NAM KỲ ĐIẠ PHẬN-Bài 3-“CHO DANH CHA CẢ SÁNG”

Bạn có thể đọc các bài viết chính của Bùi Công Thuấn theo link:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

NAM KỲ ĐỊA PHẬN-Bài III, “Cho danh Cha cả sáng”.

Bùi Công Thuấn

Bạn có thể tải bản full theo link:

https://www.mediafire.com/file/js0s2wjfdj19v5z/NK%C4%90P-B%C3%A0i+3-CHO+DANH+CHA+C%E1%BA%A2+S%C3%81NG.pdf/file

***

Tuần báo Nam Kỳ Địa Phận đề ra mục tiêu: “Vì lòng ái mộ cho danh Cha cả sáng, cùng ước ao cho con nhà An Nam ta mọi nơi đâu đó đều đua nhau tấn tài tấn đức, cho thông phần đạo và ngoan việc đời…” (Bổn quán kỉnh cáo, số 01, năm 1908)[[1]]. Nói bằng ngôn ngữ hôm nay, đó là thực hiện nhiệm vụ loan báo Tin Mừng. Tính chuyên nghiệp của tờ báo thể hiện ở việc tập trung bài viết về nhiệm vụ này để đạt mục đích “cho danh Cha cả sáng”.

Nam Kỳ Địa phận  đã thực hiện nhiều thể loại báo chí. Bạn có thể đọc: “Châu tri Đức Giám mục địa phận Sài Gòn”-Communication de l’Évêché (thông báo của Tòa Giám mục); “Thơ chung Đức Giáo Tông”, “Thơ chung mùa Chay cả” của các Đức Giám mục, “Thơ mục vụ” (Lettre Pastorale); “Lời Thánh kinh”, “Êvang Chúa nhựt”, “Thánh kinh lược gẫm”, “Tìm đạo chánh là đàng phước thật”, “Sấm ký chơn tích”, “Sự tích Chúa Cứu Thế”, “Đạo lý”, “Hạnh các thánh”, “Sự tích phép lạ”, “Những gương lành”, “Sự tích các cha đã qua đời”, “Sách phần mới”, Sách phần cho trẻ em”, “Lời an ủi”, “Gốc tích sự đạo nước Nam”; “Hội thánh Việt Nam”,Việc giảng đạo tiên khởi nước Nam”…

Xin tìm hiểu từng chủ đề.

I. COMMUNICATION DE L’ÉVÊCHÉ

            Đây gần như là phần thường xuyên của tờ báo. Có năm, số thông tin khá nhiều. Năm 1924 có 30 bản tin; năm 1929 có 41 bản tin; Năm 1935 có 21 bản tin, năm 1942 có 45 bản tin. Phần này đã đề cập đến trong bài viết: “Nam Kỳ Địa PhậnBài II: Tân thư, Thời sự”[[2]] (xin chỉ nhắc sơ lược ở đây)

            Xin đọc:

COMMUNICATION DE L’ÉVÊCHÉ

(Năm 1914. Số 311, tr. 817)

“Đức cha Luciano đi dưỡng bịnh bên quê nhà, tại nước Langsa, đã gần được một năm. Nay nhơn dịp mãn năm 1914, cùng sang qua năm mới, thì Đức cha gửi lời kính các Linh mục và thăm các bổn đạo Địa phận Nam Kỳ.

Đức cha gửi lời thương nhớ cùng chúc cho các Linh mục và các bổn đạo hết thảy đặng mọi sự lành năm mới.

            Đức cha tính chừng ít ngày nữa thì sẽ đi Rôma, mà viếng Tòa thánh. Đức cha hứa khi gặp Đức thánh Phapha mới lên quờn là Đức Giáo Tông Bênêđictô XV, thì sẽ xin Đức Giáo Tông chúc lành cho các Linh mục và các bổn đạo Nam Kỳ.

            Đức cha cũng xin các Linh mục và các bổn đạo cầu nguyện cho Đức cha đặng mạnh, mà về cùng đoàn chiên yêu dấu.”

***

 THƠ RÔMA

(NKĐP số: 1205, ngày 23 Juin 1932, tr. 369)

S. congregation de la Propagande

Rome le 12 Novembre 1931

A Son Excellence Monseigneur Isodore Dumortier, Vicaire Apostolique de Saigon

Trọng kính Đức cha

            Theo tờ Đức cha tỏ bày mọi việc trong năm và theo sổ Đức cha gởi, thì tôi tỏ thấy Đức cha và các đấng sốt sắng phụ giúp Đức cha đã nhờ ơn Chúa phù hộ mà gặt được những trái tốt lành thanh quí trót cả năm và năm mới qua. Có lẽ hẳn mà trông sang năm số bổn đạo trong Địa phận Đức cha sẽ tăng tới 100.000 người.

            Nhứt thiết đáng khen đông số các người Nhà Phước và Tây và Nam, vì chăm lo giúp kẻ liệt lào trong các nhà thương, và tận tình cần mẫn trong mấy việc yêu người trong địa phận đã nhiều và lại đang phấn chấn.

            Lại tôi cũng mừng vì thấy lập thêm những họ đạo mới, có chỗ là bởi nhờ lòng rộng rãi người quờn quới trong bổn đạo phụ giúp, cho nên Thánh Bộ Tấn Giáo nầy biết ơn kẻ ấy mọi đàng.

            Nhứt là đáng khen sự quan Docteur Nguyễn Văn Phát trở lại cách rỡ ràng; tôi gởi ban phép lành riêng cho quan ấy, trông nhờ gương ngài và lời ngài giảng dụ sẽ làm cho nhiều người khác trong anh em đồng bang ngài đặng mà theo Đạo thánh ta.

            Tôi đã tâu lại cho Đức Thánh Cha hay: thầy cả bổn quốc Ignatio Thích đã làm lễ chánh tế Ngũ tuần. Đức Thánh Cha đã tỏ lòng phụ từ chính tay Người cầm bút tả câu chúc ban phép lành cho ngài; tôi xin Đức cha trao lại bửu tích ấy cho ngài, và nói Thánh Bộ Tấn Giáo nầy gởi lời chúc mừng ngài.

            Tôi ban phép lành cho Đức cha và các kẻ phụ giúp Đức cha cùng bổn đạo Đức cha nữa.

                                                                                                            Nay kính

                                                                                                G. M. Card. V. Rossum

                                                                                                            Hội trưởng

                                                                                                Côrôlô Salotti

                                                                                                Tổng Giám mục Philippopoli

                                                                                                            Thơ ký

II.THƠ CHUNG

            “Thơ chung” là thơ của Đức Giám mục gửi cho giáo dân, thường là “Thơ chung mùa Chay cả”.

Hầu như năm nào Nam Kỳ Địa Phận cũng đăng “Thơ chung”. Năm 1924 có 3 Thơ chung đăng trên 6 số báo. Năm 1929 có 5 Thơ chung đăng trên 13 số báo; năm 1931 có 5 Thơ chung (cả thơ Mục vụ) đăng trên 16 số báo; năm 1932 có 3 Thơ chung: Thơ mùa Chay (tr. 67), Thơ chung Đức Giáo Tông Pio XI về phép hôn phối (các trang 83, 99, 115, 131, 147, 163, 179),…

            Các “Thơ chung” có giá trị đặc biệt về giáo dục đức tin, dạy dỗ giáo luật, uốn nắn nhận thức tư tưởng cho bổn đạo trước những vấn đề thực tại mà người Công giáo phải đối mặt. Ngôn ngữ “Thơ chung” là ngôn ngữ của “Đấng thẩm quyền” (ngôn ngữ có quyền lực), giáo dân buộc phải lắng nghe và thực hiện. Các vấn đề xã hội được nhận thức và lý giải dưới ánh sáng Tin Mừng, ánh sáng Thần học và Triết học; đó cũng là quan điểm xã hội của Rôma. Thí dụ, vấn đề hôn nhân, vấn đề chiến tranh, vấn đề lao động, các học thuyết tư tưởng xã hội đương thời…

            “Thơ chung” nâng tầm nhận thức của giáo dân đối với những vấn đề lớn của Giáo hội toàn cầu mà người dân quê ngày xưa, sinh hoạt trong cộng đồng là xã, chưa có điều kiện tiếp cận; đồng thời trang bị cho họ cái nhìn Thần học và quan điểm của Giáo hội (thí dụ, xin đọc Thơ chung của Giám mục Cassaigne năm 1945)

Xin đọc: Thơ chung vào mùa chay cả năm 1914. (NKĐP số 266. tr.66): (trích)

            “…Nhơn vì những lẽ ấy, Ta nguyện kêu danh Đ.C.T. mà nhắc lại cho anh em những điều sau nầy:

  1. Luật buộc giáo hữu phải xem lễ mỗi ngày Chúa nhựt và bốn ngày lễ cả sau nầy: Lễ Sinh Nhựt Đ.C.G. Lễ Đ.C.G thăng thiên, Lễ Đ.C. Bà mông triệu thăng thiên và Lễ các thánh Nam Nữ.
  2. Các giáo hữu nam nữ đã đến tuổi khôn, phải xưng tội một năm ít là một lần. – Lại phải lấy lòng tôn kính sốt sắng mà rước Mình Thánh Chúa một năm ít là một lần, trong mùa Phục sinh. Trong địa phận ta, mùa Phục Sinh kể từ ngày lễ Tro cho đến Lễ Đ.C.T. Ba Ngôi.
  3. Các bổn đạo đã đến tuổi ăn chay, nghĩa là 21 tuổi trọn, bằng chẳng có lẽ riêng mà được phép cha giải tội hay là thầy bổn sở chuẩn, thì phải ăn chay mỗi ngày thứ sáu trong mùa Chay cả, ngày thứ tư Tuần thánh và ngày áp lễ Sinh nhựt Đ.C.G.
  4. Các giáo hữu nam nữ đã đến tuổi khôn, phải kiêng thịt các ngày thứ sáu trong năm, mỗi ngày thứ tư và thứ sáu trong mùa Chay cả, ngày áp lễ Đ.C.T.T. hiện xuống và áp Lễ Đ.C. Bà mông triệu.
  5. Trót cả mùa chay, chẳng nên dùng cá với thịt trong một bữa cơm; các thứ tôm tép, các giống sò ốc cua vọp, cũng chẳng nên ăn lộn với thịt trong mùa Chay.
  6. Theo phép chuẩn Đ. G. Tông đã ban, thì bổn đạo Địa phận ta khỏi mấy ngày kiệng thịt và chay lòng khác, và khỏi nhiều điệu nhặt nhiệm Hội thánh dạy phải giữ trong mùa Chay cả. Song Tòa thánh khuyên kẻ dùng phép chuẩn ấy, phải bố thí cho vừa sức mình mà thế lại. Của bố thí ấy, các Linh mục bổn sở sẽ gởi cho ta, để giúp việc lành trong Địa phận theo ý Bề trên phân định.
  7. Những ngày kiêng thịt và chay lòng trong mùa Chay cả, dầu khi lót lòng tối, thì cũng nên dùng trứng gà trứng vịt và các thứ sữa.

