ĐI VỀ PHÍA ÁNH SÁNG

ĐI VỀ PHÍA ÁNH SÁNG

Bùi Công Thuấn

kierkegaard

Søren Kierkegaard

 

Lời cuối cùng Phật dạy đệ tử, “hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác…”

1.”Thầy bói sờ voi”

Heraclites (544-483 Tr.CN) cho rằng không ai tắm hai lần trên một dòng sông. “Vạn vật đang biến dịch, chẳng có chi thường trụ” (All things flow, nothing asides). Ngược lại, Parmenides (- 511 tr.Cn) lại cho rằng bản thể vũ trụ là tự hữu, bất biến, vĩnh hằng. Ông phủ nhận thuyết biến dịch của Heraclites. Khổng Tử ca ngợi thánh nhân, quân tử, “đức của bậc chí thánh sánh bằng trời… Bậc thánh nhân thông hiểu hết đạo lý trời đất…trí tuệ của người xiết bao uyên bác (Chương 31, 32 Trung Dung)[1], trái lại, Lão Tử chủ trương :”Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội” (diệt thánh, dứt trí, dân lợi trăm bề)[2]. Descartes chỉ công nhận những gì là chân lý khi ông xác lập được những chứng lý để nghĩ rằng nó là chân lý. “Tôi tư duy, vậy nên tôi hiện hữu” (Cogito, ergo sum), thế nhưng khi Descartes chưa hiện hữu thì vạn vật đã tồn tại trước ông rồi, và khi Descartes đã được vùi sâu trong lòng đất, chẳng thể nào tư duy được nữa, thì vạn vật vẫn sinh tồn. Hegel (1770-1831) cho rằng ”Tinh thần tuyệt đối” là thực thể và bản chất của toàn thể thế giới, trong đó có con người và xã hội. Các nhà Duy Vật biện chứng thì phủ định triết học Duy Tâm của Hegel. Họ cho rằng “thế giới vật chất” là bản chất và thực thể của tất cả. Nietzsche qua miệng của Zarathusra nói to với loài người rằng “thượng đế đã chết”(Gott ist tot), trái lại Kierkegaard chỉ ra rằng, con đường hiện sinh là con đường vươn tới thượng đế. Phật phủ định “thế giới vật chất’ vì nó vô thường, phủ định sự tồn tại của linh hồn, phủ định thượng đế. Các tôn giáo khác lại quy hướng về thượng đế. Chủ nghĩa Thực dụng thế kỷ 20 thì phủ định cả Duy tâm và Duy vật. Chân lý của chủ nghĩa thực dụng là cụ thể, vì nó căn cứ vào những hậu quả thực tiễn, hậu quả cảm tính của mỗi con người, nó có giá trị ngay ở trong con người [3].

Ôi! Các triết gia, người này phủ định người kia. Các hệ thống triết học cũng phủ định nhau. Còn biết tin ai? Chẳng lẽ lại tin “thầy bói sờ voi”!

 2.Những câu chuyện của F. Kafka

Tôi thích hai câu chuyện này của F. Kafka, vì tác giả giúp người đọc tự “giác ngộ”

Thôi đi

Trời vừa tảng sáng, đường phố sạch sẽ và hoang vắng. Tôi đang trên đường đến bến xe. So sánh giờ trên tháp đồng hồ với đồng hồ đeo tay, tôi nhận ra tôi đã bị trễ nhiều hơn tôi tưởng và rằng tôi phải nhanh lên. Cú sốc vì khám phá này khiến tôi không cảm thấy chắc chắn đường đi. Tôi chưa quen thuộc lắm thành phố này. May mắn có một cảnh sát ngay kia. Tôi chạy lại anh ta, và không kịp thở, hỏi thăm đường. Anh ta mỉm cười và hỏi lại tôi :

“Anh hỏi tôi đường đi hả?”

“Vâng,” tôi nói, “vì tôi không tự tìm được.”

“Thôi đi! Thôi đi!” anh ta nói, và thình lình quay phắt đi, như một người muốn được ở một mình mà cười ha ha vậy.

(Nguyễn Phan Thịnh dịch. Nguồn : tienve)

 Một Ngụ Ngôn Nho Nhõ

“Chao ôi!” Con chuột than, “mỗi ngày cái thế giới này lại trở nên bé nhỏ hơn. Ban đầu nó rộng lớn đến nỗi tôi cảm thấy e sợ, tôi cứ chạy mãi, chạy mãi và mừng làm sao khi cuối cùng tôi cũng đã thấy những bức tường hiện ra xa xa phía bên phải và bên trái, thế nhưng những bức tường dài này lại co hẹp nhanh đến độ rốt cuộc tôi đã ở trong căn phòng cuối cùng mất rồi, và ở góc phòng có một cái bẫy chuột mà tôi phải đâm đầu vào đó”. “Mày chỉ cần đổi hướng là được thôi mà”, con mèo nói rồi xơi tái con chuột.

(Hải Ngọc dịch. Nguồn : Tienve)

Tôi ngẫm nghĩ câu này của Kinh Thánh

Ai có tai thì nghe” (Mt 13, 9)

3.”Mua vui cũng được một vài trống canh

Ngày nay cả nước ca ngợi truyện Kiều (Đoạn Trừờng Tân Thanh), nhưng Nguyễn Du bảo rằng, ông kể truyện Kiều là để mua vui. Phạm Quỳnh thề trước anh linh Nguyễn Du :”Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu-sinh xin rầu lòng giốc chí cố gia-công trau-chuốt lấy tiếng quốc-âm nhà, cho quốc-hoa ngày một rực-rỡ, quốc-hồn ngày một tỉnh-tao, quốc-bộ ngày một tấn-tới, quốc-vận ngày một vẻ-vang, ngõ-hầu khỏi phụ cái chi hoài-bão của tiên-sinh, ngậm cười chín suối cũng còn thơm lây Ngô Đức Kế phủ định giá trị truyện Kiều:”Nói về văn chương quốc âm của ông Nguyễn Du, thì vẫn là hay thiệt, song cái lối văn vận, ngâm nga ngợi hát, chỉ là một lối trong đạo văn chương. Văn tuy hay, mà truyện là truyện phong tình, thì có vẻ ai dâm sầu oán, đạo dục tăng bi tám chữ ấy không tránh đàng nào cho khỏiXem thế thì biết truyện ấy chỉ là một thứ văn chương ngâm vịnh chơi bời, để lúc thanh nhàn mà đọc đôi câu cho tiêu khiển, chứ không phải một thứ văn chương chính đại theo đường chính học, mà đem ra dạy đời được đâu”[5].

Các cụ tranh cãi như vậy thì đâu là giá trị của truyện Kiều?

