ĐẶNG TIẾN – “GU” HAY PHƯƠNG PHÁP?

ĐẶNG TIẾN – “GU” HAY PHƯƠNG PHÁP?

Bùi Công Thuấn

 

dang-tien

Nhà phê bình Đặng Tiến (ảnh internet)

 

Đặng Tiến là nhà phê bình chuyên nghiệp. Ông viết phê bình trên nền tảng lý luận văn học. Ông cũng cây bút phê bình có uy tín mấy chục năm qua cả ở trong nước và hải ngoại. Những bài phê bình văn học của ông đem đến cho người đọc nhiều thông tin bổ ích. Văn phê bình của ông có phong cách riêng, đọc rất thú vị.

1.NHÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC CHUYÊN NGHIỆP

Trả lời phỏng vấn của Vinh Nhi, ông cho biết: “Tôi sinh 1940 tại xã Hòa Tiến, TP. Đà Nẵng. Năm 1960, vào Sài Gòn học Đại học Văn Khoa – 1963 ra trường, đi dạy tại trường cấp 3 A.Yersin (Đà Lạt). Tôi học trường Pháp từ nhỏ, nên có điều kiện tiếp xúc nhiều sách báo Pháp, thuận lợi trong giao tiếp, mở mang. Từ 1966, tôi sang Berne (Thụy Sĩ) làm ngoại giao, ở đây tôi có quen Hoàng Minh Nguyệt (sinh năm 1950) là vợ tôi sau này. Từ 1968, tôi về Pháp, học thêm ở Đại học Paris và bắt đầu công việc dạy Pháp văn 4 ngày (18 giờ)/tuần cho một trường cấp 3 ở Orléans (cách Paris 100km) – nơi chúng tôi sống đến nay. Cùng với GS Tạ Trọng Hiệp, tôi lập ra Ban Việt học tại ĐH Paris 7, giảng dạy ở đây từ 1969 – 2005, với 4 giờ/1 tuần.

 Tôi chọn thơ ngay từ đầu, vì nắm quy luật, đọc và giải mã được. Thú thật là với tôi, thơ đọc nhanh, viết dễ hơn văn xuôi.”[1]

Ông đã xuất bản Vũ trụ thơ (Giao điểm, 1972), Vũ trụ thơ II (Thư ấn quán, Hoa Kì, 2008), Thơ-Thi pháp và chân dung (Nxb Phụ Nữ, 2009) và có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí Văn, Bách Khoa…(trước 1975), Văn Học, Đoàn Kết…(sau 1975).

Trong Lời trần tình khi tái bản Vũ trụ thơ, Đặng Tiến tiết lộ về việc viết lách của mình:

Tôi bắt đầu viết những bài điểm sách từ 1960, cho báo sinh viên. Trần Phong Giao đọc được và yêu cầu tôi viết thường xuyên cho nguyệt san Tin Sách, do anh phụ trách tòa soạn. Sau đó là viết phê bình, tiểu luận cho các báo Văn, Mai và Bách Khoa.

Năm 1966, tôi ra nước ngoài, Trần Phong Giao đề nghị tập hợp các bài để in dần. Tôi trả lời hững hờ, lấp lửng.

Lý do: những bài viết xưa nay tôi thường viết vì bè bạn, theo yêu cầu của bạn bè, hay các báo. Có lúc, 1964, bị Nguyễn Đình Toàn mắng thẳng thừng: ‘Mày không viết thì thằng nào viết?’. Tôi viết văn như trẻ con nghịch nước, ném viên sỏi xuống ao để nhìn những vòng sóng lăn tăn lan rộng rồi im lìm. Rồi thôi, không còn nhớ gì đến viên sỏi. Nghiệm trong đời mình, những điều mình muốn nói, thì chẳng điều gì đáng nói; những cái đã nói, chưa lần nào nói trọn. Hơi đâu mà in sách để đời, phiền lòng và chật nhà người đọc. “

Đặng Tiến nói về việc đọc một tác phẩm thơ:

“Một người không thể đọc được một tác phẩm hai lần. Cũng như không thể tắm hai lần ở một dòng nước như lời một triết nhân Hy-lạp. Vì ở cuối dự định trở về một tác phẩm, người đọc sẽ bắt gặp một tác phẩm khác: tác phẩm tự nó đã thay đổi ý nghĩa với thời đại, và người đọc tự họ cũng đã thay đổi nhãn quan với thời gian. Niềm vui phóng khoáng mỗi lần khám phá như thế chính là yếu tính của nghệ thuật trong tác phẩm và khả năng lãnh hội nghệ thuật trong độc giả.

 Nhìn lại con đường hậu thế đã đi qua để dò tìm giá trị của tác phẩm chúng ta thấy một lối vòng xung quanh tác phẩm, và chưa có cuộc hành trình nào thật sự đi vào yếu tính, tức là đi vào mỹ tính của tác phẩm(Nguyễn Du, nghệ thuật như một chiến thắng)

Trả lời phỏng vấn của Lý Đợi khi in Thơ – Thi pháp và Chân dung [2], ông nói về yêu cầu viết và xuất bản tác phẩm của mình như sau:

– Về “Thi pháp”, tôi chỉ đưa ra một ý chính: thơ là ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng; khác với ngôn ngữ hàng ngày, là dụng cụ để biểu hiện một ngoại vật. Những bài khác minh họa ý đó, bằng những lập luận và ví dụ cụ thể.