Phải đọc Thơ Chung nầy trong các nhà thờ lớn nhỏ Địa phận Ta, từ ngày Chúa nhựt Năm Mươi về sau. Thường phân ra mà đọc, cùng cắt nghĩa nhiều lần trong mủa Chay cả.

Ta đã làm Thơ nầy tại Sài Gòn ngày lễ đặt tên Đ.C.G. mồng 1 Janvier năm 1914, và đã ký tên cùng đồng ấn Ta nữa.

                                                                                           Victo-Carôlô,

                                                                              Giám mục Laranda ký

***

THƯ CHUNG MÙA CHAY CẢ năm 1945

(NKĐP số 1849, ngày 1er Mars 1945. Tr.58)

***

Đức thầy Gioan Cassaigne

Bởi ơn Đức Chúa Trời và quyền Tòa thánh,

làm Giám mục Gadara và thay mặt Đức Giáo Tông

mà cai trị Địa phận Saigon

gởi lời thăm cùng chúc bình an và sự lành

cho hàng Đạo đức và Giáo hữu địa phận Ta.

Ớ anh em rất yêu dấu,

Nạn chiến tranh hiện thời ngày càng lan rộng, hóa thành một tai họa lớn lao thới quá, bao trùm thế giới trong cảnh tang khó, gieo rắc khắp nơi nỗi hồi hộp âu lo và chất chồng các sự đau thương trên loài người. Đứng trước hoàn cảnh như vậy, lương tâm người Công giáo chúng tôi bắt nghĩ đến vấn đề sự dữ ở thế gian nầy: Đức Chúa Trời lòng lành vô cùng sao để dồn dập những tai nạn khốn khó dường ấy?

Khắp hết mọi nơi trên đất, dưới biển, cho đến trên không trung đã thành bãi chiến trường, hằng có tiếng than van của con người kêu đến Thiên Chúa. Hằng triệu chiến sĩ phải sống ghê rợn, chực cấu xé giết hại lẫn nhau chẳng nguôi. Rồi bao nhiêu thành thị, xóm làng phải thiêu hủy vì cơn bão bùng bom đạn khòi lửa rùn rợn nầy. Lương dân phải tàn sát bởi nạn phi cơ dội bom, những đám đông đặc người kéo đi tìm nơi lánh nạn, trong các gia đình phải chịu túng cùng đói khát, biệt tin biệt tức các kẻ thân yêu, áy náy lo sợ những việc xảy ra mà mình chưa rõ, lại thêm một dòng dõi mới những trẻ mồ côi vì chiến tranh.

Giữa những sự khốn nạn cả thể dường ấy, không lạ gì cái tiếng kêu đến Chúa: “Lạy Chúa, nhơn sao Chúa để chúng tôi phải khổ sở đỗi nầy!”. – Có khi tiếng than van thế ấy có giọng lộng ngôn: “Nếu Đức Chúa Trời nhơn lành, ắt Chúa chẳng để có bây nhiêu nỗi khốn nạn thế nầy.”. – Mà nếu hồ nghi về lòng lành Đức Chúa Trời, tất là hồ nghi không có Đức Chúa Trời. Vì chưng nếu Đức Chúa Trời chẳng phải trọn lành, thì chẳng còn phải là Đức Chúa Trời. – Phái vô thần lợi dụng tình cảnh rủn chí nầy mà cao rao rằng: tai nạn chiến tranh làm chứng chẳng có Thiên Chúa bảo tồn vạn vật, vì rằng: “Nếu có Đức Chúa Trời, ắt Chúa chẳng để loài người tai ương đến thế”.

Phải đáp giải thế nào?

            (Xin đọc tiếp ở phần Phụ lục phía dưới)

***

III. LỜI THÁNH KINH, THÁNH KINH LƯỢC GẪM, LỜI EVANG CHÚA NHẬT

Lời Thánh Kinh, Thánh Kinh lược gẫmLời Evang Chúa nhật là những bài giảng Kinh thánh các thánh lễ Chúa nhật và lễ trọng quanh năm. Những bài viết ấy, trong thực tế, là bài giảng lễ của Linh mục.

Ngày xưa, Linh mục dâng lễ âm thầm bằng tiếng Latinh. Giáo dân hoàn toàn không hiểu Linh mục đọc những gì, ý nghĩa ra sao. Chỉ khi giảng lễ, Linh mục kể tóm lược đoạn Thánh Kinh của ngày lễ hôm ấy, rồi giảng giải những chỗ cần thiết, từ đó rút ra ý nghĩa nhận thức và hành động cho giáo dân để củng cố đức tin và hướng dẫn sống đạo. Những bài giảng lễ vừa là “loan báo Tin Mừng”, vừa kết nối tín hữu toàn cầu trong một đức tin (Kinh Tin kính), bởi vì trong ngày Chúa nhật hay ngày lễ, các Linh mục cùng dâng lễ và cùng cử hành phụng vụ Lời Chúa thống nhất theo Roma. Sự khác biệt trong các bài giảng lễ chỉ ở phần hướng dẫn sống đạo. Linh mục tùy theo đối tượng giáo dân mà dạy dỗ điều này điều kia.

Ngày nay đọc những bài này của Nam Kỳ Địa Phận, người đọc sẽ thấy tác giả không trích lại nguyên văn đoạn Kinh thánh, mà chỉ thuật lại gián tiếp, rồi rút ra bài học. Nội dung những bài viết này tuy có khác với hôm nay song, những điều căn bản về Thần học, về đức tin, về lời dạy của mẹ Giáo hội thì không khác biệt, bởi đó là chân lý Giáo hội đã khẳng định

Lời Thánh Kinh của Mátthêu Đức kéo dài từ 1909 đến 1915, sau đó  tiếp tục 2 năm nữa (1918, 1919). Mỗi năm đều theo sát các Chúa nhật và các ngày lễ lớn. Thánh kinh lược gẫm xuất hiện năm 1929, có 34 bài. Năm 1941 có Lời Evang Chúa nhựt của Lm J. Kiểu (Huế), 47 bài. Năm 1942 có Thánh kinh, Chúa nhựt, lễ cả (cũng của Lm. J.Kiểu) trong cả năm

Xin đọc:

LỜI KINH THÁNH

Chúa nhựt sáu mươi

(NKĐP năm 1910, số 61, tr. 33)

Khi Đức Chúa Giê su thấy dân sự tụ hội đông đắn mà nghe người giảng dạy, thì người đã phán thí dụ về kẻ gieo giống, mà có phần thì sa xuống dọc đàng, có phần thì sa xuống trên đá sỏi, có phần thì sa xuống trên bụi gai, có phần thì sa xuống trên đất tốt. Môn đệ Người nghe vậy mà chẳng hiểu, nên khi lũ dân đã lui về, thì mới hỏi Người ví dụ ấy là gì, ý chỉ làm sao.

Ta phải noi gương các Môn đệ Chúa, trước là ham nghe lời Chúa phán dạy, sau là suy xét lời ấy cho đặng hiểu tỏ ý chỉ mà ghi tạc vào lòng hầu nắm giữ. Mà khi có đều gì kín nhiệm ta không hiểu rõ thì ta hãy khiêm nhường mà hỏi cho hản: hỏi Hội thánh, hỏi các thánh Sư, hỏi kẻ thay mặt Chúa mà dạy dỗ ta về phần hồn; chớ khá lấy ý riêng mà cắt nghĩa trái theo trí mọn mình, kẻo phải lầm lạc như như các quân lạc đạo bấy lâu nay.

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

Lạy Đức Chúa Giêgiu, xin Chúa dạy dỗ tôi, xin Chúa giúp tôi cho đặng lòng chăm chỉ mà nghe hiểu lời Chúa và giữ vững, hầu cho Chúa chữa tôi cho lành đã mọi tật linh hồn. Xin Chúa mở con mắt tôi ra, cho tôi đặng tỏ thấy mọi điều tốt lành kín nhiệm trong luật điều Chúa. Tôi đã nắm giữ mọi lời Chúa truyền: xin chớ để tôi phải thẹn. Xin cho hột giống lời Chúa sa vào linh hồn tôi, mà mọc lên mạnh mẽ và trổ sinh đầy dẫy trái trăng cho xứng công ơn Chúa.

Mátthêu Đức

***

            Xin đọc:

CHÚA NHỰT THỨ XV SAU LỄ HIỆN XUỐNG

(NKĐP số 498, năm thứ 10 (1918). Tr. 531)

Bài của NKĐP

***

Theo Lời Evang ông thánh Luca – VII, 11

Đ. C. G cho con bà góa ở thành Naim sống lại.

I. Hết thảy ta đều phải chết. Vốn Chúa dựng loài người ta có ý để cho sống đời đời, song bởi tội nên ta phải chết…dầu vậy, Chúa còn lòng lành; ví bằng ta thờ phượng Chúa, nhờ công nghiệp Chúa chuộc tội thì sau ta sẽ đặng phước đời đời. – Chắc ta sẽ chết là sự tỏ tường chẳng ai hồ nghi đặng. – Chắc khi chết ta sẽ bỏ hết mọi sự: của cải, quờn chức, và mọi sự ta yêu chuộng, khi sống chẳng muốn lìa, mà giờ chết phải bỏ hết…

II. Ta ăn ở dường như chẳng khi nào sẽ chết. Ấy là ta chẳng biết lo cho đặng chết lành. – Chẳng muốn nhớ tới, suy tới sự chết, kẻo phải bỏ tội, bỏ sự phù vân sang trọng giả trá. – Biết chết là sự rất cay đắng, vì giờ ấy sẽ thấy cả đời mình những làm sự vô ích hại mình; song bây giờ cũng chẳng lo cải quá. – Biết chết là sẽ qua một kiếp khác rất can hệ, song chẳng khi nào xét cùng lo đến.

III. Mạng số ta có phước hay là vô phước thì một lần mà thôi, chẳng hề đổi đặng. Hễ ta sống lành thì chết đoạn sẽ đặng thưởng. – Khi sống có lo thờ phượng Chúa nên thì chết đoạn sẽ về với Chúa; bằng khi sống theo thế gian tội lỗi, thì chết đoạn phải về tay ma quỷ, sẽ phải sa địa ngục chịu phạt vô cùng. – Có Chúa dựng nên trời đất cùng loài người và mọi sự cho loài người ta dùng, lại thấy phép Chúa dạy mọi người phải chết chẳng ai lánh đặng; lẽ nào chẳng có Chúa mà thưởng phạt ta ngày sau. Vậy ở đời có một sự cần là lo thở phượng Chúa cho ngày sau khi chết đoạn đặng lên thiên đàng hưởng phước vô cùng.