Xem thế, vấn đề văn chương là gì, giá trị của văn chương là gì, thật không có câu trả lời cho minh triết. [One of the fundamental questions of literary theory is “what is literature?” – although many contemporary theorists and literary scholars believe either that “literature” cannot be defined or that it can refer to any use of languagehttp://en.wikipedia.org/wiki/Literary_theory].

Xin lần theo một vài manh mối.

Phúng dụ Cái Hang của Platon giải thích mối quan hệ giữa thế giới khả giác và thế giới ý niệm. Con người được so sánh như một tù nhân bị giam trong một cái hang. Mặt luôn hướng vào vách tường. Trên mặt tường hang in hình bóng qua lại của những vật thể bên ngoài hang do ánh sáng mặt trời chiếu vào. Những hình bóng trên tường là những sự vật ta thấy được trong thế giới khả giác. Những vật ở ngoài hang là những ý niệm, và mặt trời là ý niệm thiện là thực tại cao cả nhất [6]. Đó là khởi nguồn của thuyết nghệ thuật là tấm gương phản ánh thực tại. Aristote (384 – 323 trc CN) trong Tác phẩm Poétique (Nghệ thuật thi ca) xác định nghệ thuật là sự bắt chước.[7]

Thời Chiến Quốc (475 – 221 trc.Cn.), sách Tả truyện có ghi: “Thi dĩ ngôn chí” – thơ để nói chí. Hàn Dũ (768-824) dùng văn để làm sáng tỏ đạo (“văn dĩ minh đạo”), Chu Hy (1130-1200) dùng văn để chở đạo (“văn dĩ tải đạo”). Nguyễn Đình Chiểu dùng văn chương để “chở đạo, đâm gian”. Những quan điểm như vậy không giải thích được hiện tượng “thơ dâm tục” của Hồ Xuân Hương, “cái dâm” trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Người ta phải viện dẫn Freud (1856-1939). Ông cho rằng sáng tác là sự thăng hoa những ẩn ức về tính dục, tác phẩm là sự thể hiện giữa những xung đột vô thức, mặc cảm về tính dục.

Thế kỷ XX, J.P.Sartre (1905-1980) nói đến “văn học dấn thân” (litérature engagée): « Nhà văn dấn thân biết chữ nghĩa… là những ‘khẩu súng đã nạp đạn’. Nếu hắn nói ra là hắn bắn…”,”nhà văn chọn ‘vén màn’ cuộc đời, tức là làm lộ con người, trước mặt mọi người, để cho tất cả đều nhìn thấy đối tượng trần trụi trước mắt mà biết trách nhiệm của mình.” [8]; Trong cuộc tranh luận “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh”[9] Thiếu Sơn viết: “Các ông muốn cải tạo xã hội để tô điểm cho sự sống loài người. Tôi không biết cải tạo cái gì, nhưng sự sống của tôi, tôi không cần các ông tô điểm. Tự nó đã mãn nguyện rồi. Nếu trong thiên hạ còn nhiều ngươì biết yêu mến nghệ thuật, nhờ thưởng thức những công trình của chúng tôi mà quên được những nỗi nhỏ nhen ti tiện ở cõi đời, để sống chung với chúng tôi chẳng có công với xã hội loài người đấy ư?(“Nghệ thuật với đời người” Tiểu thuyết thứ Bảy số 41 ).

Lý thuyết văn học hiện đại cố tìm hiểu thực chất vấn đề về mối quan hệ Tác giả-tác phẩm-người đọc. Roland Barthes nói đến Cái chết của tác giả (The Death of the Author) : đối với chúng tôi, chính ngôn ngữ nói chứ không phải là tác giả nói; viết chính là thông qua một cái phi cá nhân tiên quyết để đạt tới cái điểm mà chỉ có ngôn ngữ hành động,“biểu diễn” chứ không phải “cái tôi” nào đó.[10] Chủ nghĩa Cấu trúc (Structuralism) cho rằng nghĩa của tác phẩm nằm trong cấu trúc. Hậu cấu trúc luận /Giải cấu trúc (Poststructuralism/Deconstruction) coi nghĩa của tác phẩm trong liên văn bản. Thuyết người đọc chỉ ra nghĩa của tác phẩm thuộc về kinh nghiệm đọc của người đọc, bởi họ thuộc về một cộng đồng diễn dịch (interpretive community), hoặc họ mang theo ‘tầm kỳ vọng’ (horizon of expectations) của thời đại, và diễn dịch ý nghĩa tác phẩm là một cuộc đối thoại vô tận giữa quá khứ và hiện tại…[11]

Đi vào lý luận văn học, ta có thể vỡ vạc ra điều gì đó, nhưng lại lâm vào tình trạng bi đát của sự luẩn quẩn. Cần phải thoát ra khỏi sự trói buộc ý thức lẩn quẩn ấy. Mọi thứ trong đời này đều tồn tại trong sự tương quan xã hội. Văn chương cũng vậy. Nói đến một cộng đồng diễn dịch (interpretive community), hay ‘tầm kỳ vọng’ (horizon of expectations) của thời đại, chính là nói văn chương trong mối quan hệ xã hội. Văn chương là một thành tố văn hóa cộng đồng, nó không còn là sở hữu của một cá nhân.

4.”Văn chương quan thế đạo thịnh suy” 

Cụ Phan Bội Châu chắc chắn chưa tiếp cận với lý luận văn học hiện đại, nhưng vẫn khẳng định điều này :”Văn chương quan thế đạo thịnh suy”, nghĩa là : Văn chương rất có quan hệ với đường đời, đời mà thịnh thì thường có văn chương hay, mà có văn chương hay thì đường đời mới thịnh, nếu trái thế thì văn chương dở mà đường đời suy và văn chương càng dở….Văn chương sở dĩ có giá trị không chỉ tại ở nơi văn chương mà hơn nữa phần ở nơi người làm văn chương…”[12]

Lưu Hiệp (465- 520) trong Văn Tâm Điêu Long cũng luận rằng “…Vì vậy, cho nên Giả Nghị tuấn kiệt nên lời văn sạch sẽ và cái thể trong sáng; Tư Mã Tương Như ngạo mạn và dối trá nên lý thì quá đáng mà lời thì tràn ngập;… ” Lưu Hiệp nhận định về mối quan hệ của văn chương với thời đại: ”Cho hay văn mà biến đổi là bị ảnh hưởng của tư tưởng tình cảm của thời đại. Việc hưng hay phế của văn là gắn liền với sự biến đổi của các đời. Xét cái gốc để năm cái kết thúc thì có xa tram đời cũng có thể biết được” …[13]

Từ Đề Cương Văn Hóa Việt Nam năm 1943 đến Nghị Quyết Trung Ương V (khóa VIII) và Nghị quyết 23 của Bộ Chính Tri Đảng Cộng Sản Việt Nam đều nhất quán quan điểm này : “Sự nghiệp văn học phải thành một bộ phận trong sự nghiệp của toàn thể giai cấp vô sản, phải thành “một cái bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc” trong bộ máy xã hội – dân chủ vĩ đại thống nhất, do toàn đội tiên phong giác ngộ của toàn bộ giai cấp công nhân điều khiển. Sự nghiệp văn học phải thành một bộ phận khăng khít của công tác tổ chức, có kế hoạch thống nhất của Đảng xã hội – dân chủ…”(Mác – Ăng-ghen – Lê-nin : Về văn học nghệ thuật, Nxb. Sự thật, tr. 305). Triển khai cụ thể của quan điểm đó là: Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận. Nhà văn là chiến sĩ của Đảng.Văn học nghệ thuật là một bộ phận của sự nghiệp cách mạng, thực hiện nhiệm vụ cách mạng của từng thởi kỳ.