 Về “Chân dung”, tôi thỏa thuận với NXB đưa ra một hành trình tổng hợp về thi ca Việt Nam, đi từ Nguyễn Trãi qua phong trào Thơ Mới, các tác giả đương đại cả hai miền Nam Bắc như Lê Đạt, Bùi Giáng, Hoàng Trúc Ly, Phạm Tiến Duật… không phân biệt chính kiến. Vì số trang có hạn, nhiều chân dung tác giả khác phải dời lại cho cuốn sau.

 Đây là cái nhìn hòa giải, của bản thân tôi sinh sống ở nước ngoài. Nhưng may mắn gặp sự đồng tình của NXB, mà tôi xin đề cao ở đây. Nhất là người chọn bài, biên tập, rất chuyên nghiệp, lại là người tôi chưa từng quen biết. Như vậy là có nguồn đồng thuận hướng về chân trời hòa hợp, là điều phấn khởi lớn. Đây là niềm vui của cá nhân tôi và bè bạn từ nhiều năm nay muốn có trong tay những bài viết của tôi để tiện việc tra cứu, hoặc chỉ để tìm lại một kỷ niệm. Nhưng nói rộng ra có thể là một tư liệu cần cho giới văn học, của một tác giả ít được biết, xem như là một khách tài tử của văn chương không mấy thiết tha với việc in ấn, không có bao nhiêu tham vọng về sự nghiệp. Cũng có thể xem như một thoáng cởi mở trong tình hình văn học hiện nay, với một người sống lâu năm ở hải ngoại”.

 Sau đó ông kết luận: “…Cái gì cũng là chơi thôi. Quý hồ là gặp được độc giả cùng chia sẻ cuộc chơi, xem văn chương chữ nghĩa như một sân chơi để cùng nhau gặp gỡ. Văn học bản thân nó phải là nơi kết hợp và là niềm hạnh phúc”

 Trong những thổ lộ trên, ta thấy thấp thoáng bóng dáng lý thuyết văn chương đương đại về vai trò của người đọc và việc diễn giải tác phẩm, đồng thời Đặng Tiến cũng định hình ngòi bút phê bình của mình là tìm giá trị của tác phẩm bằng cuộc hành trình“đi vào yếu tính, tức là đi vào mỹ tính của tác phẩm

Trong khi viết phê bình, ông thường nói thẳng, giọng quyền uy của người nắm được chân lý của vấn đề. Tuy vậy nghề ngoại giao giúp cho ông biết che chắn, “rào đón” những cái “nhạy cảm” để tránh đụng chạm.

Thí dụ, khi viết về thơ Hàn Mặc tử, ông luận thế này: “xin tán đồng Quách Tấn về hai điểm: thứ nhất là Trần Thanh Mại ẩu, thứ hai là ông không hiểu thơ, và cứ ưa phê bình thơ, và Vũ Ngọc Phan cũng đồng ý như vậy [5]. Tuy nhiên, nếu không có cái ẩu, cái trích dẫn bừa bãi của họ Trần, thì các nhà nghiên cứu về sau – kể cả Quách Tấn – lấy đâu ra thơ Hàn Mạc Tử để tham khảo, sau khi người giữ bản quyền để thất lạc hết di thảo?

 Chúng tôi trình bày những khó khăn về tài liệu đó là có ý rào đón những thiếu sót trong bài này, khi đề cập đến một đề tài hệ trọng và bao quát: đức tin Thiên Chúa giáo trong thơ Hàn Mạc Tử”

 Viết về Văn Cao, Đặng Tiến đứng về phía “nghệ thuật vị nghệ thuật” để phê phán văn nghệ Hiện thực xã hội chủ nghĩa: Mà không cứ gì một cô bé lầu Tây sai lầm, mà cả nền văn nghệ Hiện thực xã hội chủ nghĩa (đã) sai lầm, khi đánh giá những bài hát nói Nguyễn Công Trứ qua Nguyễn Công Trứ, đánh giá tiểu thuyết Nhất Linh qua con người Nhất Linh – mà lại đánh giá sai. »

Đặng Tiến biện luận : «… nghệ thuật là một thế giới riêng, với những quy luật riêng, bảo vệ và phát huy bản năng sáng tạo, độc lập với hiện thực. Mặc khác, nghệ thuật cần bám rễ vào thực tại để phát triển, và phả sắc, nhả hương về lại trần gian. Nói giản dị hơn: nghệ thuật cần thực tại để nảy sinh và cần quần chúng để trưởng thành và tồn tại…”

Ông lớn lên và học hành ở miền Nam trước 1975, rồi sang Thụy Sỹ làm ngọai giao, sau đó sinh sống và dạy học ở Pháp. Hoàn cảnh đó cho ông cơ hội tiếp xúc với văn nghệ sĩ cả trong Nam, ngoài Bắc trước 1975, tiếp xúc với nhà văn hải ngoại và nhà văn trong nước sau 1975. Ở chỗ đứng của mình, nếu ông nghiêng về phía nào, thì sẽ bị phía bên kia phản đối. Tất nhiên ông đã không tránh khỏi những eo xèo [3] từ phía dư luận của người Việt hải ngoại khi ông về nước hay khi ông viết về Tố Hữu (giống như trường hợp của Phạm Duy)

Tôi không bận tâm về con người xã hội của ông nhưng quan tâm về phương pháp phê bình và những gì ông khám phá được về giá trị văn chương bằng phương pháp phê bình ấy. Tôi kỳ vọng ở ông, sống ở Pháp, ông có thể thủ đắc được những phương pháp phê bình đương đại của phương Tây để viết phê bình văn học Việt Nam, đem đến những cái nhìn mới, khám phá những giá trị mới, làm phong phú văn chương Việt.

