữ tình). Bộ diễn ca Kinh thánh theo năm phụng vụ này nếu được tập hợp lại để in sẽ là bộ sách quý của Văn học Công giáo đương đại.

Xin đọc thơ của L, Trần Việt Hùng trong một tuần:

THI CA SUY NIỆM CHÚA NHẬT PHỤC SINH. C

 (Ga 20: 1-9)

MỒ TRỐNG

Yêu thương chan chứa đong đầy,

Ma-ry thức giấc, nhớ Thầy mồ chôn.

Tinh sương sáng sớm dủ hồn,

Vội vàng cất bước, kính tôn xác Thầy.

Ai lăn tảng đá khỏi đây,

Mồ không trống rỗng, xác Thầy đi đâu.

Trở về loan báo tin sầu,

Phê-rô vội chạy, ngó đầu vào xem.

Chỉ còn khăn liệm bên hèm,

Dây băng vải cuốn, ai đem góc mồ.

Gio-an yêu dấu tông đồ,

Ngó nhìn vào mộ, không vô, hiểu rằng,

Ông tin sống lại vĩnh hằng,

Là Con Thiên Chúa, thiên thăng cõi trời.

Trải qua sự chết phận người,

Phục sinh vinh hiển, cao vời Chúa Con.

Hy sinh tận hiến sắt son,

Cứu nhân độ thế, chính Con Chúa Trời.

Niềm vui hy vọng tuyệt vời,

Cho ai tin tưởng, Ngôi Lời Phục Sinh.

THỨ HAI, TUẦN 1 PHỤC SINH

(Mt 28, 8-15).

ĐỪNG SỢ

Mấy bà vội vã ra đi,

Vui mừng loan báo, những gì xảy ra.

Giê-su đón gặp các bà,

Ôm chân phục lạy, Chúa ta sống còn.

Báo tin môn đệ héo hon,

Trở về xứ sở, đường mòn đã qua.

Ga-li-lê chốn phương xa,

Thầy trò sẽ gặp, ngợi ca Chúa Trời.

Lính canh Thượng tế xu thời,

Nhận tiền hối lộ, nói lời dối gian.

Nhóm người Kỳ lão hỏi han,

Tin lành dấu nhẹm, khai man chính quyền.

Nói rằng trộm xác y nguyên,

Loan tin khắp cả, tương truyền hôm nay.

Chúa đã sống lại ai hay,

Hiện ra minh chứng, thân này Phục sinh.

THỨ BA, TUẦN 1 PHỤC SINH

(Ga 20, 11-18).

RABBONI

Ma-ri-a đứng gần mồ,

Đau buồn than khóc, ngó vô kiếm tìm.

Thiên thần áo trắng ngồi im,

Đầu, chân mỗi phía, lắng chìm ngất ngây.

Tại sao bà khóc nơi đây?

Thưa rằng ai trộm xác Thầy đi đâu.

Giê-su đứng đó hồi lâu,

Bà không nhận biết, mặc dầu Chúa đây.

Tìm ai? Chúa hỏi, bà này,

Xin cho tôi biết, đặt Thầy nơi nao?

Giê-su khẽ nhắc lời chào,

Ô Ma-ri-á, tiếng sao dịu dàng.

Rab-bo-ni, lạy thánh nhan,

Hãy đi loan báo, mọi làng hân hoan.

Chúa nay thực đã khải hoàn,

Chết đi sống lại, hoàn toàn phục sinh.

THỨ TƯ, TUẦN 1 PHỤC SINH

(Lc 24, 13-35).

EMMAUS

Có hai môn đệ về làng,

Em-maus tiến bước, dẫn đàng sầu đau.

Truyện trò gợi nhớ trước sau,

Giê-su tiến lại, cùng nhau đồng hành.

Mắt họ che phủ mong manh,

Tai sao buồn bã, tan tành trí tâm.

Hòa mình khách lạ quan tâm,

Ông không hay biết, việc lầm đã qua.

Các thầy trưởng tế mở tòa,

Hùa nhau kết án, mù lòa dối gian.

Tử hình thập giá gian nan,

Tiên tri quyền lực, trao ban chữa lành.

Mấy người phụ nữ báo nhanh,

Loan tin sống lại, xuất hành đó đây.

Bàn ăn cầm bánh trong tay,

Tạ ơn Thiên Chúa, mắt rầy sáng ra.

THỨ NĂM, TUẦN 1 PHỤC SINH

(Lc 24, 35-48).

THẦY ĐÂY

Khi Thầy bẻ bánh trao ban,

Hai ông nhận biết, xóa tan nỗi sầu.

Trở về loan báo phép mầu,

Giê-su đứng giữa, khởi đầu chúc an.

Các con đừng sợ gian nan,

Mọi người bối rối, mê man không ngờ.

Tưởng rằng ma quái vật vờ,

Thầy đây xương thịt, hãy sờ chân tay.

Vui mừng bỡ ngỡ lạ thay,

Chúa ta sống lại, thân này thực hư.

Ăn phần cá nướng còn dư,

Trao cho môn đệ, giống như mọi lần.

Chúa thương giải thích ân cần,

Hiểu lời Kinh Thánh, góp phần chứng minh.

Khổ đau hiến tế thân mình,

Ba ngày sống lại, phục sinh khải hoàn.

 THỨ SÁU, TUẦN 1 PHỤC SINH

(Ga 21, 1-14).

THẢ LƯỚI

Tông đồ đánh cá thâu đêm,

Uổng công canh thức, chẳng thêm mẻ nào.

Rạng đông Chúa đến hỏi sao,

Các con dự tính, đãi khao món gì?

Đồng thanh đáp, chẳng có chi.

Chúa truyền thả lưới, hạ chì xuống sâu.

Lưới đầy nặng trĩu một bầu,

Cá to cá nhỏ, ghe tầu đầy vơi.

Phê-rô nghe biết Ngôi Lời,

Vội vàng khoác áo, nhảy bơi vào bờ.

Tông đồ phụ giúp chẳng ngờ,

Lửa than sắp sẵn, chực chờ nướng trui.

Thầy trò gặp mặt mừng vui,

Chia nhau mẩu bánh, tới lui xum vầy.

Tin yêu xác tín là Thầy,

Ba lần hiện đến, đong đầy niềm vui.

THỨ BẢY, TUẦN 1 PHỤC SINH

(Mc 16, 9-15).

LOAN TIN

Hôm nay sáng sớm trong tuần,

Giê-su hiện đến, khơi nguồn tin yêu.

Ma-ry diễm phúc yêu kiều,

Chúa thương nhắn gởi, đôi điều truyền rao.

Loan tin sống lại khai mào,

Tâm hồn xao xuyến, khát khao gọi mời.

Tông đồ môn đệ buông lơi,

Đức tin non yếu, Thầy ơi độ trì.

Chúa thường khiển trách hoài nghi,

Nghi ngờ hạch hỏi, đôi khi cứng lòng.

Thỏa điều nguyện ước cầu mong,

Chỉ cho xem thấy, vết trong thân mình.

Niềm tin phó thác hy sinh,

Truyền rao chân lý, phục sinh sống đời.

Nhiệm mầu sự sống cao vời,

Tin mừng rao giảng, mọi thời mọi nơi.

            Lm. Giuse Trần Việt Hùng (Bronx, New York)

            Giữ được cảm hứng sáng tạo dài hơi như thế, thể hiện một nội dung vừa có bề rộng vừa có bề sâu như thế, huy động được một vốn từ vô cùng đồ sộ và làm chủ được vần điệu Lục bát một cách tự nhiên như thế, không phải người làm thơ Lục bát nào cũng đạt được. Tôi nghĩ đó là một tài năng Chúa ban cách riêng cho tác giả.

4.THƠ CỦA ĐINH VĂN TIỀN HÙNG

            Trên Thi Ca Cầu Nguyện, Đinh Văn Tiến Hùng ít xuất hiện. Thỉnh thoảng chỉ đăng một bài. Nhưng tôi tìm thấy trên thanhlinh.net 174 bài cả thơ và tạp văn [[4]] của Đinh Văn Tiến Hùng. Ông không có kế hoạch dài hơi cho bất cứ đề tài nào. Thơ ông có bài suy niệm Kinh thánh, có bài viết về các thánh (Giuse xóm đạo quê nghèo, Thánh cả Giuse, Cảm nghiệm về cuộc đời mẹ Teresa Calcutta, Thánh Phanxico Assisi: Người anh em khó nghèo…), về Đức Mẹ và tháng hoa (Khúc hoan ca Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Tháng hoa dâng Mẹ), về mùa Giáng Sinh (Noel dấu ấn tâm hồn, Liên khúc Giáng Sinh), về tháng các linh hồn (Requiem), về mùa Chay (Cám dỗ, hãy nhớ mình là bụi tro), mùa Phục Sinh (Di ngôn đồi thập giá, Bản Ai Ca Đồi Thập Gía, Phục sinh khải hoàn), về Chúa Thăng thiên (Chúa về trời), về Thánh Tâm, Thánh Thể (Bánh trường sinh, Thánh tâm Chúa Giê su), về Lòng Chúa Xót Thương (Cảm tạ Lòng Chúa Thương Xót), về cha, mẹ (Bài ca dao cho cha, Nhớ thương cha, nhớ mẹ), về những kỷ niệm (Nhớ mãi tháng hoa xưa) và có cả thơ thế sự (Sống gửi thác về, Chuông nguyện hồn ai…)

            Đinh Văn Tiến Hùng có quan niệm riêng về Thi Ca Cầu Nguyện:

THƠ KINH NGUYỆN CẦU

Chúa ơi! Con có gì đâu,

THƠ KINHtha thiết NGUYỆN CẦUdâng lên

“Kinh cầu nhẹ gõ cửa hồn,

Trần gian dục vọng bồn chồn tâm linh,

Bao nhiêu thệ ước ân tình,

Chúa thương xin để an bình tin yêu” (1)

Tôi không phải là thi nhân Công giáo,

Mà chỉ là người Công giáo làm thơ  (2),

Cả đời tôi không biết đến bao giờ,

Mới trở thành một nhà thơ tên tuổi?

Nhưng điều đó tôi nào đâu tiếc nuối,

cuộc đời đã là một bài thơ.

Sống trọn vẹn với năm tháng ngày giờ,

Đó chính là bài thơ muôn vần điệu

Thân thể tôi: một tác phẩm kỳ diệu,

Nhịp tim luôn cuộn dòng máu nhịp nhàng,

Dâng sức sống như biển cả mênh mang,

Đem Tình Yêu dệt bài thơ Hằng Sống.

Trí óc tôi: một kỳ công sống động,

Nhanh hơn nhiều muôn làn sóng viễn thông,

Nguồn tư tưởng chất chứa thật mênh mông,

Triệu lời thơ cũng từ đây phát xuất.

Đã khi nào ta tìm ra sự thật,

Bởi do ai mà ta sống bấy lâu,

Buông tay xuống rồi sẽ trở về đâu?

Ôi! Đời sống là bài thơ huyền nhiệm.

Buổi sớm mai khi vầng đông xuất hiện,

Gieo nguồn sống trên khắp mặt địa cầu,

Chim ca hát, hoa khoe sắc muôn màu,

Đẹp hơn cả ngàn bài thơ dệt mộng.

Có khi nào tâm hồn ta rung động,

Trước tang thương khổ lụy của bao người,

Có khi nào ta đem một nụ cười,

Trao nhân thế những lời thơ cứu khổ?

Cuộc sống này đâu có gì bền đỗ,

Bám quanh địa cầu hơi thở mong manh,

Lòng đất sục sôi muốn nổ tan tành,

Biển dâng trào, bão cuốn trôi tất cả!

Đừng kiêu căng khoe công trình vĩ đại,

Đừng tự hào với sáng chế kỳ công,

Trong phút giây sẽ biến vào hư không,

Rồi sẽ bị chìm sâu vào quên lãng!

Vườn E-đen xưa Thiên đàng sáng lạn,

Vạn vật, đất trời mở rộng nguồn thơ,

Nhưng Nguyên Tổ bất kính Chúa tôn thờ,

Nên tội lỗi đã tràn đầy vũ trụ.

Lòng con đây giờ không còn do dự,

Đất trời thơ với muôn vật ngàn hoa,

Đêm huyền diệu nhìn tinh tú ngợi ca,

Ôi! Thượng Đế Đại Thi Nhân Sáng Tạo!

Tôi không phải là thi nhân Công giáo,

Mà chỉ là người Công giáo làm thơ,

Cuộc đời tôi cho đến tận bây giờ,

Chỉ Dâng Thơ thay cho Kinh Cầu Nguyện.

Đinh Văn Tiến Hùng

Ghi chú : (1) Thánh Thi Phụng vụ

(2) Mượn ý tiểu thuyết gia Pháp Francois Mauriac:

“Tôi không  phải là tiểu thuyết gia Công giáo,

Mà chỉ là người Công giáo viết tiểu thuyết

Đinh Văn Tiến Hùng làm thơ như Kinh cầu nguyện xin Chúa ban bình an tin yêu. Quan điểm thơ của ông tiếp cận được với Mỹ học Kitô giáo. Thiên Chúa là Đấng Sáng tạo vĩ đại. Tất cả những gì Thiên Chúa làm ra đều tốt đẹp. “cuộc đời đã là một bài thơ”,Thân thể tôi: một tác phẩm kỳ diệu”,”Chim ca hát, hoa khoe sắc muôn màu,/ Đẹp hơn cả ngàn bài thơ dệt mộng”. “Đất trời thơ với muôn vật ngàn hoa,/Đêm huyền diệu nhìn tinh tú ngợi ca,/Ôi! Thượng Đế Đại Thi Nhân Sáng Tạo!”. Đó là nhận thức về bản chất của “Cái Đẹp”, tức là bản chất của nghệ thuật. Văn chương là sự sáng tạo Cái đẹp bằng ngôn ngữ. Với nhà văn Công giáo, Cái Đẹp ấy chính là Thiên Chúa và Đức Giêsu là hiện thân của “Cái Đẹp trọn hảo”.

Việc nhận ra Cái đẹp với việc sáng tạo Cái Đẹp là hoàn toàn khác nhau. Cho nên Đinh Văn Tiến Hùng biết rõ “Tôi không phải là thi nhân Công giáo,/ Mà chỉ là người Công giáo làm thơ“, mặc dù ông không dấu tham vọng trở thành “nhà thơ tên tuổi”.

Thực ra Đinh Văn Tiến Hùng không chỉ làm thơ cầu nguyện mà còn làm thơ thế sự. Xin đọc:

CHUÔNG NGUYỆN HỒN AI 

“Ai sống và tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống, ai sống và tin vào Thày sẽ không bao giờ phải chết “ ( Ga. 11:26 .)

Tháng 11 Cầu nguyên cho các Linh Hồn.

Nắng chiều lịm tắt sau đồi

Sương dâng lan toả chơi vơi ngập ngừng,

Hồi chuông nhỏ giọt rưng rưng,

Tiễn đưa ly biệt nghe chừng phiêu du.

Những ngày thơ ấu năm xưa,

Chuông nhà thờ đổ tôi chưa hiểu gì,

Tưởng rằng tạm biệt người đi,

Dù xa xôi mấy ngày kia cũng về.

Như thuyền rời bến sơn  khê,

Chim thiên di vẫn nhớ quê thuở nào.

Như người viễn xứ nôn nao,

Tình quê chan chứa làm sao không buồn.

Bao lần tắt nắng chiều hôm,

Bao lần chuông nhỏ giọt buồn tiễn ai,

Bao lần viễn khách thở dài,

Song thân khuất bóng con trai muộn về.

Người em vĩnh biệt chiều quê,

Anh còn chinh chiến nặng thề nước non.

Chị ơi ! Kiếp sống mỏi mòn,

Khi chị nhắm mắt em trong lao tù.

Cuộc đòi trải mấy nắng mưa,

Xa quê biền biệt vẫn chưa trọn thề,

Nơi đây cách vạn sơn khê,

Không nghe chuông nhỏ lê thê giọt buồn.

Mỗi lần nhạt nắng chiều hôm,

Đâu đây văng vẳng tiếng buồn thở than,

Dù cho năm tháng phai tàn,

Không quên lời nguyện Chuông vang Cầu Hồn.

Đinh văn Tiến Hùng

(Nhan đề mượn tên tiểu thuyết “Chuông nguyện hồn ai” của E. Hemingway)

Trong bài thơ này,Đinh Văn Tiến Hùng kể lại hoàn cảnh ly tán của gia đình mình mỗi khi nghe tiếng chuông chiều. Một nỗi buồn mênh mang bao trùm. Song thân khuất bóng, Người em vĩnh biệt, người anh còn đi chính chiến, Người chị sống kiếp mỏi mòn, và “Khi chị nhắm mắt em trong lao tù.”. Tác giả trải qua hơn 10 năm trong trại cải tạo. Sau đó ông đi định cư ở nước ngoài, và tiếp tục sống xa quê: “Xa quê biền biệt vẫn chưa trọn thề,/ Nơi đây cách vạn sơn khê,/ Không nghe chuông nhỏ lê thê giọt buồn”.Bài thơ nặng tình quê, tình gia đình hơn là tâm tình cầu nguyện ngợi ca Thiên Chúa.

“Cuộc đời tôi cho đến tận bây giờ,

Chỉ Dâng Thơ thay cho Kinh Cầu Nguyện”

            Khi kể lại những đau khổ của bản thân và gia đình, tác giả không nhìn ra “Cái đẹp” của những đau khổ ấy dưới ánh sáng Tin Mừng và Mỹ học Kitô giáo. Đức Kitô bị xỉ nhục ở dinh Philatô. Ngài phải vác thập giá và chịu đòn roi trên đường lên núi Sọ, và chết cô độc trần trụi trên thánh giá. Tất cả những điều đau khổ ấy tỏa sáng vẻ đẹp Ơn Cứu Độ, vẻ đẹp Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài chiến thắng tội lỗi, chiến thắng thế gian, chiến thắng sự chết, một “Cái đẹp” hùng vĩ hơn bất cứ cái đẹp nào khác.

            Vâng, giữa nhận thức Mỹ học Kitô giáo và sáng tác trong thơ Đinh Văn Tiến Hùng còn khoảng cách rất xa. Dù sao, trong các khuôn mặt Thi Ca Cầu Nguyện, Đinh Văn Tiến Hùng có khuôn mặt thơ rắn rỏi, góc cạnh và có những nét mới. Xin đọc thêm bài Bản ai ca đồi thập giá để hiểu thêm về nghệ thuật thơ Đinh Văn Tiến Hùng.

5. THƠ THẾ KIÊN DOMINIC

Thế Kiên là người có mặt đều đặn trên cả nguyệt san Đồng Xanh ThơThi Ca Cầu Nguyện ngay từ đầu đến nay. Mỗi số báo đều đăng 3 bài của Thế Kiên. Thử tính TCCN đã phát hành 511 số và Đồng Xanh Thơ phát hành 114 số, tổng số bài thơ của Thế Kiên là: 1875 bài. Một lượng bài “khủng”. Thật đáng nể sức viết của cụ Thế Kiên Dominic (Khi cụ tham gia Đồng Xanh Thơ, Cụ đã trên 90 tuổi).

Thơ Thế Kiên là thơ “giáo huấn”, nằm trong thể “huấn ca” truyền thống (Huấn ca của Trần Lục, Xuân Ly Băng). Thơ được dùng để dạy dỗ về Tin Mừng, về tín lý về đạo đức lối sống và về những điều khôn ngoan ở đời mà người Công giáo cần phải trung kiên thực hiện từ bản thân, từ trong gia đình đến ngoài xã hội.

Tin Mừng Chúa dạy hôm nay:

Yêu thương thù địch, điều này nhớ ghi

Dĩ ân báo oán, thực thi,

Không là nhu nhược, nhưng vì tình thương.

                        (Yêu thương thù địch)

Mùa Chay Thánh, bốn mươi ngày sắp tới

Chúa cho con dọn mình xưng tội nên

            (Ăn chay và cầu nguyện)

Kiêng thịt, ăn chay, thêm nghị lực,

Giao hòa, sám hối, giữ lòng ngay

Thực thi bác ái không quan ngại

Hoạt động tông đồ dẫu đắng cay

            (Sống đạo mùa chay)

Tín hữu ta, ai nấy phải hãm mình

Chịu thương khó, giữ chay và cầu nguyện.