Những manh mối trên soi sáng điều gì?

Ấy là, thái độ viết là sự chọn lựa có ý thức của người cầm bút. Viết là lên tiếng nói, là dấn thân, là hành động cải tạo xã hội (nhà văn không phải là người nhặt rác)… Nói như Sartre: “hắn nói ra là hắn bắn”. Không có hành động nào là không có mục đích. Và mục đích viết ẩn sau con chữ. Và sau mặt nạ chữ ấy là con người. Con người ấy có thể “thành ý, chính tâm”, hay “gian ý, tà tâm”, tùy theo mục đích viết của anh ta có trùng khớp với cộng đồng diễn dịch (interpretive community-Stanley Fish), hay ‘tầm kỳ vọng’ (horizon of expectations- Hans Robert Jauss) của thời đại hay không. Salman Rushdie viết The Satanic Verses (Những Vần Thơ của Quỷ Satan). Ông bị Giáo chủ Ruhollah Khomeini của Iran ra lệnh cho tín đồ đạo Hồi trên toàn thế giới truy nã tử hình. The Last Temptation’ (Cơn Cám Giỗ Cuối Cùng) của Kazantzakis cũng bị Giáo hội Công Giáo cấm.

Chỉ những tác phẩm thể hiện tư tưởng Nhân văn tiến bộ mới có gía trị lâu bền, và mới được nhân loại yêu mến.

Tháng 8. 2013

______________________________________

[1] Tứ Thư-Nxb Quân Đội Nhân Dân, 2003. Tr.91, 92

[2] Đạo Đức Kinh, Nxb Thanh Niên, 2008, chương XIX, tr. 87

[3] Nguyễn Tiến Dũng, ĐH Khoa học Huế, Những nét chính của chủ nghĩa thực dụng Mỹ.

[4] Phạm Qùynh : Bài diễn thuyết này được Phạm Quỳnh đọc nhân lễ kỷ niệm ngày giỗ Nguyễn Du ngày 8.12 .1924 do Hội Khai trí tiến đức của ông tổ chức. Bài được đăng lại tại Tạp chí Nam Phong số 86.

[5] Bài báo này đăng trong Hữu Thanh tạp chí số 21.

[6] dẫn theo Nguyễn Mạnh Tăng, Lịch sữ triết học, tr 79

[7] “Epic poetry and Tragedy, as also Comedy, Dithyrambic poetry, and most flute-playing and lyre-playing, are all, viewed as a whole, modes of imitation. But at the same time they differ from one another in three ways, either by a difference of kind in their means, or by differences in the objects, or in the manner of their imitations”  (http://www.authorama.com/the-poetics-27.html)

[8] “Không ai có thể nói là mình không biết pháp luật, bởi vì luật pháp luôn luôn được viết thành văn. Cũng không ai cấm anh phạm luật, nhưng anh biết trước là nếu phạm luật thì anh sẽ bị tội gì. Chức năng của nhà văn cũng tương tự như thế tức là anh phải làm thế nào để cho không ai có thể chối là mình không biết đến thế giới xung quanh, và cũng không ai có thể cãi là mình vô tội vạ. Một khi trót đã dấn thân vào thế giới chữ nghiã rồi, thì anh không còn có thể giả vờ bảo rằng tôi không biết “nói”, vì nếu anh đã vào thế giới của ý nghĩa rồi, thì anh không thoát ra được nữa (…) Trong thế giới ý nghĩa này, ngay cả yên lặng cũng có nghĩa (…) Yên lặng là một khoảnh khắc của ngôn từ, im không có nghĩa là câm, mà là từ chối nói, tức là có nói (…)…”

(Dẫn theo Thụy Khuê : Qu’est-ce que la littérature Văn chương là gì?, http://thuykhue.free.fr/stt/p/PBVH-Ch16.html

[9] Nguyễn Đình Chú-Cuộc tranh luận về quan điểm nghệ thuật thời kỳ 1935-1939.

http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=1537:cuc-tranh-lun-v-quan-im-ngh-thut-thi-k-1935-1939&catid=63:vn-hc-vit-nam&Itemid=106

[10]  “for us too, it is language which speaks, not the author; to write is, through a prerequisite impersonality… to reach that point where only language acts, ‘performs’, and not ‘me’… (http://www.deathoftheauthor.com/)

[11] The literary text possesses no fixed and final meaning or value; there is no one “correct” meaning. Literary meaning and value are “transactional,” “dialogic,” created by the interaction of the reader and the text

http://www2.cnr.edu/home/bmcmanus/readercrit.html)

For Gadamer, past and present are firmly connected and the past is not something that has to be painfully regained in each present (https://tspace.library.utoronto.ca/citd/holtorf/3.10.html)

[12] Phan Bội Châu-Quan niệm của tôi đối với văn chương.Thơ văn Phan Bội Châu, nxb Văn Học, 1985, tr. 266

[13] Lưu Hiệp-Văn Tâm Điêu Long-Thể tính. Nxb Văn Học, 1999, tr.194, 257

 

 

 

 

THƠ LÊ HUY MẬU

“Bỗng muốn hét một câu thơ tuẫn tiết”

Đọc thơ Lê Huy Mậu*

Bùi Công Thuấn

c_350_401_16777215_00_images_stories_260813_Le_huy_mau2

(Nhà thơ Lê Huy Mậu)

Khi tôi viết những dòng này thì nhà thơ Lê Huy Mậu đã dư đầy vinh quang của một nhà thơ thành danh, đã hơn người cái sự thành đạt trong công việc (làm việc ở Hải quan Bà Riạ-Vũng Tàu 10 năm, ở Ban Tuyên giáo 20 năm, sau đó là Chủ tịch Hội VHNT …) và đã hoàn thành tâm nguyện của một kiếp nhân sinh (con cái thành đạt, đời sống vật chất tinh thần dư đủ). Tôi đã đọc hơn 250 bài thơ ông đã in, đã đăng trên hai trang blog và trang facebook Lê Huy Mậu. Đã đọc nhiều bài viết về ông.