2.TÙY BÚT HAY PHÊ BÌNH?

Đây là một đọan Đặng Tiến mở đầu bài viết về thơ Bà Huyện Thanh Quan trong Vũ Trụ Thơ:

“Có những năm tháng đằng đẵng tôi phải sống hoàn toàn xa cách những người thân thuộc. Một phần vì nghề nghiệp, phần khác vì chính tôi muốn xa lánh mọi liên hệ tình cảm, xã hội, để suy tư. 

Đời sống như thế, có lúc nó trống trải quạnh hiu đến tàn nhẫn. Có những khi đi làm về, leo thang gác để lên phòng, tôi nghe những bước chân trên bục gỗ dội vào tim đau nhói. Tôi biết trước sự trống vắng của căn phòng, tôi biết trước là không có gì chờ đợi, không có gì thay đổi cả. Căn phòng vẫn như cũ, như lúc tôi đi. Tôi bắt đầu nghe thấy mùi ẩm mốc từ bên trong, và tiếng tích tắc của đồng hồ reo, mó vào chìa khoá cửa tôi rùng mình trước khi hơi giá buốt tuôn ra luồn vào cổ áo. 

Như thế, nhiều đêm tôi sợ quá không dám về phòng nữa. ..

Ý thức được điều đó, lắm khi tôi có cảm giác phạm tội khi đọc thơ Thanh Quan: một thứ tội lỗi u ám, đen tối nhưng êm ái; nhiều buổi sáng tỉnh dậy tôi thở ra thơ Thanh Quan theo từng hơi thuốc lá. Tôi nhìn theo chút hương khói đượm mùi da thịt của thi ca tan dần, mờ dần trong bầu trời xanh buổi sáng. Tôi suy nghiệm, nhận thấy sở dĩ thơ Bà Huyện Thanh Quan gây được một ấn tượng sâu xa như thế, là nhờ một sự nhất trí, nhờ cái hồn chung cho cả mấy bài thơ bà để lại: đó là nữ tính chứa chất trong thơ bà…”

Và ông kết lại bài viết:

Tôi muốn dời thơ Thanh Quan để về với Thanh Quan. Sự mến yêu của tôi thường rất tao nhã. Nàng là một ánh nắng ngủ muộn trên một cành liễu yếu, nàng là tiếng reo vi vu của cơn gió trên những ngọn phi lao.

Có khi nồng nàn hơn. Nàng hiển hiện một chiếc gáy nõn nà với những sợi lông tơ vàng mượt. Những khi ấy tôi thường e ngại.

Có những buổi sáng khoá cửa phòng đi làm, tôi có cảm tưởng như có nàng chờ đợi ở nhà. Tôi nôn nóng trở về, vội vã lên thang gác, và thấy phòng mình ấm hơn thường lệ. Trạng thái này ít khi xảy ra; và mỗi lần như thế, tôi biết mình đang ở trong tình trạng tinh thần bất thường…”

 Nhân vật Tôi (những chữ in đậm-BCT) trong bài viết- Đặng Tiến- đang tự phân tâm mình khi đọc thơ Bà Huyện Thanh Quan. Cảm xúc và lý trí lẫn lộn, nhưng Đặng Tiến ý thức rất rõ, rất cụ thể. Đặng Tiến miêu tả hiện tượng luận một cách sống động trạng thái tâm hồn mình và để cho “dòng ý thức” trôi đi. Ông ý thức rõ mình đang trong trạng thái “bất thường” về thần kinh. Ấy là trạng thái “phạm tội khi đọc thơ Thanh Quan: một thứ tội lỗi u ám, đen tối nhưng êm ái “. Nói bằng ngôn ngữ đời thường, Đặng Tiến đọc thơ Bà Huyện Thanh Quan rồi tưởng tượng ra con người thực của nữ sĩ có “chiếc gáy nõn nà với những sợi lông tơ vàng mượt”. Dục tính của ông dâng trào làm cho ông nôn nóng sex…

Trang viết bộc lộ cái tôi cảm xúc đó là một đặc trưng của Tùy bút. Người viết mặc sức thả hồn vào thế giới mà mình hình dung ra. Vì thế viết về Vũ trụ thơ Bà Huyện Thanh Quan, thực chất là Đặng Tiến bay bổng trong cái thế giới ảo đầy nhục thể do mình tự vẽ ra, cái thế giới này nằm ngoài văn bản thơ Bà Huyện Thanh Quan. Đặng Tiến ra sức chứng minh thơ Bà Huyện Thanh Quan nhìn ở góc độ nào cũng là “đàn bà”, và đàn bà (nữ tính) thì đồng nghĩa với sex nên ông mới kết luận bài viết bằng tả trực tiếp sự nôn nóng sex của mình.

