TƯ TƯỞNG MỸ HỌC KITÔ GIÁO

TƯ TƯỞNG MỸ HỌC KITÔ GIÁO

Và Văn học nghệ thuật Công giáo

Bùi Công Thuấn

Bữa tiệc ly-Tranh của Leona de Vinci

                        

Hãy quan sát nhưng ngôi thánh đường Công giáo, đó là những kiến trúc có vẻ đẹp riêng. Nhà thờ Công giáo luôn có tháp chuông, thường là kiểu tháp nhọn vươn thẳng lên cao, hướng tầm mắt người nhìn lên trời. Hãy nghe thánh ca Công giáo, đó là một nền âm nhạc đồ sộ. Vẻ đẹp toát ra từ giai điệu, lời ca, hòa âm, hợp xướng. Thánh ca Công giáo vang lên khắp mọi nẻo trên mặt đất trong mùa Noel, đưa người nghe vào thế giới của niềm vui thánh thiện hòa bình. Nền thánh ca ấy trở thành một bộ phận trong kho tàng văn hóa của nhân loại. Và hãy ngắm nhìn những tranh tượng Công giáo, hình ảnh Đức Giêsu, Đức Maria, và rất nhiều nội dung Kinh thánh đã trở thành đề tài hội họa, thành những tác phẩm kinh điển của hội họa thế giới. Cái đẹp của hội họa Công giáo đã gợi ra bao cảm xúc cho người xem tranh…Như vậy, dù là hội họa, âm nhạc hay kiến trúc Công giáo đều có cái đẹp riêng, cái đẹp ấy được soi chiếu bởi tư tưởng Nhân văn và tư tưởng Mỹ học Kitô giáo.

TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN KITÔ GIÁO

Tư tưởng nhân văn đặc biệt phát triển thành trào lưu tư tưởng nghệ thuật từ thời Phục Hưng ở phương Tây. Ðặc trưng chủ yếu của Chủ Nghĩa Nhân Vănlà sự suy tôn con người, là sự khôi phục lại con người (hay tính người), và con người bao giờ cũng được coi là tốt đẹp (con người chí thiện). Con người được đặt vào trung tâm thế giới, được đặt lên ngôi cao nhất (con người chí tôn)[1]. Văn học và nghệ thuật thời đó đưachất ngườivàochất thần thánh”, biến đời sống thần thánh thành đời sống bình thường của con người. Con người là vẻ đẹp của thế gian, kiểu mẫu của muôn loài”(Shakespear). Các nhà nhân văn chủ nghiã lấy câu của Terence, một nhà hài kịch La Mã làm phương châm: ”Tôi là một con người, không có cái gì có tính chất người lại xa lạ với tôi”. Con ngưởi là một bộ phận của tự nhiên, sống và chết theo quy luật tự nhiên, vì thế phải trả con người về tự nhiên để nó phát triển theo tư nhiên[2]. Chiến tranh phong kiến, chủ nghiã khổ hạnh, ngu dân, đàn áp tư tưởng là trái với tự nhiên, là nguồn gốc gây ra bất hạnh, xấu xa, tội lỗi trên thế giới. Chủ nghĩa Nhân Văn sau thời Phục Hưng được làm phong phú hơn bởi tư tưởng dân chủ thời Khai Sáng, ý thức đấu tranh giải phóng con người cuả chủ nghiã Marx và ý thức về  tồn tại của chủ nghiã Hiện sinh.

Nhưng vượt lên trên tất cả là tư tưởng Nhân văn Kitô Giáo mà cội nguồn là Kinh Thánh. Kinh Thánh đem đến cho nhân loại cái nhìn về bản tính con người, về cõi người, về ý nghiã sự sống của con người. Con người là gì? Con người không chỉ là vật chất thụ tạo, mà con người được nâng lên khỏi mọi loài thụ tạo, mang phẩm giá con cái Thiên Chuá, được thánh hóa và và hiệp thông với Thiên Chúa. Sáng Thế Ký viết rằng: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa(Stk 1, 27). Đức Giêsu nói: “Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15, 5). Khi nhập thể làm người, Ngài là Anh Cả của loài người; Ngài là đầu, Giáo hội là Thân thể, mỗi tín hữu là chi thể của Ngài; con người được làm em của Ngôi Con Thiên Chúa và thành con cái của Thiên Chúa. Không có cái nhìn nào về Con người siêu việt như thế. Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Thiên Chúa Cha cho con người : “Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến. Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng Ta”(Ga.17.19-21).

Kinh Thánh nói Con người nhưng không phải là Con người trừu tượng mà là con người cụ thể, đó là những con người trong mọi tình huống khốn cùng của họ. Mở đầu bài giảng Tám mối phúc, Đức Giêsu dạy rằng: ”Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chuá là của anh em”(Lc 6.20). Trong cuộc phán xét chung, Đức Vua đã thưởng cho những người được chúc phúc, vì “xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”.”Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt.25.35-40). Đức Giêsu cũng nói với các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông.”(Mt 21, 31). Tên trộm lành đã được vào Nước Trời ngay khi Chúa trút hơi thở trên Thánh giá: Luca thuật lại: “anh ta thưa với Đức Giê-su: “Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !” Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng(Lc 23, 42-43). Kinh Thánh đã trân trọng con người ở thân phận bé nhỏ và khốn khổ nhất, lấy hành động vì con người làm thang bậc giá trị để  phán xét ở ngày cánh chung.

Từ cái nhìn con người như thế, Kinh Thánh lấy lòng yêu thương con người làm điều răn quan trọng. Khi được hỏi điều răn nào quan trọng nhất, Đức Giêsu trả lời:”Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Mt.22.37-39). Chúa còn dạy: “Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em(Mt. 5:44). Nhưng yêu thương như thế nào? Yêu thương bằng quan tâm thiết thực, như trong dụ ngôn về “Người Samari tốt lành” (Lc.10.29-37). Thấy người bị nạn bên đường, thầy Tư Tế bỏ đi, thầy Lêvi cũng tránh xa, còn người Samari lại gần “lấy dầu, lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, ông ta lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói:” Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”. Người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang, theo luật Môise thì phải bị ném đá. Thế nhưng Đức Giêsu đã cứu chị và nói với chị: ”tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”(Ga.8.11). Một lần khác, cảm thương tình cảnh cuả chị em Mácta và Maria, Đức Giêsu đã khóc thương Lazarô (Ga.11.33). Người đã truyền cho Lazarô từ cõi chết sống lại.

Qua những trường hợp cụ thể ấy, Kinh Thánh đã chỉ ra, tư tưởng Nhân văn Kitô giáo  thể hiện cái nhìn con người trong phẩm vị con Thiên Chúa, lòng yêu thương Con người mang đến Ơn Cứu rỗi. Điều này khác rất xa với nhiều nhãn quan triết học về con người.

Vấn đề con người, tương quan giữa người với người, hạnh phúc của con người và giải phóng con người là vấn đề của muôn thuở. Bi kịch của con người vẫn còn nguyên đó. Đau khổ, thù hận, tội lỗi, sự chết vẫn bao trùm lấy con người. Chỉ tư tưởng nhân văn Công Giáo mới soi rọi ánh sáng cho số phận của con người. Cả Friedrich Nietzsche và J. P. Sartre đều phủ định Thượng đế. Nietzsche giết chết Thượng đế để tôn con người lên hàng Siêu nhân, con người Tự do, tự định lấy ý nghĩa cho sự tồn tại của chính mình. Với Satre, tất cả là phi lý: ”Thượng đế là một phi lý, vũ trụ là một phi lý và cuộc nhân sinh là một phi lý”. “Tha nhân là địa ngục cho tôi”[3]. Triết học Hiện sinh vô thần kéo con người xuống đất và dìm con người trong tuyệt vọng. Trái lại, Gioan viết: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1, 9). Đức Giêsu cũng khẳng định: “Tôi là ánh sáng đến thế gian, để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối”(Ga 12, 46); Người nói rõ hơn: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 1-6). Đức Giêsu và công cuộc Cứu độ của Người trên Thập giá chính là cốt lõi của tư tưởng Nhân văn Kitô giáo.

Đức Giêsu là “Cái Đẹp trọn hảo”, nguồn vô tận cho sáng tạo nghệ thuật

TƯ TƯỞNG MỸ HỌC KITÔ GIÁO

Thông thường Mỹ học được hiểu là bộ môn khoa học về Cái Đẹp. Alexander Baumgarten đã dùng thuật ngữ Mỹ học để đặt tên cho tác phẩm Aestheticä (Mỹ học) của ông (17501758). Nhưng ngoài Cái Đẹp, Mỹ học còn nghiên cứu các phạm trù thẩm mỹ khác như Cái Cao cả, Cái bi, Cái hài... Cho đến nay, chưa có sự thống nhất về đối tượng của Mỹ học.

Mỹ học là một môn học còn trẻ, nhưng tư tưởng Mỹ học lại xuất hiện từ rất xa xưa, từ Platon (427-347 TCN), Aristote (384-322 TCN)… Và nhận thức về Cái Đẹp cũng rất khác nhau. Xin dẫn vài ý kiến. Platon cho rằng có cái đẹp vật chất và cái đẹp tinh thần, nhưng chỉ có cái đẹp tinh thần, cái đẹp của ý niệm, mới là cái đẹp vĩnh hằng, tuyệt đối. Socrates (469-399 TCN) đặt câu hỏi: “Đẹp là gì?”; Ông trả lời: “Đẹp là cái thích thú do tai nghe mắt thấy” (Hippias Maior). Aristote coi Cái Đẹp là trật tự của sự hài hòa, cân xứng.  Ông cho rằng Cái Đẹp của thực tại, trung tâm là vẻ đẹp của con người. Thánh Augustinô (354–430), cho rằng chỉ có thượng đế là vĩnh viễn, là vẻ đẹp tối cao, vẻ đẹp tuyệt đối mà thôi. Thánh Tôma (1225-1274) nhận thức Cái đẹp là một đặc tính của hữu thể. Nền tảng của cái đẹp là chính Thiên Chúa, Hữu thể tự tại. Cái đẹp được nhìn trong tương quan với cái Thật và cái Tốt. Đẹp là sự rạng rỡ của cái Thật [4]. Hegel (1770-1831) quan niệm Cái Đẹp là một sự thể hiện đặc biệt của ý niệm tuyệt đối dưới hình thức cụ thể, cảm tính. Nhà văn nổi tiếng người Nga Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky (1821-1881) đã nhận ra giá trị của Cái Đẹp: “Cái Đẹp cứu rỗi thế giới” (lời nhân vật Hoàng thân Myshkin trong tiểu thuyết Thằng Ngốc). Tsernysevski khẳng định dứt khóat: “Cái Đẹp là cuộc sống”.