Thú thực là tôi phân vân. Phân vân vì một bên là tầm vóc và hào quang của một nhà thơ được bạn văn ca ngợi, và một bên, ông lại chân thành nói rằng: “Thiên chức nhà thơ cao cả lắm! Xin đừng gọi tôi là nhà thơ!”. Ông làm thơ, chỉ là:”… hái lá vườn làm một bát canh thơ!” (Lạc tuổi)và Ông khẳng định:

Ngày dài ngẫm ngợi thơ ca
Thơ không đăng báo
Thơ không nhuận bút
Thơ là trò chơi !
  (Trò chơi)

Tôi sẽ viết gì về một nhà thơ mà cuộc đời và thơ ca “dọc ngang trời rộng” như Lê Huy Mậu?

1.Nhà thơ thời sự, thế sự

 Có đến 93 trong tổng số 250 bài thơ (40%) của ông viết về những vấn đề thời sự, thế sự và tự tình. Điều ấy đủ thấy trái tim nhà thơ đập mãnh liệt với đời sống của dân tộc như thế nào. Đọc thơ Lê Huy Mậu, thấy giọng ông hào sảng, tự tin. Ông nói thẳng những điều rất “nhạy cảm”, nhưng thực ra trong lòng ông “ Và lặng lẽ tôi buồn/ nỗi buồn thế kỷ”(Tùy hứng 1989). Ông không chỉ buồn, mà con đau, còn nhục trước thực tại.

 “Cá biển ở miền Trung chết không rõ nguyên nhân
Chẳng liên quan gì tới mình!
Không dưng thấy buồn, thấy nhục Tháng 5 ơi!”

                                  (Ngẫu hứng tháng 5)

Tại sao ông đau như thế?

“Lại nhớ những ngày này năm xưa ở trong rừng
Gian khổ lắm nhưng lòng thanh thản lắm!
Đồng đội ơi xin hãy làm nhân chứng
Tôi đang đau như trăm vết đạn bắn vào mình!

               (Tôi nghe đau như đạn bắn vào mình)

Ông tự vận vào mình nỗi buồn đau thi sĩ: “Thế gian quá nhiều nỗi buồn, nỗi đau/ Trời thương tình sinh ra loài thi sĩ”. Vì thế, ông muốn mang lấy nỗi đau chung:Anh là nhà văn

Anh muốn uống cuộc đời
Uống khổ đau buồn phiền cay đắng
Của hết thảy mọi người

(Đêm cuối năm)

Ông nói đến nỗi khổ đau buồn phiền của hết thảy mọi người, ấy là ông nói đến nhân dân:

Ngân khố cạn. Tài nguyên hết. Nợ công chất chồng
Bức tranh đầu nhiệm kỳ có phần ảm đạm
Chợt ai đó phát hiện ra trong dân còn năm trăm tấn vàng tồn đọng!

Đúng là sức dân vắt mãi vẫn chưa tận
Ôi mắt quan thật sáng suốt, tinh tường
!

(Nghĩ ngợi trong ngày bầu cử)

Ông nói đến khát vọng của nhân dân, khát vọng dân chủ. Đó cũng là điều ông hy vọng và chờ đợi.

Tôi tin là quá nửa nhân dân ta

Đang mong ước được như Myanma

Tự tay mình bỏ phiếu bầu ra người đứng đầu đất nước

(Thơ thời sự)

Có một chút gì như hy vọng, như chờ đợi
Giữa những tháng ngày chẳng hy vọng, chẳng chờ đợi điều gì!

Tôi bỗng nghĩ
Khi Obama đến Việt Nam!
                  (Chào Obama)

Ông tin vào sức mạnh của nhân dân

Nhịn nhiều lắm rồi đấy nhé! Bọn bất lương!
Anh Tấn không chỉ là anh Tấn đâu! Mà anh Tấn là nhân dân đấy!
Nhân dân mà nổi đóa lên thì hãy coi chừng
                          (Thư gửi về Bình Chánh)

Và ông tự giải mã nỗi buồn:

Duy chỉ có điều này mình luôn luôn thấy
Không có gì che được “Mắt Thánh Nhân dân”
Trước lịch sử mọi giá trị sẽ trở lại đúng vị trí!

                         ( Tự giải mã khi buồn)

Đứng trên lập trường nhân dân và dân tộc, ông tố cáo hành vi của Trung quốc xâm phạm chủ quyền Việt Nam (Lạm bàn về thời cuộc, Nếu tôi là người Trung Quốc). Ông đặt vấn đề trách nhiệm của trí thức: Vận nước lòng dân thế cờ đã rõ/ Trí thức nhà văn ngán ngẩm thở dài/ Hỏi ai?/ Ai hỏi?/ Trách ai?( Hỏi ai? Ai hỏi).

Đất nước giáo sư, tiến sĩ rất đông
Sao tôi thấy chỉ mỗi Ngô Bảo Châu nói lời nào cũng thấm!
Đất nước có mười lăm ngàn nhà báo. Ngót một ngàn nhà văn
Sao tôi chỉ thấy một hai trong số đó
Là có tài, có tâm và yêu nước thực lòng!

                       (Đất nước đếm trên đầu ngón tay)

Ông đã kêu lên: Tổ quốc ơi!:

Tổ quốc ơi!

Tôi muốn nghe một lời thề chém đá

Như tổ tiên xưa trước họa xâm lăng

(Tổ quốc ơi)

Và ông thét lên:

Xin đừng hót những lời chim chóc mãi
Dẫu ệm tai nhưng nhàm chán quá rồi!
Bỗng muốn hét một câu thơ tuẫn tiết
Đánh thức cơn buồn ngủ Nước Non tôi!

(Nhặt nhạnh trong chiều)

Lê Huy Mậu cũng chạnh lòng trước bao nhiều điều trái tai gai mắt không chấp nhận được nhưng vẫn tồn tại thách thức lương tâm nhân dân. Đó là nạn ức hiếp nhân dân, nạn tham nhũng, tội ác của những tập đoàn quyền lực và lợi ích nhóm, nạn “con vua thì lại làm vua” cha quyền lực, bổ nhiệm con vào chức vụ quyền lực…

Để có được độc lập, hòa bình chúng ta vay máu những ai?

Xin đừng trả cho ân nhân mình bằng dùi cui. Hôm nay hỡi!

(Góp một tiếng thở dài cùng đất nước)

Bao nhiêu năm rồi vẫn như ngày xưa
Có tý việc bằng móng tay cũng họp
Cái lỗ kim con voi chui cũng lọt
Voi chui lọt lỗ kim bởi voi chui đúng quy trình !

(Đi họp)

Chỉ có thể là Phù Đổng Thiên Vương!
Mới không mang mộng làm vua và truyền ngôi trên máu xương trăm họ!

Giá mình hiểu điều này từ khi còn đang trẻ
Giờ về già chắc lòng bớt đau hơn!