Tôi cho rằng đây là một bài bình thơ “quái gở” vô tiền khoáng hậu trong phê bình thơ Việt. Bởi tác giả hoàn toàn áp đặt cho thơ Bà Huyện Thanh Quan những diễn giải ngoài văn bản. Nhà phê bình chỉ chăm chăm tìm “nữ tính” của Thanh Quan để thỏa mãn cơn khát của mình. Nếu ai đó hỏi rằng Thanh Quan viết những bài thơ đó để nói điều gì, và yếu tố nào giúp cho thơ Thanh Quan sống được với thời gian, yếu tố nào làm nên phong cách thơ Thanh Quan, định vị được trong lịch sử văn học Việt, bài viết của Đặng Tiến không trả lời được. Với Đặng Tiến , tất cả giá trị thơ Thanh Quan chỉ là “nữ tính”, là chất “đàn bà”, có thể thỏa mãn những cơn khát dục của đàn ông. Một cái nhìn đậm đặc chất phong kiến phương Đông kết hợp với chủ nghĩa sex trong văn hóa phương Tây.

3.PHƯƠNG PHÁP PHÊ BÌNH CỦA ĐẶNG TIẾN

 Nhà phê bình khi nghiên cứu một đối tượng (tác giả, tác phẩm), bao giờ cũng thu thập tư liệu, tin tức, khám phá những vùng miền chưa biết, sau đó phân tích, tổng hợp, so sánh, lý giải và khái quát vấn đề. Đặng Tiến làm ngược lại. Ông nêu cảm nhận chủ quan về đối tượng, rồi ra sức tìm kiến câu thơ, ý thơ, chữ nghĩa để chứng minh. Đó không phải là phê bình văn chương, mà là tùy bút văn chương như đã nói ở trên. Tác phẩm văn chương chỉ là phương tiện bộc lộ trực giác cảm tính về đối tượng. Vì thế, khi Đặng Tiến thả cho hồn mình “bay bổng” để cảm thụ cái sung sướng tưởng tượng như bài viết về Bà Huyện Thanh Quan ở trên, người đọc sẽ phải rời ông đi chỗ khác, để tránh làm phiền ông!

Ông nhận định về truyện Kiều như thế này:

“Cuộc sống trước hết là một thực trạng phi lý. Điều đó nhiều người nói rồi, nhưng nhiều người khác của hậu thế cũng sẽ còn nói nữa. Không phải cuộc sống lênh đênh của Thúy Kiều, của Nguyễn Du là phi lý, nhưng tất cả mọi cuộc sống đều phi lý “Không có cuộc sống nào đáng sống cả, lỡ sống thì phải chấp nhận cuộc sống”, nói như một nhân vật kịch Vũ Khắc Khoan…

 …Nói tóm lại, con người trong Đoạn trường Tân thanh là con người phi lý, nô lệ, cô đơn, nhục nhã, lưu đày, tha hóa, gian dối. Truyện Kiều là ý thức bi đát của thân phận làm người. Nhưng giá trị Truyện Kiều không dừng lại ở ý thức bi đát đó.”(Nguyễn Du, nghệ thuật như một chiến thắng)

Người đọc hôm nay nhận ra ngay Đặng Tiến muốn giải thích truyện Kiều bằng triết học Hiện sinh của thế kỷ XX, và muốn nâng giá trị truyện Kiên lên giá trị tư tưởng, rằng Nguyễn Du, về tư tưởng, là người đi trước thời đại. Đây là cách viết theo mốt (mode) thời thượng!

Nhưng Đặng Tiến nhầm, vì câu chuyện cuộc đời Kiều là do Thanh Tâm Tài Nhân viết ra, Nguyễn Du chỉ thi hóa, Việt hóa tác phẩm của người khác, qua đó gián tiếp thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Cho nên không thể coi thân phận Kiều là ý thức sáng tạo có tư tưởng Hiện sinh của Nguyễn Du được. Hơn nữa, thời Nguyễn Du chưa có chủ nghĩa Hiện Sinh. Nguyễn Du trước sau chỉ là một nhà Nho phong kiến. Lúc trẻ thì say mê công danh, khi làm quan thì chu toàn chức việc, sau đó mong về quê (vì thời thế lọan). Về tư tưởng, trong thơ, ông dung nạp thêm Phật. Nguyễn Du không thể vượt thời đại để trở thành trí thức dấn thân như J.P.Sartre hay một triết gia phi lý như A.Camus được. Kết thúc truyện Kiều, Nguyễn Du viết:

Ngẫm hay muôn sự tại trời,

Trời kia đã bắt làm người có thân.

Bắt phong trần phải phong trần,

Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

…Đã mang lấy nghiệp vào thân,

Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.

Thiện căn ở tại lòng ta,

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

 Nguyễn Du đã dùng tư tưởng Thiên mệnh của Nho giáo, “nghiệp” (Karma) và Tâm của Phật giáo để giải quyết vấn đề sinh mệnh con người. Nguyễn Du không Hiện sinh, cô đơn, phi lý, bi đát như Đặng Tiến đã cảm nhận.[4]

Bài Đức tin trong thơ Hàn Mặc Tử là một nhận định áp đặt khác. Đặng Tiến say sưa chứng minh thơ Hàn Mặc Tử được viết dưới ánh sáng Kinh Thánh Thiên Chúa giáo, từ Cựu Ước đến Tân Ước, từ khi loài người phạm tội nguyên tổ phải rời khỏi vườn Địa đàng, đến khi đón chờ Ngôi Hai cứu thế.