***

IV. SẤM KÝ CHƠN TÍCH, SỰ TÍCH CHÚA CỨU THẾ, GIÊSU KIRIXITÔ LÀ AI

Sấm ký chơn tích thuật lại câu chuyện của Cựu Ước, khởi đăng từ số 330 năm 1915 (Quyển chi nhứt) đến số 1350 năm 1935 (Quyển phụ thêm). Sấm ký chơn tích kéo dài 20 năm. Truyện bắt đầu từ thời Adong, Noe; giai đoạn dân Hêbrêu ở bên Êgyptô: Ông Giacóp và ông Gioseph; giai đọan 40 năm ở trong rừng: ông Moyse. Quyển thứ VIII: Ông Giêđêon và ông Samson; vua Saul, vua thánh Đavit. Quyển thứ X: vua Salomon; Quyển phụ thêm: vua Herode …

Mátthêu Đức không dịch sát từng câu của Cựu Ước. Ông kể chuyện Cựu Ước theo cách tổng hợp: kể chuyện kết hợp bình luận. Ông cũng không ghi nguồn nên không rõ những nội dung ông thuật lại là từ nguốn sách nào của Giáo hội.

Điều đáng ghi nhận là Nam Kỳ Địa Phận tạo cơ hội để giáo dân Việt Nam được tiếp cận với Cựu Ước, trở về cội nguồn loài người, vũ trụ, tiếp cận một nguồn văn chương, văn hóa mới lạ từ phương tây.

Xin đọc một đoạn: (NKĐP Năm 1915, số 330)

                                                Quyển chi nhứt

                                                NGƯƠN THỈ

                                         Ông Adong và ông Noe

                                                            I

                                  THIÊN QUỐC THẦN TRIỀU

Thuở đầu hết khi chưa dựng nên vật gì, thì có một mình Đức Chúa Trời mà thôi. Người là tự hữu hằng có đời đời, vô thỉ vô chung, vô biên, vô lượng, là nguồn gồm cả sự có và sự sống. Người đã đặt cho mình một tên riêng, chẳng hề thông ra cho ai đặng, mà chỉ tỏ bổn chất Người: tên ấy là “Jéhova”, nghĩa là “Tao là đấng tự hữu”.

            Tuy rằng có một Đức Chúa Trời mà thôi, song Người có ba ngôi phân biện, là ngôi Cha, ngôi Con và ngôi Thánh Thần. Đức Chúa Cha chiêm nghiệm mình thì sinh ra Đức Chúa Con; bởi Cha và Con thương mến nhau, thì ra ngôi Thánh Thần. Ấy là sự mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi, ta phải thờ lạy, tôn kính, khen ngợi đời đời.

            Vậy từ đời đời Đức Chúa Trời chẳng có độc chiếc một mình, vì Người có ba ngôi, và ba ngôi hưởng sự vui mừng, vinh hiển, phước lộc làm một cùng nhau. Nhưng mà cho đặng tỏ ra phép tắc cùng sự khôn ngoan người và lòng người thương mến, thì người đã định dựng nên bề ngoài cho có trời đất, và trong hai chốn ấy thì dựng nên cho có muôn vàn vàn thú vật khác nhau, mà tò ra những sự trọn lành của người, tùy theo bổn tính mỗi vật, thứ nhiều, thứ ít, mặc đòi vật ấy giống hình ảnh người thế nào.

            Trên trời người dựng các Thần, nguyên linh tính như người; các Thần ấy ra một đạo binh vô số, nên Triều vua cả. Các Vì ấy chia ra làm ba phẩm, là những Vì chầu nơi tòa Chúa, những Vì áp tắc nước người, và những Vì khâm sai: hết thảy đều trung tín phụng lịnh Chúa mà làm những việc cao cả người ký cho. Trong phẩm thứ nhứt có ba hội, là các đấng Sêraphim, đặng say mến nơi nguồn thương yêu; các đấng Chêrubim hằng ngưởng vọng trông xem Sự Thật hằng có đời đời; và các đấng Troni, là Thần Ngai, lo truyền lại cho các Thần bề dưới hay mọi lịnh Chúa. Trong phẩm thứ hai cũng có ba hội, là các đấng Dominationes làm quan trên, các đấng Principatus làm quan phó, còn các đấng Potestates làm chức việc lo thi hành lịnh trên, và đuổi xua những đều cản trở. Phẩm thứ ba thọ mạng hai phẩm trên sai khiến. Cũng có ba hội: các đấng Virtutes nhưng luật tự nhiên mà làm những phép lạ; các đấng Archangêlô, là Tổng lãnh Thiên thần, làm thần sứ trong các việc đại sự, và các đấng Angêlô, là thiên thần vưng lịnh sai xuống cùng những vật tạo hóa bề dưới mà truyền rao ý Chúa, hay là giữ gìn những vật Chúa ký thác cho.

            Ấy là chín hội linh thần Đức Chúa Trời đã dựng nên từ thuở ban sơ, cho đặng hát lời ca ngợi phong khen: “Thánh tai, Thánh tai, Thánh tai, Chúa là Chúa các đạo binh”

                                                                                                                        Mátthêu Đức

***

Loạt bài Sự Tích Chúa Cứu Thếkhởi đi từ năm 1920, số 593 (Phần thứ Nhứt-Chúa Hài nhi – Đoạn thứ nhứt: Sứ thần Gabriel hiện đến cùng Zacharia, tr.419), đến năm 1924 (Đoạn thứ IX: lòng lân mẫn và sự công bình, tr. 787). Tác giả là Antoine Phi(C.L.G.) thuật theo lối tổng hợp, không ghi nguồn.

Xin đọc trích đoạn:

Phần thứ nhứt-Chúa Hài nhi

Đoạn thứ bốn-

Việc xảy ra nơi hang đá Bethlléem

(NKĐP số 608, ngày 21 Octobre 1920, tr.657)

            Tháng 12 năm 749 ông Cyrinus là phó quan tổng đốc Sextius Saturninus, đến xứ Palestine, làm đổng lý việc kén sổ nhơn dân. Lịnh troàn cho bất luận nam phụ lão ấu đều phải khai tên, tuổi, gia tộc, sản nghiệp, điền viên. Lại nữa mỗi người, dầu kí ngụ nơi nào, cũng phải về khai danh tại thành tổ quán, vì là chính nơi giữ sổ tông chi, cho con cháu cứ tôn ti đẳng cấp mà đặng kế nghiệp tổ tiên.

            Đ C Bà và ông thánh Giude mắc vưng chiếu chỉ sau hết nầy, vì cả hai đều bởi dòng Juda, và là gia tộc vua Đavid, nên phải bỏ Nazareth, sang thành Bethléem là quê sanh quán thổ của ông mình. Bởi vậy hai Đấng Thánh liền thượng lộ đăng trình, mà khi đi tới dãy núi Juda, thì Đ C Bà gần đến ngày mãn nguyệt; Người lấy làm lạ cách Đ C T dìu dắc Người đến chỗ Đấng Cứu Thế phải sanh ra, và sự Chúa khiến cho hoàng đế ra chiếu chỉ cho các sắc nhơn dân chuyển dời, hầu một lời tiên tri dân Israel, phán đã bảy đời trước, được ứng nghiệm như lúc bây giờ.

            Hai Đấng Thánh đến thành Bethléem thì mòn sức, vì đã đi xa hai mươi hai dặm đàng. Tới nơi, thì mặt trời hòng chen lặn; ánh mặt trời giọi lại trên thành vua Đavid, thì thấy Bethléem như một vị nữ vương ngự trên đảnh núi, xung quanh có triền đất vui đẹp. đầy những vườn cây nho và cây Oliva. Ấy là thành Bethléem, nghĩa là “Nhà bánh”, là nơi sung thạnh mùa màng; Ephrata, nghĩa là “hay sinh sản”, là xứ dễ nuôi những đoàn chiên dê. Phía trên cao đó là chỗ bà Noémi ở xưa khi lúc cơn cần làm cho người xiêu lưu đến Moab; ruộng nọ là của ông Booz, chỗ xưa bà Ruth về dòng Moab đã mót lúa quân gặt bỏ rơi; cánh đồng gần đó là nơi thuở trước ông Đavid chăn giữ bầy chiên, hồi thánh tiên tri sai kiếm người về mà xức dầu phong vương dân Israel. Khi bước chơn đến quí địa nầy, hai Đấng Thánh nhìn xem phong cảnh tứ phía, bèn nhớ lại dòng dõi gia thất mình. Lại khắp nơi thành thị, cả dãy núi non: nhà nhà đều nghe tiếng nói về tổ tiên xưa, nhứt là về vua thánh David vì chưng nó là miêu dệ người.

            Song thương thay! Hai Đấng Thánh cũng là nhành vàng lá bạc, dòng dõi thánh vương; mà đời đó có ai biết Đức Nữ Maria là ai, và ông Giude là người nào? Vào thành rồi, không có một ai là người tri thức, hai Đấng Thánh phải bơ vơ tất tưởi giữa những người bởi tứ phía hiệp đến mà khai danh. Phần thì đêm hôm mộ dạ, phần thì lạ lùng, hai Đấng Thánh gõ các cửa nhà, xin cho đỗ nhờ, mà không ai đoái đến. Những người thành Bethléem mắc tiếp rước bà con bạn hữu, lại thấy hai Đấng Thánh bộ bần hàn, thì cũng đem lòng khinh bỉ, không cho chỗ trú. Vì vậy Đ C Bà và ông thánh Giude đi lên hàng quán, nơi mấy người hàng lộ quen nương ngụ, mà cũng luống công; khách bộ hành cùng vật chở chuyên ở đã chật trong ngoài, không thể cho hai Đấng vào ở được.” (còn tiếp).

***

            Loạt bài Giêsu Kirixitô là ai của Jacques Lê Văn Đứckhởi đăng từ năm 1936 (số 1415, ngày 13 Aout, tr. 597), đến năm 1940.  Ông đặt vấn đề:

“Giêsu Kirixitô là ai?

            “Xem vào mặt sử, khoản biên ký về lai lịch dân Giudêu, khúc nói đến đạo Công giáo thuở đầu tiên, thời ta đặng nhàn lãm một bửu danh rất có cảm giác và lai vận, biệt hiệu Giêsu Kirixitô, là Đấng có phần nhiệm tối đại trong sử dân Giudêu, tắt rằng: chính người là chủ động cùng nền tảng môn đạo Công giáo chúc; song đó chẳng qua là việc lược biên trong sử, đây ta cũng nên quan sát coi Giêsu Kirixitô là ai? Đối với tâm sự riêng; cách thực hành ngoài xã hội; Đuốc triến bộ, nền vĩnh viễn; chủng tộc cùng tiên tri thời người ra thể nào.”

            Sau đó Jacques Lê Văn Đức đã “luận” về Giêsu Kirixitô ở các nội dung: Giêsu Kirixitô “Đối với tâm sự riêng; cách thực hành ngoài xã hội; Đuốc triến bộ, nền vĩnh viễn; chủng tộc cùng tiên tri thời người ra thể nào.”