Tưởng nhớ Chúa: 40 ngày trong hoang địa

Người sẵn sàng vâng mệnh Thánh Ý Cha

            (Mùa chay thánh 2)

Người tín hữu trên đường về Quê Thật

Sống Tin Mừng: tin cậy Chúa Giê Su

Luôn sẵn sàng tỉnh thức tránh ba thù

Và vững bước trên con đường Thánh Giá

            (Đường thánh giá)

Người tín hữu luôn nhớ, mình yếu đuối

Như mọi người dương thế… Phải gắng công

Điều tu nhân, tích đức:  học làm lòng

Đường tội lỗi tránh xa… Tin, cậy Chúa…

Trong trường hợp:  sa cơ, phải tẩy rửa

Ngã trên đường, vùng dậy, dấn bước ngay

Chớ nản lòng… Xin sức mạnh Lời Thầy

Nhận Bí Tích Giao Hoà, nguồn an lạc…

                    (Bí tích giao hòa)

Thưởng Xuân vui nhất tại gia đình

Cha mẹ, anh em trọn nghĩa, tình

Nội ngoại: viếng thăm, lòng quý mến

Xóm làng: cụng  chén, dạ chân thành

Đồng bào Đất Nước vui an lạc

Tín hữu Đạo Trời hưởng phúc lành

Tết đến gia đình thêm phấn khởi

Nguyện xin danh Chúa được tôn vinh…

            (Xuân gia đình)

Những lời nhắc nhở, kêu gọi, giáo huấn của Thế Kiên rất đúng, rất chuẩn nên người đọc tín hữu phải “tâm phục khẩu phục”. Những lời “giáo huấn” ấy được viết bằng niềm xác tín, niềm hân hoan của Tin Mừng. Lời thơ rõ ràng, mạch lạc, khúc chiết. Thái độ diễn ngôn là thái độ khẳng định, nên thơ “giáo huấn” dễ đọc.

Thế Kiên có ý thức chắt lọc ngôn ngữ, sử dụng thể Thất ngôn Đường luật để tạo nên tính trang trọng. Các phép đối, gieo vần, bố cụ rất chuẩn theo luật thơ. Nghệ thuật kể chuyện Kinh thánh của Thế Kiên giản dị nhưng hấp dẫn, suy niệm rất nhẹ nhàng:

PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN TẠI CANA

(CN 2 TN C (Ga 2, 1-12)

Chúa và Mẹ tham gia tiệc cưới

Tại Cana cùng với môn đồ

Xảy ra một chuyện bất ngờ

Nửa chừng tiệc cưới rượu nho hết rồi

Ý Mẹ muốn Ngôi Lời rạng vẻ

Chúa bỏ qua, nhưng Mẹ ép nài

Gọi người giúp việc tới ngay

Chúa đành ra lệnh chất đầy sáu chum…

Chúa lại bảo ngôi trùm giúp việc

Múc rượu đưa quản tiệc tiếp tân

Bất ngờ, quản tiệc phân vân

Rượu ngon sao để cuối phần tiệc vui ?

***

Thánh sử chép: đây là phép lạ

Lần đầu tiên Chúa đã thực thi

Vâng theo ý Mẹ từ bi

Dạy người môn đệ kiên trì tín trung …

            (Thế Kiên Dominic-TCCN số 98)

            Nội dung “giáo huấn” trong thơ Thế Kiên là những điều mọi giáo hữu đều đã biết, đã được nghe Linh mục giảng dạy nhiều lần. Tôi nghĩ Thế Kiên cần có những khám phá mới mẻ những suy niệm sâu sắc hơn để làm mới thể “huấn ca” truyền thống.

Tôi ghi nhận thơ Thế Kiên Dominic với lòng quý mến và thán phục. Tôi nghĩ rằng, nỗ lực sáng tạo, tâm huyến của cụ Thế Kiên Dominic với thi ca Công giáo là bài học đáng để người làm thơ trẻ học tập.

(Mời xem tiếp phần II)

Tháng Thánh Giuse/ 2022

Bạn có thể download bản full theo link:

https://www.mediafire.com/file/kwvc5qednkz82wz/10+KHUÔN+MẶT+THƠ+TCCN-bài+viết+Offical.pdf/file


[1] Bùi Công Thuấn-Thơ Sơn Ca Linh:

https://www.vanthoconggiao.net/2021/11/khuon-mat-tho-cong-giao-uong-ai-tho-son.html

Bùi Công Thuấn-Thơ Cao Danh Viện:

https://vanhoadatmoi.net/chuyen-de/nhung-khuon-mat-tho-ca-cong-giao-duong-dai-tho-mic-cao-danh-vien.html

[2] http://conggiaovietnam.net/index.php?m=home&v=detail&ia=19860

[3] https://www.vanthoconggiao.net/2019/07/thi-ca-va-cau-nguyen-bai-thuyet-trinh.html

[4] https://www.thanhlinh.net/node/100190

ĐỒNG XANH THƠ SÀIGÒN-Câu lạc bộ văn học Công giáo

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK: buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

Giới thiệu Văn học Công giáo đương đại

GHI NHẬN VỀ

CÂU LẠC BỘ ĐỒNG XANH THƠ SÀI GÒN

Bùi Công Thuấn

***

(Họp mặt Đồng Xanh Thơ Sàigòn)

CÂU LẠC BỘ “ĐỒNG XANH THƠ SÀI GÒN”

  1. Thành lập

Câu lạc bộ Đồng Xanh Thơ Sàigòn (gọi tắt là Câu lạc bộ) ra mắt lần đầu tại giáo xứ

Nam Hòa vào ngày 28/2/2010 (Nguyên tiêu Canh Dần). Lm Giuse Phạm Quốc Văn làm linh hướng. Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu là bổn mạng.

 Mục đích của Câu lạc bộ là “dùng thơ văn rao truyền và ca ngợi tình yêu Thiên Chúa”, [[1]]

  • Nhân sự

Nhân sự Câu lạc bộ không ổn định.

Các thành viên lúc đầu là: An Thiện Minh, Trầm Thiên Thu, Bùi Nghiệp, Lm Dzuy Sơn Tuyền, Vĩnh An, Thế Kiên Dominic, Maria Xuyến, Kim Hoa.

Sau 10 năm, trong cuộc họp ngày 02/01/21 tại Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận Sàigòn, Câu lạc bộ có 18 người [[2]]: Hương Quê, Lương Chuyên, Quang Chu, Quý Long, Hoà Duyên, Thái, Kiến Thụy, Hoa Vàng, Thuỳ Linh, chị Qúy Long, Bồ Câu Trắng, Tuyết Lê, Thy Hoa, Yên Vy, Nguyên, Hương, Phạm Hằng, Tiếng Vọng.

Ban Điều Hành nhiệm kỳ mới 2021- 2023 gồm các tác giả An Thiện Minh. Jos. Cao Thái. Tiếng Vọng.  Hoa Vàng. Thy Hoa.

Số người hiện diện trong các Nguyệt san Đồng Xanh Thơ cũng không cố định: Đồng Xanh Thơ số 72 có 17 người; Đồng Xanh Thơ số 73 có 31 người; Đồng Xanh Thơ số 74 (số tháng 9/ 2012) có 32 người.

            Tôi thống kê xác xuất 10 số Nguyệt san Đồng Xanh Thơ số: 03, 04, 06, 68, 69, 70, 71, 72, 73, 76. Tổng số có 80 tác giả gồm: 12 tác giả có bài thường xuyên. 35 tác giả chỉ xuất hiện 01 lần và 03 người có tên trong danh sách Câu lạc bộ nhưng không có thơ.

            12 Tác giả có bài thường xuyên là: Tuyết Mai Texas, Cù Mè, Đỗ Văn, Hoài Việt Nguyễn Vĩnh Tường, Kim Ngôn, Minh Thông, Nguyễn Văn Sướng, Thế Kiên Dominique, Trầm Thiên Thu, Trần Thanh Hà, Vũ Thủy, Xuân Phúc.

            Hiện diên trên trang dongxanhthosaigon.com, mục Tác giả và tác phẩm, của có 15 người: Bùi Nghiệp, Anna Teresa Thùy Linh, Cao Bồi Già, Dã Tràng Cát, Dzuy Sơn Tuyền, Giang Tịnh, Dương Kim Quới, Hoa Mặt Trời, Hoàng Công Nga, Học Trò Nhỏ, Hồn Biển, Kim Hải, Mai Thành, Mặc Trầm Cung, Nguyễn Quốc Dũng.

  • Hoạt động.

Ngoài việc sáng tác, hội họp, dự thánh lễ, tĩnh tâm, CLB Đồng Xanh Thơ Sàigòn còn tổ chức các cuộc họp mặt; các buổi ra mắt tập thơ của Câu lạc bộ (tập thơ “Lấp Lánh Sương Mai” ra mắt ngày 23/6/2015 [[3]]), tổ chức sinh hoạt chuyên đề ở Trung tâm Mục vụ TGP Sài gòn [[4]]…và lan tỏa đến Đồng Xanh Thơ ở các giáo phận bạn như Đồng Xanh Thơ Xuân Lộc, Đồng Xanh Thơ Quy Nhơn,…Các sinh hoạt này được tổ chức “hoành tráng”, có nhiều Đấng bậc tham dự và chia sẻ [[5]].

Về phổ biến tác phẩm, mỗi tháng Câu lạc bộ xuất bản (trên trang web dongxanhthosaigon.com) một “nguyệt san”, tính trung bình mỗi số có 80 bài, nhẩm tính, trong 12 năm qua, số lượng bài thơ của Câu lạc bộ là một gia tài lớn, trên một vạn bài (khoảng 11.000 bài).

Câu lạc bộ đã quy tụ được đông đảo người làm thơ Công giáo từ mọi miền, tạo nên một không khí, một môi trường sinh hoạt văn thơ Công giáo có sự dẫn dắt, chia sẻ của các Linh mục có uy tín trong Giáo hội. Các thành viên có cơ hội phát huy tài năng, tâm huyết  đóng góp vào thơ Công giáo đương đại.

CLB Đồng Xanh thơ Sàigòn cùng với CLB Thi Ca Cầu Nguyện được coi là tiêu biểu cho phong trào sáng tác và sinh hoạt thơ ca Công giáo từ 1980 đến nay ở phương diện tổ chức, mục đích sáng tác, hình thức sinh hoạt và hiệu quả đạt được.

  • Tính chất phong trào

Trong cách gọi hiện nay, sinh hoạt văn học nghệ thuật thế tục có hai bộ phận: “văn

 nghệ quần chúng” và “nghệ thuật chuyên nghiệp” [[6]]. “Văn nghệ quần chúng” còn gọi là văn nghệ phong trào là hoạt động chính của các Hội Văn học Nghệ thuật địa phương. Hội viên sáng tác là để phục vụ trực tiếp nhiệm vụ chính trị của Nhà nước tại địa phương. Các Hội Văn học Nghệ thuật đề ra kế hoạch sáng tác, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng hội viên, kế hoạch in ấn quảng bá tác phẩm, kế hoạch thi đua, và đánh giá tổng kết khen thưởng hàng năm.

            Tính chất “văn chương phong trào” của CLB Đồng Xanh Thơ Sàigònthể hiện ở những mặt sau đây:

Về mục đích làm thơ: “Mục đích là dùng thơ văn rao truyền và ca ngợi tình yêu Thiên Chúa”, tức là mục đích trực tiếp phục vụ tôn giáo, không đặt mục đích sáng tạo nghệ thuật. Các thành viên không sáng tác cho mục đích riêng của cá nhân.

Về nhân sự, người làm thơ thích thì tham gia, không ràng buộc.  Số thành viên Câu lạc bộ Đồng Xanh Thơ không ổn định. Trong 80 tác giả (tôi thống kê) có mặt trên Nguyệt san Đồng Xanh Thơ thì 35 người chỉ xuất hiện 01 lần. 03 người có tên trong danh sách nhưng không có thơ đăng trên Nguyệt san. Nhiều người cũng có bài đăng trên trang Thi Ca Cầu Nguyện.[[7]]. Thoáng nhìn, Câu lạc bộ có vẻ đông đảo và hoạt động mạnh, nhưng thực tế hoạt động của Câu lạc bộ là hoạt động phong trào.

Về sinh hoạt: Câu lạc bộ có kế hoạch sáng tác hàng tháng kết hợp với sinh hoạt tôn giáo (tham dự thánh lễ, tĩnh tâm, nghe linh hướng…). Thành viên Câu lạc bộ sáng tác theo kế hoạch [[8]].

Về nội dung: Thơ được làm theo những chủ đề cho trước. Tư tưởng, tình cảm được hướng dẫn trước. Nội dung thường trình bày theo công thức: công thức sám hối, công thức cảm tạ Thiên Chúa, công thức cầu nguyện, các công thức về lẽ đạo, sống đạo… Các tác giả thường cảm nhận các bài Tin Mừng Chúa nhật hàng tuần, các lễ lớn, các mùa phụng vụ. Những nội dung ấy là những điều giáo hội đã dạy. Người sáng tác phải tuân thủ tuyệt đối, không được làm sai lệch Lời Chúa, sai về tín lý.

Thí dụ:          

Nguyệt san ĐXT số 68: suy niệm về Con Đường Thương Khó.

            Nguyệt san ĐXT số 69: suy niệm về Tên Tử Tội Vô Tội nhưng đầy lòng trắc  ẩn từ bi”.

Nguyệt san ĐXT số 70: suy niệm về Đức Maria, Mẹ Thiên Quốc.

            Nguyệt san ĐXT số 73: chủ đề niềm vui Đức Mẹ hồn xác lên trời.

Nguyệt san ĐXT số 76 : suy niệm “Tôi Tin Xác Loài Người Sẽ Sống Lại.

Nguyệt san ĐXT số 77: suy niệm về Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người.

Về sáng tác: thành viên Câu lạc bộ “sản xuất” thơ hàng loạt. Một chủ đề Kinh thánh, trong một tuần, có người (với nhiều bút danh) làm được 17, 18 bài, có tuần 23 bài. Tác giả Trầm Thiên Thu, chỉ riêng bài đăng trên Thi Ca Cầu Nguyện, có tuần lên đến 17, 18, 25 bài (xem TCCN số: 498, 509, 510), tác giả Hai Tê Miệt Vườn có tuần đăng 26 bài (xem TCCN 510). Cho nên tác giả nào cũng có số bài “khủng” (trên 500 bài).  Tính trong hơn 10 năm qua, của Câu lạc bộ đã có một “kho”  hơn một vạn bài, đó là chưa kể các bài thơ thế tục, thơ thể hiện tậm tình riêng của cá nhân mỗi thành viên, và nếu gộp số bài của Thi Ca Cầu Nguyện (510 số x 80 bài: khoảng 40.000 bài) thì “kho tàng” thơ Công giáo đượng đại là vô cùng lớn (5 vạn bài)…

Trong thực tế sáng tạo nghệ thuật, Hàn Mạc Tử chỉ với một bài Ave Maria đã là bài ca ngàn đời tôn vinh Đức Mẹ. Nguyễn Nhược Pháp với bài Chùa Hương và Vũ Đình Liên với bài Ông đồ, mỗi người chỉ đóng góp một bài cũng đủ ghi tên mình vào lịch sử văn học. Nghệ thuật cần ở chất lượng, không phải số lượng.

Nguyệt san Đồng Xanh Thơ có khi đưa cả những bài thơ thế tục (không tôn giáo) vào. Tôi không rõ đó là chủ trương của Câu lạc bộ hay của người biên tập. Xin đọc các bài: Điệu thức liêu trai, Đời đá cuội, Hóa thân, Huyền thoại trăng của Viễn Dzu Tử (đxt số 73), hoặc các bài: Vào thu (Thanh sơn, đxt số 73), bài Kiếp bèo mây (Bút Xuân Trần Đình Ngọc, đxt số 76).

Nhà thơ Thiên Cung đặt câu hỏi: “Tại sao nền văn chương nghệ thuật “đời” ở Việt

Nam phát triển như vũ bảo trong những thế kỷ qua, còn trong Giáo hội Công giáo Việt nam, khu vườn văn học nghệ thuật sao mà đìu hiu đến thế!”

Câu trả lời là: Người làm thơ Công giáo không có mục đích sáng tạo về tư tưởng và nghệ thuật, không hướng về cuộc đời, không là tiếng nói của mọi kiếp nhân sinh. Đồng Xanh Thơ chỉ có mục đích: “dùng thơ văn rao truyền và ca ngợi tình yêu Thiên Chúa”, tức là tự giới hạn nội dung, chủ đề. Đức Giêsu ngày xưa đi khắp nơi, tiếp xúc với đủ hạng người trong mọi hoàn cảnh để loan báo Tin Mừng. Người đâu có tự giới hạn mình chỉ ở trong đền thờ. Cuộc sống vô cùng phong phú, đời sống tư tưởng, tình cảm, tâm linh của một người có bao nhiêu vấn đề phải đối mặt hàng ngày. Thơ đã không đáp ứng được nhu cầu của chính người sáng tác, nói chi đến người đọc.

Nội dung của ”thơ phong trào” hầu hết là những điều mà mọi người đọc giáo dân đều đã được học biết từ nhỏ. Chỉ cần đọc nhan đề bài thơ, người đọc biết tác giả sẽ viết những gì. Về phương diện thông tin, không ai đọc tin cũ. Người sáng tác phải mang đến những thông tin nghệ thuật mới, có vậy mới gây được chú ý. Nhiều bài thơ Công giáo nặng về “giáo huấn” đạo đức. Điều này cản trở độc giả đến với thơ. Bởi vì giáo dân đã nghe các Linh mục dạy dỗ về Kinh thánh trong nhà thờ mấy chục năm trong một đời người, giờ đọc thơ lại nghe lặp lại những lời “dạy dỗ” ấy, mà tác giả làm thơ đâu có thẩm quyền hơn Linh mục, thế nên sẽ không ai muốn nghe. Thơ đạo cứ trôi tuột đi, không đọng được trong lòng người đọc.

Làm thơ là sáng tạo nghệ thuật, dù với mục đích gì. Nếu không sáng tạo nghệ thuật thì thơ đánh mất bản chất của mình, thơ không còn là thơ, mà chỉ là “công cụ” thuần túy. Tôi nghĩ, người làm thơ Công giáo cần học nơi Thiên Chúa là Đấng sáng tạo vĩ đại, “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!”(St 1, 31). Tức là, Thiên Chúa sáng tạo (làm ra) mọi sự theo chuẩn mực của Cái Đẹp và Cái Thiện (tốt đẹp), người làm “thơ đạo” cũng cẩn theo chuẩn mực ấy.

Có một lý do nữa mà thơ ca, văn chương Công giáo không phát triển theo kịp với thời đại là, nhiều người cầm bút Công giáo không tự trang bị các lý thuyết văn học, không vận dụng lý luận văn học trong sáng tác, không viết dưới ánh sáng Mỹ học và Thần học Kitô giáo, thành ra chỉ loay hoay đi theo lối mòn của người đi trước. Tôi ghi nhận CLB Đồng Xanh Thơ có tác giả Vũ Thủy đã học về sáng tác thơ trong một lớp học của Mỹ. Tác giả này cũng có ý thức sáng tạo riêng, hồn thơ phong phú, thơ có chất riêng. Nhìn chung, Thơ Công giáo cũ lắm, cũ cả ý, tứ, lời và cách thể hiện. Về thể thơ, chỉ là Lục bát, Song thất lục bát, thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, thơ 5 chữ, thơ 7, 8 chữ kiểu thơ Lãng mạn trước 1945, không theo kịp thơ Việt hiện đại. Người trẻ hôm nay đọc Thơ Trẻ (thơ tự do, thơ làm với cảm thức và thủ pháp Hậu Hiện đại, hoặc kết hợp Lãng mạn với Siêu thực…).