Xin đọc:

“…Những dòng mở thi phẩm không khỏi làm ta nhớ đến thiên Sáng Thế Ký mở đầu Cựu Ước. Nhưng vườn, đây không nằm ở hướng đông như vườn Eden (“Gen II.8”), mà chỉ là một vườn mơ, bến mộng, niềm nhớ nhung đằng đẵng về một hạnh phúc nguyên thủy…

…Sau khi phạm trái cấm, loài người không mang nguyên tội ra khỏi địa đàng rồi dựng lại một bình an khác. Với tội kiêu căng, loài người phải chịu bao nhiêu hưng phế: từ Hồng Thủy cho đến cơn thịnh nộ của Thiên Chúa hủy tháp Babel, thành Sodome và Gomorrhe, bao nhiêu lớp bụi phế hưng đã lấp mất cánh đồng xanh lẫn “ ít nhiều hơi hám của kiên trinh

Hồn xưa tự ấy không về nữa

Ở cõi hư vô dấu đã chìm

vũ trụ trong Gái Quê và những bài Đau Thương đầu tiên nhuốm ý thức nguyên tội.

… Đối với Hàn Mặc Tử, Thơ là Đạo và Đạo là Thơ, Thơ đã đạt tới Đạo và Đạo để đi tới Thơ…Thơ đưa về Đạo, là nẻo đường đưa đến Con Đường. Thơ là giải pháp tạm thời của Đau Thương, trong khi chờ đợi Đạo và Cứu Rỗi miên viễn…”

 Phải công nhận Đặng Tiến có những hiểu biết khá căn cơ về Kinh Thánh, và những câu thơ ông nhặt ra để minh họa có vẻ như là phù hợp (do cách diễn giải).

Nhưng tôi tự hỏi, có phải Hàn Mặc Tử làm thơ (như một tu sĩ) để truyền bá Kinh Thánh không? Và phải chăng Hàn Mặc Tử khi làm thơ thì sắp đặt trước đề tài các tập thơ, các bài thơ theo trình tự nội dung Kinh Thánh từ thời Adam phạm tội nguyên tổ đến khi Ngôi Hai ra đời cứu rỗi nhân loại như Đặng Tiến đã nhận định?

Câu trả lời chắc chắn là không. Trước, sau, Hàn Mặc Tử là nhà thơ thế tục. Ông không phải là tu sĩ. Ông sáng tác thơ không phải để rao truyền Tin Mừng. Xin đừng đặt vương miện thánh lên đầu người thơ bất hạnh này. Tình yêu mới thực sự cứu rỗi ông. Chất liệu và cảm hứng thơ của ông có nguồn từ Kinh Thánh, vì đó là đức tin của ông. Nhưng nếu nói việc thể hiện đức tin của Hàn Mặc Tử là giá trị thơ của ông, thì thơ Hàn Mặc Tử chỉ nằm trong dòng thơ tôn giáo, không thể hòa nhập vào dòng chảy thơ dân tộc và thời đại.

Đặng Tiến cũng không lý giải được do đâu cuộc hiện sinh của Hàn Mặc Tử (bị phong cùi), cùng với nội dung Kinh thánh lại có thể trở thành thơ được, tức là đi vào mỹ tính của tác phẩm. Ông lặp lại con đường của những nhà phê bình mà ông đã phê phán, rằng, nhà phê bình chỉ đi vòng ngoài, chỉ nói về hoàn cảnh sống của nhà thơ mà không thâm nhập được vào “mỹ tính của tác phẩm”.

  1. “MỸ TÍNH” CỦA THƠ Ở ĐẤU?

 Trong bài viết Roman Jakobson và Thi pháp, viễn dẫn Jakobson, ông nói rất kỹ về “thi tính” tức “mỹ tính” của thơ:

“ Thi tính phát hiện cách nào? một từ được cảm nhận như một từ, chứ không phải cái thay thế cho sự vật được gọi tên, hay một bùng vỡ cảm xúc. Rằng là : từ pháp và cú pháp, ý nghĩa, ngoại hình và nội hình của chúng không phải là những chỉ dấu dững dưng của thực tại, mà chúng có trọng lượng riêng và giá trị nội tại”. Tóm lại, thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng… »

 Trả lời Lý Đợi, ông cũng khẳng định :

Lý Đợi : « Điều mà ông muốn “nối lại” và “nói lại” với độc giả trong một hành trình minh định thơ là ngôn & ngữ, chứ không đơn thuần là nghĩa & ý. Cuốn sách này có phải là một “tóm lược” về điều đó ?

 – Đúng là như thế. Chữ “đơn thuần” là chính xác.

 Ngày nay trên thế giới, các lý thuyết về thi ca nhấn mạnh vào ngôn ngữ và ít quan tâm đến tư tưởng. Nhờ đó mà kiến thức về thi ca đã có nhiều tiến bộ. Trước kia và hiện nay trong nước, người viết phê bình thường dựa theo ấn tượng, theo kiểu Hoài Thanh. Có lúc lại theo đường lối, giáo điều, nên ngành lý luận thi ca mất hiệu lực. Người làm thơ không mấy tin cậy vào người phê bình, thậm chí còn “sợ” bị chê, “sợ” luôn cả được khen. Điều quan trọng với tôi trong các bài viết, không phải là khen chê, mà hiểu bài thơ, may ra hiểu được người làm thơ. Hiểu được nhau, gặp được nhau là quý.”