Thực ra Cái Đẹp là một thực tại khách quan, nhưng nhận thức về Cái Đẹp thì luôn là cảm tính chủ quan. Vì thế, đứng trước một đối tượng thẩm mỹ, ta không thể tranh cãi. Mỗi người có cách cảm thụ Cái Đẹp rất riêng… Nói cách khác chỉ con người mới cảm nhận được Cái Đẹp của thực tại khách quan. Loài vật và sự vật, tự nó không nhận thức được Cái Đẹp. Trong cuộc sống, Cái Đẹp là một giá trị.

“Cái Đẹp” trong tư tưởng Mỹ học Kitô giáo được đặt trên nền tảng Kinh Thánh. Thực tại khách quan ấy là thiên nhiên, vạn vật, đời sống. Sáng Thế Ký thuật lại rằng, sau khi sáng tạo vũ tụ, muôn loài muôn vật và con người, “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! (Stk 1, 31). Như vậy Cái Đẹp bắt nguồn từ Đấng Sáng Tạo và mọi Hữu thể đều đẹp. Trung tâm của Cái Đẹp là con người, vì “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa” (Stk 1, 27). Chỉ khi con người phạm tội, sa ngã, nó mới trở nên xấu và nhận ra Cái Xấu (phạm trù đối lập với Cái Đẹp).

Con Thiên Chúa được sai xuống làm người để cứu rỗi Con người, để làm cho Con người trở nên “hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo” (Mt. 5, 48). Vì Vậy Đức Giêsu chính là “Cái Đep hoàn hảo”, hình ảnh của Thiên Chúa Cha. Điều này Kinh Thánh từ Cựu Ước đến Tân Ước đều miêu tả cụ thể. “Khi Chúa Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”(Mt 3,16-17). Đức Giêsu hiện ra là một Hữu thể đẹp hoàn hảo làm rạng rỡ vũ trụ, Cái Đẹp mang Thần khí của Thiên Chúa, Cái Đẹp trọn hảo như Ý Chúa Cha.

Một trình thuật khác về Đức Giêsu: “Hôm ấy, Đức Giê-su đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng… chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.”(Mt 17, 1-9). Chính Thiên Chúa Cha đã khẳng định Đức Giêsu là “Cái Đẹp trọn hảo” như ý Chúa Cha.

Tất nhiên Đức Giêsu không chỉ Đẹp qua cái nhìn thị giác như chúng ta đã thấy trong những trình thuật Kinh Thánh ở trên. Vẻ đẹp của Đức Giêsu còn thể hiện ở lòng yêu thương nhân hậu đối với mọi kiếp người, đặc biệt là vẻ đẹp hùng vĩ của Ơn Cứu độ khi Ngài bị treo lên. Đức Giê-su lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn. Và kìa, bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ. Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được chỗi dậy” (Mt. 27, 51-52). Và đây là vẻ đẹp đầy quyền năng của Đấng làm chủ vũ trụ, làm chủ tạo vật trong “ngày quang lâm”: “Vì, như chớp loé ra từ phương đông và chiếu sáng đến phương tây thế nào, thì cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy… “Ngay sau những ngày gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. Bấy giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân trời kia.”(Mt 24 27-21).

Như vậy, Kinh Thánh đã trình bày Đức Giêsu là “Cái Đẹp trọn hảo” (trong tương quan Chân, Thiện, Mỹ), và tư tưởng Mỹ học Kitô giáo được soi chiếu từ chính từ chính Đức Kitô là hiện thân của vẻ đẹp. Những tư tưởng Mỹ học cho rằng Cái Đẹp là đời sống, Cái Đẹp cữu rỗi nhân loại, trung tâm của Cái Đẹp là con người…có những giới hạn nhất định so với trong tư tưởng Mỹ học Kitô giáo.

SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT KITÔ GIÁO

Có thể tóm lược tư tưởng Mỹ học Kitô giáo như thế này: Mọi tạo vật được Thiên Chúa tạo dựng đều tốt đẹp. Thiên Chúa là Cái Đẹp trung tâm, con người được dự phần vào Cái Đẹp trung tâm trong hiệp thông với Đức Kitô. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Và Đức Giêsu, Con Thiên Chúa là “Cái Đẹp trọn hảo”.

Văn chương nghệ thuật Công giáo phải là sự khám phá những tư tưởng Mỹ học từ Kinh thánh, khám phá “Cái Đẹp” tỏa sáng trong mọi tạo vật, trong mọi phận người, mọi hoàn cảnh của cuộc sống, và trên hết phải là “Cái đẹp trọn hảo” của Đức Giêsu.

Tư tưởng Mỹ học (từ Kinh Thánh) kết hợp với tư tưởng Nhân văn Kitô giáo là cốt lõi làm nên mọi giá trị của văn học nghệ thuật Kitô giáo. Điều này có thể nhận trõ trong Âm nhạc, Kiến trúc, Hội họa… Châu Âu.

Để kết, tôi xin mượn những dòng tuyệt bút của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt nam) khi ông khám phá ra Cái Đẹp từ Thánh giá:

“…Hỡi Chúa Trời, con quỳ dưới chân Người, con gánh trên lưng con bóng tối khổng lồ. Đôi môi con run rẩy chạm vào những ngón chân Người giá lạnh nhưng những giọt máu chảy từ bàn tay bị đóng đinh của Người từng giọt, từng giọt rơi xuống ngực con rực sáng và nóng ấm vô tận

Cây thập giá nơi Người bị đóng đinh trong đêm sừng sững dựng lên cái Cây Ánh Sáng vĩ đại nhất trên thế gian này

Con đã sinh ra trên thế gian này con đã uống sữa thơm và mật ngọt của người
Tuổi thơ con đã từng được những thiên thần của Người dắt chạy trên cánh đồng lộng lẫy của thế gian

Con đã cười vang, tiếng cười trong như ban mai khi chơi trò đuổi bắt cùng những thiên thần của Người

Con đã từng nằm trong vòng tay ấm như hơi lửa để các thiên thần dắt con vào cơn mơ…” (Dưới cái cây ánh sáng– khúc thứ hai).

Tháng 7/2020

_________________ 

[1] Nguyễn Kiến Giang. http://phucdinhhong.wordpress.com/2010/01/18/v%e1%ba%a5n-d%e1%bb%81-con-ng%c6%b0%e1%bb%9di-va-ch%e1%bb%a7-nghia-nhan-van-m%e1%bb%9bi-pha%cc%80n-1/#more-96

[2] Tự điển Văn Học. tr291

[3] Dẫn theo Trần Thái Đỉnh: Triết học Hiện sinh. Công ty sách Thời Đại và Nxb Văn Học. 2015. Tr.308

[4] https://tsthdm.blogspot.com/2016/09/cai-ep-trong-lich-su-triet-hoc.html

THƠ LÊ ĐÌNH BẢNG-Quỳ Trước Đền Vàng

Những khuôn mặt thơ Công giáo đương đại

“QÙY TRƯỚC ĐỀN VÀNG”, THƠ CỦA “NGƯỜI ĐI NHẶT CHỮ” TÀI HOA.

(Đọc tập thơ Quỳ trước đền vàng của Lê Đình Bảng. Nxb Tôn Giáo 2010)

Bùi Công Thuấn

Nhà thơ Lê Đình Bảng

***

Nhà thơ Lê Đình Bảng tự nhận mình là “người đi nhặt chữ”:

Con chỉ là người đi nhặt chữ

Lang thang nơi phố chợ đông người

Để nghe mạch chảy, nghe trời đất

Ngàn vạn âm vang của cuộc đời…

                                          (Kinh khuya)

Những dòng thơ trên đủ giới thiệu cho bạn đọc một hồn thơ khoáng đạt, cao rộng. Hồn thơ ấy “nghe mạch chảy” của thời gian, “nghe trời đất” cất lời và, nghe ”ngàn vạn âm vang của cuộc đời”. Đó là một hồn thơ đã vượt ra khỏi giới hạn của không gian và thời gian để trái tim rung cảm dào dạt trước vẻ đẹp rất lạ lùng và kỳ diệu của cuộc đời này.

Lê Đình Bảng đã in các tập thơ: Bước chân giao chỉ (Sài gòn 1967), Hành hương (2006), Quỳ trước đền vàng (2010), Lời tự tình của bến trần gian (2012), Ơn đời một cõi mênh mang (2014), Kinh buồn (2014), và các tập thơ được phổ nhạc: Đội ơn lòng Chúa bao dung (2012), Lời khấn nhỏ chiều Chúa nhật (2012), Về cõi trời mênh mang (2012). Ngoài ra Lê Đình Bảng còn là nhà nghiên cứu lịch sử văn học Công giáo Việt Nam. Ông đã in “Văn học Công giáo Việt Nam-Những chặng đường” (2010), và bộ sách  gồm 6 cuốn “Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt Nam” (2009) do ông sưu tầm, nghiên cứu…

Quỳ trước đền vàng là tập thơ riêng về Đức Maria.

Tập thơ Quỳ trước đền vàng

KHÁP PHÁ MỚI MẺ VỀ HÌNH TƯỢNG ĐỨC MARIA

            Ở Việt Nam, việc sùng kính Đức Maria đã trở thành lòng đạo nhiệt thành của giáo dân. Trong một năm có đến 2 tháng hoa, tháng Năm và tháng Mười dành để giáo dân quây quần xung quanh Mẹ, đọc kinh Mân Côi, kiệu hoa, dâng hoa. Các tước hiệu dành cho Đức Maria cũng rất phong phú: Đức Mẹ Hằng cứu giúp, Đức Mẹ ban ơn lành, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Maria Nữ vương hòa bình… Linh địa Công giáo cũng là linh địa của Đức Mẹ: Đức Mẹ La vang, Đức Mẹ Trà Kiệu, Đức Mẹ Măng Đen, Đức Mẹ Tàpao… Kinh nhạc để cầu nguyện cùng Đức Maria cũng rất phong phú và có nhiều bài tuyệt hay.

Vì thế, thật không dễ để có thể khám phá ra những điều mới mẻ về hình tượng Đức Maria. Trước đây, Hàn Mặc Tử đã viết bài Ave Maria tuyệt hay, bài thơ lại được Nhạc sư Hải Linh phổ nhạc, tạo nên một lâu đài nghệ thuật tráng lệ:

…Sáng nhiều quá cho thanh âm vời vợi
Thơm dường bao cho miệng lưỡi không khen
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Ga-bri-en
Khi người xuống truyền tin cho Thánh Nữ
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú
Người có nghe náo động cả muôn trời
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
Để ca tụng – bằng hương hoa sáng láng
Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng
Một đêm xuân rất đỗi anh linh…”

            Những câu thơ dát bằng châu ngọc ngôn ngữ ấy sẽ là đỉnh thi sơn mà những nhà thơ Công giáo đi sau khi viết về Đức Maria không dễ vượt qua. Lê Đình Bảng đã khắc họa được một hình tượng Đức Mẹ rất đẹp nhưng hoàn tòan khác với hình tượng Đức Maria của Hàn Mặc Tử.