 Vì không phải là một đoàn thể Công giáo Tiến hành, nên Câu lạc bộ Đồng Xanh Thơ không thể tham gia vào các hoạt động Mục vụ của giáo xứ để sinh hoạt như các đoàn thể khác. Hơn nữa, dù có muốn phục vụ trực tiếp tôn giáo, thì thơ ca cũng không có chỗ đứng. Trong thánh lễ, tất cả mọi lời kinh đều thuộc thẩm quyền của Giáo hội (từ Roma). Thơ của Đồng Xanh Thơ hay Thi Ca Cầu Nguyện có thể tham gia vào phần nào trong thánh lễ? Câu trả lời là không, vì chỗ nào chen được, ca đoàn đã hát thánh ca. Trong sinh hoạt của các hội đoàn Công giáo tiến hành, có đoàn thể nào dùng thơ để thông tin, để chia sẻ, để giáo huấn hay không? Câu trả lời là không. Thơ của Đồng Xanh Thơ có thể dùng để dạy giáo lý cho trẻ được không? Thưa không. Như vậy, thơ phong trào không có đất sống trong chính môi trường của mình.

Câu lạc bộ Đồng Xanh Thơ Sàigòn không là một đoàn thể Công giáo tiến hành, mặc dù có Lm linh hướng, có thánh bổn mạng, có lịch sinh hoạt như một tổ chức hành chính [[9]]. Đồng Xanh Thơ cũng hoàn toàn khác với các trường phái, các nhóm văn học, có nhân sự cố định, có tôn chỉ nghệ thuật như Tự Lực Văn Đoàn (có 7 nhà văn, đứng đầu là Nhất Linh, hoạt động với một tôn chỉ có 10 điều), Trường thơ Loạn (Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Bích Khê) hay Xuân Thu Nhã Tập (Đoàn Phú TứPhạm Văn HạnhNguyễn Xuân Sanh.)…Thơ của Câu Lạc bộ Đồng Xanh Thơ không thể sánh được với thơ của các nhóm, các trường phái thi ca thế tục vì không có mục đích sáng tạo nghệ thuật, không đem đến cho thơ ca Việt điều gì mới.

Tôi nhìn thấy tính chất chênh vênh này của thơ ca phong trào.

Nhìn chung, về mặt hiện tượng văn học Công giáo, Câu lạc bộ Đồng Xanh Thơ và CLB Thi Ca Cày Nguyện  có thể tiêu biểu cho phong trào thơ Công giáo từ sau 1980 đến nay về nhiệt tình sáng tác, về mục đích loan báo Tin Mừng, về những nỗ lực hoạt động và một “kho tàng thơ” vô cùng lớn, phản ánh tâm tư, tình cảm và thái độ của người Công giáo trong sinh hoạt tâm linh của mình. Đó là một giá trị.

NHỮNG KHUÔN MẶT “ĐỒNG XANH THƠ”

            Rất tiếc tôi không có điều kiện viết về tất cả các tác giả của Câu lạc bộ Đồng Xanh Thơ Sàigòn. Và dù có muốn, tôi cũng không đủ sức đọc một số lượng bài thơ “khủng” (hơn một vạn bài) của Câu lạc bộ. Chỉ xin ghi nhận một vài khuôn mặt tiêu biểu làm nên diện mạo của Đồng Xanh Thơ.

            1. Dã Tràng Cát (Jos Cao Thái).

Tôi tìm trên dongxanhthosaigon.com, trang Vườn thơ ân sủng, mục Tác giả và tác phẩm, Dã Tràng Cát có 320 bài thơ. Và thật kinh ngạc, trên trang thivien.net, Dã Tràng Cát có 518 bài. Ngoài ra, trên thivien.net Dã Tràng Cát còn có tài khoản thứ 2 với bút danh Học Trò Nhỏ [[10]]. Số lượng bài thơ của Đã Tràng Cát quả là một con số “khủng”. Sức sáng tác của ông thật đáng nể. Ông có ý thức quảng bá thơ của mình một cách rộng rãi ở ngoài đời (thay vì chỉ trong phạm vi “nhà đạo”). Có điều, sức lan tỏa thơ của Dã Tràng Cát còn giới hạn. Cả hai account trên thivien của Dã Tràng Cát từ 2015 đến nay (2022) tôi không tìm thấy comment hay bài viết nào về thơ Dã Tràng Cát.

            Dù sao đọc một số lượng lớn bài thơ như vậy (tôi tự giới hạn số bài trên trang dongxanhthosaigon-tác giả và tác phẩm), người đọc thấy được lòng say mê làm thơ của Dã Tràng Cát. Tác giả nhiệt tình ca tụng Chúa, hùng hồn kêu gọi mọi người, tự tin giáo huấn lẽ đời lẽ đạo, trầm lắng với “thi nguyện”, chia sẻ thơ tâm tình, và say mê họa thơ. Dã Tràng Cát còn có thơ “Khảo luận ‘Thế cuộc và con người’”(bài Dã tràng xe cát thở), thơ phóng tác (Chén thánh Têrêsa).

Xin đọc các bài tiêu biểu: Cảm xúc thánh thiêng, Khung hình Thánh Thể, Vượt thắng, Valentine tình yêu thăng tiến, Diều xuân ánh sáng, Vách thời gian, Bao la hơi thở cánh hồng, Muốn về nhà Cha, Khôn ngoan giữa đời thường, In God we trust…[[11]]

            Dã Tràng Cát làm thơ ở khắp nơi. Ông ghi rõ nơi làm bài thơ: Sài gòn, Hà Nội, Mông Triệu, Bình Thạnh, Biển Hồ Pleiku, Phương Nghĩa Kontum, Vườn Tịnh tâm, Cap Saint Jacque, Mũi Né, biển Quy Hòa, San Francisco, Dallas, Noblesville Indiana, Wyomin, Michigan, Montana, Worthington City, Lynnwood WA (làm nhiều thơ ở đây).

            Dã Tràng Cát có nhiều bài thơ lấy cảm hứng từ Kinh Thánh. Xin đọc: Giọt lệ Madalena (Ga. 20,1-2; 11-18), Đơn sơ bừng nở một trời mơ (Lc. 10, 39), Đêm Giáng trần (Lc 9,57-58), Đất mẹ và ánh sáng (Lc 12, 49), Cơn mưa thác vọng (Gr 23, 5), Chuyện tình dài trường thầy Giê su (Mt 1, 28-30), Chuyện của chim con (Mt 6, 24-34), Bình minh xuân hồng (Mt 13, 36-43)…

Dã Tràng Cát có niềm say mê họa thơ một cách đặc biệt. Đó là những bài thơ “thương tặng nữ sĩ Thy Hoàng” (bài Hoa bay, Hiệp vần thi hữu, Gốc rễ yêu thương, Giọt lệ Madalena, Đổi mới, Đêm giáng trần, Chiều xưa, Chị khỏe em mừng… ), với “nữ sĩ Tú Yên” (Giấc nồng say, Cõi ngàn phương, Bên ấy trời rạng đông); “Thương tặng em gái kết nghĩa…TH” (Em Xuân); “Tâm giao cùng cô Hồng Vân” (Đong đầy); “Chiêm nghiệm nỗi đau cùng nữ sĩ Từ Ngu” (Đón nỗi đau); “tâm giao cùng nữ sỹ Trần Thanh Vân” (Đất thiên linh, Cao nguyên hát); ”Chút giao cảm với nhà thơ Thanh Đà Nẵng” (Đại sự); “Cảm hoạ cùng nhà thơ Ng. Mai” (Dòng Hậu giang xưa); “cảm hoạ với Huyền Cầm” (Diệu yêu); “Cảm hoạ cùng nhà thơ Diệu Nguyên” (Dặm trường có Chúa); “Hoài cảm cùng nhà thơ Vương Anh Đào” (Cơn mưa chiều trầm mặc); “cảm tác theo thi phẩm “Xin” của nữ sĩ Lạc Nhạn” (Cơn đau con tim cấm, Cát bụi hành trình); “cảm hoạ cùng nữ sỹ Lê Vân” (Con vào đời như thế); với các “nhà thơ” Vũ Thắm (Em và người); Trần Khuyến (Em bên Maria); Vạc Ăn Đêm (Đường tu); Đào Công Điện (Cộ người, Cỏ biết); Hoàng Công Nga (Chuyện tình dài trường thầy Giêsu); “Chút tâm giao với anh Minh Tâm Đỗ” (Chuyện của chim con); “Cảm tác và hoạ vần theo thi phẩm “Áo trắng” của nhà thơ Huy Cận” (1919-2005)(Cánh trắng); “cảm hoạ cùng cố thi sĩ Chế Lan Viên” (Bốn mùa tin yêu)…

Ngoại trừ Huy Cận và Chế Lan Viên (hai nhà thơ Lãng Mạn trước 1945), còn lại, tôi chưa hề nghe tên các “thi hữu”, các “nữ sĩ” nào của Dã Tràng Cát trên văn đàn (có lẽ tại tôi ít đọc chăng!)

Trong buổi “Ra mắt tập thơ Lấp lánh sương mai” 2015 của Câu lạc bộ Đồng Xanh Thơ, Jos. Cao Thái chia sẻ cảm nghiệm làm thơ của ông: “Thơ tất cả là để được đắm chìm trong Chúa Thánh Thần để được Cha cầm tay tập viết từng câu thơ, và được gọi “Cha Ơi” trong suốt cuộc đời của nhà thơ”. Nói một cách đời thường, thơ của ông là rất thánh thiêng, là “thơ thần”, vì được Chúa Thánh Thần “cầm tay viết từng câu thơ”.

Xin đọc một bài (thơ Dã Tràng Cát thường là bài dài, rất ngại khi trích dẫn):

LÊN ĐÀNG

Giấc mơ vu vơ

Giò thổi vu vơ…

…Mắt tôi vu vơ xin khơi ý thơ

Lặng lẽ chốn đời nguyện một niềm mơ

Đất trời ấm nồng nào có bơ vơ

Đan kết ngàn phương ánh sáng dệt tơ.

Vu vơ thế

Ngác ngơ thế…

…Được khám phá bao nhiêu điều muốn kể

Ríu rít chim sâu thức dậy không bê trễ

Lá gió vui đùa kết tình huynh đệ

Say đắm muôn phương anh em bốn bể.

Đặt để đôi mắt

Phận người lữ khách…

…Dòng suối khát khao dẫn về nguồn mạch

Bao đêm hoang vắng sao không cô quạnh

Khí xuân tràn trề tinh sa lấp lánh

Lữ khách người con luôn có Cha bên.

Lời ru ầu ơ

Mộng hiền bé thơ…

…Tâm điểm vũ hoàn năm tháng khó mờ

Đêm có trăng sao ngày có mặt trời

Xoay quanh con trẻ thổn thức đầy vơi

Mắt Chúa ngọc ngà soi hướng trùng khơi.

Đạp lên con sóng

            Bơi những biển xa…

            …Một người hiền lương một quỷ dạ xoa

            Đi chung con đường kinh qua tận thế

            Chúa gặt lúa thơm liềm kết cỏ ác

            Ngọn lửa vu vơ thiêu rác ngục hình…

            Choàng tỉnh

            Chiêm bao

            Tôi thấy

            Bình minh

            Sáng láng thiện nhân

            Cửa mở lên đàng

                        (Vườn Tịnh Tâm, không giờ ngày Chúa nhật 7/2/2021)

Bài thơ có hương vị Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ trong nhóm Xuân Thu Nhã Tập. Nếu bạn đọc bài thơ mà không hiểu gì thì xin đọc Tuyên ngôn thơ của Xuân Thu Nhã Tập sau đây:

 Một cái gì không giải thích được, mà không cần giải thích. Nó chiếm đoạt ta tất nhiên, hoàn toàn, tức khắc. Đội nhiên ta nhảy đến cửa trời như nhào vô lòng mẹ. Không xét suy. Bằng con đường thẳng hình ảnh, tiết tấu, lễ nghi. Âm thanh, màu sắc, mùi giọng được hòa hợp thành những biểu hiện nhịp nhàng để khêu gợi những rung động siêu việt của bản nhạc Vô-cùng…Có rung động là có thơ. Phải cần và chỉ cần có rung động ấy”.

Tôi trích nguyên văn một bài để bạn đọc trực tiếp thơ Dã Tràng Cát. Bạn có thể nhận ra “cái riêng” trong việc dùng từ, cấu tứ, cách thể hiện tư tưởng, tình cảm, khẩu khí và nghệ thuật thơ Dã Tràng Cát.

Tôi xin ghi lại đây chút cảm nhận khi đọc bài thơ trên.

Nếu trong giọt nước có cả đại dương thì chỉ một bài thơ cũng chứa đựng tài thơ của tác giả (về tư tưởng, tình cảm, năng lực sáng tạo và mục đích diễn ngôn…).

                        Giấc mơ vu vơ

                        Gió thổi vu vơ…

                        …Mắt tôi vu vơ xin khơi ý thơ

                        Lặng lẽ chốn đời nguyện một niềm mơ

                        Đất trời ấm nồng nào có bơ vơ

                        Đan kết ngàn phương ánh sáng dệt tơ…

                                    (Lên Đàng)

Thú thực tôi không tin rằng tác giả được Chúa Thánh Thần là Cha “cầm tay tập viết từng câu thơ”, như những câu thơ trên và nhiều câu thơ khác như tác giả đã thổ lộ! Nghĩa là giữa thực tế sáng tác và phát ngôn của tác giả không có độ khả tín.

Khổ thơ sau đây cũng “vu vơ, bơ vơ, dệt tơ” như thế:

                        Đạp lên con sóng

                        Bơi những biển xa…

                        …Một người hiền lương một quỷ dạ xoa

                        Đi chung con đường kinh qua tận thế

                        Chúa gặt lúa thơm liềm kết cỏ ác

                        Ngọn lửa vu vơ thiêu rác ngục hình…

Câu thơ: “Đạp lên con sóng/ Bơi những biển xa” gợi ra trường nghĩa “đi biển”, vậy mà hai câu sau lại là hai người “đi chung con đường” là một trường nghĩa khác. Đặt hai trường nghĩa khác nhau bên cạnh nhau sẽ làm hỏng nội dung, phá hủy chủ đề, ngắt mạch liên tưởng kết nối ý nghĩa.

“kinh qua tận thế” nghĩa là trải qua tận thế. Thế giới này đến tận thế là hết, nào ai có thể trải qua tận thế! Việc dùng từ Hán Việt “kinh qua” không phù hợp (Dã Tràng Cát rất sính dùng từ Hán-Việt).

Hai câu: “Một người hiền lương một quỷ dạ xoa/ Đi chung con đường kinh qua tận thế”, hai người ấy, họ là ai? Tôi không rõ tứ thơ này tác giả lấy từ nguồn nào. Nếu tác giả muốn nói về dụ ngôn Cỏ lùng (Mt 13, 24-30), gọi chủ ruộng lúa và kẻ thù là hai người đi chung con đường thì rất sai về tín lý. Chủ ruộng là ẩn dụ về Chúa, kẻ thù là ẩn dụ về ma quỷ, sao Chúa có thể đi chung con đường với ma quỷ? Chỉ có lúa và cỏ lùng sống chung (người thiện và kẻ ác sống chung) lúa và cỏ lùng không thể được so sánh tường minh với hai con người: một người hiền lương, một quỷ dạ xoa đi chung con đường. Dẫu thế nào, việc sử dụng và diễn giải dụ ngôn như thế đã không bảo đảm tính chân lý của Lời Chúa. Đây là Lời Đức Giêsu giảng về dụ ngôn Cỏ lùng (Mt 13, 37-42): “Kẻ gieo hạt giống tốt là Con người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. Kẻ thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần. Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào, thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy. Con Người sẽ sai các thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người, rồi quăng chúng vào lò lửa; ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng”.

Trong câu “Chúa gặt lúa thơm/ liềm kết cỏ ác” có phép tiểu đối, đem Chúa đối với liềm thì lại sai về tín lý và không chuẩn về nghệ thuật…

Tất cả những yếu tố trên khiến khổ thơ trở nên hết sức “vu vơ”, nội dung không nói được điều gì (nội dung rỗng), cả bài thơ cũng chỉ là một “giấc chiêm bao vu vơ”, mặc dù tác giả muốn “dệt tơ” bằng “ngàn phương ánh sáng” như kiểu thơ nghệ thuật của Xuân Thu Nhã Tập chẳng hạn!.

Dùng thơ để rao truyền Tin Mừng như thế này (thơ rỗng, sai tín lý) thật khó thuyết phục người đọc.

Vâng, “thơ phong trào”  là vậy.

Dù Dã Tràng Cát có vịn vai Huy Cận, Chế Lan Viên, mượn hơi Đoàn Phú Tứ để tự nâng mình lên ngang hàng với những nhà thơ lừng danh này, thì những bải thơ “vu vơ, bơ vơ, dệt tơ” như thế của ông chỉ làm nản lòng người đọc.

2. Thơ Mặc Trầm Cung.

 Mặc Trầm Cung cũng là người khởi xướng và hiện là Chủ nhiệm CLB Thi Ca Cầu Nguyện. Có thể coi thơ Mặc Trầm Cung là tiêu biểu cho “thơ nhà đạo” đương đại ở tính chuẩn mực về nội dung, nghệ thuật, về thái độ diễn ngôn và phong cách thơ. Xin đọc một bài:

ĐÔI CÁNH TÌNH YÊU 

[Chúa Nhật XXX Thường Niên – Năm A – 2008 – (Mt 22, 34 – 40)]

Nắng chiều vương nhẹ con lang thang,

Tiếng gió vi vu tựa cung đàn.

Ru mát hồn hoang lời nhân ái,

Tim yêu rạo rực, phút miên man.

Trầm lắng tâm hồn con suy tư,

Lắng nghe Lời Chúa rất nhân từ.

Sứ điệp Tin Mừng nơi trần thế,

Yêu thương cốt tủy, lời chúc thư.

Mẫu gương sống động, hãy yêu thương,

Chúa đã dạy con, sáng nẻo đường.

Yêu Chúa – Yêu người luôn sáng tỏ,

Đôi cánh nhịp nhàng bay muôn phương.

Tuân phục một lòng Vâng Ý Cha,

Chết treo thập giá, mối giao hòa.

Sẵn sàng hiến mạng vì nhân thế,

Nối kết ân tình ơn thứ tha.

Tình yêu đòi hỏi biết hy sinh,

Thử thách, gian nan, vác thập hình.

Phục vụ quên mình, tình dâng hiến,

Của lễ ân tình luôn trung trinh.

“Yêu mến như Thầy yêu anh em”,

Tình yêu tuyệt hảo, sáng ngọn đèn.

Bài ca đức ái Thầy dạo khúc,

Nhân loại hiệp lòng tấu Amen./. 

Mặc Trầm Cung.

Nhiều bài thơ của Mặc Trầm Cung được làm theo thể thơ 7 chữ với nhạc điệu, ý tứ như kiểu thơ Lãng Mạn trước 1945. Tiếng thơ là tiếng lòng của tác giả (thơ tự tình) là tiếng nói nội tâm. Ngôn ngữ được chọn lọc. Nội dung là những tín niệm trong đạo được dạy từ Kinh thánh, từ những bài giảng lễ của Linh mục trong nhà thờ: “Lắng nghe Lời Chúa”, vì đó là “Sứ điệp Tin Mừng “. “Chúa dạy…Yêu Chúa – Yêu người” “Yêu mến như Thầy yêu anh em”. Bởi vì, Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”(Ga 15, 13):

Tuân phục một lòng Vâng Ý Cha,

Chết treo thập giá, mối giao hòa.

Sẵn sàng hiến mạng vì nhân thế,

Nối kết ân tình ơn thứ tha.

            Từ đây tác giả rút ra bài học suy niệm:

Tình yêu đòi hỏi biết hy sinh,

Thử thách, gian nan, vác thập hình.

Phục vụ quên mình, tình dâng hiến,

Của lễ ân tình luôn trung trinh…

            Vâng, như vậy là chuẩn mực cả về thể thơ, nội dung thơ, về tín lý và về sống đạo. Thơ thực hiện mục đích rao truyền Tin Mừng. Đọc những bài thơ như thế này, các Đấng bản quyền rất yên tâm về lòng đạo của con chiên. Thơ tinh ròng những lời đã dạy con nhà đạo học từ lớp giáo lý vỡ lòng xưng tội, thơ tuyệt không vướng chút bụi trần của những vấn đề thế sự, hay bị day dứt chao đảo đức tin. Tôi gọi thơ Mặc Trầm Cung là tiêu biểu cho “thơ nhà đạo đương đại” là vì thế.