(Nghĩ về thánh Gióng)

Thực ra, cho đến nay, thời gian của ông đã gần cạn. Ông sắp đi đến cái “ngày ấy”. Và vì thế ông triền miên nghĩ ngợi giằng co, một bên là buông bỏ tất cả để sống thanh nhàn, một bên là trái tim không nguôi thôi thúc.

 ấy là khi tôi tự động viên tôi
đêm dài mấy thì rồi trời tất sáng
và tôi chọn cách ngồi im lặng
giữa cuộn sôi bao cảm xúc trong lòng!
 (Và tôi chọn cách ngồi im lặng)

Buồn muốn buông một lời ta thán
Lại e mình tự đổ nợ cho thân
…Ngồi xem ván cờ người lúc xế bóng
Ôi! cờ ngoài sao mình lại đau trong!

                     (Cờ ngoài-đau trong)

 

Ông tỉnh táo nhìn ra được những vấn đề của một thời.

Chuyện kể rằng
Có hai người lính Việt Nam
Trong chiến tranh họ ở hai bờ chiến tuyến
Bây giờ họ là thông gia với nhau
Họ thường đọc cho nhau nghe những bài thơ chiến trận
Thơ người này làm người kia cảm động
Người này đọc khiến người kia bật khóc!

                          (Thơ của lính)

bốn mươi năm đã qua
các anh thôi thất vọng. Chúng tôi hết say sưa
giờ là lúc chúng mình hãy nâng ly như hai người anh em thân thiết
những người thua lần thứ hai nâng ly cùng những người thua lần thứ nhất
dưới tán rừng nguyên sinh Tổ Quốc thản nhiên xanh!
                   (Uống rượu dưới tán rừng Tây Ninh)

Thơ Lê Huy Mậu, dù có lúc sôi nổi hào sảng, có lúc quyết liệt tuẫn tiết một lời thơ chém đá, vẫn thấp thoáng một nỗi u hoài hiện sinh không siêu thoát được:

buồn vui thì đầy, năm tháng thì vơi
thao thức đau từng con chữ viết
bỗng thấy rõ dần bóng dáng hư vô
bỗng hiểu vì sao vua lên Yên Tử
người bán tương lai, ta mua quá khứ
tóc bạc ngu ngơ giữa nhốn nháo đời !

                (Thơ tặng tờ lịch cuối)

 dẫu biết rồi tất cả sẽ hư không

mọi được mất đúng sai hóa trò đùa hết thảy

ta sống vì cái gì ấy nhỉ

vô ngôn chuông chùa thỉnh bờ đêm

 

Chiều tắt nắng

tắt ngày

không tắt được

những miên man…

(Tản mạn trước bờ đêm)

  1. Cổ điển và hiện đại- Hiện thực và lãng mạn

 

QUA ĐÈO NGANG HÔM NAY
( Tưởng nhớ Bà Huyện Thanh Quan)

Đèo Ngang Bà Huyện lại vừa qua
Bà hỏi Đèo Ngang xưa đây à?
Sao ta trông thấy toàn người lạ
Đâu lá chen cây, đá chen hoa?

Bà hỏi đây còn ai thương nước?
Hay toàn thương lái Formosa?
Bà bảo xà ích mau giục ngựa
Kẻo trông cá chết ta xót xa!
                    Lê Huy Mậu 29/4/2016

Đây là một bài thơ mang cốt cách thơ cổ điển (dạng thất ngôn, vịnh thơ Bà Huyện Thanh Quan, ẩn chứa chất trào phúng Nguyễn Khuyến). Tác giả đặt hiện tại đối mặt với quá khứ. Con người hôm nay phải trả lời với tổ tiên về những vấn đề của đất nước, dân tộc. Tác giả cũng để quá khứ bày tỏ thái độ với hiện tại. Cái thú vị của bài thơ là sự thâm thúy xót xa của phong cách thơ Nguyễn Khuyến (Hội Tây, Chơi núi An Lão, Đêm mùa hạ…), tôi hiểu, đó cũng là tấm lòng của tác giả với đất nước hôm nay. Lê Huy Mậu có nhiều bài mang màu sắc thẩm mỹ này: Nghĩ ngợi trong ngày bầu cử, Qua đèo Ngang hôm nay, Tết còn xa lắm, Ba ngày tết, Sân sau nhà, Nhà quê giữa phố.. Kế thừa chất cổ điển, Lê Huy Mậu cũng cập nhật ngôn ngữ sinh hoạt thời đại vào thơ như Trần Tế Xương đã làm cuối thế kỷ 19 (Hồng tâm, Uống rượu vườn đào…)

Một điếu thuốc. Một ly đen
Một Wi-fi. Một Laptop
Anh một bên. Thế giới một bên

(Hồng tâm)

Chủ nhật mở tiệc “vườn đào”

Mâm sáu vị thì đã hưu cả sáu…

 …Xưa các vị bận bịu họp hành

Giờ rảnh rỗi vị nào cũng nghiện facebook

Chuyện thế sự bây giờ nghe ra, toàn “chuyện ngoài luồng”!

(Uống rượu vườn đào)

Sự khác biệt về nội dung hiện thực, màu sắc thẩm mỹ và thái độ của tác giả Lê Huy Mậu so với Nguyễn Khuyến và Trần Tế Xương là sự khác biệt tâm thế nhà thơ trước thời đại, vị trí và vai trò nhà thơ hôm nay. Lê Huy Mậu đang sống ở thời đại toàn cầu hóa, ông đã đi năm chân bốn bể. Lê Huy Mậu đã làm cán bộ Tuyên giáo 20 năm. Ông là nhà văn sáng tác dưới ánh sáng quan điểm của Đảng. Vì thế, cái nhìn của ông tuy mang nỗi niềm sâu nặng, nhưng thơ ông không phải là thơ trào phúng kiểu Nguyễn Khuyến hay Trần Tế Xương, tức là thơ phê phán hiện thực xã hội Việt Nam nửa thực dân nửa phong kiến cuối thế kỷ 19. Ông tỏ ra tự kềm chế mình để không thái quá, cũng không vong thân.

Buồn muốn buông một lời ta thán
Lại e mình tự đổ nợ cho thân
…Ngồi xem ván cờ người lúc xế bóng
Ôi! cờ ngoài sao mình lại đau trong!