 Nhà thơ Họ Hàn ca tụng Đức Mẹ “bằng hương hoa sáng láng/ Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng”, và đặt Đức Mẹ trên trời cao với chuyển động của vũ trụ: “xôn xao muôn tinh tú/ …náo động cả muôn trời”. Xung quanh Đức Mẹ “Sáng nhiều quá” “Thơm dường bao”.

Lê Đình Bảng đem Đức Mẹ về gần gũi với mình, gần gũi với đời sống khó nghèo gian nan. Đức Mẹ hòa trong khung cảnh thiên nhiên Việt Nam, cô đọng trong những tình tự dân tộc, và sâu lắng trong tâm thức về người mẹ Việt. Đặc biệt, Lê Đình Bảng dùng hình ảnh “Mẹ hóa đá” đã có trong văn hóa dân gian Việt để khẳng định lòng tin: Mẹ vững như núi đá chở che con Mẹ mấy trăm năm ở những linh địa. Nhờ thế, bạn đọc ngoài Công giáo có thể tiếp cận được thơ về Đức Mẹ một cách tự nhiên, như thơ về người mẹ trần gian của mình.

            Mẹ sống với đàn con những ngày nước trắng đồng không, những ngày mưa giông, bão lụt khắp cả Bắc, Trung, Nam:

Mẹ là giại nứa phên tre

Những khi nắng quái, bốn bề mưa giông

Lòng tin con, ngã ba sông

Trông ra nước trắng đồng không mấy bờ

                                     (Heo may lời con)

Mẹ với đời nghèo khó âm thầm nhẫn nhục.

Mẹ tít tắp đầu non

Hai trăm năm nhẫn nhục

…Đất vẫn nghèo sỏi đá

Vẫn lá rau, con cá

Con bốn mùa nắng nôi

Đêm đêm thắp sao trời

Mẹ, mưa nguồn tắm gội

Cây đời con tốt tươi”

            (Mẹ vẫn ở đầu non)

Một hình tượng giàu phẩm tính dân tộc:

Mẹ vẫn đứng cùng phong rêu quá khứ

Hai trăm năm, phơi rát mặt gió Lào

Cháy lòng con bao nỗi nhớ xôn xao

Mỗi khi đếm từng mùa thu đi, thay lá

               (Trường ca Mẹ La vang)

Một tứ thơ rất đẹp về cái nóng khắc nghiệt của gió Lào làm đá rịn mồ hôi.

Bỗng dưng con thấy bồi hồi

Sông khuya đá rịn mồ hôi gió Lào…

Mẹ là bến lặng bờ trong

Để con nương náu mà giong thuyền về

                   (Kinh nguyện La Vang)

Mẹ là Mẹ cả núi sông.

Dừng đây, đôi ngả đi, về

Chênh vênh đá dựng, tư bề núi non

Tít mù làng bản, sơn thôn

Rưng rưng khói biếc hoàng hôn nhớ nhà…

Mẹ sông, Mẹ núi, Mẹ ngàn

Mẹ ôm lấy cả vô vàn chúng sinh

                                           (Mẹ. Suối an bình)

Lê Đình Bảng gặp gỡ hồn thơ Hàn Mặc Tử, nhưng vẫn rất khác:

Vì đêm ấy mới là đêm trừ tịch

Xác-hồn-thiêng-vô-nhiễm trổ thành hoa

Giữa ba tòa sen ngát ánh dương pha

Giữa băng tuyết rỡ ràng ơn phước lạ

Hai nghìn năm, Mẹ sầu bi hóa đá

Lạnh vô cùng, tím ngắt những hoàng hôn…

                              (Cửa đẹp)

            Lê Đình Bảng khác Hàn Mặc Tử vì khắc tạc Đức Maria trên nền của hiện thực Việt Nam:

Sau cuộc chiến tưởng chừng không được gặp

Lúa ngô reo hay triệu triệu tấm lòng

Mấy đồng trong, nước trắng cũng về sông

Mẹ đứng đó, hai trăm năm, lệ đá”

            (La Vang. Tháng Tám mùa thu)

            Lê Đình Bảng tâm tình với Mẹ:

Con mải mê cuộc sống

Để bây giờ tay không

Vẫn lạc chợ, trôi sông

Vẫn cơm đường, cháo chợ

Mẹ thành non thành đá

Phong rêu với bụi bờ…

                        (Lên ngàn)

Và đây là lời nguyện cầu:

Lạy Mẹ Tà Pao giáng phúc, ban ơn

Xin mở rộng cửa thiêng đường, Mẹ nhé

Và thương lấy những đoạn trường, dâu bể

Để chúng con làm muối mặn cho đời

Thả lưới xa bờ, chỗ nước xa khơi

Bên phải mạn thuyền, cá tôm đầy chặt

            (Trường ca Mẹ Tà Pao)

            Lê Đình Bảng ít nói đến Mẹ trên trời. Đức Maria trong thơ Lê Đình Bảng cũng không đậm chất thần học trong Kinh thánh như Mẹ đồng công Cứu chuộc, Mẹ Thiên Chúa. Người Mẹ ấy cũng không phải là Mẹ của những ơn phép lạ mà người bình dân thường cầu xin (lâu lâu lại có tin đồn Đức Mẹ hiện ra chỗ này, chỗ kia). Đức Maria của Lê Đình Bảng gần gũi thân thương lắm, và rất Việt Nam.

            Tôi rất thích tứ thơ này về Đức Mẹ, vì Mẹ cùng “nắng nôi dãi dầu”, cùng ”áo rách thương nhau” với con dân Việt.

Đội ơn Đức Mẹ Môi Khôi

Cho con yêu cả nắng nôi dãi dầu

Cũng đành áo rách thương nhau

Cái duyên cam quít vừa sâu vừa đằm

                                           (Con về thăm xứ bưởi)

            Và đây là hình ảnh người mẹ trần gian đã nuôi nấng nhà thơ niềm tin yêu cậy trông với Đức Mẹ trên trời. Hình ảnh người mẹ này thật mới lạ trong thi ca Việt đương đại.

Mẹ ngồi trước hiên, tay lần tràng hạt

Đếm cả đời người được mấy mùa vui…

Nhà ta đó, tiếng súng xa đồn bót

Đêm đêm về, nghe thầm thĩ cầu kinh…

Mẹ cong lưỡi chữ R phát Riệm

Mỗi lần dạy con dâng hạt, dâng hoa

Lần chuỗi Mân Côi kính nhớ Đức Bà

Mấy chục năm qua con vẫn nhớ lời mẹ

                      (Tháng Giêng, Về Phát Diệm)

Của cải mẹ cha cho có vậy

Để dành khi con lớn, con khôn

Những câu kinh sách, phiên chầu, lễ

Đã thấm vào da thịt, máu, xương

Đã nên nhân đức, nên lòng đạo

Nuôi sống cả đời con, xác, hồn…

                  (Chuyện những mùa hoa)

NHỮNG BÀI THƠ TÌNH CÔNG GIÁO

            Hình như sau bài thơ tình Tha La xóm đạo củaVũ Anh Khanh (1950), tôi chưa được gặp bài thơ tình Công giáo nào (?). Vì thế khi được đọc Quỳ trước đền vàng, tôi thật ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thơ tình Công giáo của Lê Đình Bảng:

            QUÊ NHÀ

Tháng Năm rồi tới tháng Mười

Làm sao quên được một thời ấu thơ

Cùng em đi lễ nhà thờ

Hoa bằng lăng nở tím bờ ao sen

Em quỳ, tôi cũng quỳ bên

Hương trầm lên, khói trầm lên trước tòa

Mẹ là vườn ngát hương hoa

Chúng con, giọt nước mưa sa ngoài đồng

            Bạn đọc ngoài Công giáo không hiểu tại sao nhà thơ lại nói đến tháng Năm và tháng Mười trong kỷ niệm tình yêu. Đó là hai tháng “nhà đạo” dành tôn kính Đức Mẹ. Trong hai tháng này, nhà thờ Công giáo có nghi thức dâng hoa, rước kiệu Đức Mẹ, không khí vui như ngày lễ hội.

Tình yêu trong bài thơ chỉ là kỷ niệm đơn sơ nhưng thánh thiện, tinh khiết: kỷ niệm nhà thơ cùng em đi lễ nhà thờ, con đường có hoa bằng lăng tím và có cả ao sen. Em quỳ, tôi cũng quỳ bên/ Hương trầm lên, khói trầm lên trước tòa.

Kỷ niệm chỉ có vậy nhưng bài thơ tình có sức ám ảnh về những điều mới lạ. Đó là tứ thơ “Cùng em đi lễ nhà thờ/ Hoa bằng lăng nở tím bờ ao sen”. Cái mới lạ của tứ thơ là sự kết hợp màu tím bằng lăng lãng mạn với hoa sen hồng thuần khiết. Nhưng mà, ao sen gần nhà chùa hơn “nhà đạo”, và hương trầm, khói trầm bay lên nghi ngút cũng là không gian Thiền. Cả hai chất liệu tưởng như xa lạ và trái ngược với cái đẹp Công giáo lại được miêu tả hết sức tự nhiên. Một điều lạ nữa là nhà thờ thường đông người nhất là trong tháng hoa. Ở thôn quê ngày xưa, trong nhà thờ nam nữ không được ngồi bên nhau như Tây. Trong bài thơ này, nhà thơ và em lại rất riêng tư. Cùng quỳ bên nhau, cùng hướng lên Đức Mẹ, tâm hồn họ bay lên cùng với hương trầmkhói trầm ngào ngạt.

Lê Đình Bảng đem vào thơ tình Công giáo chất liệu làng quê thấm đẫm tình tự dân tộc kết hợp với vẻ đẹp của cái riêng tư phương Tây tạo nên một bài thơ tình rất đẹp. Đó là cái đẹp của một tình yêu đơn sơ, thánh thiện, sự tinh khiết, gắn bó với làng quê, tình quê. Tình yêu này rất khác với tình yêu đậm chất nhục thể trong thơ tình Xuân Diệu.