Có thể đọc thêm các bài: Ra Khơi (tác giả kêu gọi), Sám hối (thơ tâm tình), ‘Tấm lưới đời con (thơ cầu nguyện), Ghen, Lầm lỗi (thơ Giáo huấn). Mẹ Sầu Bi-Tám niềm đau của Mẹ, Học với thầy Giê su (giảng Kinh thánh), Đường nào cho con đi… thơ được làm theo những công thức quen thuộc.(xin đọc thơ Mạc Trầm Cung trên conggiaovietnam.net)

Thực ra Mặc Trầm Cung cũng có những bài có cách thể hiện riêng, sáng tạo. Đó là các bài: Tình thơ Mân Côi (giảng nghĩa Kinh Mân Côi gồm 5 sự Vui, 5 sự Thương, 5 sự Mừng5 sự Sáng), hoặc chùm thơ Những vần thơ dâng Mẹ (Maria thánh danh huyền nhiệm; Maria nữ trinh linh mục; Lặng lẽ; Ave Maria Vô nhiễm nguyên tội; Maria nữ trinh diễm phúc; Maria Tam tòng tứ đức).

Và nếu Mặc Trầm Cung có được ý thức sáng tạo riêng, anh sẽ có nhiều thơ hay. Dù vậy làm thơ chuẩn mực như thơ anh cũng là rất quý.

3.Dzuy Sơn Tuyền.

Trong bài bài thuyết trình với chủ đề “Thi Ca và Cầu Nguyện ” tại Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận Sàigòn sáng thứ Bảy ngày 6/4/2019 [[12]], tác giả Dzuy Sơn Tuyền trình bày nhận thức của mình về thi ca với việc cầu nguyện. Ông triển khai ý tưởng “tâm tình cầu nguyện” là “Tâm tình chúc tụng, thờ lạy, cầu xin, chuyển cầu, cảm tạ, ngợi khen”. Ông cho rằng: Thơ là biểu lộ Cái Đẹp và Sự Thiện được phát tỏa từ nhịp rung của mỗi trái tim…Hình ảnh trong thơ hôm nay không còn là sự sao chụp thô thiển hiện thực, đó là một sáng tạo thuần khiết của cảm hứng, vụt hiện ra từ những thế giới siêu thực…Thơ còn được coi như là tiếng nói của tâm linh”. Ông khẳng định: “Chính Thần Khí sẽ thổi hồn vào thơ, thổi tình vào tim để mọi cung bậc của chúng ta trở nên lóng lánh và tươi đẹp trước Đấng Toàn Năng”.

Những nhận thức như thế về thơ có khả năng tiếp cận được bản chất vấn đề. Thực ra, văn chương nghệ thuật là sự sáng tạo Cái Đẹp bằng ngôn ngữ. Mỹ học Kitô giáo chỉ ra rằng Thiên Chúa làm ra Cái Đẹp và đức Giêsu là hiện thân của Cái Đẹp thiện hảo[[13]]. Lời khẳng định rằng: “Chính Thần Khí sẽ thổi hồn vào thơ, thổi tình vào tim để mọi cung bậc của chúng ta trở nên lóng lánh và tươi đẹp trước Đấng Toàn Năng” chỉ là một cách nói, một niềm tin, một tâm tình, không phải là một hành động hiện thực.

 Làm thơ là sáng tạo nghệ thuật, đó là một năng lực thiên phú; đồng thời người làm thơ phải trầm luân bể dâu trong cuộc nhân sinh, phải mang lấy thân phận của mọi kiếp người, như Đức Giêsu đã nhận lấy thân phận làm người, sống giữa người nghèo khó, người đau khổ và chết đau đớn nhục nhã trần trụi trên Thập giá để cứu độ nhân lọai. Người làm thơ còn phải khổ công học tập để có tri thức đầy đặn, có cái nhìn sâu rộng, lúc ấy mới có thơ hay. Tôi nghĩ, người sáng tạo nghệ thuật, rất cần ánh sáng Mỹ học Kitô giáo, cần phải được trang bị tư tưởng Triết học, Thần học, Thi pháp và các lý thuyết văn học, có vậy việc sáng tạo mới có thể vượt lên, thay vì chỉ viết theo lối mòn. Những nền thơ lớn luôn là những nền thơ tư tưởng, có thi pháp riêng (Thơ Đường, thơ Thiền, Haiku, thơ Lãng mạn…). Những nhà thơ lớn là những người tự khai phá con đường mình đi.

Bài tình ca diễm tuyệt (phóng tác sách Diễm ca) của Dzuy Sơn Tuyền là một trường ca lục bát hay. Hồn thơ phóng khoáng, ngôn ngữ tinh ròng, cách thể hiện tài hoa đầy sáng tạo, gần gũi với ca dao. Xin đọc một đoạn đối chiếu với Diễm ca:

Diễm ca (bản dịch: Những giờ kinh phụng vụ)

BÀI CA THỨ BA

6 Kìa ai đang tiến lên từ sa mạc, tựa hồ những cột mây, thơm ngát mùi nhũ hương mộc dược, ngạt ngào hương phấn xứ lạ phương xa?

7 Kìa loan giá vua Sa-lô-môn, vây quanh hộ tống là sáu mươi dũng sĩ tuyển trong hàng dũng sĩ Ít-ra-en.

8 Tất cả đều thạo phép binh đao, đều rành nghề chinh chiến. Ai ai cũng gươm giáo bên mình, phòng khi gặp hãi hùng đêm tối.

9 Vua Sa-lô-môn đã truyền lấy gỗ Li-băng đóng cho vua một cỗ kiệu:

10 cột kiệu bằng bạc, lưng kiệu bằng vàng, mặt kiệu bọc vải điều quý giá, phía trong kiệu dệt gấm thêu hoa do đôi tay ân cần trìu mến của những nàng thiếu nữ Giê-ru-sa-lem.

11 Thiếu nữ Xi-on hỡi, hãy ra chiêm ngưỡng vua Sa-lô-môn: người đội triều thiên hoàng thái hậu đã đội cho người ngày hôn lễ, ngày vui nhất của lòng người

Bản diễn thơ của Dzuy Sơn Tuyền:

BÀI CA THỨ BA

Thi nhân:

6.Kìa ai đang tiến trên đường

Từ sa mạc nóng như dường cột mây

Thơm mùi mộc dược sa bay

Nhũ hương ngào ngạt phấn say hương trời

7.Kìa xe vua đã đến rồi

Salomon đó sáng ngời kỵ binh

Sáu mươi dũng sĩ vây quanh

Is-ra-el lính hùng anh tuyển vào

8.Ngời ngời gươm tỏa ánh sao

Thạo nghề chinh chiến, binh đao xá gì

Phàm khi gặp phải khó nguy

Hai hàng đêm tối tức thì triến lên

9.Salomon lệnh đã truyền

Kiệu vua phải đóng gỗ miền Li-Băng

10.Cột thì đúc bạc giăng giăng

Còn lưng kiệu phải vàng ròng dát lên

Vải điều quý giá mặt trên

Phía trong dệt gấm hoa tiên rỡ ràng

Do đôi tay khéo dịu dàng

Ân cần trìu mến các nàng Sa lem

11.Sion thiếu nữ các em

Salomon đó vua hiền tiến lên

Mau ra chiêm ngưỡng triều thiên

Của Hoàng Thái hậu đội trên đầu Ngài

Nhân ngày hôn lễ đông vui

Ngày hạnh phúc nhất lòng người hoan ca…


Ngoài bản trường ca Bài tình ca diễm tuyệt, thơ Dzuy Sơn Tuyền cũng thể hiện những

 tâm tình, nghĩ suy với lời thơ, ý tứ quen thuộc (của lối thơ phong trào): sám hối ăn năn, cậy trông phó thác, cầu nguyện, kêu gọi giáo huấn. Về hình thức, vẫn là thể thơ rất cũ: thơ 7, 8 chữ của thơ Lãng mạn (trước 1945), hoặc thơ Đường, không thấy bóng dáng của thơ Việt hôm nay.

            Hãy lắng nghe tiếng của Ngài tất thảy

            Đang gọi ta…từ giọt nắng xôn xao…

            . . . . . . . . . .

            Tiếng của Ngài ôi tiếng gọi thiết tha

            Hãy vươn lên tới chân trời Thiện Mỹ

                                    (Âm thanh lặng)

            Đường đời muôn nỗi bể dâu

            Trùng trùng sóng gió con cầu xin Cha

            Quỳ dân lời nguyện thiết tha

            Dắt con về bến chan hòa Thánh Ân

                        (Người lữ khách thầm lặng)

Quỳ bên Chúa giờ đây con sám hối
Xin Thánh Thần soi sáng lối con đi
Cho con biết giữ trọn vẹn lời thề
Đường Thánh Giá, chính là đường Hạnh-Phúc

            (Đường hạnh phúc)

Và từ nay con thật lòng sám hối
Biết tha thứ và biết sống chan hòaVới mọi người trong TÌNH CHÚA bao la
Cho con sống cuộc đời con có CHÚA

                        (Cho con biết)

Dzuy Sơn Tuyền làm thơ  theo mùa phụng vụ với những nội dung, tâm tình, ý và lời

đã thành công thức, rất ít sáng tạo: mùa các đẳng linh hồn (Nghĩa đời, Hình như, Thảnh thơi, Ca mừng các thánh), thơ Mùa Chay (Mẹ Sầu Bi, Vì ai), mùa Hoa Đức Mẹ (Tiến hoa, Ngàn hoa dâng Mẹ), kính thánh Giuse (Mừng lễ thánh Giuse, Gương thánh cả, Tỏa ngát huệ thiêng), Mùa Chay-Phục Sinh (Đường hạnh phúc, Tiệc ly, Nụ hôn, Lửa Phục Sinh, Và bây giờ, Chuyện tình, Cho con biết, Mừng Chúa Phục Sinh). Trong các thể thơ, Dzuy Sơn Tuyền thành công hơn ở thể lục bát. Các thể thơ khác, ngòi bút Dzuy Sơn Tuyển có điêu luyện, song không có chất riêng.

            4. Hoàng Công Nga.

            Trong mục “Tác giả và tác phẩm” trên dongxanhthosaigon, Hoàng Công Nga chỉ có một bài Con đường nên thánh. Nhưng trên thivien, Hoàng Công Nga có 135 bài. Ngoài ra Thơ Hoàng Công Nga cũng có trên các “Nguyệt san Đồng Xanh Thơ” và một số trang mạng khác. Tác giả có nhiều nỗ lực quảng bá thơ của mình vượt ra ngoài CLB Đồng Xanh Thơ. Trên Thivien, nhiều bài thơ Hoàng Công Nga là thơ thế sự. Có một bài của Vũ Đình Bình viế về thơ Hoàng Công Nga.[[14]]

            Đây là quan niệm làm thơ của Hoàng Công Nga:

Người làm thơ
Là người tổng hợp được sự kiện
Để viết lên trong một vài dòng ngắn ngủi
Chứa đựng sự cảm thông, sẻ chia sâu sắc
Những vần thơ như những thiên thần
Cất lên cung bậc hòa nhạc
Để lòng người tìm được sự bình an.

                                                  (Hạt cát)

            Hoàng Công Nga đã làm thơ như thế nào?

                        Mỗi ngày con viết một bài thơ

Để tụng ca Thiên Chúa con tôn thờ

…Lời thơ con sẽ viết thật giản dị

Rõ chữ , rõ lời truyền đi Thánh ý

Làm phận sự của một người sắp chữ

Chuyển Lời Ngài, dệt ý Thánh thi

            (Mỗi ngày một bài thơ)

Tiếp bước cha anh thuở trước

Bằng những câu ca vè, ví dặm

Bằng những bài lục bát dân gian

Trở thành những con thuyền chở đạo

            (Giữa đồng xanh)

Hoàng Công Nga đã nói rõ mục đích làm thơ và đặc điểm nghệ thuật của thơ ông. Ông làm thơ “chở đạo” là chính, ông “Làm phận sự của một người sắp chữ”. Ông viết như cha ông làm Ví dặm, Lục bát, “giản dị, rõ ý, rõ lời”. Như vậy không thể đòi hỏi ông phải “sáng tạo” tư tưởng, nghệ thuật trong việc làm thơ. Quan niệm làm thơ của Hoàng Công Nga cũng là tiêu biểu cho đặc trưng của thơ phong trào.

Thực sự là, Hoàng Công Nga có rất nhiều bài “không thơ”, nhất là thơ thời kỳ đầu (2008). Những bài từ năm 2020 trở đi, nghệ thuật thơ ông đã điêu luyện hơn. Tôi nói “không thơ” không có nghĩa rằng “không phải là những bài thơ”. Một bài thơ “không thơ” khi ý tưởng, nội dung, cảm xúc không bộc lộ ra được bằng ngôn ngữ thơ. Lời thơ, tứ thơ, nhạc thơ, cảm xúc thơ và kiểu tư duy thơ là những yếu tố quan trọng bậc nhất để làm nên một bài thơ. Hoàng Công Nga không quan tâm đến những yếu tố này. Ông viết chỉ để nói được những điều ông nghĩ bằng một lọai ngôn ngữ “giản dị, rõ ý, rõ lời”.

 Xin đọc các bài: Khao khát thấy Chúa, Miền Tĩnh lặng, Điều cảm nhận, Cây Thập Tự, Cánh cửa Nước Trời được mở ra, Nếu không có ChúaLòng tin của anh đã cứu anh, Người quản lý bất trung, Vì con là Linh mục, Mẹ! Nguồn thi ca, Nỗi đau và niềm tin, Thiên đàng mở rộng,Về đất tổ…

Thử đọc đoạn thơ này, đó là văn xuôi ngắt dòng, kiểu văn nói:

“Trong ánh mắt hiền từ của những con vật

Cũng đã nói lên sự sẻ chia đồng loại

Vốn là loài vật mang bản năng thú tính

Nhưng loài hổ dữ vẫn không ăn thịt con

Con người đôi khi phải học từ thú vật

                                    (Điều cảm nhận)

Đoạn thơ trên không vần, không nhạc, không tứ thơ, không cảm xúc, dùng nhiều khẩu ngữ, lặp từ và sai cú pháp (lời ăn tiếng nói hàng ngày, chỉ có nghĩa thông tin, không có nghĩa nghệ thuật).

Xin viết lại thành văn xuôi:

“Trong ánh mắt hiền từ của những con vật cũng đã nói lên sự sẻ chia đồng loại vốn là loài vật mang bản năng thú tính, nhưng loài hổ dữ vẫn không ăn thịt con. Con người đôi khi phải học từ thú vật

            Nhận dạng: Trạng từ “Trong ánh mắt” không thể lám chủ ngữ cho động từ “nói lên”(sai ngữ pháp). Lặp lại ba từ “con vật, loài vật, thú vật”(nghèo về dùng từ). Ngôn ngữ nói: “cũng đã, vốn là, vẫn”, diễn đạt không chuẩn: “những con vật…vốn là loài vật”.

            Tôi xin mạo muội viết lại:

“Ánh mắt hiền từ của loài vật nói lên sự sẻ chia đồng loại, dù loài vật chỉ mang thú tính. “Hổ dữ không ăn thịt con”. Con người đôi khi học được bài học về sự chia sẻ đồng loại từ loài hoang dã.

            Những phân tích trên để phân biệt thơ và không thơ về mặt văn bản.

            Thơ Hoàng Công Nga có những hạn chế về kiến tạo văn bản song vẫn có sức hấp dẫn người đọc ở những yếu tố khác. Thơ Hoàng Công Nga đầy ắp ý tưởng, cảm xúc, bộc lộ một cá tính có những yếu tố độc đáo: Nói thẳng, nói những điều chân thực và ở bề sâu, thơ Hoàng Công Nga đậm đặc tình cảm.

            Xin đọc: Lập lại trật tự, Điều răn trọng nhất, Con tim có lửa, Hãy trở nên như trẻ nhỏ, Tháng Bảy tình ca, Về lại cố hương Xót thương, Niềm riêng, Xin trời đổ xuống cơn mưa. Nỗi buồn tháng năm, Về lại đồng xanh Giữa đồng xanh, Câu chuyện của những đồng tiền lẻ…

             “Cái Tôi” trữ tình trong thơ Hoàng Công Nga có cá tính. Cái Tôi ấy nặng tình quê hương (Nỗi nhớ, Mẹ, miền dân dã, Nhắn người đi xa, Mari yêu, Quê hương tôi, Quê hương và em, Về đất tổ; Ngọt ngào quê hương, Nguyện cầu, Xin trời đổ xuống cơn mưa, Nỗi buồn tháng năm, Điệu buồn ly hương…)

            Những bài thơ tình yêu có sức gây ấn tượng: Yêu đi chứ. Em là bài ca anh hát, Tháng Bảy tình ca. Trăn trối. Em vẫn là của riêng tôi. Lấy chồng giàu, Vườn địa đàng, Chuyện tình buồn

            Những bài thơ về tình cảm bạn bè rất chân thật, khéo nói: Ngược thời gian, Giữ trọn lời nguyền. Họp mặt yêu thương, Nhận ra nhau: Giữa đồng xanh, xướng họa thơ Đường với Khôi Nguyên, Thanh Loan…

            Cái Tôi trữ tình trong thơ Hoàng Công Nga vốn có phẩm chất lãng mạn (Nắng lên đi) và sám hối (Lời nguyện cầu) nhưng đôi khi muốn nổi loạn (Mưa đầu mùa)

Tôi muốn mình là con nước mạnh
Cuốn trôi phăng bao nghịch cảnh trần ai
Để không còn gì trên trần thế cả
Trở về nguồn hồng thuỷ tội ngàn xưa

(Mưa đầu mùa)

          Dù vậy Hoàng Công Nga cũng bận tâm thế sự (Ngày tận thế, Câu chuyện của những đồng tiền lẻ, Lời nguyện cầu 2, Nhà thờ đóng cửa, Dấu chỉ thời đại)…Có lẽ người đọc đồng thuận được với ý kiến này của Hoàng Công Nga:

Người làm thơ
Là người tổng hợp được sự kiện
Để viết lên trong một vài dòng ngắn ngủi
Chứa đựng sự cảm thông, sẻ chia sâu sắc

                        (Hạt cát)

          Và thơ của ông quý ở tấm lòng.

5.Thơ Vũ Thủy.

            Ngoài những bài thơ của Vũ Thủy trong Nguyệt san Đồng Xanh Thơ, tôi còn tìm thấy trang http://thovuthuyhmt.blogspot.com nhiều bài thơ khác. Có 8 trang thơ thế tục, mỗi trang 20 bài, 8 trang “Vườn thơ đạo”, mỗi trang cũng 20 bài. Tập thơ Em ngày xưa (62 bài làm trong khoảng 1988-1991), Tập thơ Ba hạt dẻ & Những điều ước của tôi (112 bài), tất cả khoảng hơn 500 bài thơ. Với một tác giả khiếm thị, đó là một nỗ lực phi thường.

            Một điều thật đáng ngạc nhiên là Vũ Thủy được đào tạo về thơ trong trường lớp ở Mỹ, khác hẳn với nhiều tác giả khác. Việc đào tạo này giúp ích cho việc làm thơ của Vũ Thủy rất nhiều. Thơ Vũ Thủy thật phong phú về nội dung, có khí sắc về nghệ thuật và thấp thoáng bóng dáng tư tưởng.

Trong Bài không tên cuối cùng (tập thơ Em ngày xưa) Vũ Thủy viết: “Mình có vẻ ngố ngẩn làm sao với những bài thơ của mình. Đôi khi lại già chát, và điên loạn nữa. Nhưng mình biết, nếu mình không viết thì mình sẽ chết mất…

Nó sẽ hiểu mình biết bao. Nó và những chai thuốc ngủ làm dịu thần kinh mình. Nó là bạn để cho mình gởi gấm tâm sự. Tại sao không? Chung quanh mình chẳng có ai ngoài nó. Mình cô độc hoàn toàn. Phải chi chẳng có ai quanh mình. Mình sẽ khỏa thân trong ánh sáng và ngủ một giấc thiên thu. Rồi sau đó, mình không biết chuyện gì sẽ tiếp theo. Thật đấy!”