Đây là luận bàn của cá nhân tác giả dựa trên “chứng kiến nơi miệng Giêsu Kirixitô làm bằng mà luận về Người. Đối với các Tông đồ và Môn đệ, với đám dân cùng hạng thượng lưu đầu mục Giêsu Kirixitô tự xưng mình là con Đức Chúa Trời thật” (số 1415, tr. 599).

Xin đọc một đoạn tác giả “luận”:

“Lần nọ người thấy trong các môn đệ có kẻ chưa vững lòng tin Người là Con Đức Chúa Trời, thì Người phán tỏ rằng: “Vì đã quá lòng yêu dấu thế gian nên Đức Chúa Cha đã phú Con một mình cho nó…ai tin Người thì sẽ khỏi khốn, bằng ai chẳng tin vì danh Con Người thì phải án phạt đời đời.” (Gioan III, 16, 8).

Đó là bấy nhiêu lời tuyên thệ cho ta rõ Người thật là Con Đức Chúa Trời. Người ở trong Đức Chúa Cha và Đức Chúa Cha ở trong Người, ai thấy Người ấy thật là thấy Đức Chúa Cha chúc.”

Như vậy loạt bài “Giêsu Kirixitô là ai” của Jacques Lê Văn Đức là một hình thức giảng Kinh thánh theo chủ đề, khác với hình thức giảng từng đoạn Kinh thánh trong các bài giảng lễ của linh mục. Phần “luận” của tác giả chưa có gì sâu sắc, nếu không nói có chỗ lập luận, dùng từ diễn đạt còn “chông chênh, không ổn”, nhất là về Thần học.

Xin đọc: “Vậy đây Giêsu Kirixitô tự xưng là Con Đức Chúa Trời, thời việc ấy ý nghĩa rất sâu xa tối đại và công dụng lắm…song đều nói mà nghe, hễ chức càng cao thì gánh càng nặng, mang danh hiệu Đức Chúa Trời, thì nghe oai thật, song oai chừng nào càng thêm khó khăn chừng nấy; toàn mọi việc phải có quy tắc, quyền hiệp oai phép Đấng chí linh vô chung vô thỉ, đến cái chết, cái mộ cũng phải nên triệu chứng rằng mình là Đức Chúa Trời thật nữa. Câu chuyện lằng xằng thế, người phàm nhơn có thực hành đặng không nhỉ?” (NKĐP số 1416, ngày 20.8.1936. tr. 617)

***

V. NHỮNG NỘI DUNG GIÁO DỤC PHONG PHÚ

Trong 37 năm, Nam Kỳ Địa Phận có nhiều chương trình giáo dục tôn giáo phong phú về hình thức. Đó là các loại bài: Hạnh tích các thành, những bài nói đạo lý, sách Giáo lý (sách phần) mới, sách giáo lý cho trẻ con và lịch sử Giáo hội Việt Nam.

  1. HẠNH TÍCH CÁC THÁNH

Hạnh tích các thánh là các bài nêu gương sống đạo của các thánh tử đạo, các

thánh đạo hạnh, các Giám mục, Linh mục đạo đức có công với Giáo hội. Bài viết là sự biểu dương, nêu gương nhân đức các cá nhân sống đức tin để làm mẫu mực cho giáo dân. Các bài viết như vậy cũng phản ánh sức sống mãnh liệt của Giáo hội ở mọi nơi, mọi thời. Dù hoàn cảnh có khó khăn thế nào, Giáo hội luôn có những Mục tử theo Chúa, dấn thân loan báo Tin Mừng, gắn bó với đoàn chiên.

Xin đơn cử: Năm 1910, Nam Kỳ Địa Phận đăng các bài:

Sự tích cha Clément Tranier (Tân Triều, tr.569)

Phép lạ Đức Chúa Bà tại Lourdes. (tr.603, 651)

Sự tích cha bề trên Janin (J Kinh, tr.664)

Hạnh cha Carôlô Thu (Th Thi, tr.701, 718)

Sự tích cha Giacôbê Bùi Kỷ Lập qua đời (P.N. tr.103)

Năm 1913, loạt bài Tích cụ Sáu (Lm Trần Lục), của Joseph-đăng trong 13 số báo. “Cụ Sáu phò giúp nhà nước Langsa Đại pháp bảo hộ và triều Annam(Số 216, tr.121)

Các nhân vật được viết nhiều:       

            Truyện ông thánh Inagtio Giám mục tử đạo (Lagi, năm 1923, tr.139)

            Á thánh Têrêsa Giêsu Hài đồng (Mátthêu Đức, đăng 52 số báo 1924)

            Hạnh tích Đức Giám mục tiên khởi nước Nam (An Phang, đăng 31 số báo. 1930)

            27 vị tử đạo họ Ba Giồng (1932)

            Á thánh Catarina Labouré. (Đăng 20 số báo 1933)

            Vị Thừa sai cùi (1941)…

2.ĐẠO LÝ

(Các mục: Thánh giáo vấn đápĐạo lý-Lời an ủi)

Mục Đạo lý ( Thánh giáo vấn đáp) giải đáp các lẽ đạo. Mục này có từ

những số báo đầu tiên đến số cuối. Nhờ các mục này, Báo Nam Kỳ Địa Phận tương tác trực tiếp với độc giả về những vần đề sống đạo.

            Thí dụ:

            Năm 1910 có các bài tiêu biểu: Nghĩa ba chữ J H S; Có địa ngục không? Trị tội nói hành; Thiên đàng vui không?

            Năm 1914: Thánh giáo vấn đáp có các bài: Lề luật Hội thánh; Bảy mối tội đầu; Hà tiện, tham của; Dâm dục; Ghen ghét, phân bì; Mê ăn uống

            Năm 1924: bài Người giàu có kẻ khó khăn cũng lên thiên đàng; Xem lễ Misa có ích là dường nào…

            Năm 1934 có bài: Người có đạo phải giữ đức công bình; Phải năng xét mình…

            ***

            LỜI AN ỦI

            Đây là Tiểu dẫn của mục “Lời an ủi” (NKĐP số 1326, 15 Novembre 1934, tr.707):

            “Ở đời nhiều nỗi gian nan buồn rầu vì phần xác phần hồn, ai ai cũng cần dùng lời khuyên lơn an ủi cho khỏi ngã lòng. Thứ nhứt là con nhà có đạo, nhờ lời giảng dạy, nhờ các sách gẫm mới được vững bền, mới được lòng mạnh mẽ, có sức mà chống cự với sự nguy hiểm cực khổ thế gian, đặng giữ đạo Chúa bền đỗ.

            Nay anh em chúng tôi, dầu chẳng tài năng, không văn chương thông thái, song dám liều mình ra công chịu khó, chung cùng với nhau mà viết ra đây những lời quý báu gặp trong bài giảng và các sách gẫm, chia ra từ khoản.

            Chữ nghĩa chúng tôi đơn sơ thô kịch, xin chư vị miễn chấp, miễn là lấy ý nghiã đem vào lòng vào trí, hầu suy đi xét lại, để mà nhớ mà gẫm thiêng liêng, đặng có sự hữu ích cho linh hồn mà thôi.

            Chớ chi mỗi ngày chúng ta đọc năm bảy câu, rồi đem vào lòng, rán mà giữ những lời châu báu ấy cho cẩn thận, thì bao nhiêu sự ấy sẽ giúp cho ta có sức mà chống cự với cơn gian nan ở đời tạm nầy, và đặng vững bền mà theo chơn Chúa cho đến cùng”

  1. M. D. G

Năm 1935 đăng Lời an ủi trong 35 số báo. Xin đọc:

26. – Gẫm Evang: “Lời nói hành bay ra xa tứ phía cũng như lông gà ở trên đảnh núi liện xuống…” (số 1333)

27. – Người ta ghét mình, thì là hữu ích cho mình, hơn là người ta thương. Vì

Chúa dùng người ta mà làm cho ta lập công nghiệp (số 1333)

3. SÁCH PHẦN MỚI – SÁCH PHẦN CHO TRẺ EM

Sách Phần Mới của tác giả Paul Nguyễn Quang Minh, Linh mục địa phận

 Saigon. Bài khởi đăng từ năm 1937 (số 1454, ngày 20 Mai 1937. tr. 320) đến năm 1943 (hơn 261 số báo). Ngày nay Sách phần được gọi là sách Giáo lý dành cho trẻ và các tân tòng học đạo.

Tác giả giải thích:

            “Sách phần là sách gì? Theo nghĩa rộng Sách phần là sách Thánh kinh, là lời truyền, là sách lý đoán, trong đó gồm đủ hết mọi điều chơn thật phải biết phải tin, mọi việc phải làm phải lánh, các phương pháp phải dùng cho đặng làm lành lánh dữ…

            Theo nghĩa hẹp…Sách phần là sách lượm lặt quy góp tóm lại những đều đại cái trong đạo, làm thành ra một bổn, để dạy dỗ chỉ vẽ, cho các trẻ đồng nhi nam nữ, biết đàng thờ phượng Chúa, biết lo việc rỗi linh hồn mình…” (NKĐP số 1455, ngày 27 Mai 1937, tr. 336).

            Nội dung Sách phần được sọan theo dạng hỏi đáp

            Thí dụ:

            “H. – Cha mẹ không lo cho con cái đi học, đi nghe dạy sách phần, thì có tội không?

            T. – Nếu nó chưa rước lễ trọng thể, thì phải lo cho nó tới trường học hành nghe dạy nghe dỗ, bằng nó rước lễ trọng thể rồi, ra trường rổi, thì phải lo cho nó đi nghe dạy sách phần mỗi chiều Chúa nhựt. Nếu cha mẹ bỏ trôi việc nầy, thì mắc lỗi và không đặng xưng tội chịu lễ…” (NKĐP số 1456, ngày 3 Juin 1937, tr.352)

            SÁCH PHẦN CHO TRẺ CON khởi đi từ số 1720 (năm 1942) được soan như một “giáo án” dạy học cho trẻ con ngày nay, có phần đọc, phần giảng, phần thực hành, phần việc của thầy giảng, việc luyện tập của trẻ (xin đọc NKĐP số 1722 ngày 12 Aout 1942, tr.399)

***

4. GỐC TÍCH SỰ ĐẠO NƯỚC NAM

Loạt bài về lịch sửđạo Công giáo ở Việt Nam gồm: Gốc tích sự đạo nước Nam của Phê rô Nghĩa (Di Loan), khởi đăng từ số 922 (Ngày 9 Décembre 1926, tr. 758); Hội Thánh Việt Nam Toàn Lập (khởi tại Phát Diệm) của Mátthêu Đức, khởi đăng từ năm 1933 (số 1279, tr. 740) đến 1941; Lịch sử địa phận Phát Diệm (năm 1933, tr. 88); các Hội dòng (dòng Anh em hèn mọn, dòng Chúa Cứu Thế, dòng Phước Sơn); các họ đạo (Gốc tích họ An Hiệp và vinh quy (năm 1935, tr.203, 219), họ Hương Thủy (năm 1935, tr.538), Họ Tân Yên (Cao Lãnh-năm 1935, tr.774) họ Nhơn Mỹ (năm 1935, tr. 88), Nhà thờ Chánh tòa Saigon (năm 1941, tr.528)…

Những bài này vừa cung cấp kiến thức lịch sử đạo Công giáo ở Việt Nam đến lịch sử giáo phận, giáo họ; vừa góp phần giáo dục đức tin, giáo dục truyền thống tôn giáo. Ngày nay, đó là những tài liệu quý để tìm hiểu lịch sử Giáo hội Việt Nam. Các nhà viết lịch sử Giáo hội không thể không tham khảo những thông tin của Nam Kỳ Đụa Phận.