Thơ tình Lê Đình Bảng neo được trong lòng người đọc nhiều cảm xúc là nhờ cái tình tự làng quê rất đậm ở những tứ thơ thật tài hoa:

            MÙA TRĂNG VU LAN NHỚ MẸ

Năm ấy em lên mười mấy tuổi

Tôi từ phố huyện về thăm quê

Trời mưa, mưa mấy ngày không ngớt

Con nước lên sấp sấp bậc hè

Nghe thoáng, ở bên bờ giếng, đợi

Đầu vườn cây khế mới ra hoa

Hình như cơn gió nồm nam gọi

Đôi sáo nâu về đậu trước nhà

Chúng cũng như mình thôi, vất vả

Nhịn ăn, đâu nhịn được tình yêu

Trời ơi, cái tháng ba năm đói

Mong bếp nhà ai lên khói chiều

Có phải vì em mau nước mắt

Khi không, ra đứng ngóng đầu thôn

Em buồn, tôi cũng buồn lây, nhỉ

Nom cứ như hai đứa mất hồn

Em biết tôi mồ côi bố mẹ

Những thèm yêu, thèm nhớ người dưng

Giờ, em ở phía nơi chân sóng

Tôi, đóm sao khuya lạc cuối rừng

Chả biết đến khi nào gặp lại

Mà thời gian đằng đẵng vô chừng…

Cứ mỗi mùa Vu Lan cúng quả

Nghe chùa bên mở huệ, tuần chay

Dọc đường ra nghĩa trang em bảo

“Mẹ ngủ trong gò đất cỏ may

Thành bụi, thành tro than lãng đãng

Vầng trăng tơ mọc giữa ban ngày”

            Hiện thực sống đạo ở làng quê làm phong phú thêm không gian nghệ thuật của thơ ca Việt Nam.

Tôi từ phố Hiến xa xôi

Cây rau, ngọn cỏ, suốt đời long đong

Hôm vô tới xứ Đàng Trong

Chờ em ở mãi Ba Giồng mới lên

Đò theo sông Hậu, sông Tiền

Những mông mênh nước, những mênh mang trời

Nửa khuya, cập bến Chùa Dơi

Thoảng nghe kinh kệ, nhịp vơi, nhịp đầy

Hạt mừng em giấu trong tay

Hạt thương, tôi dỗ dành cây hoa hường

Đường nào xuôi ngả Thơm Rơm

Qua Hàm Luông, ghé Cái Mơn mấy hồi

Đền vàng, quỳ trước song đôi

Khấn dâng, một mảnh gương soi trước tòa

Đây là Phép Ngắm Rosa

Và đây tràng chuỗi Đức Bà Môi Khôi

Bao giờ cho đến tháng Mười

Chim quyên xuống đất thuyền tôi lên bờ

Nắng vàng ngoài dậu ô rô

Hôm nay lễ trọng, nhà thờ đông ken

Dập dìu trai gái đua chen

Cho tôi theo kiệu về bên xứ nhà

Lạy trời, đừng nổi phong ba

Để tôi neo một bến phà-quê em…

            Bài thơ hay ở chất giọng ca dao, ở sự tài hoa của nhà thơ trong nghệ thuật kể chuyện, ở cái tình tự quê hương rất sâu trong những tứ thơ đột ngột mới lạ và ở nét đẹp lễ hội Công giáo làm mới hẳn không gian thơ (so với không gian nhà chùa trong thi ca dân tộc).

Tôi trích hơi dài và không bình gì thêm, vì cái hay của thơ Lê Đình Bảng như hương hoa thấm vào rất sâu ở mọi giác quan của người đọc, tạo nên cái âm vang nghệ thuật trong tâm hồn, đó là một thứ hạnh phúc rất lạ chỉ có nghệ thuật mới có thể đem đến. 

NHÀ THƠ, NGƯỜI NHẶT CHỮ  TÀI HOA

            Thơ Lê Đình Bảng hiện lên hình ảnh “người nhặt chữ” tài hoa. Đó là một thi nhân lãng tử, một gã thương hồ. Nhà thơ tự hỏi:

Hoa quỳ năm ngoái, năm xưa

Có còn yêu gã thương hồ hay không.

                  (Mẹ như trăng ở đầu nguồn)

Người thơ hòa trong dòng người hành hương đi mọi miền đất nước: Đỉnh Mẫu sơn (Lên đình Mẫu Sơn), đền thánh Đức Mẹ La Vang (Trường ca Mẹ La Vang),vào namviếng Đức Mẹ Bãi Dâu (Nguyện cầu Mẹ Bãi Dâu), về thăm Đức Mẹ ở Xứ Bưởi Năm Roi (Con về thăm xứ Bưởi), Về thăm Mẹ Hòn Chông, Tháng 5 về quê Mẹ Trà Kiệu, Về thăm Mẹ Trà Kiệu-Bến Tre. Nhà thơ”lên núi chay tịnh bốn mươi ngày” (Lên ngàn), lên Tây Nguyên viếng Đức Mẹ Măng Đen (Kinh cầu Mẹ Măng Đen), về Phan Thiết viếng Mẹ Tà Pao (Trường ca Mẹ Tà Pao)…

Trăm năm trước những ai về Dinh Cát

Về Cổ Vưu, Cây Da, ghé Hội Yên

Những nhà thờ – họ đạo, xóm làng bên

Cờ xí rợp mấy vùng quê lương, giáo

Người ở Kinh ra, cân đai, áo mão

Kẻ Đàng Ngoài vô, thanh lịch, đài trang

Qua Truông nhà Hồ, vượt phá Tam Giang

Chốn heo hút bỗng dập dìu phường phố

Đợi con nước, tuần trăng, xem quỳnh nở

Tháng Tám mùa thu, đến hẹn lại lên

Trăm nẻo về, cùng một bến đông ken

Muôn ngã rẽ chảy đầy nguồn sông Mẹ

                                   (Trường ca Mẹ La Vang)

Lòng thành chẳng dám đơn sai

Chúng con Kinh Bắc, dặm dài đường xa

Những là mớ bảy mớ ba

Chân son phách nhịp, miệng hoa hát tình…

…Đương mùa vải chín trên cây

Thảo thơm dâng Mẹ những ngày hành hương

                        (Nỗi niềm Kinh Bắc)

Trong dòng người đông ken ấy, “gã thương hồ” đầy ắp tâm sự. Đó là nỗi niềm

 của “kẻ đã treo gươm rửa kiếm”, đời”Như một ngọn nhang tàn thắp khuya”, nhưng còn lắm gian nan.

“Xót kẻ đã treo gươm rửa kiếm

Thân ngựa già thoắt biến màu sương

Mơ phai tàn cuộc đoạn trường

Nước trôi sông vắng con đường tịch liêu”

                            (Khóc mẹ)

Như một ngọn nhang tàn thắp khuya

Heo may khẽ động đã tan lìa

Đời con những nắng trưa, mưa sớm

Đắm đắm trông lên một nẻo về

                             (Mẹ hằng xuân)

Đời con, thuyền ván ra khơi mãi

Giông gió tư bề, giông gió thôi…

Những lúc chênh chao mùa đổi gió

Mẹ ơi con mệt đứt hơi rồi

Chèo buông, không lái, trôi đầu sóng

Mẹ dẫn đưa con về đến nơi

                        (Đầu sóng xa khơi)

Biết vậy nhưng không thể khác được, vì đã trót tài hoa. Nhà thơ tâm sự với Mẹ:

Mẹ biết, lòng con như chỉ rối.

Sợi thưa mau, ngang dọc bời bời

Chả là, con trót đa mang quá

Gieo gió, đành cam gặt bão thôi

Đã mấy lần ăn năn sám hối

Ngựa quen đường cũ đã lâu rồi

Làm sao rửa sạch bao lầm lỗi

Chẳng lẽ làm hư phí của giời

                             (Phù dung)

            Dù trăn trở cuộc sống “nắng mưa” nhưng người thơ gần gũi và tin yêu Mẹ, có khi đùa vui bên Mẹ.

Mẹ ơi khi Mẹ lên trời

(Cho con cưỡi ngựa đi mời quan viên)

Đêm nay chờ nụ trăng lên

Thuyền ơi, đừng dạt về bên kia bờ

                  (Mẹ như trăng ở đầu nguồn )

            Bạn đọc những câu thơ đầy ắp tâm sự của Lê Đỉnh Bảng, và nhiều khi kinh ngạc về sự tài hoa của thi nhân. Tài hoa ấy thể hiện ở sự phát hiện “Cái đẹp” của đời sống Công giáo, cái đẹp của tình yêu lứa đôi thánh thiện tinh khiết, cái đẹp của những tứ thơ bất ngờ, cái đẹp của thơ ca cổ điển, cái đẹp ở vốn từ giàu có trong sự giao thoa giữa ngôn ngữ bình dân với ngôn ngữ bác học. Còn có Cái đẹp của sự kết tinh thơ cổ điển, thơ lãng mạn với ca dao và cái đẹp của một “hồn thơ đạo” cao rộng phóng khoáng, sánh ngang với hồn thơ Đường và cốt cách thơ Thiền.

            Đây là những câu thơ thấp thoáng Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du:

Xót người vò võ trông mong

Chân mây, đầu núi, quãng đồng, dặm xa…

Xót người dầu dãi trên non

Hơi sương, khói núi, hoàng hôn, nguyệt tà

                     (Nguyện cầu Mẹ Bãi Dâu)

Âm hưởng những câu Kiều vừa sang trọng vừa day dứt:

Cũng đành gửi lại mai sau

Phất phơ ngoài nội bông lau cuối mùa

Lấy gì đền đáp thân thưa

Mẹ ơi, bong bóng chiều mưa tội tình?

Hạt buồn vào cõi ba sinh

Hạt hư vô của phận mình long đong

Kể từ con biết trông mong

Trái tim như cứ bồng bềnh, ủ ê.

Từ hôm nguồn bỏ sông về

Xa nhau, bỗng nhớ non khuya bóng chày

Bãi bờ nghìn dặm quanh đây

Bên kia lũy khuất, bên này rào ngăn

(Cho mai sau đời con )

Phảng phất khí vị Thiền, và âm vang thơ cổ điển:

Mai sớm đầu sương phơi sắc thắm

Đã chiều phai nhạt mấy tràng giang

Xin làm hạt bụi rơi vương vãi

Mỗi bước chân qua chẳng ngó ngàng

                                    (Phù dung)

            Hạt sương đầu ngọn cỏ sớm mai phơi sắc là hạt sương của Vạn Hạnh Thiền sư (“Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”– Thị đệ tử). Tứ thơ “Đã chiều phai nhạt mấy tràng giang” gợi ra hình ảnh nỗi buồn cổ điển của Huy Cận trong bài Tràng giang. Nhưng Lê Đình Bảng kết hợp hòa điệu tư tưởng Thiền, màu sắc cổ điển với tư tưởng con người chỉ là tro bụi của Thiên Chúa giáo tạo nên một tứ thơ mới lạ.