Tập thơ Ba hạt dẻ & Những điều ước của tôi là sự “vượt qua” bóng tối và tìm thấy sự sống, ánh sáng, con đường. Tâm hồn reo vui niềm hoan ca trong Chúa. Vũ Thủy khám phá Kinh thánh từ Cựu Ước tới Tân Ước (điều này thật đáng kinh ngạc). Ở đâu cũng là tình thương bao la của Chúa:  sách Dân số, sách Khôn ngoan, sách Huấn ca, Isaia, Giêrêmia, Ba-rúc, Giô-en, Mi-kha, Kinh thánh Matthêu, Maco, Luca, Gioan, thư Roma, thư Côlôxê, Ê-phê-sô, 2 Ti-mô-thê, Do Thái, Phê rô I, Phê rô II,…Vũ Thủy chia sẻ Kinh Thánh, dùng Lời Kinh Thánh để suy tư và bày tỏ tâm tình thống hối, tâm tình tạ ơn Chúa, tâm tình ngợi ca Tình Chúa bao la, và tâm tình cầu nguyện.

            Xin đọc một bài trong Ba hạt dẻ & Những điều ước của tôi :

CÁI NHÌN TRONG CHÚA

 (Mc: 10, 50-52)

    Áo choàng, tôi đã vất chưa

Những ngày tháng cũ bão mưa qua rồi

    Hôm nay tôi thấy bồi hồi

Bao nhiêu mặn đắng đã thôi không còn

    Bây giờ chim hót véo von

Bây giờ đôi mắt tâm hồn mở ra

    Tôi nghe tình Chúa bao la

Đã cho tôi khỏi mù lòa con tim!

    Chúa ơi! Đời vẫn nổi chìm

Vẫn còn gió thét, sóng dìm ngoài khơi

    Thân con yếu đuối, Chúa ơi!

Con đi theo Chúa nửa vời bước chân

    Vẫn còn thích chuyện phù vân

Con còn nấn ná lần khân giữa đàng

    Hôm nay Lời Chúa rõ ràng

Giục con vất chiếc áo choàng ngày xưa… 

    Con xin một tiếng thân thưa

Xin đi theo Chúa, xin chừa đam mê

    Xin cho con trọn lời thề

Chẳng mê danh vọng, chẳng mê bạc tiền

    Đời con dẫu có truân chuyên

Con luôn thanh thản bình yên trong Ngài

    Mắt con thấy rõ tương lai

Những ngày có Chúa nắng mai ngập hồn!

          Mời bạn đọc “tự bạch” của Vũ Thủy, bạn sẽ nhận ra rất nhiều điều thật tuyệt vời ở hồn thơ này, đồng thời cũng hiểu được những luận điểm cơ bản trong lý luận về sáng tác, về quan hệ thi ca và tâm linh, về quan hệ nội dung tư tưởng và nghệ thuật và về giá trị của thi ca:

            THEO NGÀI VÀO LỐI THƠ

Lời tự bạch của Vũ Thủy (06.04.2008)

“Lúc còn đang học lớp năm, tôi đã võ vẽ viết những bài thơ lục bát. Dần dần lớn lên tôi thích viết những bài thơ tự do hơn, và đã viết về đủ thứ trên đời. Khoảng thời gian đó, tôi chẳng có dịp nghiên cứu học làm thơ và cũng chẳng được đọc nhiều thơ cho lắm, tôi làm thơ chỉ là để trút những tâm sự và nỗi niềm riêng tư của mình…

Đôi mắt tôi mờ dần rồi mù hẳn, những bài thơ của tôi cũng lưu lạc đâu mất. Tôi đã ngưng việc làm thơ cho đến khi tôi biết sử dụng computer vào giữa năm 2002; khoảng thời gian này, tôi thường viết về những đề tài như hồi tưởng, hòa bình, thiên nhiên và những bức xúc về thời cuộc. Đó là những suy tư vụn vặt của tôi, đôi khi là những bức bối về cuộc sống đầy rẫy những bất trắc.

Bài thơ đầu tiên tôi viết có sự hiện diện của Thượng đế là bài “Cô gái mù với ly cafe trắng”. Và phải đến hơn 3 năm sau tôi mới lại viết được một bài có nét tâm linh nhiều hơn đó là bài “Món quà của Thượng đế”. Tôi muốn viết về Chúa nhiều hơn nhưng sao mà khó quá … Tuy nhiên, cũng như bao nhiêu khó khăn khác, Chúa đã dẫn tôi đi một cách âm thầm mà chỉ khi đến đích tôi mới hay Người đang ở bên tôi. Lần này cũng vậy, khi tôi viết bài thơ “Dù bước đi trong thung lũng tối…” tôi mới nhận ra một cách rõ ràng rằng Chúa đã dẫn tôi đi vào lối thơ của Ngài và bây giờ Người đang cầm tay tôi viết. Đó là một quá trình tôi muốn chia sẻ cùng những người có tâm huyết với thơ ca Công giáo Việt Nam.

Vào khỏang cuối năm 2004, sau khi hoàn thành chương trình đào tạo từ xa đầu tiên của Hadley School for the Blind (the course “English skills I”) tôi viết thư cảm ơn giáo viên của tôi và bảo với cô ấy tôi rất thích làm thơ, bao giờ tiếng anh khá, tôi sẽ dịch một bài thơ của tôi sang tiếng Anh tặng cho cô ấy. Không ngờ Angie viết thư trả lời tôi, trong đó cô cho biết cô đã giúp tôi đăng ký vào học course “Elements of poetry”. Tôi rất hoảng không biết làm sao vì tiếng Anh tôi viết còn sai chét bét nói chi đến đọc hiểu và viết những bài thơ bằng tiếng Anh, cái mà tôi còn chưa đọc qua bao giờ. Từ chối thì sợ phụ lòng người giáo viên tốt bụng; và, tôi gần như bị bắt buộc học course này vì cuối cùng một Phần của bộ sách “Elements of Poetry” in chữ nổi đã được gởi đến tận nhà. Thậm chí tôi không có tiền để gởi trả thùng sách ấy cho Hadley School, ở Mỹ có chính sách miễn bưu phí cho người mù nhưng Việt Nam thì không.

Trong thời gian này tôi đăng ký thêm hai course học song song với Poetry để hỗ trợ cho vốn tiếng Anh ít ỏi của mình. Đó là “Punctuation” và “Word studying: Spelling”. Trừ những ngày tháng đau yếu nằm bẹp giường hay những ngày mải mê Dominoes với mấy người bạn mù, tôi cứ lẽo đẽo với Poetry. Khi thì đau ốm nằm cả tháng trời, khi thì chờ đợt sách gởi đến mất gần ba tháng. … Cuối cùng, vào giữa tháng 3-2007 tôi cũng hoàn thành the course “Elements of Poetry”.

Trước đó, một người bạn của bố tôi cho tôi địa chỉ Dunglac.net, và tôi tình cờ đọc được lá thư kêu gọi tham gia Đồng Xanh Thơ của anh Cao Huy Hoàng trên website này và đã mạnh dạn gởi đi bài thơ “Món quà của Thượng đế”. Sau đó là bài“Cô gái mù với ly cafe trắng”. Khi anh Hoàng khuyến khích tôi tiếp tục gởi bài, tôi đâu còn bài nào để gởi, những bài tôi đang có thì không phù hợp với Đồng Xanh Thơ. Tôi chợt nghĩ về hình ảnh đã lưu trong tâm trí tôi một cách rất sâu đậm, đó là ánh mắt của Chúa Giêsu. Ánh mắt mà tôi đã từng được nhìn thấy cách đây hơn hai chục năm qua sự thể hiện của một họa sĩ kỳ tài. Ánh mắt ấy đã thôi thúc tôi ngồi vào máy vi tính và cứ thế ngón tay tôi gõ liên tục trên bàn phím những ý tưởng mà tôi đã chất chứa về ánh mắt ấy trong những năm đầu tôi làm quen với bóng tối. Sau khi hoàn thành bài thơ, tôi đọc đi đọc lại nhiều lần và quyết định đặt cho bài thơ này tựa đề là “Hai nghìn năm vẫn đợi”. Đây là bài thơ đạo đầu tiên tôi viết sau khi học xong những bài học về thơ ca của Mỹ. Và đến lúc này tôi có thể khẳng định chính “Elements of Poetry” đã giúp tôi viết những bài thơ có mang nét tâm linh dễ dàng hơn. . . Tôi có thể viết về Chúa, nói với Chúa bất cứ lúc nào qua những vần thơ vụn vặt của mình.

Căn phòng nhỏ của tôi dường như chứa đầy những vần thơ, mỗi khi xuất hiện trong đầu một ý tưởng nào đó tôi cho là đẹp tôi liền vội vã lưu lại trong vi tính, hễ có thời gian rảnh rỗi tôi sẽ lấy ra gọt dũa chúng thành những bài thơ mới. Có những bài lúc đầu tôi gõ lách cách trên bàn phím vài ý tưởng rời rạc, không có chủ đích; thế nhưng khi viết xong những bài thơ ấy lại mang những ý nghĩa tích cực như bài “Hoa tình yêu,” “Khát vọng,” “Tìm về đất hứa.” Đặc biệt, bài thơ “Dù bước đi trong thung lũng tối. . .”, …

Khi tôi viết bài thơ “Lương tâm và giải lụa”, tôi chỉ định ví von con người của tôi yếu đuối và hay buông thả như một giải lụa. Không ngờ sau khi đã đưa ra một loạt những hình ảnh về giải lụa ấy, tôi càng nhận ra con người mình xấu xa hơn mình tưởng và nhận ra Chúa đã tha thứ cho mình nhiều hơn mình đã tưởng. Và hôm ấy cũng chính là ngày tôn kính Lòng Chúa thương xót, thế là tôi có được hình ảnh về một Biển Hồ Thương Xót thật là xúc động và tôi đưa ngay vào câu thơ kế tiếp của mình. . .

Bây giờ thì không thể dừng lại nữa, tôi đã viết đến đây, bạn có thể thấy Chúa dắt tôi đi vào lối thơ như thế nào. Bạn cũng thấy được Ngài đang cầm tay tôi viết ra sao. Rõ ràng là Elements of Poetry giúp tôi dễ dàng viết những bài thơ tâm linh, chủ đề mà trước đó tôi đã thực hiện một cách rất khó khăn. Nhưng tôi thấy tôi học được American Poetry là do ý Chúa muốn và do Chúa mở trí cho tôi hiểu được những bài học và những bài mẫu của các nhà thơ nước ngoài để giờ đây tôi áp dụng cho riêng mình. Chúa cũng đã ban cho tôi những trải nghiệm và những cảm xúc là những cái tôi cần để có thể sáng tác. Khi nhận ra rằng Chúa đã trở thành nguồn thi hứng cho mình, tôi thử làm một bài thơ tình theo kiểu như trước đây tôi đã làm; sau khi hoàn thành tôi cố sửa đi sửa lại, đọc đi đọc lại vẫn thấy nó vô vị và gượng ép đến mức tôi không thèm lưu nó lại trong computer nữa…

…Tôi muốn làm thơ và đọc cho những người bạn đang nằm trên giường bệnh có thể nghe một cô gái mù thì thầm nói về tình yêu của Chúa, về những vẻ đẹp của cuộc sống chung quanh. Tôi thường viết về những người bạn khuyết tật mà tôi quen biết, về niềm tin của họ, về những bất hạnh, những nỗ lực vượt qua khổ đau của họ cho Chúa nghe. . . Có thể nói Chúa Giêsu và những mảnh đời bất hạnh đã trở thành nguồn thi hứng dồi dào cho tôi. Tôi đang đi cùng với Giêsu trong một cuộc phiêu lưu đầy thú vị, dĩ nhiên là chúng tôi cùng trải qua những khó khăn vui buồn sướng khổ của cuộc phiêu lưu ấy”[[15]].

            Những kinh nghiệm thơ của Vũ Thủy là rất quý. Người làm thơ cần phải học và nghiên cứu về thơ (không làm thơ theo quán tính, thơ công thức), phải trải nghiệm cuộc sống sâu sắc, đời sống tâm linh phải phong phú và mạnh mẽ, nguồn cảm hứng thi ca phải là Chúa Giêsu và những mảnh đời bất hạnh. Mục đích làm thơ là để ca tụng Chúa và để chia sẻ niềm tin yêu với mọi người, nhất là những người tuyệt vọng. Bài thơ cần phải được “gọt dũa” nhiều lần sao để trở thành một tác phẩm nghệ thuật…

CON ĐƯỜNG PHÍA TRƯỚC

            Câu lạc bộ Đồng Xanh Thơ đã sinh hoạt được 12 năm. Đã có nhiều thành tựu. Con đường phía trước còn dài. Tôi mạo muội chia sẻ những suy nghĩ này: Nguyệt san Đồng Xanh Thơ không đủ sức chứa bài của các thành viên, nhiều thành viên đăng bài ở những diễn đàn khác hoặc trên blog riêng, họ không chỉ đăng thơ tôn giáo mà còn đăng thơ thế sự, thơ về những điều riêng tư. Vì thế, Nguyện san Đồng Xanh Thơ cần phải mở rộng hơn biên độ nội dung, hoặc trở thành một diễn đàn thơ cho các tác giả Công giáo. Một tôn chỉ chung cho mọi thành viên là điều rất cần. Một ban biên tập  chuyên nghiệp sẽ quyết định chất lượng bài được chọn, tránh để trường hợp có những bài không tôn giáo chen vào. Về nhân sự, cần hình thành một nhóm tác giả nòng cốt, thực sự tài năng, có uy tín sánh ngang với nhà thơ thế tục. Trong sinh hoạt, cần có nhiều chuyên đề lý luận về thơ hơn nữa để giúp thành viên Câu Lạc bộ tiếp cận được với thơ ca Việt đương đại…

Tháng 3/2022

***


[1] Jos Hương Quê: Bài giới thiệu CLB Đồng Xanh Thơ: https://dongxanhthosaigon.com/vi/about/

[2] Sinh hoạt Đồng Xanh Thơ Sài gòn: https://dongxanhthosaigon.com/vi/ban-tin-clb-dong-xanh-tho-sai-gon/thang-mot/sinh-hoat-dong-xanh-tho-sai-gon-thang-1-2021-22.html

[3] Tập thơ Lấp lánh sương mai có 26 tác giả và 86 bài thơ

[4] Thí dụ: Chuyên đề thứ 4: “Thi Ca Trong Niềm Vui Ân Sủng” ngày 05/10/2019.

[5] Lm Hữu An-Ngày gặp gỡ tác giả Đồng Xanh thơ: http://vietcatholic.net/News/Html/51343.htm

[6] Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008

[7] Tác giả xuất hiện trên Thi Ca Cầu Nguyện: Tác giả in đậm cũng xuất hiện trên Đồng Xanh Thơ: Lm Cao Gia An, Lm Cát Đen, Lm Fx Thanh, Lm Khuất Dũng, Lm Nguyễn Phước Hưng, Lm Sơn Ca Linh, Lm Trần Việt Hùng, Lm Trương Đình Hiền, Ba Chuông, Gã Tuần Phiên, Hồ Giang A, Hương Nam, Sao Khuê, An Chi Lê, Bích Ngọc Nt, Cao Danh Viện, Cao bồi già, Cát Vàng, Dã Tràng Cát, Đinh Văn Tiến Hùng, Đỗ Văn , Dương Kim Quới, Giang Tịnh, Giuse Hà, Hai Tê Miệt Vườn, Hành Giang Sơn, Hằng Việt, Hạt Nho Nhỏ Bé, Hạt Cát, Hoài Việt Nguyễn Vĩnh Tường, Hoàng Công Nga, Hoàng Lý, Hoàng Tâm, Hồn Biển, Hồng Bảo, Kha Đông Anh, Kim Thoa, Lê Đình Bảng, Lê Thị Vân Nga Nt, Lưu Minh Gian, Mạc Tường, MP Hồng Nhung, Ngòi Bút Nhỏ, Nguyễn Văn Sướng, Phước Cao, Rafael-Faustina-H, Sao Mai, Song Lam, Song Thất Tình yệu, Suối ngàn, Thái Huy, Thái Bá, Thanh Hương, Thế Kiên Dominique, Thiên Khuê, Thu Sương, Thùy Linh, TMT, Trầm Thiên Thu, Từ Thanh Hà, Viễn Đông, Viễn Dzu Tử, Vũ Năng, Vũ Thủy, Xuân Hậu

[8] Xem Sinh hoạt Đồng Xanh Thơ tháng 01/2021:

https://dongxanhthosaigon.com/vi/ban-tin-clb-dong-xanh-tho-sai-gon/thang-mot/sinh-hoat-dong-xanh-tho-sai-gon-thang-1-2021-22.html

[9] Xem sinh hoạt Đồng Xanh Thơ Sài gòn tháng 01/2021:

https://dongxanhthosaigon.com/vi/ban-tin-clb-dong-xanh-tho-sai-gon/thang-mot/sinh-hoat-dong-xanh-tho-sai-gon-thang-1-2021-22.html

Xem chương trình hội thảo chuyên đề ba năm 2021-2023:

https://dongxanhthosaigon.com/vi/ban-tin-clb-dong-xanh-tho-sai-gon/tin-tuc/chuong-trinh-hoi-thao-chuyen-de-ba-nam-2021-2023-27.html

[10] https://www.thivien.net/forum/Con-h%E1%BB%8Dc-th%C6%A1-%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng-Cha-%C6%A1i/topic-ZQ04pcxqoMjAhkEPeFoSfg

[11] https://dongxanhthosaigon.com/vi/news/da-trang-cat/

[12] https://www.vanthoconggiao.net/2019/07/thi-ca-va-cau-nguyen-bai-thuyet-trinh.html

[13] Xin đọc: Bùi Công Thuấn, Tư tưởng Mỹ học Ki tô giáo và văn học Công giáo

[14] Vịn câu thơ Hoàng Công Nga: https://lebaotinhbmt.com/gioi-thieu/lop-vo-nhiem/vin-cau-tho-hoang-cong-nga-85.html

[15] https://gxdaminh.net/mot-nguoi-rat-gan-nha-tho-khiem-thi-vu-thuy/ 

VĂN HỌC NGHỆ THUẬT KITÔ GIÁO & Những lời dạy của Giáo hội

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK: buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

VĂN HỌC NGHỆ THUẬT KITÔ GIÁO

&Những lời dạy của Giáo hội

Bùi Công Thuấn

***

            Trước khi bắt đầu những dòng đầu tiên tác phẩm của mình, người cầm bút Công giáo phải trả lời nhiều câu hỏi: Viết điều gì (viết những gì chưa ai viết)? Viết cho ai đọc (đối tượng: người trẻ, người đọc bình dân, nhà nghiên cứu)? Viết để làm gì (mục đích: để chia sẻ, để thuyết phục, để tự bộc lộ…)? Viết thế nào (tức là nghệ thuật thể hiện. Điều này tùy thuộc vào nội dung, đối tượng và mục đích viết)? Những câu hỏi như thế dẫn đến mối quan hệ giữa văn học và tôn giáo, quan hệ giữa tác giả (văn nghệ sĩ) với Giáo hội, quan hệ giữa sáng tác của cá nhân với cộng đoàn dân Chúa và cộng đồng xã hội. Trong sự giao thoa của nhiều hệ tư tưởng, nhiều nền văn hóa, nhiều hoàn cảnh chính trị khác nhau, những câu hỏi ấy đòi buộc người sáng tác văn học Công giáo phải có ý thức sáng tạo riêng trên nền tảng Mỹ học Kitô giáo [[1]] và những hướng dẫn của Giáo hội.

LỜI DẠY CỦA GIÁO HỘI

            Có thể tìm thấy lời dạy của Giáo hội về vấn đề văn học nghệ thuật và tôn giáo qua các văn kiện của Công đồng Vaticano II và đặc biệt thư của Đức giáo hoàng Gioan Phao lô II gửi nghệ sĩ năm 1999[[2]]. Những nội dung chính giáo huấn của Giáo hội đã được Mauro Mantovani, S.D.B (Viện trưởng Đại Học Salesianum Roma) tóm tắt trong bài viết: “Giáo hội và nghệ thuật: Từ Công đồng Vaticano II đến nay”[[3]].