Chẳng hạn trong bài Gốc tích sự đạo nước Nam Phê rô Nghĩa cho rằng cố Busomi là người khai khẩn đạo Đàng Trong. Năm 1615, Busomi từ Mả Cao sang Đàng Trong. Đến năm 1624 có thêm cố Alexandre de Rhodes sang. Busomi đã ở đất Đàng Trong 24 năm. Năm 1639 thì lui về thành Mả Cao. Số giáo dân Đàng Trong lúc đó là 1.200 người. Phêrô Nghĩa cho biết khi kể gốc tích đạo, ông căn cứ vào chính sử Annam: “Song muốn cho rõ ràng dễ hiểu thì tôi phải dựa vào Sử ký Nam triều mà kể lại mọi đều theo các đời vương đế; lại dùng cách nói đơn sơ tầm thường, ý cạn lời quê, xin độc giả vui tình chiếu nghĩ” (NKĐP số 922, ngày 9 De1cembre 1926, tr.758). Rất tiếc ông không ghi nguồn.

Mở đầu loạt bài Hội Thánh Việt Nam Tòan Lập (khởi tại Phát Diệm), tác giả Mátthêu Đức viết: “Có một thầy giảng đạo trong nước Annam, đời thứ XVI chép rằng: Ông thánh Tôma đã sang giảng đạo nước Annam, mà nhà vua giữ đạo bốn đời, đến đời vua thứ năm mới bỏ đạo, song không dám phá thánh giá các tiên đế đã dựng trong đền, thì truyền xây tường cho khuất đi, kẻo còn thấy mà phải áy náy trong lòng. Cha Ordonez de Cevallos cứ theo lời truyền khẩu mà chép vậy, không biết lấy đâu làm bằng được….

Đang đời nầy nhà Lê cai trị Đàng Ngoài. Năm 1523, nước Búttughê sai quan Duarte Coelho sang qua Annam, làm tờ giao kết cùng vua. Song việc không thành. Dầu vậy quan ấy muốn để tích làm chứng, đời ấy đã có người có đạo thấu đến nước Annam, nên đã đậu tàu lại nơi cù lao Chàm, kêu là Poulo Champeilo, mà dựng một bia đá lớn đã chạm hình thánh giá, có khắc bốn chữ I N R I, đề số năm 1523 và sáu chữ tắt chỉ tên ông Duarte Coelho.” (Tác giả không ghi nguồn).

Việc đúng sai thế nào về sử liệu của các bài viết trên xin dành cho các nhà sử học đánh giá. Chúng tôi chỉ ghi nhận rằng, Nam Kỳ Địa Phận đã đi những bước đầu trong việc chép sử về gốc tích đạo ở Việt Nam và lịch sử Giáo hội Việt Nam. Mục đích của tờ báo là giúp giáo dân hiểu biết về lịch sử truyền giáo ở đất nước mình, gia tăng lòng tin đạo, lòng mến các vị mục tử và kết nối hiện tại với truyền thống giữ đạo của cha ông.

TẠM KẾT

            Do không có đầy đủ số báo của tất cả các năm, việc nhìn nhận những giá trị của Nam Kỳ Địa Phận không tránh khỏi thiếu sót và phiến diện. Song với chiều dài 37 năm cùng với sự phong phú của các kiểu bài viết, Nam Kỳ Địa Phận đã tự khẳng định là một tờ báo tôn giáo hết sức chuyên nghiệp. Tờ báo đã góp phần phổ biến Kinh thánh (Cựu Ước và Tân Ước), góp phần xây dựng việc sống đạo cho giáo dân qua gương hạnh tích các thánh, qua cuộc đời của các Đấng bậc thánh thiện; qua việc phổ biến “Sách phần” cho trẻ con và người lớn, qua Thánh giáo vấn đáp (Đạo lý); đồng thời giúp giáo dân cùng tham gia vào dòng chảy lịch sử của Giáo hội (các loạt bài về gốc tích đạoLịch sử hội thánh).

            Tất nhiên ngày nay, việc dịch Kinh thánh (Cựu Ước, Tân Ước), việc biên soạn những cuốn Lịch sử đạo Công giáo ở Việt Nam, việc soạn những sách giáo lý cho trẻ (Sách phần), Giáo lý tân tòng, Giáo lý hôn nhân, các sách Suy niệm Lời Chúa…đã đạt được những thành tựu đáng kể; từ đây, nhìn lại những nỗ lực của Nam Kỳ Địa Phận trong việc loan báo Tin Mừng, trong việc chăm sóc chu tất đời sống tinh thần của giáo dân đầu thế kỷ XX, chúng ta mới thấy được giá trị lịch sử rất quý giá của Nam Kỳ Địa Phận.

Tháng 4/2024

______________________________________________

PHỤ LỤC

THƯ CHUNG MÙA CHAY CẢ năm 1945

(NKĐP số 1849 ngày 1er Mars 1945, tr.58)

***

Đức thầy Gioan Cassaigne

Bởi ơn Đức Chúa Trời và quyền Tòa thánh,

làm Giám mục Gadara và thay mặt Đức Giáo Tông

mà cai trị Địa phận Saigon

gởi lời thăm cùng chúc bình an và sự lành

cho hàng Đạo đức và Giáo hữu địa phận Ta.

Ớ anh em rất yêu dấu,

Nạn chiến tranh hiện thời ngày càng lan rộng, hóa thành một tai họa lớn lao thới quá, bao trùm thế giới trong cảnh tang khó, gieo rắc khắp nơi nỗi hồi hộp âu lo và chất chồng các sự đau thương trên loài người. Đứng trước hoàn cảnh như vậy, lương tâm người Công giáo chúng tôi bắt nghĩ đến vấn đề sự dữ ở thế gian nầy: Đức Chúa Trời lòng lành vô cùng sao để dồn dập những tai nạn khốn khó dường ấy?

Khắp hết mọi nơi trên đất, dưới biển, cho đến trên không trung đã thành bãi chiết trường, hằng có tiếng than van của con người kêu đến Thiên Chúa. Hằng triệu chiến sĩ phải sống ghê rợn, chực cấu xé giết hại lẫn nhau chẳng nguôi. Rồi bao nhiêu thành thị, xóm làng phải thiêu hủy vì cơn bão bùng bom đạn khòi lửa rùn rợn nầy. Lương dân phải tàn sát bởi nạn phi cơ dội bom, những đám đông đặc người kéo đi tìm nơi lánh nạn, trong các gia đình phải chịu túng cùng đói khát, biệt tin biệt tức các kẻ thân yêu, áy náy lo sợ những việc xảy ra mà mình chưa rõ, lại thêm một dòng dõi mới những trẻ mồ côi vì chiến tranh.

Giữa những sự khốn nạn cả thể dường ấy, không lạ gì cái tiếng kêu đến Chúa: “Lạy Chúa, nhơn sao Chúa để chúng tôi phải khổ sở đỗi nầy!”. – Có khi tiếng than van thế ấy có giọng lộng ngôn: “Nếu Đức Chúa Trời nhơn lành, ắt Chúa chẳng để có bây nhiêu nỗi khốn nạn thế nầy.”. – Mà nếu hồ nghi về lòng lành Đức Chúa Trời, tất là hồ nghi không có Đức Chúa Trời. Vì chưng nếu Đức Chúa Trời chẳng phải trọn lành, thì chẳng còn phải là Đức Chúa Trời. – Phái vô thần lợi dụng tình cảnh rủn chí nầy mà cao rao rằng: tai nạn chiến tranh làm chứng chẳng có Thiên Chúa bảo tồn vạn vật, vì rằng: “Nếu có Đức Chúa Trời, ắt Chúa chẳng để loài người tai ương đến thế”.

Phải đáp giải thế nào?

Ta hãy bình tĩnh mà phân giải vấn đề. Cho dầu chúng ta có năn nỉ than van, chúng ta hãy còn nghĩ tưởng theo lẽ đức tin. Nếu gian nan làm cho ta bất bình, nếu đau khổ làm cho ta bối rối là tại vì ta tin thế gian nầy có một Đấng phép tắc lòng lành điều khiển đưa nó đến hạnh phúc, song phải trải qua những nẻo mà trí khôn yếu đuối chúng ta chẳng hiểu đặng và tính cảm xúc chúng ta lấy làm khổ sở.

Chúng ta hãy dò xét các nẻo đàng ấy với những tâm tình xứng đáng; nghĩa là trí khôn phải khiêm nhường trước mặt Đấng cao cả vô cùng, bởi nhìn biết mình không thể hiểu thấu lẽ mầu nhiệm Người, tâm lòng phải sẵng sàng vâng phục, mặc dầu phải hy sinh, cho đặng theo ý định của Chúa cả ta phải chịu lụy mọi đàng.

Ở vào một xó nhỏ mọn trong vũ trụ, những phương thế điều tra rất khiếm khuyết, với một trí khôn luôn luôn có lẽ sai lầm, làm sao ta dám đoán xét việc Đấng khôn ngoan vô cùng an bài sắp đặt?

Người đời không phép cật vấn Thiên Chúa. Ta chớ buộc Chúa cắt nghĩa cho ta. Song người giáo hữu phải gối quỳ thờ lạy thánh ý cao cả Chúa, cho dầu mình chưa hiểu được, và cầu xin Chúa lòng lành ban ơn soi sáng cho mình suy xét việc Chúa làm cách phải lẽ hơn. Đoạn kẻ ấy chỗi dậy, linh hồn đặng bình tĩnh hơn, đặng trông cậy hơn nơi lẽ đức tin soi sáng chỉ dẫn cho mình giữa đêm mịt mờ đáng sợ thế ấy, và cứ một lòng kính mến kêu đến danh thánh Cha cả ngự trên trời là Đấng mình hằng trông cậy chẳng khuây.

Và nếu Đức Chúa Trời phải tranh luận với chúng ta theo thói người đời, ắt Chúa phản đối với thứ người trách móc Chúa, mà rằng: “Bay lấy làm bất bình vì ta không ngăn trở, để cho có chiến tranh. Song tại sao chính mình chúng bay lại để sinh chiến tranh?”.