            Cái tình tứ tài hoa này thật thú vị:

Nghĩ mình, một chút mưa sương

Giọt vui chưa cạn, giọt thương đã nhòa

Những ngày chơm chớm hương hoa

Thoáng qua, chỉ một thoáng qua, phai tàn

Chiều chiều mây trắng bay ngang

Ấy ai, đò dọc, đò ngang xa vời

Bây giờ sông rẽ ngăn đôi

Nhớ nhung là của hai người nhớ nhung

                     (Nhớ nhung)

            Và sự tinh tế đến kinh ngạc:

Ở đây, cồn bãi lưa thưa

Thoảng nghe chuông lễ nhà thờ hôm mai

Ở đây, trứng cá, bông xoài

Một cơn gió thoảng rụng ngoài hiên mưa

              (Về thăm Mẹ Hòn Chông)

XIN ĐƯỢC CHIA SẺ VỚI NHÀ THƠ

            63 bài thơ trong Quỳ trước đền vàng đều là những bài thơ hay, có nhiều bài cái hay níu lấy người đọc không dứt ra được (Trường ca Mẹ La Vang, Kinh nguyện La Vang, La Vang. Tháng Tám mùa thu, Về La Vang. Nhà Mẹ trăm gian, Bao giờ cho đến tháng Mười, Đồng dao, Quê nhà, Mùa trăng Vu lan nhớ mẹ, Tiệc cưới Cana, Về thăm Mẹ Hòn Chông, Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ…).

Rất vui và rất quý vì sau Hàn Mặc Tử, thơ ca Công giáo lại có được một ngòi bút tài hoa như nhà thơ Lê Đình Bảng. Quỳ trước đền vàng đặc sắc ở những hình ảnh rất đẹp của đời sống Công giáo. Tình yêu Công giáo rất tinh khôi. Tiếng thơ là tiếng tâm tình chân thực. Và hơn tất cả, Quỳ trước đền vàng khám phá, sáng tạo nhiều tứ thơ mới lạ so với thơ ca đương đại; khám phá hình tượng Đức Mẹ hòa trong thiên nhiên, cuộc sống và tâm thức Việt. Cái Tôi “nhà đạo” của thi nhân đã vượt qua Cái tôi cô đơn bế tắc của Thơ Mới. Lê Đình Bảng vẫn làm thơ truyền thống, nhưng đã nâng phẩm chất nghệ thuật của thơ truyền thống Việt lên một bước mới, đó là sự kết hợp mỹ học truyền thống với mỹ học Thiên Chúa giáo đậm chất Việt.

            Nhà thơ vẫn chưa ngừng bay lên:

Xin mở rộng cửa thiên đường Mẹ nhé

Con bay lên theo cánh gió của trời

Mẹ là biển, là sao mai chiếu rạng

Thuyền con neo, chờ bến lặng, ra khơi

                         (Thuyền đời)

Tháng  6/ 2020

____________________________________

THƠ XUÂN LY BĂNG

Những khuôn mặt thơ ca Công giáo đương đại

NHÀ THƠ XUÂN LY BĂNG

Bùi Công Thuấn

Nhà thơ Đức Ông Xuân Ly Băng

            Xuân Ly Băng là bút danh của Đức Ông G.B Lê Xuân Hoa (1926-2017). Ngài thụ phong linh mục năm 1959 tại Gia Định. Ngài từng là Giáo sư Tiểu Chủng viện Chân Phước Tự, Thủ Đức-Gia Định, Tiểu Chủng viện Sao Biển, Nha Trang. Ngày 25-1-1998, ngài được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong tặng Giám Chức Danh Dự (Đức Ông). Từ 2006 ngài là Tổng Đại diện giáo phận Phan Thiết. Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Giám mục Nha Trang trong thánh lễ mừng Kim Khánh Linh mục của  Đức ông đã nhận xét: Ngài “Dùng thi phú để hát ca tán tụng Thiên Chúa. Ngài nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi sự và tâm hồn thi sĩ đã tác tạo nên những vần thơ ngợi khen cảm tạ…Ngài ca tụng Thiên Chúa với cả hồn thơ trữ tình dạt dào lòng yêu mến Chúa.”[1]

Đức Ông Xuân Ly Băng đã viết trên 1000 bài thơ và đã xuất bản các tập thơ [2]: Thơ kinh, Hương kinh, Trầm tư, Nỗi niềm, Bài ca thương khó, Dụ ngôn Phúc âm, Như trầm hương, Kinh trong thời gian, Khúc hát ân tình, Một vùng châu lệ, Kinh sầu trên quê hương…

Để hiểu Xuân Ly Băng về quan niệm sáng tác, hành trình nghệ thuật, và những nguồn cội thơ của ngài, xin đọc “Nhà thơ Xuân Ly Băng-Cuộc đời và tác phẩm”(Nxb Phương Đông 2011) và bài phỏng vấn của nhà thơ-Linh mục Trăng Thập Tự với Xuân Ly Băng ngày 25.8.1988.[3] Tôi xin không nhắc lại trong bài viết này.

NHÀ THƠ CÔNG GIÁO CÓ NHIỀU THƠ PHỔ NHẠC

Nhà thơ-Đức Ông Xuân Ly Băng

Theo nhà thơ An Thiên Minh [2 đd], Xuân Ly Băng có 120 bài thơ được các nhạc sĩ Công giáo phổ nhạc.

Đơn cử bài thơ Say Noel:

Đêm nay Noel về
Hồn hỡi lắng tai nghe
Đàn muôn cung réo rắt
Dồn dập khắp sơn khê
Đêm nay Hài Đồng đến
Đem hoan lạc trời cao
Đêm nay thơ kính mến
Sẽ say ngã lao đao
Ôi Noel đêm trời nhiệm mầu
Rượu nồng ta không nếm
Sao lòng trí ngất ngư?
Ta say muôn ánh nến
Ngời rạng vạn hào quang

Ta say tiếng chuông vàng
Trong gió trời hổn hển
Từng trận đổ vang vang…
Ta say muôn lời kinh
Thơm như hoa thiên đình
Êm như dòng suối nhạc
Đẹp như lệ đồng trinh
Ôi Noel! Đêm trời nhiệm mầu
Nhạc an hòa, thơ kính mến
Hương phượng thờ đang ngào ngạt dâng lên
Ban cho lòng người đau khổ trần gian
Hiểu ý nghĩa Noel miền cao cả.

Nhạc sư Kim Long phổ bài thơ này thành một bài hợp xướng hoành tráng. Trong đêm Noel, tiếng hát ca đoàn vang lên như tiếng của hàng vạn thiên thần hân hoan. Cái thần của bài hợp xướng này là thanh âm diễn tả được trạng thái “say Noel” của mọi tâm hồn trong đêm thánh.  Câu thơ “Đêm nay sẽ say ngã lao đao” rất khó phổ nhạc, nhưng nhạc sư Kim Long đã phổ rất tuyệt câu này. Hầu như các ca đoàn Công giáo đều đã có lần hợp giọng trong bản hợp xướng này. Xin nghe (theo link) ca đòan Hương Kinh  hợp xướng:

https://nghenhacthanhca.com/music/listenone/4272/Say-Noel/

                                          (Say Noel-Đọan mở đầu)

Nhạc sĩ-Lm Xuân Thảo phổ nhạc bài Say Noel thành bài Đêm Noel giai điệu Slowrock ngọt ngào, đằm thắm, lắng rất sâu trong mọi tâm hồn giáo dân giờ phút Con Chúa nhập thể làm người. Bài này không chỉ được các ca sĩ Công giáo trình bày mà còn thịnh hành trong các CD nhạc phổ thông mùa Noel. Xin nghe ca sĩ Thu Phương hát ca khúc này (theo link):

https://thanhcavietnam.net/ThanhCaVN/#Play,5472

                                                                          (Trích đoạn đầu)

Cả hai khuôn mặt lớn của nhạc sĩ Công giáo Việt Nam cùng phổ một bài thơ và tạo nên hai tác phẩm âm nhạc rất hay, và rất khác nhau về màu sắc thẩm mỹ. Điều này là biểu hiện của một nền nghệ thuật Công giáo có tầm vóc riêng, có bản sắc riêng, giàu có sự sáng tạo trong lòng nghệ thuật dân tộc.

Tôi ghi nhận được (không đầy đủ) trên mạng xã hội một số bài thơ sau đây của Xuân Ly Băng đã được phổ nhạc và được vang lên trong nhiều nhà thờ Công giáo:

Nhạc sư-Lm Kim Long phổ nhạc 31 bài:

  1. Cho hồn con hát -2. Chúng tôi có Ngài -3. Đêm về con yêu Ngài – 4. Hát bài tân ca

 5. Khi nào Ngài đến- 6. Nếu hôm nay –7. Ngài là tất cả -8. Người thợ vô danh –9. Vì Lời Ngài -10. Xin Ngài là ánh sáng -11. Giao duyên –12. Noel không có Chúa –13. Ngài đi vào lịch sử –14. Say Noel – 15. Theo vì sao cứu thế – 16. Hỡi người bộ hành – 17.Trong máu giao hòa – 18. Bên tòa Mẹ – 19. Đoàn người diễm lệ – 20. Con sợ gì – 21.Hương xuân/1- 22. Xuân chầu Mẹ – 23. Xuân sang – 24. Khi nào Ngài đến – 25. Cho hồn con hát- 26. Bên hang đá (hợp xướng) -27. Ngày về – 28. Nhạc hòa bình  (hợp xướng)29. Khúc hát mùa xuân (hợp xướng)30. Mầu nhiệm Tình thương (hợp xướng)  –31. Bài ca máu đỏ (hợp xướng)

            Nhạc sĩ Tuấn Kim phổ nhạc các bàiLời trên Thập giá, Phút linh thiêng, Đến lượt con, Hết nghe chuông Noel, Dứt lời cầu nguyện, Tán tụng Mẹ, Kính mừng Maria 2, Thuyền bơi sông Mẹ, Đức Mẹ TàPao 1. Bóng hồng trong sương – Hỡi người bộ hành –  Nếu con nhớ –  Thơ mừng Xuân –  Trên sông Babilon…

            Đức cố Giám mục Vũ Duy Thống phổ nhạc bài Sao không (Sao em không lần chuỗi). Ns Phạm Trung phổ bài Linh mục một huyền nhiệm, NS Linh Huyền Dung phổ bài Mẹ TàPao…(Xin lỗi các nhạc sĩ đã phổ nhạc thơ Xuân Ly Băng mà tôi không nêu ở đây).