Trong bài viết này, tôi tập chú vào Thư gửi nghệ sĩ năm 1999 của Đức Giáo hoàng Gioan Phao lô II để tìm hiểu những quan điểm của Giáo hội về Mỹ học, về vai trò của nghệ sĩ về mối quan hệ của nghệ thuật với tôn giáo và sự quan tâm của Giáo hội đối với văn học nghệ thuật.

            Trước hết là những vấn đề về Mỹ học Kitô giáo. Sáng tạo nghệ thuật là khám phá và thể hiện Cái Đẹp. Nhưng “Cái Đẹp” Kitô giáo là gì?

Đức Giáo hoàng Gioan Phao lô II nói về bản chất của “Cái Đẹp”:“Thế giới chúng ta đang sống rất cần cái đẹp để không rơi vào thất vọng”(Hiến chế“Vui mừng và Hy vọng- Gaudium et spes); cái đẹp là ơn gọi Tạo Hóa đã ban cho người nghệ sĩ”. Đức Kitô là vẻ đẹp trọn hảo. “Macario Cả nói tới vẻ đẹp của Chúa Phục Sinh, một vẻ đẹp có sức biến đổi và giải thoát”;

Đức Gioan Phao lô II khẳng định: ”Bao lâu nghệ thuật còn đi tìm cái đẹp, như hoa trái của một óc tưởng tượng biết vươn lên trên những chuyện hằng ngày, thì nghệ thuật tự bản chất vẫn là một con đường dẫn ta đến với những gì là mầu nhiệm”.

Người diễn giải: Cái đẹp là chìa khóa mở cửa mầu nhiệm và là tiếng gọi mời ta vươn lên cao. Đó cũng là tiếng nói mời gọi ta cảm nếm cuộc sống và mơ về tương lai. Chính vì thế, cái đẹp của thụ tạo không bao giờ có thể làm ta cảm thấy thoả mãn hoàn toàn. Nó khơi dậy nỗi nhớ nhung thầm kín về Thiên Chúa, một sự thật mà chỉ có người mê say cái đẹp như thánh Augustino mới diễn tả được một cách tuyệt vời như sau: ‘Con yêu Chúa quá muộn màng, ôi vẻ đẹp rất xưa mà rất mới; con yêu Chúa quá muộn màng…’”

“…Quan hệ giữa tốt và đẹp bắt ta phải suy nghĩ thế nào cho đúng. Theo một nghĩa nào đó, đẹp là hình thức bên ngoài của cái tốt, cũng như tốt là điều kiện siêu hình của cái đẹp”.

Đức Gioan Phao lô II kêu gọi: Hỡi các nghệ sĩ trên thế giới, ước gì mọi nẻo đường khác nhau mà quý vị đang đi đều dẫn tới đại dương mênh mông của cái đẹp…”; “ước gì nghệ thuật sẽ giúp quý vị xác nhận rằng một cái đẹp chân thật, cũng tựa như tia sáng của Thánh Thần Thiên Chúa, sẽ làm biến đổi vật chất, mở linh hồn con người cho cảm nhận được cõi đời đời”.

            Vấn đề thứ hai: Vai trò của nghệ thuật trong quan hệ với tôn giáo.

            Đức Gioan Phalo II có những lời dạy rất sâu sắc:

            Mọi hình thức nghệ thuật chân chính, theo cách riêng của nó, đều là đường dẫn ta đến với thực tại sâu thẳm của con người và thế giới. Bởi vậy, đó chính là một phương cách rất hiệu quả giúp ta đến với thế giới đức tin, cho kinh nghiệm sống của con người có được ý nghĩa cuối cùng của nó. Đó chính là lý do giải thích tại sao chân lý trọn vẹn của Tin Mừng ngay từ đầu đã có sức khơi dậy sự quan tâm thích thú của các nghệ sĩ, những người do bản tính tự nhiên vốn rất nhanh nhạy trước các sự “hiển lộ” của cái đẹp bên trong các sự vật”.

            Thái độ của Giáo hội đối với nghệ thuật thế nào?

…”Giáo Hội vẫn không ngừng trân trọng giá trị của nghệ thuật. Ngay cả khi không phải là những cách diễn tả tôn giáo điển hình, nghệ thuật chân chính vẫn rất gần gũi với thế giới đức tin, đến nỗi ngay trong những tình huống văn hóa và Giáo Hội cách biệt nhau, nghệ thuật vẫn là cây cầu đưa ta đến với kinh nghiệm tôn giáo.”

Do đâu nghệ thuật có khả năng đưa ta đến với kinh nghiệm tôn giáo?

“Để truyền đạt sứ điệp mà Đức Kitô đã giao cho mình, Giáo Hội cần đến nghệ thuật. Nghệ thuật có nhiệm vụ là làm cho thế giới tinh thần, thế giới vô hình, thế giới Thiên Chúa trở nên có thể cảm nhận được và trở nên hấp dẫn càng nhiều càng hay”

Giáo hội quan tâm thế nào đối với văn chương: Giáo Hội đặc biệt cần đến những người có thể làm công tác ấy trong lãnh vực văn chương và tạo hình, dùng được những khả năng vô tận của các hình ảnh và sức mạnh biểu tượng của chúng. Chính Đức Kitô cũng đã sử dụng rất nhiều hình ảnh trong các bài giảng của Ngài, cho theo kịp với ước nguyện của Ngài là trở thành hình tượng của Thiên Chúa vô hình, qua mầu nhiệm Nhập Thể”.

Vấn đề thứ ba: quan điểm của Giáo hội về người nghệ sĩ:

“Không phải tất cả mọi người đều được gọi trở thành nghệ sĩ theo nghĩa riêng của hạn từ này.”

Nghệ sĩ là một ơn gọi đặc biệt: “Thiên Chúa cho con người hiện hữu, giao cho con người nhiệm vụ của những nghệ nhân. Chính qua ‘hoạt động sáng tạo nghệ thuật’ ấy mà hơn bao giờ hết, con người cho thấy mình ‘giống Thiên Chúa’”.

Nhiệm vụ của người nghệ sĩ là gì?

“Người nghệ sĩ có một quan hệ rất đặc biệt với cái đẹp. Nói cho đúng, cái đẹp là ơn gọi Tạo Hóa đã ban cho người nghệ sĩ…”

…Những ai nhận thấy nơi mình có tia sáng thần linh ấy, tức là ơn gọi làm nghệ sĩ (làm thi sĩ, văn sĩ, nhà điêu khắc, nhà kiến trúc, nhà nhiếp ảnh, nhạc sĩ,…) cũng sẽ cảm thấy mình có bổn phận không được để hoang phítài năng ấy mà phải phát triển, để đem ra phục vụ nhân loại”.

“Giáo Hội luôn nhờ đến khả năng sáng tạo của các nghệ sĩ để giải thích sứ điệp Tin Mừng và để tìm cách áp dụng sứ điệp ấy cách chính xác vào trong đời sống cộng đoàn Kitô hữu”

Người nghệ sĩ có chỗ đứng thế nào giữa cộng đồng và nhân lọai?

“Trong toàn cảnh văn hóa rộng lớn của mỗi dân tộc, các nghệ sĩ có một chỗ đứng đặc biệt. Khi nghe theo cảm hứng để sáng tạo ra các tác phẩm vừa đáng giá vừa đẹp đẽ, các nghệ sĩ chẳng những đã làm giàu cho di sản văn hóa của quốc gia và nhân loại, mà còn phục vụ công ích qua sự phục vụ xã hội hết sức đặc biệt của mình”.

Vì thế, Đức Gioan Phao lô II nhắc nhở nghệ sĩ “không để mình bị lôi vào cuộc săn tìm những vinh quang hão huyền, những sự nổi tiếng rẻ tiền, càng không để mình bị hướng dẫn bởi sự tính toán lợi lộc cá nhân nào”.

Vấn đề thứ tư: Người nghệ sĩ Công giáo sáng tác thế nào?

“Thánh Thần là Nhà Nghệ Sĩ mầu nhiệm của vũ trụ. Hướng tới thiên niên kỷ thứ ba, tôi thầm mong rằng mọi nghệ sĩ sẽ nhận được dồi dào ơn cảm hứng sáng tạo, vì đó là khởi đầu cho mọi công trình nghệ thuật chân chính”.

Đây là sự phân tích rất sâu sắc “ơn cảm hứng sáng tạo” (Thần khí) trong sáng tác nghệ thuật:

“Các nghệ sĩ thân mến, quý vị đã quá rõ có nhiều sự thúc đẩy, từ trong hay từ ngoài, có thể gây hứng cho quý vị thi thố tài năng. Nhưng bất cứ sự cảm hứng chân chính nào, cũng đều cưu mang phần nào “hơi thở” mà “Thánh Thần Sáng Tạo đã từng dùng để đỡ nâng công trình sáng tạo ngay từ thuở ban đầu”. Thánh Thần Sáng Tạo trông coi các quy luật mầu nhiệm đang chi phối vũ trụ, sẽ thổi cho tới các bậc kỳ tài trong nhân loại và đánh thức dậy khả năng sáng tạo của họ. Ngài chạm đến khả năng ấy bằng cách soi sáng họ từ bên trong, cho họ vừa cảm thấy cái tốt lẫn cái đẹp, đồng thời đánh thức mọi năng lực của tâm trí lẫn của tâm hồn để chúng có thể thai nghén một ý tưởng nào đó, rồi phô diễn nó ra thành một tác phẩm nghệ thuật. Vì thế, không có gì sai khi nói đó là những “giây phút của ơn phước”, dù chỉ theo nghĩa loại suy, vì lúc ấy con người như cảm nghiệm được Đấng Tuyệt Đối, vượt lên trên hết mọi sự”.

Người nghệ sĩ Công giáo lấy nguồn chất liệu sáng tác từ đâu?

Đức Gioan Phaolô II có những chỉ dẫn rất cụ thể:

Thánh Kinh đã trở thành một loại “kho tàng ngữ vựng bao la” (Paul Claudel) và một “tập bản đồ mô tả bằng hình tượng” (Marc Chagall) cho văn hóa và nghệ thuật Kitô giáo khai thác.

Khi đọc Cựu Ước trong ánh sáng của Tân Ước, Cựu Ước sẽ cung cấp cho chúng ta những nguồn cảm hứng bất tận. Từ những câu chuyện về sự Sáng Tạo và Tội, Đại Hồng Thủy, lịch sử các Tổ Phụ, các biến cố chung quanh cuộc Xuất Hành, cho đến nhiều sự việc và nhân vật khác trong lịch sử cứu độ, Thánh Kinh quả là đã châm ngòi cho óc tưởng tượng của các họa sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ, nhà biên kịch và làm phim hoạt động. Chỉ cần lấy một thí dụ thôi, một khuôn mặt như Gióp, với nỗi băn khoăn và thắc mắc không nguôi về đau khổ, đã và vẫn còn gây sự chú ý không phải chỉ về mặt triết học mà cả về mặt văn chương và nghệ thuật. Rồi chúng ta phải nói sao đây về Tân Ước? Từ cuộc Hạ Sinh Đức Giêsu đến đồi Golgotha, từ cuộc Hiển Dung đến sự Phục Sinh của Người, từ những phép lạ đến bài giảng, cho đến những biến cố đã được thuật lại trong sách Công Vụ Tông Đồ hay đã được tiên báo trong sách Khải Huyền trong bối cảnh cánh chung, biết bao nhiêu lần những lời lẽ của Thánh Kinh đã trở thành hình ảnh, âm nhạc và thi ca, nhằm gợi lại mầu nhiệm “Ngôi Lời nhập thể” bằng ngôn ngữ nghệ thuật”.

…”dù tin hay không tin, ai ai cũng vẫn coi các tác phẩm nghệ thuật, được cảm hứng từ Thánh Kinh, là một cách suy tư về một mầu nhiệm khôn dò, đang bao trùm và ngự trị trên thế giới”.

“Kitô giáo vẫn là nơi đóng góp cho các nghệ sĩ một chân trời những cảm hứng hết sức phong phú. Nghệ thuật sẽ trở nên nghèo nàn biết bao, khi từ bỏ kho Tin Mừng phong phú bất tận này!”

Lời hiệu triệu với nghệ sĩ Công giáo:

“Còn các nghệ sĩ Kitô Giáo, tôi cũng xin có lời hiệu triệu đặc biệt đối với các bạn: tôi muốn nhắc anh chị em nhớ rằng, ngoài những suy nghĩ nặng tính chức năng trên đây, ta còn thấy có một sự liên minh chặt chẽ và luôn luôn giữa Tin Mừng và nghệ thuật, nghĩa là các bạn được mời sử dụng trực giác sáng tạo của mình để đi sâu vào mầu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể và đồng thời, đi sâu vào mầu nhiệm con người

…Nhân loại thời nào, kể cả thời nay, đều mong muốn các tác phẩm nghệ thuật soi sáng cho đường đi và số phận của nhân loại”.

VÀ THỰC TIỄN SÁNG TÁC

1.Những lời dạy của Giáo hội tách bạch rõ hai việc: việc sáng tạo và việc sử dụng sáng tạo cho mục đích gì.

Sáng tạo là “làm ra” cái mới. Khi chưa được tạo dựng, vũ trụ không có gì. Thiên Chúa làm ra vũ trụ, làm ra mọi tạo vật. Đó là sáng tạo. “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp” (St 1,31). Thiên Chúa đã đặt sự sáng tạo (“làm ra”) theo chuẩn mục của Cái Đẹp và Cái Thiện (tốt đẹp).

“Sáng tạo nghệ thuật” là “làm ra Cái Đẹp mới”. Đức Gioan Phao lô II khẳng định: “một cái đẹp chân thật, cũng tựa như tia sáng của Thánh Thần Thiên Chúa, sẽ làm biến đổi vật chất, mở linh hồn con người cho cảm nhận được cõi đời đời”. Trong ý nghĩa này, Đức Gioan Phao lô II, khám phá sâu sắc về sự sáng tạo: “Chính qua ‘hoạt động sáng tạo nghệ thuật’ ấy mà hơn bao giờ hết, con người cho thấy mình ‘giống Thiên Chúa’”.

Như vậy, nếu không “sáng tạo ra Cái Đẹp mới”, cũng đồng nghĩa vời việc không sáng tạo nghệ thuật. Việc sáng tác lặp lại những ý, tứ, lời, những nội dung như một công thức (công thức suy niệm, công thức sám hối, công thức tụng ca, công thức cầu nguyện…), rập khuôn những gì đã được học, như thuộc Kinh bổn từ thuở lên mười, những gì người đi trước đã sáng tạo ra (thí dụ bắt chước thơ Hàn Mạc Tử), đó không phải là “sáng tạo nghệ thuật”. Đó chỉ là công việc của người thợ sắp chữ. Dù người thợ có lành nghề thế nào, thì sản phẩm được làm ra cũng chỉ là “hàng giả”, không phải tác phẩm nghệ thuật.

Nghệ thuật và Tôn giáo là hai lĩnh vực tinh thần khác biệt nhau.Nghệ thuật là “sáng tạo Cái đẹp”. Tôn giáo là con đường tâm linh. Con đường cứu rỗi (“Đạo” là con đường. Đức Giê Su nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”-Ga 14, 6).Việc sử dụng nghệ thuật để phục vụ tôn giáo là một vấn đề khác với việc sáng tạo nghệ thuật. Đức Gioan Phao lô II nói rõ việc sử dụng nghệ thuật: Để truyền đạt sứ điệp mà Đức Kitô đã giao cho mình, Giáo Hội cần đến nghệ thuật. Nghệ thuật có nhiệm vụ là làm cho thế giới tinh thần, thế giới vô hình, thế giới Thiên Chúa trở nên có thể cảm nhận được và trở nên hấp dẫn càng nhiều càng hay”.

Như vậy người nghệ sĩ Công giáo có 2 việc làm cùng một lúc là: “sáng tạo Cái Đẹp mới” và làm cho “thế giới Thiên Chúa trở nên có thể cảm nhận được và trở nên hấp dẫn càng nhiều, càng hay”. Những nghệ sĩ ngoài Kitô giáo, họ có thể chỉ “sáng tạo Cái Đẹp mới”, mà không có nhiệm vụ tôn giáo. Và ngay cả trong trường hợp ấy, Đức Gioan Phaolô II cũng bày tỏ niềm tin vào họ: Mọi hình thức nghệ thuật chân chính, theo cách riêng của nó, đều là đường dẫn ta đến với thực tại sâu thẳm của con người và thế giới. Bởi vậy, đó chính là một phương cách rất hiệu quả giúp ta đến với thế giới đức tin…”. Giáo hội không đòi buộc hy sinh nghệ thuật cho việc loan báo Tin Mừng, trái lại, Giáo hội cần nghệ thuật để “làm cho thế giới tinh thần, thế giới vô hình, thế giới Thiên Chúa trở nên có thể cảm nhận được và trở nên hấp dẫn càng nhiều càng hay”.

Với những quan điểm như thế, Giáo hội đã mở ra những khả năng rất rộng của nghệ thuật trong nhiệm vụ “sáng tạo”: “Chính qua ‘hoạt động sáng tạo nghệ thuật’ ấy mà hơn bao giờ hết, con người cho thấy mình ‘giống Thiên Chúa’”.

2.Trong thực tiễn sáng tác của văn học Công giáo Việt Nam, các tác giả đã nhận thức thế nào về văn học nghệ thuật Công giáo và mục đích sáng tạo?

Nhà nghiên cứu Võ Long Tê nói về nhiệm vụ của nhà văn Công giáo: “Là giáo hữu, nhà văn có sứ mạng truyền bá đức tin. Là nghệ sĩ, nhà văn phải sáng tác theo ý thức nghệ thuật”. Ông nhận định: “Văn học Công giáo chính là những công trình của người Công giáo nhằm mục đích vận dụng ngôn ngữ văn tự để thể hiện lối sống đạo của mình. Sự thể hiện này nói lên ý thức nghệ thuật và đời sống đức tin của tác giả”[[4]].

TS Lm Nguyễn Đức Thông cũng một ý ấy. Trong hội thảo: “Bốn trăm năm hình thành và phát triển chữ Quốc ngữ trong lịch sử loan báo Tin Mừng tại Việt Nam” do Ủy Ban Văn Hóa trực thuộc Hội Đồng Giám mục Việt Nam tổ chức ngày 25-26/10/2019, tại Trung tâm Mục vụ TGP Sài Gòn, Lm Nguyễn Đức Thông nhấn mạnh: sứ mạng của văn sĩ Kitô giáo là truyền bá đức tin, hết lòng phục vụ, bảo vệ chân lý với ý thức viết là để tôn vinh Thiên Chúa. Họ dùng nghệ thuật để làm cho người ta xa tránh dục vọng, trở về với Thiên Chúa..”. [[5]]

Họp mặt Câu Lạc Bộ Thi Ca Cầu Nguyện tại Ma Lâm, Phan Thiết ngày 15/08/2011, Lm Phêrô Nguyễn Thiên Cung, Giám đốc Chủng viện Nicola thuyết trình đề tài “Tin Mừng và Thi ca”. Ngài chia sẻ:  Thi ca như là lời mặc khải về thực tại vĩnh hằng, như lời mặc khải về chính bản thân con người, như là hành vi mặc khải và tuyệt đỉnh của mọi thứ nghệ thuật. Mọi thứ thi ca là chiêm ngắm và cầu nguyện. Các thi sĩ khi sáng tác cần phải tâm niệm làm sao để từ thực tại đưa độc giả đến cảm nghiệm tâm linh và phải luôn lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho tác phẩm của mình.[[6]]

Qua ba ý kiến trên, các nhà nghiên cứu đã không quan tâm đến “sự sáng tạo nghệ thuật” là bản chất của hoạt động văn học nghệ thuật mà chỉ nhấn mạnh đến mục đích tâm linh là “truyền bá đức tin, tôn vinh Thiên Chúa, làm cho người ta trở về với Thiên Chúa” (hoặc “đưa độc giả đến cảm nghiệm tâm linh”). Tôi e rằng điều này không đúng với những gì Giáo hội dạy. Bởi vì nhiệm vụ truyền giáo là của mọi tín hữu, đâu phải là nhiệm vụ riêng của người nghệ sĩ Công giáo. Người nghệ sĩ Công giáo có nhiệm vụ sáng tạo Cái Đẹp, như Thiên Chúa đã làm ra vũ trụ, tạo vật “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp”(St 1, 31 đd). Khi được sáng tác dưới ánh sáng Tin Mừng, từ trong bản chất, tác phẩm văn học Công giáo đã mang ánh sáng Cứu độ của Đức Kitô. Khi tác phẩm không hay, không có người đọc thì không thể nói gì đến việc “truyền bá đức tin”.