Trách nhiệm của nạn chiến tranh không phải tại nơi Đức Chúa Trời, mà là tại bởi người đời tham lam chổm ố. Ta chớ tách Đức Chúa Trời bỏ ta; vì chính mình chúng ta bỏ Chúa, chê bỏ luật thánh Người.

Hết thảy mọi người chúng ta có lo cầu xin cho thế gian giữ sự hòa bình hay không? Trước cơn giặc khủng khiếp nầy, chẳng thiếu chi những điềm dữ bảo cho ta hay trước; các nước hồi ấy đã hiểu biết mình bước chơn trên mé vực thẳm. Lẽ thì chính trong thì thế nguy hiểm dường ấy, chúng ta phải kêu xin Đức Chúa Trời cứu chữa chúng ta, mà chúng ta có gắn vó kêu xin hay không? Rày cơn khốn khó đã đổ trên đầu chúng ta, thì chúng ta hãy nhìn lỗi mình, chớ đổ thừa cho Đức Chúa Trời.

Một câu vấn nạn nữa: Tại sao Thiên Chúa ban phép cho nhơn loại tác sinh sự khốn cho mình? – Thưa bởi vì Thiên Chúa đã ban cho chung ta một ơn trọng vọng để là mích cho chúng ta, mà chúng ta lại dung chẳng nên, nên phải khốn: Ấy là quyền tự do.

Đức Chúa Trời tín nhiệm nơi ta nên Người mới giao quyền chủ trương chúng ta trong tay ta. Vậy nếu ta lạc đường sai lối mà thiệt hại cho mình, thì chớ trách Đấng đã ban ơn trọng ấy cho ta. Chiến tranh là một trong những kết quả thảm hại bởi chúng ta dùng quyền tự do cách sai lẽ. Chính loài người tự ý cải lịnh Chúa, gây giặc với nhau chớ chẳng phải Đức Chúa Trời làm cho có gặc đâu. Ấy vậy có lẽ nào ta nên trách móc Đức Chúa Trời, vì danh dự Người đã ban cho chúng ta đặng quyền chủ trương lấy mình từ thuở mới sanh hay sao?

Người phát minh ra phi cơ đã chắp cho người ta một cặp cánh để tang thêm sức mạnh cả thể; song một trật cũng tăng số tai nạn làm cho nhiều người phải chết. Có phải vì đó mà chúng ta không nên biết ơn kẻ đã phát minh ra cái lợi khí ta dùng được mà vượt lên trên không trung vô hạn hay sao?

Lực lượng nào cũng có chỗ nguy hiểm. Quyền tự do là một lực lượng nưng nhắc loài người lên chỗ tối cao, cũng có cái hiểm nghèo. Nhưng mà vì phẩm gía con người, thà có quyền tự do hơn là chẳng có.

Còn một phương pháp khác để ngăn ngừa nạn chiến tranh cách xứng đáng, Đức Chúa Trời và loài người chung ta hơn: là truyền cho loài người một luật phong hóa: nếu thành tâm nắm giữ tất nhiên sẽ đặng cùng nhau thuận hòa và hạnh phúc. Ấy là cách thế Đấng Tạo hóa đã an bài. Chương trình ấy đã thảo ra trong mười giái răn Đức Chúa Trời và Bổn Phúc Âm đã làm cho nên trọn lành.

Chương trình gồm có mấy tiếng: “Mầy chớ giết người”, nghĩa là nếu chẳng có lẽ gì rất trọng, mầy chớ đổ máu anh em mầy. Mầy chẳng nên phạm đến máu những dân tộc cạnh tranh với dân tộc mầy; tay quân lính của mầy chẳng nên dùng gươm sát nhơn, trừ ra khi không còn phương thế nào khác để bắt đền bồi sự thiệt hại.

Mầy chớ nói dối”, nghĩa là khi mầy đã ký ước trọng thể mà nhìn nhận sự trung lập của một nước nào, hay là biên giới của một dân tộc nào, thì mầy chớ chối chữ ký của mầy, mà đi dùng võ lực băng ngang đất nước, hoặc đem binh vào chiếm nước ấy.

Mầy chớ lấy của người”, nghĩa là mầy chớ xâm lấn đất đai của lân bang, vì lẽ xứ ấy giàu có, còn mầy thì phải cảnh chật hẹp nơi xứ của mầy. Võ lực của mầy không làm được cho mầy có quyền lợi bao giờ đâu.

Đấng hằng có đời đời, Vua các dân thiên hạ đã phán dạy như vậy.

Đức Chúa Trời chẳng cho phép chiến tranh, Người cấm sự ấy. Giã như các nước thiên hạ vưng giữ giái răn Chúa, thì chẳng bao giờ sinh giặc với nhau.

Một huấn lịnh mới của Thiên Chúa là Tin Lành Phúc âm đã đến dạy loài người phải ăn ở với nhau như an hem để làm cho giái răn Chúa đã ra cho loài người phải kính nễ nhau, càng đặng vững chắc. Trước Đức Chúa Giêsu ra đời, nhân loại không nhìn biết nhau, hềm ghét nhau. Đấng Cứu Thế đã đến giảng dạy cho người đời biết mình là anh em với nhau, cả thẩy đã thọ lãnh linh hồn bởi một cha chung ở trên trời.

Phúc âm Chúa Cứu Thế dạy người đời sự hiền lành, nhơn từ, dong thứ, hy sinh, là những đức tính tốt lành và mạnh mẽ giúp cho nhân loại hòa nhã thảo thuận với nhau. Đời sống và sự chết của Chúa Cứu Thế đã nêu gương rõ ràng khuyến khích người đời bỏ quên sự sỉ nhục kẻ khác làm cho mình, sẵn lòng hy sinh mình vì lợi ích chung. Chúa đã nêu cao Thánh Giá Người giữa những sự bất thuận cãi lẫy của nhân loại, để nên dấu kêu mời ai nấy làm hòa lại với nhau, mà rằng: “Bay hãy thương yêu nhau như Ta đã thương yêu bay. Bay hãy thứ tha cho kẻ làm mất lòng bay, như Cha bay đã thứ tha cho bay”.

Ở giữa những nhân loại đang chia rẽ cạnh tranh. Hội thánh Chúa Kirixitô nên như một quê hương mới, ở đó mọi người đặng sống thuận hòa. Hội thánh là xã hội độc nhứt không phải bao bọc trong biên giới của một xứ nào; vì biên giới của Hội thánh bao gồm cả và thế gian, để nên nơi hội ngộ cho các dân thiên hạ, bất phân bờ cõi đất đai mỗi nước. Trong Hội thánh các kẻ thù nghịch nhớ lại mình cùng chung một căn nguyên, một vận mạng như nhau; cùng nhau đặng giục giã giữ đạo bở một Đấng làm đầu là Đức Giáo Hoàng, ở trên các quê hương riêng của mỗi người, làm trung tâm hành động giữ gìn cho đạo Công-giáo đặng hiệp nhứt, giảng hòa khi trong giáo có đếu cạnh tranh, cùng khuyên bảo ai nấy giữ đức hạnh và bác ái.

Không thể tưởng tượng được một công trình nào hoàn toàn hơn để hãm dẹp lần lần tính ích kỷ hung tợn là nguồn sinh ra chiến tranh.

Song le loài người chẳng biết khôn mà đồng tâm cộng tác với công trình vĩ đại ấy; có những tay ngông cuồng đã bứt đứt giây thân ái giữa các dân thiên hạ. Dầu vậy Thiên Chúa vẫn còn ruổi tìm con người đến tận trong nơi hỗn chiến và liệu cách làm cho sự khồn khó của con người còn được nên ích lợi cho nó. Ấy là triệu chứng tột cùng tỏ ra Đức Chúa Trời nhơn từ vô cùng, chẳng phải trách nhiệm nào về nạn chiến tranh.

Hàng triệu chiến sĩ can đảm phải tử trận. Nhưng cho dầu thảm não đến đâu, vì lòng nhơn lành Đức Chúa Trời, cái chết ấy đem lại cho các kẻ tử trận một sự lành còn cao trọng hơn sự sống. Đối với chúng ta là kẻ đang mến tiếc khóc than những người bạc phận ấy, xem ra câu nói trên cứng cỏi khó nghe, song le đối với các kẻ ấy, rày đã ở vào cõi đời đời, đặng thấy biết tỏ tường buổi sống vắn vỏi người đời còn nơi trần thế sánh chẳng vào đâu với cuộc sống vĩnh viễn an nhàn vô hạn trên thiên quấc, thì các kẻ ấy hiểu câu nói trên rất là chơn thật.

Chết già chẳng qua chết lành, nghĩa là chết sau khi đã làm trọn phận sự mình, sau khi đã lập công cho đáng Chúa cả ban thưởng phước thanh nhàn đời đời còn mãi. Đều can hệ chẳng phải là đặng sống thêm vài năm, song là làm cho mình đặng vững chắc sự sống thật đời sau.

Đức Chúa Giêsu phán rằng: có một sự cần kíp là đặng rỗi linh hồn. Không có chiến tranh, có khi nhiều chiến sĩ trận vong đã sống một cuộc đời vô vị về phong hóa, hư từ về tôn giáo, rồi kết cuộc một cách thậm thường, có lẽ xấu xa hơn nữa, làm cho tương lai đời đời của mình nên khả nghi. Nhờ chiến tranh, các người ấy đặng dịp làm việc hi sinh để bước lên phẩm cấp cao siêu. Mặc dầu các người ấy tự ý hiến thân cho quê hương một phen mà thôi khi lãnh lấy phận sự hiểm nguy, thì cả đời sống của các người ấy đã đặng hóa nên tốt đẹp và tương lai đời đời của các người ấy cũng vì đó mà đặng bảo đảm. Các kẻ ấy đặng liệt vào hạng anh hùng. Nhờ ơn Đức Chúa Trời giúp, các kẻ ấy sẽ đặng nhập tịch gia đình Các Thánh. Và người đời còn biết tán phục kính cẩn phần mộ các chiến sĩ tử trận, ắt là Thiên Chúa hay thương vô cùng càng ân cần ban ơn giúp sức các kẻ ấy, nơi giường chết, trong giây phút hấp hối. Giây phút đau thương mà vinh hiển, giây phút thần chết hành quyền mà sự sống thật cũng sấp sinh.

Chúng ta hãy cảm động mà nhìn nhận rằng: chiến tranh đã làm cho linh hồn người thế nên sang quới; chiến tranh ghê tởn làm cho xác thịt nát tan, mà cũng làm cho linh hồn vượt lên cao thượng: chiến tranh mà các người vợ các người mẹ nguyền rủa vì nó xé tan ái tình âu yếm của các kẻ ấy, nhưng các chiến sĩ tử trận vang hiển rày đã tái sanh chắc đang ca ngợi chiến tranh ấy trong những bài hát cảm tạ ơn Thiên Chúa, vì nhờ chiến tranh mà các người ấy đã vượt lên đến đảnh phước lạc vô biên và thánh thiện tinh toàn.