 Những luận điểm về thơ của Đặng Tiến chỉ là diễn giải quan điểm của trường phái Hình thức Nga theo một cách khác. Trường phái này đã bị phản bác từ lâu rồi. Đặng Tiến dùng lại cũng đã là lạc hậu về lý luận. Tuy nhiên về mặt thủ pháp phân tích thơ, nhà phê bình có thể vận dụng được đôi điều từ quan điểm của trường phái này.

không thể nói rằng thơ chỉ là chữ đơn thuần, rằng thi ca nhấn mạnh vào ngôn ngữ và ít quan tâm đến tư tưởng. Ai cũng biết ngôn ngữ là công cụ giao tiếp. Nhưng ngôn ngữ còn là tư duy, là công cụ nhận thức thực tại và biểu đạt tư tưởng tình cảm. Thơ là một diễn ngôn, chẳng lẽ thơ không hướng về người khác để chia sẻ, để bày tỏ, để đối thoại? Sao Nguyễn Du lại hỏi khách tri âm: “Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tồ Như?”, sao Bà Huyện Thanh Quan đứng giữ Đèo Ngang mà thổ lộ:”Dừng chân đứng lại: Trời, non, nước/ Một mảnh tình riêng ta với ta”.

Rất may là, trong bài Thơ là gì, Đặng Tiến còn kịp nhận ra những thiếu sót của mình khi theo chân Roman Jakobson. Ông luận thêm: Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng. Về thực tế, khi đưa quan niệm này vào việc phân tích thi ca chúng ta lại phải dè dặt, vì bài thơ là một mô hình phức tạp”; “Nói thơ là một ngôn ngữ tự tại không có nghĩa rằng: thơ không cần có ý nghĩa... Không thể cô lập một câu thơ, và con người với xã hội, tách nó ra khỏi đời sống. Đây là hai điểm chính yếu, ta không nên ngộ nhận.”;Thơ có đặc tính riêng, nhưng vẫn bắt nguồn từ xã hội và phục vụ xã hội. Bắt nguồn và phục vụ bằng cách nào thì tùy hoàn cảnh cá nhân, hoàn cảnh xã hội, và tùy chế độ chính trị, xưa cũng như nay.

 Tuy đã kịp phản tỉnh khỏi những mê lộ của Roman Jakobson, nhưng khi đem lý thuyết của R. Jakobson vào phân tích bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử, Đặng Tiến vẫn không thoát khỏi ảnh hưởng của lý thuyết gia này. Ông băm nát bài thơ thành một đống vụn! Không còn thấy đâu là “thi tính”. Ông nói rõ: Bài này chỉ nêu lên giá trị nghệ thuật, trên nhiều địa tầng khác nhau.”, tức là không nói đến giá trị nội dung tư tưởng của bài thơ. Sau đó ông nhặt ra những âm tiết, những từ, những thanh điệu, nhịp thơ… để săm soi và tán đủ kiểu. Ông lại liên hệ với nhiều câu thơ và ý kiến của các tác giả khác để luận giải.

Kết quả là bài Đây Thôn Vĩ Giạ mất tăm, chẳng thấy giá trị nghệ thuật của bài thơ là gì, ngoài mấy câu Đặng Tiến bốc thơm thơ như: “…Là một trong dăm ba câu thơ đẹp và trong sáng nhất trên nền trời thơ Việt Nam”; “Chữ sao, nghi vấn và biểu cảm, khơi nguồn một bài thơ, sẽ là một đặc sắc của thơ mới; Thanh điệu làm nổi bật chữ «về», dấu huyền, giữa câu, đáng lẽ phải là âm trắc theo quy luật Gió theo lối gió, mây đường mây. Chữ «về», đắc địa và đắc ý, là một từ rất Huế.

Viết về Đây thôn Vỹ Dạ, Đặng Tiến viện dẫn nhiều tên tuổi. Tôi không hiểu tại sao Đặng Tiến phải vịn vai, mượn hơi 22 người khác làm xương cốt hồn khí của mình: Đó là Nguyễn Bá Tín, Bùi Tuân, Trần Thanh Mại, Hoàng Trọng Miên, Văn Cao, Xuân Diệu, Thâm Tâm, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm, Huy Cận, Nguyễn Bính, Nguyễn Du, Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Thạch lam, Bửu Ý, Nhất Linh, Lê Quý Đôn, Baudelaire, Trương Nhược Hư, Verlaine, kinh Phật. Và cuối cùng, người đọc không hiểu Đặng Tiến định nói gì về bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ.

Xin đọc một đoạn bình thơ của Đặng Tiến:

Sao anh không về chơi thôn Vỹ.

Thanh điệu làm nổi bật chữ «về», dấu huyền, giữa câu, đáng lẽ phải là âm trắc theo quy luật Gió theo lối gió, mây đường mây. Chữ «về», đắc địa và đắc ý, là một từ rất Huế. Người Việt dùng chữ về để diễn tả sự trở lại: về nhà, về làng, về nước, về nguồn…; người Huế, đi đến nhà bạn, ở xa, cũng dùng chữ «về», thân ái, tâm tình. Mỗi tình bạn là một quê hương, một đợi chờ, «một cõi đi về» như tên bài hát của một người Huế, Trịnh Công Sơn. Lại mang máng nhớ thêm: «Sao em không về… Trong cơn đau vùi… Làm sao có nhau…» Phạm Duy, không phải người Huế, cũng viết Về Miền Trung, và đã tế nhị lập lại nhiều lần động từ về trong nghĩa tâm tình đó. Mà về, thôn Vỹ xa xôi, chỉ để «nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên».