                     (Cờ ngoài-đau trong)

Núi dạy tôi giữ gìn tiết tháo
Biển dạy tôi khoáng đạt tầm nhìn
             (Vũng Tàu-núi-biển và tôi)

Lê Huy Mậu chỉ thực sự bộc lộ tư chất nhà thơ ở những bài thơ viết theo bút pháp lãng mạn (có thể là ông không tự ý thức điều này), thơ thiên nhiên và thơ tình yêu. Xin đọc các bài: Đãi trăng, Chiều muộn, Buồn thơm, Cuối mùa thu, Thiếu nữ và mùa đông, Tình tháng chạp (sau đổi thành Trăng muộn), Đêm trăng non, Ru đêm, Gửi, Thơ thu, Hà ơi, Ngày không tên, Rét lộc, Ghen, Yêu, Mùa yêu, Yêu nỗi buồn ấy lắm nỗi buồn ơi, Hai đầu nỗi nhớ, Nắng múa thu, Xin cám ơn mưa phùn, Hoa cỏ may, Hoa Khuê, Mời em cạn nửa chén tình, Đồng dao rượu tình,

Ở những bài thơ này, thơ Lê Huy Mậu có Cái Tôi lãng mạn của Thơ Mới (1930-1945), có mùi thơm đồng nội của ca dao (Lý nhà quê) có cá tính tài tử khoáng đạt của Nguyễn Công Trứ (Tình nhặt, Người đàn bà của tôi, Yêu, Hạnh phúc) và có chất tài hoa Nguyễn Bính (Hoa Trúc Đào, Về làng gặp lại người xưa, Sông một bờ…), đặc biệt là ở những bài lục bát tài hoa (Chiều buồn, Người dưng, Nhặt nhớ chằm thương, Tháng hai,…).

Tôi thực sự ngạc nhiên vì những tưởng Lê Huy Mậu chỉ nặng lòng với những vấn đề thời sự chính trị, chỉ viết kiểu thơ phát ngôn trực tiếp suy nghĩ (một loại thơ rất ít chất thơ, có những bài không thơ). Nhưng không phải vậy. Khi hồn thơ Lê Huy Mậu bay vào cõi đam mê, say trong cái đẹp và không bị trói buộc bởi những hệ lụy của đời, thì người thơ Lê Huy Mậu hiện lên và thơ Lê Huy Mậu có sắc thái thẩm mỹ khác. Sự mới mẻ của Lê Huy Mậu là khám phá những tứ thơ mới để diễn đạt những điều tưởng như rất cũ.

Bỏ nơi quán xá đãi đằng

Ta về khép cửa đãi trăng đáy hồ

            (Đãi trăng)

Đêm qua giời ạ! tôi say
Sáng nay tôi mở lòng tay- sững sờ!
Lòng tay tôi có câu thơ
Câu thơ của một lơ mơ mối tình

                (Sông một bờ)

Xin đọc trọn vẹn một bài để thấy hết vẻ đẹp thơ Lê Huy Mậu

NHẶT NHỚ CHẰM THƯƠNG

quán chiều tôi một mình tôi
lẻ loi như chiếc lá rơi vỉa hè
lá rơi từ cõi xum xuê
tôi từ đông đảo rơi về chính tôi !

tà dương đã tắt lâu rồi
hai hàng đèn thắp sục sôi phố người
tôi nghiêng hết cả ngày tôi
cho chiều tận cuối phương trời đừng nghiêng.

người như là giọt ưu phiền
tôi như là gã khờ ghiền đắng cay
người như là chén rượu đầy
tôi như là gã ăn mày yêu đương.

người như là một nỗi buồn
tôi như là bóng tịch dương cuối chiều
giọt mưa như sợi chỉ thêu
tôi ngồi nhặt nhớ chằm yêu thương người !

Thơ tình Lê Huy mậu chất ngất đam mê. Đam mê cả trong tâm tưởng và cháy bỏng cả nhục thể. Lê Huy Mậu không e dè khi nói về sex (Sex, Tiếng ve mùa hạ, Người dung, Đêm trăng non, Ru đêm, Yêu, Ngày không tên, …). Ở những bài thơ này, chất nam tính của Lê Huy Mậu tỏa ra mạnh mẽ, kèm với một sự bứt phá những ý thức cũ về sex (Tội lỗi đầu tiên).

Mình yêu nhau đi em!
Đất trời như đang xui mình thế!
Ta sống lại cái thời trẻ trung đầu Hạ
Thời yêu nhau không biết mệt bao giờ
Thời xa rồi nhưng ta vẫn hằng mơ
Thời lăn lóc, yêu… như … trời yêu đất! 

(Mùa yêu)

nhiều triệu năm sau
con người ơi
ta nên nói lời cám ơn con rắn
không có nó xui nàng Êva ăn trái cấm điạ đàng
thi hôm nay làm gi ta có cõi nhân gian!

Êva và Adam
ôi! lạy Chúa!
            (Tội lỗi đầu tiên)

Lê Huy mậu có nhiều cuộc tình trong thơ. Có cuộc tình lỡ làng khiến ông day dứt (Rét lộc), có người yêu trong xa thẳm mà nhà thơ vẫn đi tìm (Người đàn bà của tôi), người yêu trong mộng:

Người thiếu phụ ấy không có tên
Trong giấc mơ tôi thường vẫn gặp
Trong giấc mơ tôi thấy buồn thật đẹp
Và tôi yêu nỗi buồn ấy lắm nỗi buồn ơi!

                   (Yêu nỗi buồn ấy lắm nỗi buồn ơi)

tôi muốn hái vầng trăng tháng Hai
làm sính lễ cầu hôn em trong mộng
ánh mắt em buồn như vầng trăng lạnh
tôi đang đắm trong trăng hay trong mắt của em đây?

(Trăng lạnh)

Và tình yêu đơn phương, tình yêu không sao tới được. Tình yêu này trăn trở mãi trong thơ Lê Huy Mậu cả khi tóc nhà thơ đã nhuộm nắng mùa thu. Còn lại là ngậm ngùi (Sông một bờ, Về làng gặp lại người xưa, Thức tỉnh, Hai đầu nỗi nhớ, Nắng mùa thu…)

Chỉ một phút rụt rè mà vĩnh viễn khờ ơi!
Em đã ở bên kia bờ khao khát
Ta đã sang bên này bờ nuối tiếc
Trước em như đã trước chân trời

Từng huyễn hoặc ta chiến thắng được ta rồi
Đâu biết giờ cánh đồng lòng hoang mạc
Em vẫn đó nhưng làm sao tới được
Buổi chiều xưa má dậy gió heo may!

                   (Tỉnh thức)

 Cám ơn người cho cảm hứng làm thơ

            Cám ơn trái tim còn biết run rẩy

            Nói lời yêu thực ra nào có dễ

            Với những người đã tới khúc hạ lưu!

(Hai đầu nỗi nhớ)

 

Muốn gửi cho em một ít nắng vàng

            Làm quà tặng mùa thu xa ngái

            Nắng thì rộng thơ biết làm sao gói?