Phần chúng ta là kẻ còn sống, nào chúng ta chẳng nhờ ích lợi nào bởi cơn khốn khó nầy để giảm bớt những nỗi đau thương nặng nề hay sao?

Chịu khó đã là một ích lợi rồi. Phải thương hại cho con người chẳng hề chịu khó. Kẻ đó còn chỗ yếu nhược, nghĩa là còn phải vấn vương tình ích kỷ, mà chỉ có lưỡi gươm hi sinh chịu khó mới có thể dứt tuyệt những dây ràng buộc thể ấy. Gian nan là một tay thợ nhiệm mầu, một phen làm hoàn thành công việc mới cho ta rõ bí thuyết của nó. Một ngày kia ta sẽ hiểu rõ gian nan làm cho ta đặng sống, có khi ta sẽ nhìn nhận gian nan đã cần kíp cho ta.

Trước mặt Đức Chúa Trời là Đấng đã định cho máu đổ lụy rơi có giá trị chuộc tội, thì gian nan khốn khó ta chịu càng có công nghiệp hơn nữa. Đức Chúa Trời tỏ thấy chung tôi can đảm chịu khó để đền bồi tội lỗi chung tôi và cũng rõ thấy vô số người hi sinh mình để đền bồi thay kẻ có tội. Bây nhiêu công nghiệp đền bồi phạt tạ thế ấy làm cho Đức Chúa Trời thứ tha cho chúng tôi. Rồi sẽ có ngày phước lạc vui vẻ tiếp đến.

Vậy chúng tôi phải làm đí gì bây giờ. – Chúng tôi không suy nghĩ đã dám phàn nàn rằng: “Nếu có Đức Chúa Trời ắt chúng tôi sẽ chẳng phải khốn khó dường nầy”. Chúng tôi hãy trở ngược câu bất công ấy, mà rằng: “chúng tôi đã phải khốn khó dường nầy là tại chung tôi chẳng vưng theo Thánh ý Đức Chúa Trời.” Đức tin có sống lại trong lòng chúng tôi bao nhiêu thì sự gian nan khốn khó của chúng tôi mới đặng giảm bớt bấy nhiêu.

Nạn chiến tranh hiện thời tỏ ra rõ ràng: xã hội khốn nạn loài người chung tôi muốn cho khỏi phải võ lực áp bức thì phải lập nước Đức Chúa Trời trong lòng con cái mình và trong đời công của xã hội.

Con người thế kỷ XX nầy, tin cậy nơi sự tiến hóa bởi sức người phàm, tưởng mình đủ sức tự lập lấy xã hội cho mình. Học đường lập ra khắp nơi để giáo huấn, xem ra nhờ đó dân chúng đặng một nền phong hóa đủ cho cuộc trị an. Nước nọ giao thiệp về thương mại với nước kia, những ký ước quấc-tế, những hội nghị hòa-bình, một Hội vạn quốc, bấy nhiêu xem ra đã chữa các dân thiên hạ cho khỏi sở thích hãm hãi lẫn nhau. Nhưng bấy nhiêu công cuộc đều sập đổ. Vì chưng một nền văn minh chỉ chuyên lo về vật chất mà thôi, thì làm cho con người càng thêm mơ ước khoái lạc và bày thêm khí cụ cho loài người tranh đấu giết lát nhau mà thôi. Những sự tiến hóa về khoa học đã làm cho nhân loại suy sụp.

Thế gian cần phải có Đức Chúa Trời. Quyền tự do chính thật của các dân là cao rao nhìn nhận quyền phép tuyệt đối của Chúa cả trời đất, là Đấng một mình hủy diệt được những vua chúa thế gian lạm quyền áp chế.

Cho đặng chủ trị loài người, phải có một Chúa cả, Phép công bình chẳng phải là một quan niệm rỗng không, song phải là một ngôi Chúa tể phép tắc hơn loài người, mà loài người phải ràng buộc và suy phục Đấng ấy trong hết mọi việc mình làm, Phép công bình để điều khiển mọi hành vi chúng tôi và gìn giữ cho ai nấy thượng hòa hạ mục thể ấy, chúng tôi biết, chúng tôi gọi đích danh là Đức Chúa Trời hằng sống.

Khi sẽ yên giặc rồi, khi các dân sẽ buông khí giái, thì thiên hạ sẽ phải một hồi sửng sốt. Thấy la liệt bao nhiêu sự sụp đổ, bao nhiêu nấm mộ, thiên hạ sẽ tự hỏi mình lẽ nào có được như thế. Kẻ thắng cũng như kẻ thua, sẽ mau mau tìm nơi nương dựa cho hi vọng hòa-bình của mình xem chừng mỏng mảnh.

Bây giờ các dân thiên hạ phải tìm đến Đức Chúa Trời, xin Người chứng minh các đều mình thề hứa, ngõ nhờ tay phép tắc Người ban phép lành cho lòng ngay thật của mình chỉ mong cho tình huynh đệ đặng tái sanh ở thế giái nầy.

Ngày ấy nhân loại sẽ hết trách móc Thiên Chúa, mà lại sẽ đồng thanh ngợi khen Chúa nhân ái đã ban cho mình đặng hưởng phước Thái bình.

                        (Rút ở bài: “THIÊN CHÚA và CHIẾN TRANH”

                                                 Của cha Thellier de Poncheville)

                                                            ***


[1] Bùi Công Thuấn-Nam Kỳ Địa Phận-Bài I: Những định hướng khởi đầu

[2] Bùi Công Thuấn-Nam Kỳ Địa Phận-Bài II-Tân thư, Thởi sự

NAM KỲ ĐỊA PHẬN-Bài II-“TÂN VĂN”, “THỜI SỰ”-Bùi Công Thuấn

Bạn có thể đọc các bài viết chính của Bùi Công Thuấn theo link:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

NAM KỲ ĐỊA PHẬN – (Bài II) TÂN VĂN & THỜI SỰ

Bùi Công Thuấn

***

            Ở bài Nam Kỳ Địa Phận-Những định hướng khởi đầu [[1]], giới thiệu số báo đầu tiên của Nam Kỳ Địa Phận, tôi đã giới thiệu khái quát mục đích, nội dung và những giá trị chung của tờ báo, đồng thời cũng giới thiệu ý kiến đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu về những đóng góp của Nam Kỳ Địa Phận cho giáo hội Công giáo Việt Nam đương thời (1908-1945) và cho sự phát triển của báo chí Việt Nam đầu thế kỷ XX.

TÂN VĂN & THỜI SỰ

            Trong Nam Kỳ Địa Phận có mục “Tân Văn” và “Thời sự” đăng các “bản tin”.

Những năm đầu, Nam Kỳ Địa Phận có rất ít bản tin. Các bản tin có tính chất là những “chuyện lạ” thú vị. Tỷ lệ số báo có bản tin khoảng 30%:

Trong 10 số báo đầu, chỉ có 3 số có bản tin (số 4, số 8 và 9). Từ số báo 11 đến số 20 chỉ có 2 số báo có bản tin (số 11 và 14 có Văn Tín). Từ số báo 59 đến số 69 có 4 số có Tân Văn (65. 67. 68, 69).

Những năm về sau, khi thế chiến diễn ra; tình hình chính trị, quân sự ở Pháp có biến động, Nam Kỳ Địa Phận đăng nhiều bản tin hơn, nội dung “thời sự” cụ thể hơn. Chẳng hạn những tin về Nhà nước bảo hộ Pháp và nhà vua Annam (Khải Định, Bảo Đại)

Năm 1945 có thêm mục: “Xem qua các báo”, tức là đọc tin trên các báo khác (song Ban biên tập không ghi nguồn). Thí dụ số 1845 (ngày 1er Janvier 1945, tr.8), đăng lại tin của báo New-York Times về thế chiến II; và thêm mục “Thế giới thời đàm”, bàn chuyện thời sự thế thế chiến.

            Xin đọc một vài “Văn Tín”, “Tân Văn”, “Thời Đàm

                                                                        ***

            Xin đọc: năm 1909, số 11 (ngày 1er Février), tr.174

VĂN TÍN

CỌP DỮ. – Nghe tin tại Châu Pha, về hạt Bà Rịa từ hôm tháng Mai trước đến nay, cọp hằng đến phá phách xóm làng, làm cho ai nấy kinh tâm. Bắt bò, heo, chó vô hồi, mà may chưa dám động đến mạng con người. Dầu vậy lòng người người đã tán loạn, cũng cậy cùng Bổn Quán xin rao cho Quí Vị hay mà khẩn cầu cùng chi phương trị thú dữ.

RỦI. – Cách mấy bữa rày tại hạt Vĩnh Long có người báo tin rằng: nhà nọ có một đứa con nhỏ, bởi hơ hỏng chẳng ai coi, để nó xuống xuồng mà chơi, rủi lật xuồng chết mất. Bởi mình ơ hờ nên phải mất con thương tiếc! Ai có con xin gìn giữ.

ƠN LẠ. – Nguyễn Hữu Nghi ở Cái Mơng tuần trước có gởi thơ cho Bổn Quán mà thuật truyện về một đứa nhỏ đặng ơn Đức Mẹ cứu khỏi chết đuối. Xin kể dón lại:

            Tại họ nhỏ kia tên là Rạch Bà Chủ, có tên giáp Lễ có một đứa con bốn tuổi, xuống chơi bên mé sông, rủi té xuống, nước trôi tống đi. Chừng hay mất, ai nấy tưởng nó đã đi đời rồi. Song người mẹ ngoan đạo có lòng kính mến Đức Mẹ, bèn hết lòng cậy trông kêu xin Người. Bà con chạy kiếm táo tác, sau hết gặp nó nổi phê phê, trôi theo dòng nước. Coi lại thì trôi đã ba bốn công đất rồi. Vớt lên thấy như thường, không phải nao. – Ấy ai kính mến cậy trông Đức Mẹ, thì Người hết lòng hộ vực, chẳng lựa là phải đi tìm phép lạ phương xa. Đâu cũng là một Đức Mẹ có tài có phép và có lòng khoan nhơn, ta hãy hết dạ cậy tin kính mến người.        (Bản tin không có tác giả)

            Xin đọc: năm 1909: số 14 (Ngày 25 Février), tr. 219.        

VĂN TÍN

(Ghi chú: các đề mục bản tin đều viết chữ in hoa.)

QUAN LỚN. – Quan Nguyên soái Nam Kỳ A. Bonhoure đã qua đời, nhơn dân thương tiếc; nay ông Gourbeil lên thế. Ta hãy nguyện xin cho người đặng an trị.