Còn các nhà thơ, nhà văn Công Giáo-người sáng tác- quan niệm thế nào về sáng tác văn học?

Trong bài “Cùng sống cuộc sống đức tin văn hóa” nhân đêm thơ Xuân Ly Băng tại Tòa Giám mục Phan Thiết ngày 22/3/2008, Đức ông-nhà thơ Xuân Ly Băng chia sẻ [[7]]:

 Người ta có nói, mỗi tài năng đều gồm 1% do bẩm sinh và 99% do đào luyện. Một phần trăm của thiên tài không thể thiếu. Nếu thiếu, dù có làm cả trăm bài văn vần cũng chẳng ra thơ”...; Đức ông nhấn mạnh:Làm thơ là sáng tạo. Khi Xuân Diệu viết: “Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm”, Tản Đà đòi lôi ra chém vì Xuân Diệu dám bảo mặt trời đi ngủ. Thế nhưng làm thơ là phải vậy, phải sáng tạo.

Trong mối tương quan với Chúa, Đức Ông cho biết: “Tôi chỉ gặp Chúa cách đơn giản trong vạn vật, trong thiên nhiên, qua con người, cỏ cây, bông hoa, tiếng gió, ánh mặt trời, vv… Vâng, đó là một ân huệ Thiên Chúa ban cho tôi mà tôi luôn luôn cảm tạ”.(Trả lời phỏng vấn Trăng Thập Tự)

Rồi ngài khuyên người làm thơ: Đừng tự ti mặc cảm. Cứ viết, cứ đăng báo, cứ in, trong sự khôn ngoan dè dặt./ Cuối cùng, cần hai chữ thành thực và khiêm nhường, đừng tự tôn vinh mình. Thời gian sẽ sàng lọc và đào thải những gì không phải là thơ.

Những ý kiến của Xuân Ly Băng về1% thiên tài” trong sáng tạo nghệ thuật đó chính là “Ơn gọi nghệ sĩ” trong lời dạy của Giáo hội: “Không phải tất cả mọi người đều được gọi trở thành nghệ sĩ theo nghĩa riêng của hạn từ này.” Nói đến nghệ thuật, Đức ông đòi buộc phải “sáng tạo”. Năng lực “sáng tạo” đó chính là  phẩm chất 1% của thiên tài.

Xuân Ly Băng làm thơ về thiên nhiên tạo vật là bởi: “Tôi chỉ gặp Chúa cách đơn giản trong vạn vật, trong thiên nhiên, qua con người, cỏ cây, bông hoa, tiếng gió, ánh mặt trời, vv… Vâng, đó là một ân huệ Thiên Chúa ban cho tôi mà tôi luôn luôn cảm tạ”(đd). Mời đọc bài viết về thơ Xuân Ly Băng [[8]].

Nhà thơ Lê Đình Bảng làm thơ theo một chiều kích khác. Ông tự thổ lộ:

Tôi làm thơ, nghĩa là tôi cầu nguyện
Hồn reo vui trong từng chữ, từng lời
Trong đất mầu đang vỡ vạc sinh sôi
Trong cây lá vươn sức dài vai rộng…

.   .    .    .

Tôi làm thơ, nghĩa là tôi cầu nguyện

Như chùm hoa tự trút hết hương thơm

Phải tự nghiệm sinh để sống vô thường

Chẳng hề nghĩ mình cho đi, nhận lại

(Tôi làm thơ nghĩa là tôi cầu nguyện, trong tập Hành Hương)

                Xin lưu ý rằng, Lê Đình Bảng viết: “Tôi làm thơ, nghĩa là tôi cầu nguyện”. Ông nhấn mạnh đến hành động “Tôi làm thơ”. Khi làm thơ, hồn ông reo vui, ông như chùm hoa trút hết hương sắc cho đời. Hành động làm thơ của ông là hành động cầu nguyện. “Cầu nguyện” ở đây không phải là quỳ đọc kinh.  “Cầu nguyện “ là từ ông dùng đễ diễn tả trạng thái hồn thơ ông vượt lên, bay vào cõi tâm linh, hòa vào muôn vẻ đẹp của Đấng Sáng Tạo vĩ đại là Thiên Chúa. Vì thế thơ ông thanh khiết, tinh khôi và lấp lánh muôn vẻ đẹp. Ông không nói nội dung thơ của ông là lời cầu nguyện, cũng không nói mục đích làm thơ là để cầu nguyện. Điều này hoàn toàn khác với “tôn chỉ” của CLB “Thi Ca Cầu Nguyện”. Vì thế Lê Đình Bảng viết về mọi đề tài của cuộc sống, ghi nhận nhiều nét đẹp của đời sống đạo. Ông tỏ lộ mọi nỗi niềm và chia sẻ với rất nhiều hoàn cảnh. Và trên hết, là một nghệ sĩ Công giáo, ông sáng tạo nhiều tứ thơ mới lạ, mang đến cho thơ ca Công giáo Việt Nam một thế giới nghệ thuật tinh khôi và vô cùng phong phú mà ông khám phá được từ Kinh thánh (cả Cựu Ước và Tân Ước), đúng như lời dạy của Giáo hội.

Tôi nghe thấy trong câu thơ “Tôi làm thơ, nghĩa là tôi cầu nguyện” lời dạy này của Đức Giaoan Phaolo II: “Công Đồng đã không ngần ngại coi các nghệ sĩ ấy là những người đang thi hành “một thừa tác vụ cao cả” khi các tác phẩm của họ phản ảnh vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa, giúp nâng cao tâm trí con người lên với Ngài. Cũng nhờ các nghệ sĩ ấy mà “Thiên Chúa được mặc khải nhiều hơn, Tin Mừng được trở nên rõ ràng hơn cho tâm trí loài người” (đd).

          Như vậy, qua hai trường hợp cụ thể (Xuân Ly Băng và Lê Đình Bảng), mỗi nghệ sĩ khám phá những lời dạy của Giáo hội theo những chiều kích khác nhau tùy theo “ơn gọi nghệ sĩ” của mình (tức là “nén bạc nghệ thuật” Chúa trao, cũng là cái 1% thiên tài).

ĐỂ VĂN HỌC CÔNG GIÁO VƯỢT LÊN

            Tôi nghĩ, lời dạy của Đức Gioan Phaolô II và những lời dạy khác của Công đồng Vaticano II về bản chất của “sáng tạo nghệ thuật”, về mối quan hệ giữa nghệ thuật và Tin Mừng và về sứ mạng của người nghệ sĩ Công giáo là những lời chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc cả về Thần học (Theology), về Tâm lý học sáng tạo (The Psychology of Creativity), về Lý thuyết văn học (Literary theory), Lý thuyết tiếp nhận (Reception theory)mà người sáng tác Công giáo cần phải hiểu thấu đáo. Và kinh nghiệm sáng tác của  hai nhà thơ Công giáo đương đại Xuân Ly Băng, Lê Đình Bảng có thể gợi mở nhiều hướng khám phá “Cái Đẹp” theo tư tưởng Mỹ học Kitô giáo để người làm thơ kiến tạo nhiều tác phẩm hay, tác phẩm giá trị, đóng góp vào tài sản văn hóa của dân tộc.

Có một điều chắc chắn rằng:

…”dù tin hay không tin, ai ai cũng vẫn coi các tác phẩm nghệ thuật, được cảm hứng từ Thánh Kinh, là một cách suy tư về một mầu nhiệm khôn dò, đang bao trùm và ngự trị trên thế giới”.

“Kitô giáo vẫn là nơi đóng góp cho các nghệ sĩ một chân trời những cảm hứng hết sức phong phú. Nghệ thuật sẽ trở nên nghèo nàn biết bao, khi từ bỏ kho Tin Mừng phong phú bất tận này!”(Thư gửi nghệ sĩ… đd).

Tháng thánh Giuse/ 2022


[1] Bùi Công Thuấn-Tư tưởng Mỹ học Ki tô giáo và văn học nghệ thuật:

[2] http://huangiao.com/index.php/van-kien/duc-giao-hoang/thu-luan-luu/item/1529-thu-duc-thanh-cha-gioan-phaolo-ii-gui-cac-nghe-si-1999

[3] http://betrenthuongcap.org/giao-hoi-va-nghe-thuat-tu-cong-dong-vatican-ii-den-nay.html

[4] Võ Long Tê-Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam, cuốn I, Nxb Tư Duy Sài Gòn 1965. Chương II, tr.25-33.

[5] Lm Đaminh Nguyễn Đức Thông-Văn học Công giáo từ 1620 đến nay

https://denthanhanrephuyen.org/lm-daminh-nguyen-duc-thong-trinh-bay-de-tai-van-hoc-cong-giao-tu-nam-1620-den-nay/

[6] Họp mặt CLB Thi Ca Cầu Nguyệnhttps://vntaiwan.catholic.org.tw/11news/11news1541.htm

[7] Xuân Ly Băng-Lời ngỏ cho đêm thơ: https://www.tapsanmucdong.net/2017/07/xuan-ly-bang-loi-ngo-cho-em-tho.html

[8] Bùi Công Thuấn-Thơ Xuân Ly Băng:

https://www.vanthoconggiao.net/2021/02/nhung-khuon-mat-tho-ca-cong-giao-uong.html

CHUYỆN HOA XOAN…MÙA THƯƠNG KHÓ

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK: buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

ĐỌC THƠ TÌNH YÊU CỦA LÊ ĐÌNH BẢNG

Bùi Công Thuấn

***

(Hoa xoan-ảnh trên Net)

Mời bạn đọc bài thơ

CHUYỆN HOA XOAN MÙA THƯƠNG KHÓ                

Francis Assisi Lê Đình Bảng.

Em còn nhớ

từ Thứ Tư Lễ Tro, ra Tết?
và Giêng, Hai trong cái rét Nàng Bân?
Nắng ngọt ngào

bàn tay giấu trong khăn
Đi lễ sớm

quê nhà ta mới vào mùa Thương Khó…
Gió thổi buốt

dọc hai bên đường, hoa xoan nở
Ôi,
loài hoa tim tím ngát, muộn mằn
Như kẻ trộm lành vừa được phước ăn năn
Đến tắm mát ở đầu nguồn Cứu Rỗi

Suốt mấy tuần Chay

khắp làng thôn mình rộn ràng xưng tội
Lòng bâng khuâng

nghe chim hót ngoài vườn
Có phải vì còn lưu luyến,
tơ vương
Những rơi rớt của vàng hương xưa cũ?
Em theo mẹ vừa ngang qua nhà xứ
Tôi chen vô,
lên bốc nẻ, hôn chân
Mùi hoa xoan

hay áo em mới, cứ nồng nàn
Những e ấp,
chực chờ, sợ người ta nom thấy?

Ở nhà quê

thường có những cái rất hồn nhiên, tình cờ như vậy
Trước,
chưa nên

sau, cũng vận vào người
Mấy ai ngờ?
Chuyện chung lứa, chẳng chung đôi
Mới chớm quen nhau

đã nhuốm đầy nước mắt!
…..
Tôi lên phố,
đi học xa nhà…
Ai bắt trẻ đồng xanh?
để em tôi nheo nhóc tản cư,
bế bồng chạy giặc
Người một phương

chả biết đến bao giờ?
Chuyện thật buồn…

vào một buổi sớm tinh mơ…
Em gục chết

ngay khi bước ra khỏi nhà thờ, vừa tan lễ…

“…Viên đạn ở đâu?

bay thẳng vào trái tim em…!” mẹ kể…
“…Lạy Chúa tôi !”

Em còn kịp kêu tên Giêsu cực trọng vô cùng!
Nghe đồn rằng, nơi thềm bậc nhà chung…
Ngay đêm ấy…

Em hiện về… con bướm!
Tôi thảng thốt

được tin em quá muộn
Thời buổi binh đao,
xa xôi, cách trở đi về
Cứ cầm bằng

mình đôi ngả, đôi quê
Đành đoạn qua cầu sinh ly,
tử biệt

Mà kỷ niệm thì theo ta đến chết
Như hồn ma bóng quế,
hư huyền
Em vẫn là con bướm trắng…
rất linh thiêng
Nơi ký ức thiên đường,
tôi đánh mất…
Nhớ là nhớ,
hằng tuần, mỗi Thứ Năm, Chúa Nhật
Quỳ song đôi,
hai hàng ghế hai bên
Vẫn chia lòng,
chia trí… vẫn ngó nghiêng
Nghe em bảo,

đêm nay, ngắm lễ đèn, mở cửa mồ, táng xác…

Tôi còn nhớ…

… lúc em xếp hàng từng đôi, lên dâng hạt
Ôi,
lời kinh như mật rót vào hồn
Chỉ ước thầm

mình đừng vội lớn, mau khôn
Cứ thả đỉa ba ba,
dung dăng dung dẻ…
Đâu đến nỗi,
vội khóc cười lan huệ:
kẻ, hoa thơm Chúa hái đầu ngày
Vốc nẻ năm xưa,
ai còn giữ trong tay?
không đếm được, Vui, Thương, Mừng, em ạ


Thế mới biết

ngọn ngành, có nhân, có quả
Chuyện hoa xoan

mùa Thương Khó đã lâu…
Đêm tối ba mươi,
Chúa mướt máu trong Vườn Dầu
Đuốc hoa bập bùng,
gà khuya gáy sớm ?
Chiều nay, đợi chuyến xe về quá muộn
Ngắt vội chùm hoa

làm quà tặng em thôi
Bởi vì em,
giờ đã là thánh nữ trên trời
Con bướm trắng

hoa xoan… mùa Thương Khó
Tôi vẫn đợi, vẫn chờ em đầu ngõ
Hỏi sông kia,
sao bên lở, bên bồi?
Ai gác thuyền,
ra dàn đáy, hàng khơi
Ai tiệc rượu,
ai dầu thơm, tóc mượt?
Em nhanh chân mang dầu đèn ra trước
Chầ
m chậm, từng bước thôi
Em ạ,
chờ tôi…

***

Đọc xong bài thơ, tôi lặng người đi rất lâu trong thế giới nghệ thuật của Lê Đình Bảng. Một nỗi buồn thương man mác như màu tím hoa xoan bao trùm không gian làm lòng tôi day dứt khôn nguôi. Bỗng dưng tôi đặt mình trong một tư thế trang nghiêm và rất đỗi thành kính để chia sẻ sự mất mát không bù đắp được của nhân vật Tôi; sự mất mát làm cạn khô nước mắt suốt bao nhiêu năm tháng. Cùng với cuộc thương khó “Đêm tối ba mươi, Chúa mướt máu trong Vườn Dầu,” nỗi bi thương của nhân vật Tôi tưởng không thể vượt qua được. Nhưng sau phút đắm chìm cảm thương ấy, tâm hồn tôi bừng sáng đến ngỡ ngàng. Thơ chắp cánh cho hồn tôi bay lên. Tôi thốt lên: Bài thơ hay quá!. Tôi lại lặng đi để cảm nhận cái hạnh phúc được đọc một bài thơ hay. Nói thơ hay là nói cái cảm xúc trực giác, cảm xúc này là sự tổng hợp những khám phá nhận thức về bài thơ, kết hợp với sự rung cảm của trái tim khi nhập thân vào thế giới nghệ thuật. Với thơ Lê Đình Bảng, thật khó nói ra “cái hay” mà người đọc tiếp nhận được. Bởi tiếng thơ Lê Đình Bảng không chỉ là tiếng lòng của nhà thơ mà còn khơi gợi được cả một thế giới ký ức trong lòng người đọc, hơn thế, thơ Lê Đình Bảng còn mở ra một vùng trời khác mà có khi người đọc chưa tiếp cận nhưng vẫn cảm được cái đẹp. Vâng, bài thơ đẹp quá.

MỘT CHUYỆN TÌNH ĐẸP

Bài thơ là lời đối thoại trong tâm tưởng của Tôi với em. Tôi nói chuyện với em, nhớ lại những kỷ niệm yêu thương. Và, em như một nhân vật đang sống, đang ở bên Tôi, chia sẻ những giây phút hai trái tim cùng một nhịp rung cảm, đồng cảm.

Và câu chuyện được kể trong hồi ức về Mùa Chay ở “quê nhà ta”. Nghệ thuật kể chuyện đầy kịch tính với tốc độ nhanh, nhiều tình huống bất ngờ của Lê Đình Bảng góp phần tạo nên cái hay của bài thơ. Đó là nghệ thuật kể chuyện hiện đại. Câu thơ ngắn kết hợp với ngắt nhịp biến hóa, và thay đổi góc trần thuật liên tục: tác giả kể, rồi mẹ kể; quá khứ và hiện tại đồng hiện; thế giới thực tại với thế giới tâm linh lồng vào nhau, vừa tái hiện hiện thực, vừa khắc họa được sự bất tử của nhân vật em, sự vĩnh cửu của tình yêu.

Nghệ thuật kể chuyện ấy kết hợp với cái nhìn đức Tin, tạo nên sự chuyển hóa rất mới lạ. Xưa nay sinh ly tử biệt là nỗi buồn đau bi kịch, nhấn chìm con người trong bóng tối. Nhưng trong chuyện tình này, cái chết bất ngờ đầy đau thương của em “ngay khi bước ra khỏi nhà thờ, vừa tan lễ” là một cuộc tử vì đạo, vì em cùng chết với Đức Giêsu. “…mẹ kể…/…Lạy Chúa tôi !”/ Em còn kịp kêu tên Giêsu cực trọng vô cùng!”. Em bước thẳng một bước vào cửa thiên đàng để trở thành “thánh nữ trên trời”, và hiển linh ngay trước mắt mọi người. :

Nghe đồn rằng, nơi thềm bậc nhà chung…
Ngay đêm ấy…

Em hiện về… con bướm!…

Bởi vì em, giờ đã là thánh nữ trên trời
Con bướm trắng

hoa xoan… mùa Thương Khó…

…Em vẫn là con bướm trắng… rất linh thiêng

Đó là sự thăng hoa tuyệt vời của sáng tạo nghệ thuật, nhưng cũng là của một đức

tin tinh ròng ngay trong những hoàn cảnh đau thương nhất. Cái Đẹp của chuyện tình mang phẩm chất Mỹ học Kitô giáo, nhưng lại được thể hiện một cách tự nhiên như trong đời thường, như trong tâm linh dân gian (người ta tin rằng, ở những nơi tưởng niệm, khi có con bướm lạ bay vào, đó chính là hồn người chết hiện về).

            Từ sự thăng hoa cái chết của em, mọi yếu tố của câu chuyện đều được chuyển hóa và hiện lên với một vẻ đẹp mới lạ. Không gian tâm linh và không gian nghệ thuật giao hòa trong hoan ca. Những cảnh “nheo nhóc tản cư, bế bồng chạy giặc” trong “thời buổi binh đao”, hình ảnh “một buổi sớm tinh mơ…/ Em gục chết/ ngay khi bước ra khỏi nhà thờ, vừa tan lễ”, đêm trước cuộc thương khó, “Đêm tối ba mươi, Chúa mướt máu trong Vườn Dầu”… những biến động xã hội lớn lao đau thương ấy trở thành bè trầm hùng vĩ của một bản đại giao hưởng Phục Sinh. Giờ em ở trên cao, là “thánh nữ trên trời”. Có lẽ trong văn chương Việt, không có nhân vật nữ nào tuyệt đẹp như thế. Tiên Dung công chúa, hay Lý Thị Thiên Hương (Linh Sơn Thánh Mẫu-Núi Bà Đen-Tây Ninh)[1] là những nữ thần tình yêu xinh đẹp linh thiêng lẫm liệt, thì nhân vật Em cũng có những phẩm chất ấy, hơn nữa nàng đơn sơ, thánh khiết hơn: nàng đi lễ sớm dù trời lạnh buốt, nàng quỳ cầu nguyện nghiêm trang, nàng dâng hạt, lời kinh như mật:

Nắng ngọt ngào

bàn tay giấu trong khăn
Đi lễ sớm

quê nhà ta mới vào mùa Thương Khó…
Gió thổi buốt

dọc hai bên đường, hoa xoan nở…


Nhớ là nhớ,
hằng tuần, mỗi Thứ Năm, Chúa Nhật
Quỳ song đôi,
hai hàng ghế hai bên
Vẫn chia lòng,
chia trí… vẫn ngó nghiêng
Nghe em bảo,

đêm nay, ngắm lễ đèn, mở cửa mồ, táng xác…

Tôi còn nhớ…

… lúc em xếp hàng từng đôi, lên dâng hạt
Ôi,
lời kinh như mật rót vào hồn

            Từ sự Phục Sinh của Em, những kỷ niệm trong thời gian trước và sau cái chết của em, cũng phục sinh. Nói cách khác, tình yêu đã vượt qua tử sinh. Những kỷ niệm ấy vẫn đang sống động như trong hiện thực (lưu ý Lê Đình Bảng dùng chữ “chiều nay” ở thì hiện tại). Em đi lễ sớm trong giá rét…Tôi ngắt vội chùm hoa .