            Nhớ lại trước đây (1958) Nhạc sư Hải Linh phổ thành hợp xướng bài thơ Đà Lạt trăng mờ của Hàn Mặc Tử và từ bài thơ Ave Maria của Hàn Mặc Tử viết thành Trường ca Ave Maria. Cả thơ và nhạc đều đạt đến đỉnh cao nghệ thuật, đưa người nghe vào thế giới huyền diệu, cao rộng của âm thanh, ánh sáng và sự thánh thiện. Say Noel của Kim Long và Xuân Thảo cũng đem người nghe vào thế giới của tâm linh cao rộng đẹp đẽ như vậy.

            Hiện tượng thơ Xuân Ly Băng được phổ nhạc nhiều có ý nghĩa gì?

            Các ca khúc Công giáo đều dùng trong phụng vụ, hát lên để ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa. Điều ấy có nghĩa, thơ Xuân Ly Băng đậm tính chất cầu nguyện, là tiếng nói của tâm hồn giáo dân vươn lên tới Thiên Chúa. Ca khúc hát trong thánh đường còn là ca khúc dành cho cộng đoàn. Vì thế thơ Xuân Ly Băng được phổ nhạc là thơ hướng về công chúng. Lời thơ gần gũi, dễ hiểu.

            Các nhạc sĩ tìm đến thơ để phổ nhạc còn có một nhu cầu khác. Lời kinh đọc, Kinh thánh, bài giảng lễ hầu như đã trở thành ngôn ngữ đời thường. Một đời sống đạo mấy chục năm nghe giảng Kinh thánh, đọc kinh cầu nguyện thì những lời kinh đạo ấy đã thành ngôn ngữ đời thường. Viết được giai điệu mới đã khó, viết được lời mới còn khó hơn. Người nghệ sĩ sáng tác làm thế nào để tìm được ý tứ mới, ngôn ngữ mới, cách diễn đạt mới? Vì thế nhiều người tìm đến thơ. Thơ Xuân Ly Băng đáp ứng yêu cầu này. Say Noel có cái mới ấy.

Ta say muôn lời kinh
Thơm như hoa thiên đình
Êm như dòng suối nhạc
Đẹp như lệ đồng trinh
Ôi Noel! Đêm trời nhiệm mầu
Nhạc an hòa, thơ kính mến

                         (Say Noel)

ĐỐI THOẠI VỚI CÁI TÔI CỦA “THƠ MỚI”

Nhà thơ-Đức ông Xuân Ly Băng

Tôi hát tôi ca

Và tôi ngân nga

Tôi buông ra muôn cung huyền diệu…

Cần chi ai hiều

Thế giới hồn tôi

(Thanh sắc)

            Những dòng thơ ấy của Xuân Ly Băng có dáng dấp khẩu khí của Xuân Diệu nhưng lại rất khác Xuân Diệu. Trên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn, Xuân Diệu viết:

Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất.
Không có chi bè bạn nối cùng ta…

…Ta bỏ đời mà đời cũng bỏ ta
Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thê tuyệt!

                  (Hy Mã Lạp Sơn)

Xuân Ly Băng có một mảng thơ viết theo thi pháp của “Thơ Mới” (1930-1945). Nhà thơ cũng khai thác thi tứ Thơ Mới, nhập thân vào “Cái Tôi” của nhà thơ tiểu tư sản, nói tiếng nói của họ trước thực tại, rồi từ đó thoát hẳn ra bên ngoài để đối thoại, cảm thông. Bạn đọc phổ thông thường được đọc những đánh giá rằng thơ Lãng Mạn trước 1945 là thơ của Cái Tôi cô đơn, buồn, bế tắc.

Xuân Diệu: “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới/ Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối” (Khi chiều giăng lưới). Huy Cận: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” (Tràng giang). Chế Lan Viên: “Với tôi, tất cả như vô nghĩa/ Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!”(Xuân)…

Hoài Thanh nhận định: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn neo neo theo hồn ta.

Xin đọc Xuân Ly Băng:

CHUÔNG CHIỀU

Chiều tàn trên bến cô liêu
Đò ngang thưa chuyến, quán chiều vắng tanh
Gió đưa hiu hắt trên cành
Đồng không sương bủa buồn tanh chim về
Hồn chiều lên ý não nề
Buồn ơi! xa vắng đê mê là buồn
Bỗng nghe một tiếng chuông buông
Xa xôi tự tháp thánh đường nào đây!
Vang lên cao vút tầng mây
Rồi ngân nhè nhẹ như ngây ngất lòng

Tiếng êm nhạc gió rừng thông
Ru như tiếng trúc dịu trong chiều vàng
Rồi tan trong gió mênh mang
Những âm thanh đã nhịp nhàng trong tôi
Bắc cầu nối ý xa khơi
Hồn tôi với lại nước trời xa xăm

Huy Cận viết Sông dài trời rộng bến cô liêu…/ Mênh mông không một chuyến đò ngang/ Không cầu gợi chút niềm thân mật” (Tràng giang). Xuân Ly Băng dùng lại tứ thơ này: “Chiều tàn trên bến cô liêu/ Đò ngang thưa chuyến, quán chiều vắng tanh;

Thế Lữ viết: “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng, Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn”(Tiếng sáo Thiên Thai). Xuân Ly Băng nhắc lại tứ thơ này: “Hồn chiều lên ý não nề/ Buồn ơi! xa vắng đê mê là buồn”.

Rõ ràng Xuân Ly Băng nhắc lại các tứ thơ của “thơ mới” là để gợi ra không gian nghệ thuật và không gian tư tưởng của Huy Cận, Thế Lữ (cũng là của thơ Lãng Mạn). Xuân ly Băng nhập thân vào nhà thơ tiểu tư sản để hiểu và cảm thông với họ rồi dùng tiếng chuông thánh đường dẫn đến không gian tư tưởng mới, đầy màu sắc, âm thanh trong sáng, cao rộng hơn. Không gian ấy hướng lên trên. Cái Tôi không còn buồn cô đơn bế tắc mà tràn ngập niềm vui của sự kết nối với “nước trời” (một nội dung quan trọng của Kinh Thánh).

“Bỗng nghe một tiếng chuông buông
Xa xôi tự tháp thánh đường nào đây!…

…Bắc cầu nối ý xa khơi
Hồn tôi với lại nước trời xa xăm”

Bài thơ Củi mục, cũng đối thoại với triết lý vô thường, hư vô trong thơ Lãng mạn.

Huy Cận từng viết, đời người như một cành củi khô trôi dạt không viết về đâu giữa giòng đời trăm ngả: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả/ Củi một cành khô lạc mấy dòng” (Tràng Giang). Xuân Ly Băng suy tư từ một cành củi mục:

Khi vớt lên một cành củi mục
Và bắt về chiếc lá vàng trôi
Ta sẽ nghe tiếng hồn ai thổn thức
Lệ trào tuôn than khóc ngậm ngùi

Đó là quy luật của vô thường

Nhưng than ôi gió thời gian quét sạch
Hồn thảo thu man mác bóng tà dương
Khiến bao nhiêu cành vàng cùng lá ngọc
Dạt về đâu trên mặt đất vô thường

Và đây là tâm trạng nhà thơ Lãng mạn:

Và người nghệ sĩ những chiều hôm
Ngắm bóng non xa bỗng thấy buồn
Trời không mưa gió không tiễn biệt
Mà thấy trong lòng giọt lệ tuôn

Xuân Ly Băng chia sẻ với nhà thơ Lãng mạn và gieo một niềm tin yêu:

Thôi đừng khóc nữa lá cành ôi
Có khóc đời cũng thế mà thôi
Vì trong thời gian có vĩnh cửu
Trong ly rượu nồng có mùi ngải cứu
Vị đắng đót sẽ còn lại muôn năm
Là lộc trời để nhắc nhở xa xăm.

Trong đối thoại, Xuân Ly Băng tuyệt nhiên không nói gì đến Tôn giáo mà nhà thơ đối thoại bằng tư tưởng với tư tưởng, đem cái “vĩnh cửu”, “cái muôn năm” để hóa giải cái “vô thường”, những cái bị “thời gian quét sạch”. Đó là thái độ trân trọng và cảm thông chia sẻ, và là nghệ thuật. Dùng thi pháp thơ Lãng Mạn để nói chuyện nghệ thuật với nhà thơ lãng Mạn.

Điều đặc sắc là Xuân Ly Băng làm mới thơ Lãng mạn bằng cách đem tư tưởng mới, ý tứ mới thay cho nỗi buồn sự bế tắc hư vô chủ nghĩa trong thơ lãng mạn.

Do đâu Xuân Ly Băng có cuộc đối thoại này với thơ Lãng mạn ? Nhà thơ cho biết: “Khi còn nhỏ, học theo chương trình Pháp, nhờ học văn chương Pháp, tôi biết và chịu ảnh hưởng của Paul Verlaine, Alfred de Vigny, Alfred de Musset, đặc biệt là Lamartine. Nguồn ảnh hưởng thứ hai là Thơ Mới Việt Nam: Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, Huy Cận, Thanh Tịnh, nhất là Hàn Mạc Tử.”[3 đd]

Lưu ý rằng sau, thơ Lãng Mạn (1930-1945), thi ca Việt Nam có nhiều nỗ lực cách tân. Xu hướng Hiện thực xã hội chủ nghĩa trở về với công chúng. Nhóm sáng tạo ở Sài Gòn, các nhà thơ miền Bắc như Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm đều nỗ lực vượt qua Thơ Mới. Họ chủ trương đổi mới bằng bút pháp. Xuân Ly Băng đổi mới về tư tưởng mỹ học.

Tư tưởng mỹ học trong thơ Xuân Ly Băng là tư tưởng Thần học và mỹ học Thiên Chúa giáo. Xuân Ly Băng ý thức rõ: “Phải khẳng định rằng thơ là để nói lên cái đẹp là Thiên Chúa. Những gì thuộc về Thiên Chúa đều đẹp. Chúng ta ca tụng Thiên Chúa bằng cái đẹp thể hiện qua văn chương, qua thơ ca”[3, đd]. Ngài chủ trương làm “nghệ thuật”  dưới bóng cây Thánh giá và Ánh Sáng Phục Sinh của Đức Kitô. Thơ Xuân Ly Băng miêu tả rất nhiều thiên nhiên đẹp , và đó là cái đẹp của Thiên Chúa. Ngài mong muốnlàm sao để đem Chúa từ trong ánh trăng, từ gió vào trong khối óc, trái tim, rồi từ đó trào ra nơi ngọn bút? Thiên nhiên này hoàn toàn khác với thiên nhiên trong thơ Lãng mạn, khác cả với thiên nhiên thơ Đường và thơ Trung đại Việt Nam. 