Xin thưa, “dấu huyền” trong chữ “về” là yếu tố tạo từ, không thể tách ra được. Vì tách dấu huyền ra, chữ “về” sẽ là chữ “vê” vô nghĩa trong câu thơ. Riêng chữ ”về”, nếu đứng một mình như Đặng Tiến tách ra khỏi câu thơ cũng là vô nghĩa. Chữ “về” trong từ ghép “về chơi” mới có nghĩa. Không thể nhặt ra cái “thanh huyền” và chữ “về” để tán như một đơn vị ngôn ngữ độc lập, càng không thể mượn hơi những người khác làm sự sống cho bài viết của mình. Thử hỏi, thanh huyền và chữ “về” có giá trị nghệ thuật gì góp phần tạo nên mỹ tính của bài thơ? Thưa:-không có giá trị gì cả!

Đặc sắc nghệ thuật của bài Đây thôn Vĩ Dạ là ở bút pháp và cấu trúc thơ. Bài thơ có 3 khổ thơ, được viết bằng ba bút pháp khác nhau: khổ I là bút pháp hiện thực, khổ II là bút pháp Siêu thực, khổ II vượt qua hiện thực, Siêu thực đạt tới cõi tâm linh. Nội dung mỗi khổ là một cảnh sắc con người xứ Huế, nhưng đây không phải là cảnh thực trước mắt Hàn Mặc Tử được tả trực tiếp (Vì Hàn Mặc Tử đang trong trại phong Quy Hòa), cảnh trong khổ thơ là ấn tượng: Ấn tượng cảnh vườn tược buổi sáng, ấn tượng về đêm trăng sông Hương, ấn tượng về những ngày mưa trắng trời xứ Huế.  Đó là những ấn tượng về con người, xứ Huế trong tâm tưởng Hàn Mặc Tử. Cảnh rất rõ và đẹp, còn người, chỉ thấp thoáng.

Đặng Tiến đã bỏ qua hai câu thơ Siêu thực rất hay này:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng ấy

Có chở trăng về kịp tối nay”

 Hàn Mặc Tử đột ngột chuyển từ bút pháp hiện thực (khổ I) sang bút pháp Siêu thực (khổ II), phá vỡ cấu trúc truyền thống thơ Việt. Thuyền đã đậu bến sao còn “về”, mà về đâu? Thuyền trên sông Hương chở khách, sao câu thơ Hàn Mặc Tử lại chở trăng? Hàn Mặc Tử đang hỏi ai? Và thời điểm hỏi là lúc nào để làm điểm tựa cho câu hỏi “có…kịp tối nay”. Chữ “về kịp” trong câu thơ này hàm nghĩa nghệ thuật rất ẩn mật.

Bóc đi lớp nghĩa Siêu thực câu thơ còn lại là hình ảnh sông Hương trong đêm trăng rất đẹp, rất rõ. Hình ảnh đó chồng lên hình ảnh kỷ niệm trong tâm tưởng Hàn Mặc Tử trở thành trở hình ảnh thơ Siêu thực trong mắt nhìn của người đọc. Đó là hình ảnh đêm trăng Phan Thiết, mà có lần Hàn Mặc Tử đã đi thuyền cùng người tình Mộng Cầm trong đêm trăng[5]. Cuộc tình ấy kéo dài hai năm. Chiều thứ Bảy nào, Hàn Mặc Tử cũng từ Sài gòn ra thăm Mộng Cầm, chiều Chúa Nhật mới về. Trăng Phan Thiết đã thành hồn thơ Hàn Mặc Tử:

Ôi trời ôi! là Phan Thiết! Phan Thiết
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi
Ta đến nơi Nường ấy vắng lâu rồi
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ!
Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng

          (Phan Thiết! Phan Thiết!-Hàn Mặc Tử)

Đoạn thơ trên có thể giải thích được cho tâm trạng Hàn Mặc Tử trong câu thơ:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng ấy

Có chở trăng về kịp tối nay”

 Hàn Mặc Tử viết bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ lúc nhà thơ đã vào trại phong Quy Hòa, Mộng Cầm cũng đã lấy chồng để lại cho Hàn Muôn năm sầu thảm. Trong tình cảnh ấy, nhà thơ vẫn mong giao hòa với đời. Nhưng không còn kịp nữa. Ông đã bị đẩy ra khỏi cõi người. Câu thơ trở thành là tiếng kêu thương vô vọng.

Bài thơ Đây Thôn Vỹ Dạ là lời hồi đáp của Hàn Mặc Tử khi nhà thơ nhận được lời thăm hỏi của Hoàng Thị Kim Cúc. Cúc là người tình đơn phương của nhà thơ, lúc đó đang ở Vỹ Dạ. Bà là một điểm tựa tinh thần của Hàn Mặc Tử. Đây là lời Hàn Mặc Tử cám ơn Kim Cúc: “Túc hạ, có nhận được bức ảnh bến Vỹ Giạ lúc hừng đông (hay là một đêm trăng?) với mấy hàng chữ túc hạ gởi thăm. Muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến người năm xưa, thế là phúc hậu lắm rồi. Mong ơn trên xuống lộc cho túc hạ thật đầy. Và mong rằng một mùa xuân nào đây sẽ gặp lại túc hạ phỉ dạ. Thăm túc hạ bình an vui vẻ.”[6].