            Và tóc trên đầu đã gói hộ nắng-mùa-thu

(Nắng mùa thu)

 

  1. Thơ Lê Huy Mậu và thơ hôm nay

Trịnh Sơn viết:”Lê Huy Mậu ghé vai gánh vác dòng chảy của thi ca thời đại mình bằng sức chịu đựng của một lông hồng nương theo ngọn gió. Mật ước tạo nên gió. Gió vẽ thành Niết Bàn. Niết Bàn của thánh thần. Niết Bàn của con người. Niết Bàn của thơ.”Quả là những lời tuyệt bút về Lê Huy Mậu. Nhưng tôi ngờ rằng, đó chỉ là người trẻ “giữ lễ” với bậc trưởng thượng Lê Huy Mậu? và nhà thơ không bận tâm với những lời có cánh ấy, ông nhắc cho Trinh Sơn (Tr. 88, Từ muôn đến một) chân lý sáng tạo  này: Trịnh Sơn/ Mở trước mặt là một bài toán khó/ Mà hôm nay cuộc sống mới ra đề!

Tôi tự hỏi, làm sao “Lê Huy Mậu ghé vai gánh vác dòng chảy của thi ca thời đại mình” được? Bản thân nhà thơ chưa bao giờ tự nhận trách nhiệm này? Nói “gánh vác dòng chảy của thi ca thời đại” phải chăng Lê Huy Mậu là nhà thơ đầu đàn của thơ sau 1975 và thơ của ông mở ra dòng chảy mới (kiểu như Tố Hữu sau 1945). Muốn xác định điều này thì Viện Văn học phải có những công trình nghiên cứu công phu, không thể chỉ nó một lời hào nhoáng và sáo rỗng như Trịnh Sơn đã nói. Dòng chảy thơ ca Việt từ đổi mới (1986) đến đầu thế kỷ XXI ồ ạt những nỗ lực cách tân. Người ta nói nhiều đến Nguyễn Quang Thiều, Thanh Thảo, Ly Hoàng Ly, Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh. Mai Văn Phấn, Nguyễn Hữu Hồng Minh…Lê Huy mậu không bận tâm cách tân.

Thơ lê Huy Mậu nằm trong dòng thơ truyền thống. Ông hòa mình vào dòng chảy và làm phong phú hơn những truyền thống đã có (thơ về quê hương đất nước, về gia đình, đồng đội, thơ tình, thơ thế sự và thơ viễn du,…). Ông có những bài viết theo thi pháp thơ thời chống Mỹ (Khúc hát sông quê, Bóng làng, Ký ức chiến tranh, Nắng nóng Trường Sa, Trường Sa dây bí dây bầu, Ký ức làng…). Cũng có nhiều bài mà nguồn mạch chảy từ thơ cổ điển. Ông pha trộn truyền thống và hiện đại, hiện thực và lãng mạn (đã phân tích ở trên). Với ông: “…cái cần nhất và đơn giản nhất của thơ, theo tôi, là không phải đi tìm đâu cả… chính là, mỗi người làm thơ, cần viết ra cái mình thực có, cái do mình quan sát được. Bằng cách nào không quan trọng, mà quan trọng là điều viết ra đó có đáng cho người khác lưu tâm không mà thôi! Lê Huy Mậu nói rõ, ông khững lại trước các lý thuyết rối rắm.

Bỗng nghĩ về thơ ca

Về các lý thuyết rối rắm…

…Tôi-nhân danh một người đàn ông

Có lời xin lỗi

 

Một phần vì chiến tranh

Một phần vì cái gì rất vớ vẩn

Khi cửa khát khao mở tới cánh cuối cùng

Như một người mắc bệnh đàn ông

Bỗng khững lại!

Trước những quan niệm nhất thời còn ấu trĩ…

                           (Gửi Phố Nồng Nàn)

Võ Phương Thúy thì nhận xét:”Lê Huy Mậu có tài hùng biện, nhất là những lúc gần say. Rượu không quyết định những phát ngôn thẳng thắn của ông, người nghe có thể tìm được trong hơi thở ông có Sartre, có Heideger, có Marx, có Khổng, có Phạm Công Thiện,… Qua lăng kính của Lê Huy Mậu, mọi triết thuyết phải tan vào cuộc sống mới là triết thuyết hữu ích cho con người…, Đêm, tôi thường ở lại để gặm nhấm đêm cùng Lê Huy Mậu. Người thi sĩ cởi bỏ số phận, tắm táp dưới nước nôi ngữ ngôn và trở nên đẹp đẽ lạ thường. Đẹp từ tiếng gõ bàn phím nửa khuya. Đẹp từ dáng ngồi u trầm hướng về khung cửa sổ có cây sấu thi thoảng hoa. Đẹp từ tiếng mớ sảng ấm ớ vén giấc ngủ ngược ngày mới.”

Tôi không rõ Lê Huy Mậu có cảm giác thế nào khi đọc những lời ấy? (dù tác giả có nói chân thành chăng nữa thì tôi cũng chỉ thấy những vỏ chữ.) Cứ theo tác giả Võ Phương Thúy thì Lê Huy Mậu là nhà thơ tư tưởng có tầm vóc lớn, vì “trong hơi thở ông có Sartre, có Heidegger, có Marx, có Khổng”, và vì thế, vẻ đẹp thơ Lê Huy Mậu là vẻ đẹp tư tưởng: ”Người thi sĩ cởi bỏ số phận, tắm táp dưới nước nôi ngữ ngôn và trở nên đẹp đẽ lạ thường

Đọc thơ Lê Huy Mậu, tôi không thấy bóng dáng một hệ triết học nào như Võ Phương Thúy nói. Chẳng thấy đâu bóng dáng của Sartre, Heideger, Marx, hay Khổng tử. Lê Huy Mậu có suy nghĩ về cái chết, về hạnh phúc, về cõi đời phù du, nhưng đó chỉ là những suy nghĩ theo lẽ thường tình…Tư tưởng phương Tây không có trong ý thức sáng tạo của Lê Huy Mậu. Sang Pháp, ông đâu có “buồn nôn”(La Nausée) như J.P.Sartre, mà ông quan tâm đến Pétain và René Descartes. Ở Đức, đối thoại với E.Kant (Im-ma-nu-el Kant), ông ao ước Việt Nam cũng có những triết gia “đẩy lùi quá khứ vào bóng tối, tỏa sáng tương lai” mà không nhắc đến “Hữu thể và thời gian”(Sein und Zeit) của Heidegger hay Tư bản luận của K. Marx. Cũng vậy, Lê Huy Mậu không quan tâm đến triết học phương Đông. Sang Trung Quốc, đến Tây Hồ ông nhớ Bạch Cư Dị, Mạnh Hạo Nhiên, Tô Đông Pha (Tây Hồ), mà không nhớ Khổng Tử. Sang Ấn Độ, ông hoài nghi cả Đức Phật (Sông Hằng): Đức Phật từ bi sao dưới chân Người vẫn trầm luân khổ ải? / Sông Hằng buồn một cách vĩ đại giữa lòng tôi”. Nói “trong hơi thở ông có Sartre, có Heideger, có Marx, có Khổng” là không hiểu Lê Huy Mậu (?).