CỐT CÁCH THƠ XUÂN LY BĂNG

            Nhà thơ Xuân Ly Băng trước hết là một Linh mục. Ngài dùng thơ để ca tụng Thiên Chúa, để loan báo Tin Mừng. Đó là nhiệm vụ ngài nhận từ Đức Giêsu và giáo hội của Người. Đời dâng hiến của ngài là để thực hiện nhiệm vụ đó. Thế nên phần lớn thơ Xuân Ly Băng có nội dung giáo huấn. Mảng thơ này bị giới hạn trong nội dung, tư tưởng và ngôn ngữ giáo huấn của Giáo hội. Xuân Ly Băng khó thể hiện cốt cách thơ. Ngày xưa, thời cộng đoàn dân Chúa không biết chữ, các “cố đạo” đã đặt thành vè các nội dung giáo lý để cộng đoàn đọc trước giờ lễ. Vè bình dân dễ thuộc, dễ nhớ nên có tác dụng dạy đạo rất hiệu quả. Ngày nay, trình độ của cộng đoàn đã khác. Vè, kinh vãn không còn là phương tiện dạy đạo đắc dụng như ngày xưa. Nếu các nhà thơ Công giáo làm thơ chỉ ở dạng vè, sẽ không có người đọc.

Bậc làm cha làm mẹ
Xin gởi gắm đôi lời
Ghi nhớ lấy ai ơi
Để thi hành bổn phận
Hầu chu toàn bổn phận

Sinh con thì cẩn thận
Có chừng mực điều hòa
Có trách nhiệm sâu xa
Vì gia đình hạnh phúc
Để giống nòi hạnh phúc

        (Bổn phận cha mẹ)

Xuân Ly Băng có nhiều bài thơ giáo huấn. Ở những bài này, tính giáo huấn lấn át tính thơ (thí dụ: Bổn phận cha mẹ, Bài học truyền giáo, Sao em không lần chuỗi, Chuỗi Môi Côi, Xâu chuỗi Mân Côi, Sự thánh thiện của Chúa Giêsu, Những danh hiệu của Chúa Giêsu, Năm Linh Mục, Linh mục, ngài là ai? Trái Thánh kinh, Đoản khúc Tin Mừng, Lâu đài đêm…). Tuy vậy cũng có những vừa bài đáp ứng được nhiệm vụ giáo huấn lại vừa đạt được phẩm chất văn chương. (14 chặng đàng Thánh giá).

            Cốt cách thơ Xuân Ly Băng hiển lộ ở những bài thơ tự tình (Bài ca tình ái, Thanh sắc, Say Noel, Đàn vọng cố hương, Bao giờ cho hết mùa thu, Suy nghĩ cúi đầu, Thơ không về, Vì Ngài là tất cả, Tôi nằm xuống…)và thơ trải nghiệm tư tưởng từ đời thực (Noel không có Chúa, Ha-ga và Ít-ma-ên, Lời Chúa Trên Đại Dương, La Vang đất Mẹ…)

            Thơ tự tình bộc lộ một hồn thơ thanh khiết, trọn vẹn tin yêu phó thác, hồn thơ hòa vào hạnh phúc miên viễn của nước trời, không vướng bận trần ai.

Gửi vào Chúa tâm hồn tín thác
Đêm linh hồn man mác tình yêu
Có bình minh sáng thật nhiều
Có hiu hiu gió mỗi chiều mơn man

Gửi vào Chúa muôn vàn giọt lệ
Đêm linh hồn xiết kể hân hoan
Du dương tiếng sáo tiếng đàn
Giữa cô liêu ấy chứa chan ân tình

            (Lâu đài đêm tối)

            Thơ trải nghiệm tư tưởng lại khác hẳn. Nhà thơ phóng túng trong nghĩ suy, trong cách thể hiện những điều gan ruột và trong tìm tòi những tứ thơ mới lạ. Xin đọc

Ha-ga và Ít-ma-ên
           ( St 21, 8-20)

Nàng bế con chúi đầu đi trong sa mạc
Gió cát dập vùi
Hừng hực nắng trời như thiêu đốt mẹ con
Bánh ăn đã kiệt
Bầu nước cạn hết từ lâu
Khốn đốn vô cùng !
Nàng ngồi bệt xuống
Hôn con rồi đẩy nó vào bụi cây
Ngước mắt lên trời
Nghẹn ngào nàng than thở:
Đức Chúa ở đâu rồi?
Đau lòng tôi lắm, Chúa ơi !
Làm sao để con tôi thoát chết
Nàng ngoái lại nhìn bầu trời quê hương
Nước mắt chảy ròng ròng
Nhớ lúc ra đi!
Nàng nghẹn ngào than thở :
Ap-ra-ham, tôn chủ ơi !
Tình nghĩa sao chỉ có thế thôi,
Ai đem tôi đến cho ông?
Sao ông nhẫn lòng xua đuổi tôi đi?
Sa-ra, lệnh bà ơi!
Ghen chi ghen lắm hủy đời tôi nay

Rồi nàng khóc rống lên
Ít-ma-ên khóc giật giọng
Âm thanh chạm đến mây trời
Đức Chúa sai thần sứ xuống:
Can đảm lên, đừng sợ, Ha-ga ơi!
Hãy nâng đứa trẻ dậy
Nước uống đã có đây
Hãy cho nó uống gấp!
Nàng biết chăng:
Đức Chúa đã chọn nó từ lâu
Làm thành một dân tộc
Lang thang khắp sa mạc
Cung tên vút kín bốn phương trời.

Sáng Thế ký kể rằng:Ha-ga và Ích-ma-ên bị đuổi đi

Y-sác lớn lên và khi cậu bé đủ tuổi ăn thức ăn bình thường thì Áp-ra-ham bày một bữa tiệc lớn ăn mừng. Nhưng Sa-ra thấy đứa con, mà người nữ nô lệ Ha-ga đã sinh cho Áp-ra-ham, cười giỡn [a]10 Nên Sa-ra bảo Áp-ra-ham, “Ông hãy đuổi con nhỏ nô lệ nầy và con nó đi đi. Con nó sẽ không được hưởng chút gia tài nào hết; con tôi sẽ hưởng tất cả.”11 Lời yêu cầu nầy khiến Áp-ra-ham khó xử, vì nó cũng là con mình. 12 Nhưng Thượng Đế bảo Áp-ra-ham, “Đừng quá băn khoăn về đứa trẻ và người nữ nô lệ. Hãy làm theo điều Sa-ra yêu cầu. Dòng dõi mà ta hứa với con sẽ ra từ Y-sác. 13 Ta cũng sẽ làm cho dòng dõi của con trai người nữ nô lệ thành ra một dân lớn vì nó cũng là con trai con.”14 Sáng sớm hôm sau Áp-ra-ham lấy ít thức ăn và một túi da đựng đầy nước. Ông trao mọi thứ cho Ha-ga rồi đuổi nàng đi. Mang các thứ đó theo người, Ha-ga đi lang thang trong sa mạc gần Bê-e-sê-ba.15 Chẳng bao lâu, túi đựng nước cạn, Ha-ga để con mình dưới một bụi cây. 16 Rồi nàng đi một khoảng xa xa xong ngồi xuống. Nàng nghĩ, “Con tôi thế nào cũng chết. Tôi không có can đảm nhìn cảnh đau lòng nầy.” Nàng ngồi đó và òa khóc.17 Thượng Đế nghe tiếng đứa trẻ, nên từ thiên đàng thiên sứ của Thượng Đế gọi Ha-ga, “Ha-ga, có việc gì vậy? Đừng sợ! Thượng Đế đã nghe tiếng đứa trẻ đàng kia. 18 Hãy đến cầm tay đỡ nó dậy. Ta sẽ khiến dòng dõi nó thành ra một dân lớn.” 19 Rồi Chúa chỉ cho Ha-ga thấy một giếng nước. Nàng đến đó lấy nước đổ đầy bình cho đứa nhỏ uống.20 Thượng Đế ở cùng đứa nhỏ khi nó khôn lớn. Ích-ma-ên sống trong sa mạc và trở nên tay bắn cung rất giỏi”.

Nếu so sánh bài thơ với đoạn tường thuật của Sáng Thế ký, người đọc sẽ nhận ra những đặc sắc của ngòi bút Xuân Ly Băng.

 Xuân Ly Băng sáng tạo hẳn một tác phẩm mà không trói mình trong khuôn khổ của Sáng Thế Ký. Nhà thơ xây dựng riêng một hình tượng người phụ nữ của thơ mình. Thơ tự do làm cho hồn thơ Xuân Ly Băng trở nên khoáng đạt mạnh mẽ. Truyện được kể với tốc độ nhanh, đường nét miêu tả, dựng cảnh, thiết kế hành động nhân vật đầy sáng tạo (Ít-ma-ên khóc giật giọng/ Âm thanh chạm đến mây trời”. Người phụ nữ bị ruồng bỏ, xua đuổi, cô độc bồng con đi trong sa mạc đầy nắng, đối mặt với cái chết. Con người đau khổ ấy trở nên lớn lao và lẫm liệt. Nàng Ha-ga được khắc tạc trong không gian, thời gian và tình huống, với chiều cao “chạm đến mây trời” và trải ra chiều rộng “bốn phương trời”. Nàng tiếp cận được với Đức Chúa, và Đức Chúa đã an ủi và cứu giúp nàng. Ẩn sâu dưới câu chuyện kể khách quan và con chữ tưởng như vô tình lại là tấm lòng của nhà thơ với con người đau khổ cô độc và niềm tín thác vào Chúa. Chúa lắng nghe và thấu hiểu, Chúa chở che và an ửi, Chúa còn làm những điều kỳ diệu mà con người không thể biết. Đức Chúa nói với Ha-ga rằng Ngài đã chọn con nàng, dù nàng chỉ là nô tỳ, để “Làm thành một dân tộc/ Lang thang khắp sa mạc/ Cung tên vút kín bốn phương trời.”

Chuyện của Haga là truyện của Sáng Thế Ký. Chuyện của Thánh Phanxicô Xavie là đời thực:

Lời Chúa Trên Đại Dương
(Kính nhớ Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận)

Có những con hải âu soãi cánh,
Bay sà xuống ngỡ ngàng,
Hơn một lần,
Trên đại dương,
Để nghe lời Kinh Thánh,

Từ một chiếc thuyền nan.
Và những đám mây chiều,
Chụm đầu trên hải đảo cô liêu,
Khi nghe reo lên một hồi chuông nhỏ,
(Dù cuộc hành trình còn dang dở)
Để nghe lời Chúa Tình Yêu,
Từ một người bé nhỏ.
Và những đợt sóng bạc đầu,
Bỗng một ngày thấy mình sáng láng,

Oà kìa, cây Thánh giá
Xuất hiện trên bầu trời,
Khi một người khách lạ,
Nói về Chúa Ba Ngôi
Cho chim cho cá,
Cho người thổ dân nghèo đói tả tơi.
Hỡi người con của lâu đài Navarre,
Thừa vinh quang phú quý,
Thừa gấm vóc lụa là,
Thừa học vấn cao xa,
Đã bỏ mình cô đơn trên hoang đảo.