Em theo mẹ vừa ngang qua nhà xứ
Tôi chen vô,
lên bốc nẻ, hôn chân
Mùi hoa xoan

hay áo em mới, cứ nồng nàn
Những e ấp,
chực chờ, sợ người ta nom thấy?

            Và:

Chiều nay, đợi chuyến xe về quá muộn
Ngắt vội chùm hoa

làm quà tặng em thôi…

            Và tôi suy nghĩ nhiều về em để nhận ra Tôi. Em là “hoa thơm Chúa hái đầu ngày”; Em là trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn 10 cô trinh nữ (Mt 25, 1-13) “Em nhanh chân mang dầu đèn ra trước”để đón tân lang (đón Chúa). Cả hai tứ thơ đều ca ngợi em, đều diễn tả cái chết của em đẹp ý Chúa, em về trời trong sự quan phòng của Chúa.  Còn tôi:

                        Suốt mấy tuần Chay

khắp làng thôn mình rộn ràng xưng tội
Lòng bâng khuâng

nghe chim hót ngoài vườn
Có phải vì còn lưu luyến,
tơ vương
Những rơi rớt của vàng hương xưa cũ?

            Khắp làng thôn rộn ràng xưng tội Mùa Chay, còn tôi thì chưa, vì lòng trí còn lơ đãng “nghe chim hót ngoài vườn, còn lưu luyến tơ vươngnhững rơi rớt của vàng hương xưa cũ”. Em trang nghiêm thánh thiện bao nhiêu thì tôi nghịch ngợm bấy nhiêu

Quỳ song đôi, hai hàng ghế hai bên
Vẫn chia lòng,
chia trí… vẫn ngó nghiêng…

            Em dâng Hạt, lời kinh ngọt mật, nhưng tôi lại lo ra:

lúc em xếp hàng từng đôi, lên dâng hạt
Ôi,
lời kinh như mật rót vào hồn

                        Chỉ ước thầm

mình đừng vội lớn, mau khôn
Cứ thả đỉa ba ba,
dung dăng dung dẻ…

            Những thổ lộ như thế của Tôi khắc họa một nhân vật Tôi có vai trò đặc biệt trong kiến tạo tác phẩm và làm nên sự hấp dẫn của bài thơ.

            Tôi là nhân vật kể chuyện, tự kể chuyện tình của mình. Tôi còn là nhân vật tâm trạng, Tôi độc thoại trong tâm tưởng với em (ở thì hiện tại). Sự kết hợp hai góc trần thuật này của Tôi tạo nên hiệu quả kép. Tức là, vừa tái hiện dòng chảy của hiện thực ngoài kia, vừa mở ra cái dòng chảy tâm trạng của Tôi. Ngoài kia là khung cảnh làng quê rộn ràng mùa kinh hạt, ngoài kia là buổi binh đao dân nheo nhóc tản cư, giáo dân chết đạn ngay khi bước ra khỏi nhà thờ, ngoài kia là ly tán đôi ngả đôi quê, “đành đoạn sinh ly tử biệt”.

Còn Tôi, tâm trạng cuồn cuộn chảy, ào ạt, những lớp sóng tâm hồn với nhiều suy nghĩ và cảm xúc cứ tràn lên hết lớp này đến lớp khác. Chính những lớp sóng cảm xúc này của Tôi làm nên sự phong phú và chiều sâu nghệ thuật của bài thơ.

Tôi với tâm trạng “ngọt ngào” trên đường quê đầy hoa xoan nở khi đi theo em đến nhà thờ. Tôi hạnh phúc biết bao nhiêu “Như kẻ trộm lành vừa được phước ăn năn/ Đến tắm mát ở đầu nguồn Cứu Rỗi”. Tôi nghịch ngợm và tinh tế. Mùi thơm của áo em sao nồng nàn quyến rũ thế!

Em theo mẹ vừa ngang qua nhà xứ
Tôi chen vô,
lên bốc nẻ, hôn chân
Mùi hoa xoan

hay áo em mới, cứ nồng nàn
Những e ấp,
chực chờ, sợ người ta nom thấy?

Tôi buồn bã khi phải đi học xa nhà: Người một phương/ chả biết đến bao giờ?
Nghe mẹ kể về cái chết của em, tôi đau đớn bất lực:

Tôi thảng thốt/ được tin em quá muộn

Và Tôi không nguôi thương nhớ, không thôi độc thoại, không thôi sống trong tâm tưởng những kỷ niệm với em, và tôi muốn đi theo em (điệp từ: “Tôi còn nhớ”;nhớ là nhớ”)

Tôi vẫn đợi, vẫn chờ em đầu ngõ
Hỏi sông kia,
sao bên lở, bên bồi?…

…Chầm chậm, từng bước thôi
Em ạ,
chờ tôi…”

            Rõ ràng sự kết hợp nhân vật tôi kể chuyện với nhân vật tôi tâm trạng đã tạo nên sắc thái thẩm mỹ rất riêng cho bài thơ. Bài thơ vừa bao quát được hiện thực rộng lớn ngoài kia, vừa dẫn người đọc thâm nhập rất sâu vào tâm thức của một con người trong nhiều chiều kích: chiều rộng của bối cảnh lịch sử xã hội, chiều cao thẳm của tâm linh (vượt qua tử sinh vươn tới thiên đàng), chiều phức tạp của tâm lý con người trong tình yêu, trong những nghịch cảnh và trong hành trì tư tưởng nhằm giải thích “có nhân có quả”  những vấn đề nhân sinh, tư tưởng và tôn giáo (chiến tranh loạn lạc, cái chết bất ngờ đau đớn của người dân, sinh ly tử biệt, mối tương quan giữa người sống và người chết, sự tự ý thức và tự sám hối, niềm tin “ được phước ăn năn/ Đến tắm mát ở đầu nguồn Cứu Rỗi”…)

            Trong vai trò của nhân vật tôi kể chuyện, Tôi còn chêm vào những lời bình ngoại đề một cách tự nhiên như thổ lộ tâm sự (theo cách kể chuyện dân gian), để thổi bùng lên cảm xúc của người đọc.

       Đang kể chuyện theo em đi nhà thờ Tôi chen vào lên bốc nẻ, hôn chân”, và cảm

nhận mùi hoa soan, mùi áo em nồng nàn gần gũi. Một tình yêu còn e ấp, chực chờ, Tôi tạm ngưng kể mà bình luận (cũng là tâm tình chia sẻ):


Ở nhà quê

thường có những cái rất hồn nhiên, tình cờ như vậy
Trước,
chưa nên

sau, cũng vận vào người
Mấy ai ngờ?

            Sau khi kể lại kỷ niệm cùng em “ngắm lễ đèn, mở cửa mồ, táng xác…” trong đêm thứ Sáu tuần Thánh, Tôi quay ra suy gẫm:

                        Thế mới biết

ngọn ngành, có nhân, có quả
Cuối bài thơ là một loạt câu hỏi (cũng là một cách bình luận), để nâng tầm tư tưởng

 cho bài thơ, bởi vì việc kể chuyện đã kết thúc. Không gian, thời gian, tâm tưởng mở rộng biên độ ra mãi. Khổ thơ này đòi hỏi người đọc phải có vốn sống, có tri thức văn hóa Việt và sự hiểu biết Kinh Thánh mới cảm hết cái hay của tư tưởng:

                        Tôi vẫn đợi, vẫn chờ em đầu ngõ

Hỏi sông kia, sao bên lở, bên bồi?
Ai gác thuyền,
ra dàn đáy, hàng khơi
Ai tiệc rượu,
ai dầu thơm, tóc mượt?

            Kết bài thơ là lời Tôi đề nghị với em, tuy ngắn gọn, nhưng tạo ra dư âm vang vọng mãi.

Em nhanh chân mang dầu đèn ra trước
Chầ
m chậm, từng bước thôi
Em ạ,
chờ tôi…

Chuyện tình yêu chưa kết thúc. Em sẽ dẫn Tôi và người đọc vào thế giới của ánh sáng, vào Thiên Đàng vĩnh cửu, không còn-mất đau thương, không “bên lở, bên bồi”…

Trở lại vấn đề, nhân vật tôi kể chuyện, Tôi kể câu chuyện của đời thực, tạo ra sự khả tín đối với người đọc. Trái lại, nhân vật tôi tâm trạng, tạo nên chất lãng mạn cho bài thơ. Một bài thơ vừa hiện thực nhưng lại đẫm màu sắc lãng mạn, đó là cái chất riêng của thơ Lê Đình Bảng.

VẺ ĐẸP THI CA MỚI

            Khi đặt bài thơ này bên cạnh những bài thơ tình yêu Việt Nam, bạn sẽ nhận ra sự mới mẻ nghệ thuật mà Lê Đình Bảng mang lại cho thơ Việt đương đại. Thơ tình Xuân Diệu đầy nhục cảm. Thơ tình Nguyễn Bính dập dìu lễ hội dân gian, thơ tình Phạm Thiên Thư thấp thoáng ánh vàng cửa Thiền, thơ tình thời chiến tranh sáng rực màu đỏ (Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Núi Đôi của Vũ Cao; Quê hương của Giang Nam, Cuộc chia ly màu đỏ của Nguyễn Mỹ, Hương thầm của Phan Thị Thanh Nhàn). Nhưng cái màu tím hoa xoan mùa thương khó là một khám phá mới về tứ thơ.

            Khi tưởng niệm đức Giêsu chịu chết (thứ Sáu Tuần Thánh), người phụ trách lễ thường hái hoa xoan đem trộn với hạt cốm (thóc rang- mà tác giả gọi là “nẻ”), bỏ vào trong áo quan đựng xác Chúa. Giáo dân lên hôn chân Chúa sẽ cảm nhận mùi thơm hoa soan rất nhẹ và thanh khiết. Hôn xong, người tín hữu đưa tay bốc một ít “nẻ”(cốm có trộn hoa xoan) trong áo quan của Chúa, gọi là xin “lộc” của Chúa. Trẻ con hôn chân Chúa chủ yếu là để bốc nẻ ăn.

       Trong bài thơ này, Lê Đình Bảng khám phá màu tìm hoa xoan để diễn tả nỗi đau

buồn mùa Chúa chịu nạn, nhưng cũng để diễn tả tình yêu. Lứa đôi đi nhà thờ trên con đường đầy hoa xoan.

quê nhà ta mới vào mùa Thương Khó…
Gió thổi buốt

dọc hai bên đường, hoa xoan nở

Ôi, loài hoa tim tím ngát,

…Mùi hoa xoan

hay áo em mới, cứ nồng nàn

điệp khúc “hoa xoan… mùa Thương Khó”được tiếp tục nhắc lại ở cuối bài thơ tô đậm tình yêu lứa đôi, tô đậm nỗi buồn thương thánh thiện. Hoa xoan là “hoa xoan… mùa Thương Khó”(tức là mùa lễ thánh, người giáo dân đau buồn trước cái chết của Chúa). Điều tinh tế  và kỳ diệu là tình yêu lứa đôi vừa hồn nhiên ngây thơ, vừa hòa trong nỗi đau buồn mùa lễ thánh, và trở thành hy lễ của cả hai người dâng lên Chúa trong ngày Thương Khó. Thế nên tình yêu ấy tuyệt vời thánh thiện và mới lạ trong thi ca Việt. Mở đầu là hoa xoan nở hai bên con đường tình lứa đôi, cuối cuộc tình là “hoa xoan…mùa thương khó”. Đó là sự phát triển tư tưởng. Tình yêu hồn nhiên thánh thiện nở hoa tím đau thương hòa trong Ơn Cứu Độ.

            Những tứ thơ mang tư tưởng như thế thật mới lạ trong thơ tình Việt. Với thơ tình Công giáo, Lê Đình Bảng còn khám phá cái đẹp ngay trong sinh hoạt đạo đức của giáo dân. Góc máy quay của Lê Đình Bảng linh hoạt vô cùng. Mở đầu là font nền có góc rất rộng trong không gian, thời gian: những con đường làng đầy hoa xoan tím, gió thổi lạnh,

                        Suốt mấy tuần Chay

khắp làng thôn mình rộn ràng xưng tội.
Rồi ống kính zoom lại, tập trung vào lứa đôi:

Em theo mẹ vừa ngang qua nhà xứ
Tôi chen vô,
lên bốc nẻ, hôn chân

            Ống kính gần hơn, soi vào chỗ riêng tư :

Quỳ song đôi, hai hàng ghế hai bên
Vẫn chia lòng,
chia trí… vẫn ngó nghiêng
Nghe em bảo,

đêm nay, ngắm lễ đèn, mở cửa mồ, táng xác…
Sau cùng ống kính dừng lại ở em:

… lúc em xếp hàng từng đôi, lên dâng hạt
Ôi,
lời kinh như mật rót vào hồn.

            Những chi tiết sinh hoạt rất riêng của “nhà đạo” như “bàn tay giấu trong khăn/ Đi lễ sớm”,  xưng tội, hôn chân Chúa, quỳ song đôi cầu nguyện, ngắm lễ đèn, mở cửa mồ, nghi thức táng xác, dâng hạt là những điều rất đỗi bình thường của mùa Thương Khó. Không gian nhà thờ chìm ngập trong màu tang (Thứ Sáu và thứ Bảy Tuần Thánh, giáo dân ở nhiều giáo xứ đội khăn tang, để thương tiếc Chúa), chẳng thơ chút nào. Nhưng những chi tiết sinh hoạt ấy bỗng trở thành thơ, rất thơ, rất mới lạ mà trong thơ ca Việt chưa có bao giờ, kể cả trong thơ Hà Mạc Tử, và trong thơ “nhà đạo” hôm nay. Vấn đề là ở chỗ, nhà thơ là người khám phá ra cái đẹp mới mẻ ấy, và biến chúng thành thi liệu đắt giá. Đó là tài năng nghệ sĩ, đó cũng là con đường khai phá mà Lê Đình bảng đóng góp cho thi ca Công giao đương đại.

            Và Lê Đình Bảng đã chuyển hóa những sinh hoạt đời thường ấy thành yếu tố văn hóa, thành chất liệu thi ca, đóng góp vào thi ca Việt những phẩm chất mới lạ, thuần Việt, hồn Việt trong trẻo đến lạ lùng. Xin lưu ý rằng, thơ Việt trung đại sử dụng nhiều điển tích Trung Quốc. Thời Pháp thuộc, thơ Việt chịu ảnh hưởng thơ Lãng mạn Pháp.

            Một điều rất thú vị làm nên chất tài hoa của thơ Lê Đình Bảng là việc sử dụng ngôn ngữ bình dân bên cạnh những cách diễn đạt rất sang trọng lịch lãm.

            Câu thơ này như một câu nói ngày thường: “Ở nhà quê/ thường có những cái rất hồn nhiên, tình cờ như vậy”. Hoặc một câu nói như nghe từ cửa miệng các bà mẹ quê: “Người một phương/ chả biết đến bao giờ?”, có cả cách nói triết lý của người nôngdân: “Thế mới biết/ ngọn ngành, có nhân, có quả”. Điều này giúp người đọc nhận ra Lê Đình Bảng đã sống rất sâu trong văn hóa dân gian, văn hóa thuần Việt, từ đó chuyển hóa thành thơ. Và trên cái nền nã giản dị, tự nhiên, trong trẻo ấy, bất chợt xuất hiện những tứ thơ như lấp lánh vàng:

                        Lòng bâng khuâng

nghe chim hót ngoài vườn
Có phải vì còn lưu luyến,
tơ vương
Những rơi rớt của vàng hương xưa cũ?

            Tứ thơ sau đây có bóng dáng của “chùm hoa năm ngoái”, cũng có cái mê hoặc cõi Thiên Thai: sang trọng, cổ kính nhưng mới lạ

Chiều nay, đợi chuyến xe về quá muộn
Ngắt vội chùm hoa

làm quà tặng em thôi
Bởi vì em,
giờ đã là thánh nữ trên trời

            Chữ “thôi”, chữ “bởi vì” là khẩu ngữ, có thể bỏ đi không ảnh hưởng ngữ nghĩa câu thơ, nhưng chính những từ ngữ ấy lại đem đến cái duyên cho thơ, cái ý nhị trong lời nói, và cái tài hoa của một phong cách thơ.

VỸ THANH           

Câu chuyện tình đã kết thúc. Em đã là thánh nữ trên trời, vậy còn điều gì làm cho lòng ta day dứt?

Đó là cái chết của em, một cái chết đột ngột quá, một cái chết thương tâm quá. Người đọc chưa được chuẩn bị tâm thế để đón nhận một tin buồn giữa lúc đang dõi theo tình yêu lứa đôi tưởng là sẽ rất lãng mạn, tưởng là sẽ được Chúa chúc phúc.

vào một buổi sớm tinh mơ…
Em gục chết

ngay khi bước ra khỏi nhà thờ, vừa tan lễ…

“…Viên đạn ở đâu?

bay thẳng vào trái tim em…!” mẹ kể…
“…Lạy Chúa tôi !”

Chuyện kể với tốc độ nhanh như chính sự việc xảy ra trong nháy mắt làm choáng váng. ”Viên đạn ở đâu?/ bay thẳng vào trái tim em “ và tiếng kêu của mẹ “…Lạy Chúa tôi” thảng thốt, rồi ngưng bặt không thốt thành lời. Nếu trước đó nhà thơ miêu tả chiến tranh thì người đọc còn có thể liên tưởng được và nỗi đau không choáng ngợp như thế. Cái chết ấy, ai đã trải qua chiến tranh, để lại bao điều day dứt.

Thôi thì, người chết đã yên phận, trong niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, em đã là thánh nữ trên trời, nhưng người còn sống, nhân vật Tôi (người kể chuyện, nhân vật tâm trạng) người yêu của em sống thế nào. Thôi thì

Cứ cầm bằng

mình đôi ngả, đôi quê
Đành đoạn qua cầu sinh ly,
tử biệt…
…Mà kỷ niệm thì theo ta đến chết

Một ước vọng nhỏ nhoi không thành:

                        Chỉ ước thầm

mình đừng vội lớn, mau khôn
Cứ thả đỉa ba ba,
dung dăng dung dẻ…
Đâu đến nỗi,
vội khóc cười lan huệ

            Nên vọng mãi đến thiên thu một câu hỏi không có hồi đáp.

Tôi vẫn đợi, vẫn chờ em đầu ngõ
Hỏi sông kia,
sao bên lở, bên bồi?

Một thãng thốt trong mơ như đang ở giữa đời thực
                      Chiều nay,
đợi chuyến xe về quá muộn
                      Ngắt vội chùm hoa

làm quà tặng em thôi…

…Chầm chậm, từng bước thôi
Em ạ,
chờ tôi…

            Lòng tôi rưng rưng mãi khi đọc những câu thơ gan ruột của một người yêu với người yêu, của một thi nhân tài hoa và đa tình rất mực, của một hồn thơ mênh mang như dòng sông kia chảy mãi tới cõi Thiên đàng. Xin cám ơn người đã để lại cho đời một bông hoa tuyệt vời hương sắc.

Tháng 3/ 2022


[1] https://songdep.com.vn/358-linh-son-thanh-mau-duoc-tho-o-nui-ba-den-la-ai-d2107.html