Đặt vấn đề như thế để thấy cái hay nghệ thuật của bài thơ là ở bút pháp, ở kiểu tư duy nghệ thuật, và ở hồn thơ Hàn Mặc Tử, chứ không phải ở cái thanh huyền trong chữ “về” (âm vị học) như Đặng Tiến đã phân tích bằng Thi pháp học của  R. Jakobson. Ngay quan điểm Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượngcũng là quan đểm Jakobson phát triển từ quan điểm của Khlebnikov.[7]

Nhận định chung về cách bình thơ của Đặng Tiến, Hoàng Ngọc Hiến viết như thế này:

Cách phê bình thơ của Đặng Tiến chung quy lại vẫn là “diễn nghĩa”, “bàn góp”, “tán rộng”…(những phân tích âm pháp, tiết điệu khá tinh tế của tác giả vẫn là những điều quá giản đơn so với những điều tinh vi hơn rất nhiều mà những độc giả bình thường cảm nhận được bằng trực giác của họ, tuy nhiên tôi vẫn cho rằng những phân tích đó không phải là thừa). Số phận của những người viết phê bình ở nước ta là trở đi trở lại vẫn là ba cái trò: “diễn…”. “bàn…”, “ tán…”. Hơn nhau là ở chỗ biết “diễn…”, biết “ bàn…”, biết “tán…”. Không biết “diễn” thì thành “diễn thuyết” dạy tác giả, độc giả, không biết “bàn” thì thành “bàn suông” hoặc “nói leo”, không biết “tán” thì thành “tán phét” (đành rằng biết tán phét không phải là dễ). Đặng Tiến có một nền văn hóa, kiến văn rất tốt, thuận cho sự “hoạt ứng” của tác giả trong sự “ diễn…,bàn…, tán…”, tất nhiên nhân tố quyết định vẫn là cái “gu” của tác giả…”

Hoàng Ngọc Hiến cho rằng: “nhân tố quyết định vẫn là cái “gu” của tác giả”. Viết Vũ trụ thơ, Đặng Tiến hoàn toàn viết theo cái gu [gout] của mình.

Đúng là Đặng Tiến viết theo “gu” cảm nhận văn chương của ông, ông cũng viết theo cái cách mà ông thích. Vấn đề là ở chỗ, cái “gu” ấy có giúp ông tìm ra “mỹ tính” của thơ hay không, và có đem lại giá trị trang văn phê bình của ông không?

Nhưng như tôi đã viết ở trên, Đặng Tiến viết về truyện Kiều trong cái nhìn nhầm lẫn, viết về thơ Bà Huyện Thanh Quan là một bài bình thơ quái gở, viết về Hàn Mặc Tử là một áp đặt máy móc…Đặng Tiến không đạt được mục đích của mình là tìm ra cái “mỹ tính” của thơ. Đặng Tiến hoàn toàn thất bại trong việc áp dụng lý thuyết Thơ của R. Jakobson.

Không phải cái “gu” quyết định phẩm chất bài viết của ông, mà là tài năng của nhà phê bình trong việc khám phá “mỹ tính” của thơ. Với Đặng Tiến, hành trình tìm kiếm “mỹ tính” của thơ còn rất xa ở trước mặt.

Là một nhà phê bình chuyên nghiệp, Đặng Tiến có những trang viết hay được nhiều người ái mộ [8]. Nhưng những thành tựu đó không nằm trong quan niệm thơ của R. Jakobson mà Đặng Tiến áp dụng, mà nằm ở những yếu tố khác cùa ngòi bút Đặng Tiến…

Những bài viết của Đặng Tiến cho tôi nhiều tư liệu và cảm hứng để đi tiếp con đường tìm kiếm những giá trị nghệ thuật.

Tháng 2. 2017

________________________

[1] http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16936

[2] “Thơ là ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”:

http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16938

[3] Đọc các bài:

Trần Văn Tích-Trường hợp Đặng Tiến-Nam Chi

                Vương Thế Lan-Đặng Tiến và nỗi băn khoăn: Làm sao cho khỏi bị đào thải

Huỳnh Văn Nhơn-Khi trí thức táng tận lương tâm

http://www.tienve.org/home/activities/viewThaoLuan.do?action=viewArtwork&artworkId=9748

[4] Đọc thêm Bùi Công Thuấn-Nguyễn Du, đôi điều ngẫm nghĩ:

http://vanvn.net/news/11/6324-nguyen-du-doi-dieu-ngam-nghi.html

[5]Hàn Mặc Tử-Tình thơ bất tử: https://www.facebook.com/hanmactutinhthobattu/posts/800981679994176:0

[6]Sự thật về mối tình Hàn Mạc Tử – Hoàng Thị Kim Cúc và bài thơ “Ở đây thôn Vỹ Dạ”

http://www.baomoi.com/su-that-ve-moi-tinh-han-mac-tu-hoang-thi-kim-cuc-va-bai-tho-o-day-thon-vy-da/c/5060494.epi

[7] Thụy Khuê- Phê bình văn học thế kỷ XX- Chương 6-Trường phái hình thức Nga-Roman Jakobson

http://thuykhue.free.fr/stt/p/PBVH-Ch06.html

[8] Lê ThíNhà phê bình Đặng Tiến-Người đi tìm một thoáng trần gian:

http://vanchuongplusvn.blogspot.com/2012/03/nha-phe-binh-ang-tien-nguoi-i-tim-mot.html

Phạm Thu HằngThi pháp của Đặng Tiến trong tập tiểu luận “Thơ – thi pháp & chân dung”:                http://vannghedanang.org.vn/nonnuoc/chitiet.php?id=2099&so=93

Nguyễn Hữu Hồng MinhGiữa phê bình và thi ca

http://nguyenhuuhongminh.com/chi-tiet-tac-pham/2257.aspx