Hôm nay đây,
Trên độ dày lịch sử,
Tôi thấy người hiện ra
Trên nhật nguyện thành Goa,
Trên đại dương đầy dông bão,
Trên sương mù eo biển Ma-lắc-ca,
Trên vườn đào của xứ Mặt trời thức giấc.

Với đàn hải âu, tôi kính chào Người,
Với mây biển muôn màu, tôi hát bài ca đẹp nhất,
Với sóng bạc trùng dương,
Tôi vỗ tay reo,
Hỡi Phanxicô loan Tin Mừng Cứu độ.

Chỉ có vài chi tiết trong bài thơ giúp người đọc nhận ra Phanxicô Xavie: Ngài là người con của lâu đài Navarre (miền bắc Tây Ban Nha), truyền giáo ở Goa (Ấn Độ 1542), ở xứ Mặt trời (Nhật)… Và người “Đã bỏ mình cô đơn trên hoang đảo”(Xavie chết trên đảo Thượng Xuyên, ngay cửa khẩu Quảng Châu khi chờ thuyền lén vào Trung Quốc).

Xuân Ly Băng sáng tạo hẳn một hình tượng Phaxicô Xavie trong không gian và thời gian cao rộng tráng lệ. Nhà thơ không kể “thành tích” truyền giáo của Xavie. Cũng không kể như “hạnh các thánh”. Xavie hiện lên là một người khách lạ, một người bé nhỏ, vây quanh là Có những con hải âu soãi cánh, một chiếc thuyền nan, đám mây chiều, Và những đợt sóng bạc đầu để nghe Lời Kinh thánh, để nghe lời của Chúa Tình Yêu. Bài thơ mở rộng lên cao bằng một hình ảnh đẹp đến lạ lùng: “Và kìa, cây Thánh giá/ Xuất hiện trên bầu trời,/ Khi một người khách lạ,/ Nói về Chúa Ba Ngôi/ Cho chim cho cá,/ Cho người thổ dân nghèo đói tả tơi.” Xavie có sức thu hút tất cả đến với mình để nghe Kinh Thánh, và cũng chính Lời Tình yêu từ Xavie có sức làm biến đổi mọi tạo vật:

Và những đợt sóng bạc đầu,
Bỗng một ngày thấy mình sáng láng,

Sóng bạc đầu trên biển là sóng dữ, nhưng sau khi nghe Lời Chúa Tình Yêu, nó tự nhận thấy mình sáng láng. Sóng trở nên đẹp hiền hòa rạng rỡ, không còn là sóng dữ. Khám phá được một hình ảnh diễn tả sự cảm hóa của Tin Mừng với tạo vật như vậy không phải người làm thơ Công giáo nào cũng có thể đạt tới.

Hình tượng Xavie còn được tô đậm hơn nữa trên nền thiên nhiên tráng lệ giàu ý nghĩa biều tượng và chiều sâu lịch sử, nhờ thế “người khách lạ, một người bé nhỏ” trở nên thân thiện và kỳ vỹ :

Hôm nay đây,
Trên độ dày lịch sử,
Tôi thấy người hiện ra
Trên nhật nguyện thành Goa,
Trên đại dương đầy dông bão,
Trên sương mù eo biển Ma-lắc-ca,
Trên vườn đào của xứ Mặt trời thức giấc.

Khổ thơ gồm những câu thơ ngày càng dài ra như là một bức tường thành đang xây lên, sự khẳng định tầm vóc Xavie ngày một bề thế vững chãi và vươn dài hơn trong lịch sử và thời đại.

Với đàn hải âu, tôi kính chào Người,
Với mây biển muôn màu, tôi hát bài ca đẹp nhất,
Với sóng bạc trùng dương,
Tôi vỗ tay reo,
Hỡi Phanxicô loan Tin Mừng Cứu độ.

Nhân vật  Tôi (nhà thơ) cũng đẹp trong không gian cao rộng (biển mây, trùng dương sóng bạc) giữa muôn loài hội tụ đầy màu sắc, thanh âm reo vui hân hoan. Tôi trong bài thơ này thật mới lạ so với Thơ Lãng mạn.

 Viết về thánh Phaxicô Xavie để “Kính nhớ Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận”, hẳnTác giả muốn làm sống lại hình ảnh Đức Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận trong lòng người đọc Công giáo hôm nay? Đức Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận cũng là người rao giảng tin Mừng trong mọi hoàn cảnh, và ngài, bằng sức mạnh của Tin Mừng, đã cảm hóa mọi người đến với ngài như Xavie. Xuân Ly Băng đã khẳng định tầm vóc lịch sử và thời đại của ngài.

NÓI VỚI NGƯỜI TRẺ

          Đức cha Giuse Vũ Duy Thống giải thích bút danh Xuân Ly Băng: “Xuân Ly Băng quả là ”Mùa Xuân trên núi Li Băng”. Vừa mượt mà tươi xanh, vừa nhẹ nhàng trìu mến …” Mùa xuân ấy một mùa xuân mầu nhiệm, rất diệu huyền và rất đổi anh hoa ”…”Xuân Ly Băng là một cuộc đời đã làm nên Mùa Xuân cho mình và không ngừng kiến tạo Mùa Xuân cho những người mình gặp gỡ…” (gpphanthiet.com)

Đức Ông Xuân Ly Băng chia sẻ với Lm – nhà thơ Trăng Thập Tự điều tâm huyết của mình: “Cha phải tìm kiếm những mầm non trong Hội Thánh để nối dõi tông đường: Liên lạc gặp gỡ nhau, vun trồng, nâng đỡ nhau về thi ca và về đức tin. Có thế ta mới làm tròn nhiệm vụ Chúa trao phó và đáp ứng điều Hội Thánh chờ đợi.”

Nhà thơ Xuân Ly Băng đặc biệt lưu ý: “Làm thơ là sáng tạo. Khi Xuân Diệu viết: “Bữa nay lạnh mặt trời đi ngủ sớm”, Tản Đà đòi lôi ra chém vì Xuân Diệu dám bảo mặt trời đi ngủ. Thế nhưng làm thơ là phải vậy, phải sáng tạo.”  

Người làm thơ “cần hai chữ thành thực và khiêm nhường, đừng tự tôn vinh mình. Thời gian sẽ sàng lọc và đào thải những gì không phải là thơ.[4]

Tôi tâm đắc hai điều trong ý thức sáng tạo của nhà thơ Xuân Ly Băng. Đó là: làm thơ là sáng tạo và sự sàng lọc “những gì không phải là thơ”.

Nhiều người làm thơ Công giáo chỉ chú ý đến nội dung giáo huấn mà không nỗ lực sáng tạo (làm ra cái mới nghệ thuật), thành ra thơ rất cũ. Người làm thơ không biết rằng mình đang làm ra những thứ “không phải thơ”, tất nhiên những gì không phải là thơ sẽ bị đào thải.

Xuân Ly Băng đã góp vào thi ca Công giáo và thi ca dân tộc những hình tượng mới như hình tượng người phụ nữ bồng con đi trong sa mạc (Ha-ga và It-ma-ên), hình tượng Xavie, con người bé nhỏ giảng Kinh thánh cho muôn loài trên hoang đảo giữa biển khơi (Lời Chúa trên đại dương); làm mới hình ảnh thiên nhiên trong thơ so với thơ cổ điển và Thơ Mới, đem vào thơ một Cái Tôi mới (khác với Cái Tôi trong thơ Lãng mạn và thơ Hiện thực xã hội chủ nghĩa); Đem vào thơ cái nhìn mới của Kinh Thanh về vạn vật về cuộc đời (Mỹ học Thiên Chúa giáo): Tất cả đều đẹp, đều tốt tươi; và thay thế hồn thơ bi thiết của Hàn Mặc Tử bằng một hồn thơ trong veo hân hoan kết nối với trời cao.

Chỉ một tiếng chuông ngân cũng dạt dào cảm xúc thơ mới mẻ và thánh thiện.

Bỗng nghe một tiếng chuông buông
Xa xôi tự tháp thánh đường nào đây!
Vang lên cao vút tầng mây
Rồi ngân nhè nhẹ như ngây ngất lòng…

…Bắc cầu nối ý xa khơi
Hồn tôi với lại nước trời xa xăm

                         (Chuông chiều)

Tháng 5/ 2020

________________

[1] tường thuật của Lm Giuse Nguyễn Hữu An:

https://sites.google.com/site/giadinhpherokhoa/co-cau-to-chuc/Gii-thiu/dhuc-ong-j-b-le-xuan-hoa

[2] hiện các sáng tác của Đức ông Xuân Ly Băng chưa được tập hợp đầy đủ:

-Phan Chính cho biết: Xuân Ly Băng có 25 tập thơ, trên 120 bài thơ phổnhạc:

-Lm Giuse Nguyễn Hữu An: Ngài đã sáng tác 12 tập thơ đạo đời (đd 1]

-Nguyễn Quân TT, VRNs tường thuật Buổi ra mắt tác phẩm nhà thơ Xuân Ly Băng vào lúc 18g 15 phút chiều qua, ngày 13.02.2012 cho biết: Xuân Ly Băng có gần 30 tập thơ và hơn 1000 bài thơ:

                  (chuacuuthenews.wordpress.com › 2012/02/14 › xuan-ly-bang.)

Nhà thơ An Thiện Minh trong Thánh lễ “Tưởng niệm Đức ông – Nhà thơ Xuân Ly Băng” ngày 17.8.2017, tại Trung tâm Mục vụ TGPSG cho biết: Xuân Ly Băng có 27 thi phẩm, tổng cộng trên 1000 bài thơ; 1 kịch; 4 tác phẩm dịch; 4 bản thảo bị thất lạc. Có trên 120 bài thơ đã được phổ nhạc:

https://tgpsaigon.net/bai-viet/tuong-niem-duc-ong-%E2%80%93-nha-tho-xuan-ly-bang-48029

[3] Xuân Ly Băng trả lời Trăng Thập Tự ngày 25/8/1988:

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/xuan-ly-bang-hon-tho-va-tam-long-muc-tu-48041

[4] https://www.tapsanmucdong.net/2017/07/xuan-ly-bang-loi-ngo-cho-em-tho.html