Xin đọc

Cùng nắm tay nhau đi trên con đường dẫn tới cái chết
Con đường duy nhất và tất yếu của mọi hành trình!

Hạnh phúc và niềm vui thực ra đơn giản lắm!
Khi ta thức dậy với buổi sáng yên lành trong tiếng chim ca

Riêng sự có mặt của ta dưới ánh mặt trời đã là hạnh phúc!

(Bài ca cuộc sống)

Đã bao giờ anh tự hỏi anh đâu
Lời lãi cuộc đời mình đâu ấy nhỉ?
Gió phù du thổi bạc tóc trên đầu

(Khúc hạ lưu)

Và biết đâu đời sống trong giấc mơ mới là đời sống thực.! Còn đời sống nhôm nhoam lẫn lộn trắng đen, tốt xấu, đục trong, thiện ác mà ta đang sống đây chỉ là cơn ác mộng sẽ qua mau!

Rồi ta sẽ trở về với cái ta vô hình đích thực.

                      (Giấc mơ-thơ văn xuôi)


So với hai một là một nửa

So với vô cùng ta lại bằng không

Khà một tiếng rồi thăng vào vô tận

Nào! Các lão Hồ Đồ có vương chút thi nhân!

                        (Một và không)

Dẫu biết rồi tất cả sẽ hư không

Mọi được mất đúng sai hóa trò đùa hết thảy

Ta sống vì cái gì ấy nhỉ

Vô ngôn chuông chùa thỉnh bờ đêm

(Tản mạn trước bờ đêm)

Khép ván thiên
Nghĩa là ta đã tới
Cõi thiên thu với giấc thiên thu
Ta là bụi, là không gì cả
Ngồi sau hương ta mới ngộ ra rằng

                      (Trước thu)

Nếu nói về hệ tư tưởng triết học trong thơ Lê Huy Mậu, người đọc nhận ra thấp thoáng cái nhìn theo kinh Vô Ngã tướng (ANATTALAKKHANA SUTTA) của Phật. Đời là vô thường, vô ngã. Tất cả là hư không. Và đôi khi, ông có tiếp cận một chút với Hiện sinh khi nhận ra “hiện sinh là hiện sinh quy tử” (Being-toward-Death): “Cùng nắm tay nhau đi trên con đường dẫn tới cái chết/ Con đường duy nhất và tất yếu của mọi hành trình!

 

Nhưng Lê Huy Mậu vượt qua Phật và vượt qua hiện sinh. Ông không để mình bị trầm luân trong cái khổ, và đánh mất mình trong cáo “không”. Lúc ông “thăng vào vô tận” thì Hiện sinh đã bị ông bỏ lại phía sau. Ông là nhà thơ mang cốt cách phương Đông.

Khà một tiếng rồi thăng vào vô tận

Nào! Các lão Hồ Đồ có vương chút thi nhân!

 Xin chia sẻ

Tôi đã đọc bài viết về Lê Huy Mậu của các nhà thơ, nhà văn Nguyễn Trọng Tạo, Văn Công Hùng, Nguyễn Hiệp, Trần Hoàng Vy, Trần Quang Quý, Khôi Vũ; của các bạn văn Trịnh Sơn, Nguyễn Thanh Xuân, Nguyễn Lâm Cúc, Võ Phương Thúy, Văn Đình Hùng, Văn Thành lê, Vương Tâm… Lê Huy Mậu thật hạnh phúc khi trong cõi nhân gian này có được nhiều bạn văn chia sẻ như vậy.

Những bạn bè bùn đất xưa kia
Giờ thành những lão già thành phố
Gặp nhau mừng mừng rỡ rỡ
Uống rượu Tây nói chuyện thuở chăn bò!

                       (Nhà quê giữa phố)

Đọc thơ của ông, tôi lạc vào một khu vườn mà nẻo đường nào cũng đầy ắp cảm xúc và nghĩ suy. Những bài như Khúc hát sông quê, Khúc hạ lưu, Lý nhà quê, Bài ca đánh dậm, Tháng Hai, Ký ức làng… làm cho ông nổi tiếng và được nhiều người yêu mến, vì ông nói được cái tình quê sâu nặng với đất quê, người quê trong lòng người Việt. Thơ thế sự của ông là tiếng nói trách nhiệm của người cầm bút trước hiện thực đất nước. Đúng như ông nhận xét: ”Đất nước có mười lăm ngàn nhà báo. Ngót một ngàn nhà văn/ Sao tôi chỉ thấy một hai trong số đó”dám nói thật lòng mình như ông. Tôi tâm đắc câu thơ này của ông: “Tôi muốn nghe một lời thề chém đá/ như tổ tiên xưa trước họa xâm lăng”. Và các nhà thơ ơi, hãy cùng ông Bỗng muốn hét một câu thơ tuẫn tiết/ Đánh thức cơn buồn ngủ Nước Non tôi!”. Rất tiếc trong mảng thơ này, chất suy nghĩ thế sự lấn át chất thơ. Nhiều bài không phải là thơ. Lê Huy Mậu trong thơ tình và thơ lãng mạn có cốt cách thi nhân phóng khoáng. Đó là sự dung dị tài hoa của Bạch Cư Dị, của Nguyễn Bính, chất tài tử của Nguyễn Công Trứ, sự thâm trầm của Nguyễn Khuyến, và có cả mùi thơm của sông quê, đất quê nữa. Thơ “tư tưởng” của ông, là sự ‘vượt qua” hiện sinh bằng chứng ngộ về sự tồn tại của chính mình trong cõi đời này.

Khi ta thức dậy với buổi sáng yên lành trong tiếng chim ca
Riêng sự có mặt của ta dưới ánh mặt trời đã là hạnh phúc!

(Bài ca cuộc sống)

Không dễ nhà thơ hôm nay có được cốt cách này của Lê Huy Mậu:

Trưa một mình với vắng với bao la
Với cây chưa quen với hoa chưa biết
Trên đỉnh núi ngồi giải lao giữa tết
Gió ngàn năm bào nhẵn đá trải mời

Ngửa mặt lên thanh sạch là trời
Ngỡ chỉ thiếu áo thiền và râu bạc
Là mình về với Phật
Giữa ngày xuân.

(Ngày xuân lên núi)

Tháng 8. 2016

 

____________________________

Ghi chú:

(*) Thơ Lê Huy Mậu từ các nguồn:

http://lehuymau.vnweblogs.com/

http://lehuymau.blogspot.com

http://www.thivien.net/L%C3%AA-Huy-M%E1%BA%ADu/author-u5QmspbRl8YgxoCbxtXm5Q

https://www.facebook.com/lehuymau?fref=ts