THƯƠNG TIẾC. – Hôm cha Ackermann là cha sở Đất Đỏ đổi đi Vĩnh Long, thì trong họ buồn bực thương tiếc không biết chừng nào, đã gửi đến Bổn Quán một bài đưa cha, song không thể ấn hành đặng, cực chẳng đã phải để qua. Trong bài ấy nói nhiều lời thiết yếu, chỉ bổn đạo Đất Đỏ thật hết lòng thương mến cha.

CỦA GỞI VỀ THIÊN ĐÀNG. – Bố Mua là một họ khó khăn ở trên rừng, đại tiểu nhơn số có 500, mà có lòng sốt sắng, đồng tâm hiệp lực mà lập đặng một nhà thờ rất xứng đáng. Bổn đạo họ nầy hết lòng vâng thuận ý bề trên mà làm cho sáng danh Chúa, nên đã làm cho lòng đấng chăn chiên đặng hoan hỷ, quên những sự lao khổ khó nhọc. Bồn Quán chúc khen cùng xin Chúa trả công cho kẻ chăn và đoàn chiên.

KIẾM TIỀN XÀI TẾT. – Hôm tối 28 tháng chạp, ăn trộm đục vách nhà lầu cha sở, Cha Võ hạt Trà Vinh. Cha sở nghe dựt mình thức dậy, tưởng người ta kêu đi kẻ liệt. Ăn trộm nghe cha thức dậy đi trên lầu, thì sợ cha xuống mà làm phước cho nó, bèn kiếm đàng phóng đi. – Có phước cho hai đàng.

CẦU KHO. – Gần nhà thờ có tiệm bán đồ vật dụng, nhứt là trử bánh dầu.

                                     (Bản tin không có tên  tác giả)

***           

            Năm 1915 có nhiều bản tin về chiến tranh:

            –Lễ cầu cho Nhà nước tại họ Long Hưng hạt SaĐéc (Le 3 Décembre 1914), [số 312, tr.10]

            –Nhà nước thông tri-tin về giặc giã (từ ngày 22 tới ngày 29 Décembre 1914), [số 312, tr.15]

            –Nhà thờ thành Reims bị quân giặc phá [số 313, tr. 21]

            –Alêmang nói chuyện (thư của tù binh Đức) [số 313, tr 24]

            –Bốn trăm lính bịnh A Lê Măng bị hỏa thiêu (lính Đức)[ số 215, tr. 58]

Xin đọc: năm 1920, Số 567, tr.4

                                                Địa phận Văn tín:

            -Đức cha Mossard sẽ đi qua Tây trong đầu tháng Janvier đây, có cha SI (P.Sion) đi nữa. Đức Cha đi sớm đặng có chịu quan thầy mổ lấy cái vảy cá trong con mắt ra trước khi sang thành Roma thăm Đức Giáo Tông.

            -Cha Đượm (P. Dumortier) đã đi ra ngoài Dalat hôm thứ bảy trước; xe lửa cha đi bữa đó dọc đàng đụng nhằm một xe đá, làm xe lửa phải hư nhiều, phải đổi xe khác, nên trễ hết 6 giờ. Mà may nhờ ơn Chúa không ai phải hại.

            ***

Xin đọc: năm 1924, số 774(17 Janvier), tr. 38.

TÂN VĂN (Nouvelles religieuses)

Rome. – Khi Đức thánh Phapha hay đặng cái bờ đê lớn nơi hồ Gleno, xứ Bergame, bị sập nước tràn ra linh láng ngập nhiều hại ruộng nương, vườn tược, nhà cửa dân sự xứ ấy, lại thêm vài trăm người phải vong mạng, Đức Giáo Hoàng cảm thương kẻ mắc cơn rủi ro tai nàn, liền gửi cho Đức cha thành Bergame 25.000 quan tiền Italie (lires) và Đức cha thành Brescia 15.000 quan tiền mà trợ cấp những người lâm cơn hoạn nạn túng ngắt.

***

Xin đọc: năm 1930. Số 1122 (13 Novembre 1930), tr. 713

Thời sự

            Hồng mao. – Nạn thất nghiệp

            Hiện thời, cái vấn đề thất nghiệp tại nước Anh, nổi lên gay go lắm, chánh phủ lao động Mac Donal không tài nào giải quyết nổi. Vì vấn đề ấy không phải thuộc về chính sách của một đảng phái, mà lại thành ra một việc lo chung của mọi người trong nước.

            Chánh phủ Mac Donal lên cầm quyển đã 15 tháng trời rồi, song không có phương sách gì cho giảm bớt nhơn công thất nghiệp.

            Hồi cuối năm 1929, ở trong sổ Bộ lao động thì có đến 110.000 thất nghiệp. Bây giờ đây số ấy tăng lên đến 2.139.571 người, nghĩa là sánh với số tổng cộng nhơn công trong nước, người thất nghiệp chiếm hết mười chín phần trăm rồi.

            Quan Thượng thơ J. H. Thomas, trước kia là một tay làm thợ ở hãng Hỏa xa; trong 10 tháng ngài lo kiếm thế nầy thế kia, nhưng bây giờ cũng thối chí ngã lòng rồi. Từ 12 năm nay cái nạn thất nghiệp ở nước Anh vẫn cứ triền mien luôn mãi, không có như ở các xứ khác. Mà hễ số người thất nghiệp nhiều chừng nào, thì cái kho chẩn cấp của chánh phủ phải mắc nợ nhiều chừng ấy. Chưa gì mà kho ấy đã thiếu 50 triệu Anh kim rồi.

            Quan Thượng thơ bộ tài chánh là ông Snowden không biết kiếm ở đâu có số tiền to lớn ấy mà bù đắp cho nổi. Tuy thế, coi mòi nước Anh cũng không đến nỗi gì!

            Vì nước Anh nhờ công nghệ phát đạt trót một thế kỷ này, gom góp tiền bạc ở trong nước chẳng phải là ít, nên mới có thể châu cấp cho bọn thợ thuyền họ được, nhưng sau nầy đây, không biết họ chịu đời nổi chăng?

            Nam Kỳ. – Bắt đặng một đảng ăn cướp rất hung dữ ở Long Xuyên

            Đã hai ba năm nay, có một bọn ăn cướp rất oai cường, có đủ súng ống thuốc đạn. Chúng nó ở lẫn lộn từ Vàm-nao xuống tới Long-xuyên, thường ngày chúng nó hằng đánh cướp những nhà giàu có và đón sông cướp lột mấy ghe thương hồ, đã lấy của lại giết người, rất nên tàn nhẫn.

            Nhơn dân nội vùng ấy bị những nhiễu một cách lạ thường, tối lại những kẻ có tiền chẳng ai dám an giấc. Ghe phen các báo đã kêu ca cùng quan chủ tỉnh Long-xuyên và sở tuần thành ghé mắt, mà phần tri phần trị trong tỉnh cũng đành vô kế khả thi.

            Mới đây nhờ có mấy viên chức Mật thám Châu Đốc là: 1. Brigadier Bùi Văn Nếp. 2. Đinh Văn Vân. 3. Nguyễn Văn Ngỡi. 4.Nguyễn Văn Giác dit Thanh, hết lòng sốt sắng vì phận sự, ra công khó nhọc truy tầm, nên 21 Aout 1930 bắt đặng tên Xơ, tên Đượm, tên Kiệt, với một cây súng một lòng.

            Qua bữa mồng 7 Septembre 1930, lại bắt thêm tên Nguyễn Vân dit Lạo, Lê Hoàng dit Ba, tên Lê Văn Chính, tên Kỳ, tện Tị, tên Tiên, tên Công và lấy đặng 2 cây súng nữa, 1 cây súng hai lòng, 1 cây 1 lòng với 50 bì nạp sẵn (Cartouches).

            Vậy từ giờ sắp tới có lẽ nhơn dân ở vùng ấy sẽ được yên ổn mà làm ăn khỏi lo sợ về cái hại ăn cướp nầu nữa.

            Mong sao quan trên sẽ xét kỹ công lao của mấy viên chức mật thám nói trên đây và tưởng thưởng một cách xứng đáng ngõ về sau vui lòng mà vui tròn phận sự.

            Poulo-Condore. – Bão lớn tại Côn nôn.

            Hôm ngày mồng 5 Novembre, tại đảo Côn-nôn phát lên một trận bão lớn, cuộc hư hại tính ra thật nhiều, nào là nhà đèn khí hư sập, kho trữ thực vật cũng hủy tan, 2 khám đường sập ngã hết, số người tử nạn trót 100, mà nhứt là những tù phạm, nhà thờ cũng bị sập, tàu chaloup và tam bản đếu chìm hết, cây cối ngã rạp, những cây cổ thụ dầu to lớn bực nào cũng cự chẳng nổi với trận bão ấy.

            Xin đọc 1938:

            –Hoàng đế Bảo Đại ngộ nạn: tại Ban-mê-thuột chiều 13/12/1938. Máy bay đã chở ngài tới Saigon hồi 11 giờ rưỡi ngày 15/12/1938 (số 1536)

            Xin đọc 1940, số 1589

            Nhân dịp đầu năm 1940-Quan toàn quyền chúc mầng cho dân Đông Dương:

            “Bổn chức xin gởi lời chúc mầng các dân tộc Đông dương: Hỡi người Pháp và người Đông Dương hãy nhận những lời cầu chúc thân ái của bổn chức đây, là những lời cầu chúc theo buổi chiến tranh, nó thóat khỏi cái khuôn sáo thường lệ như là chúc cho được muôn đều hạnh phúc và may mắn!…

            Những lời cầu chúc ấy, do một tư tưởng cao hơn, ấy là tư tưởng nghĩ đến bổn phận của chúng ta đối với thời cuộc hiện thời.

            Bổn chức xin chúc dân sự được cường tráng, dầu là người nhà binh hay thường dân cũng vậy. Các người hãy biết phụng sự ở chỗ mình ngày nay, hay ở nơi mình sẽ bị kêu gọi ra ngày mai. Các người nên dự bị hy sinh đến cùng mực, và đến lúc phải hy sinh tánh mạng, thì các người hãy hy sanh cho có danh dự. Rồi đến ngày chắc chắn chiến thắng, mong rằng quê hương sẽ được bằng lòng các người.

            Đó là lời chúc của bổn chức. Lời chúc ấy sẽ thiệt hiện được, vì nó không do sự may rủi của đời người, mà là do các người mà ra vậy.                  

                                                                                                            Ký tên

                                                                                                Đại tướng Catroux [[2]]                                  Xin đọc: năm 1945,

Số 1846, mục “Xem qua các báo” (tr. 23) có các bài viết:

Chiến tranh tàn phá (viết về thiệt hại chiến tranh 1914-1918 để so sánh với chiến tranh 1939-1945)

Nhà thờ Strasbourg trúng bom Anh Mỹ bị hư hại lớn.

Đặc tính của V2 (bom V2 của Đức).

Số 1845 (ngày 1er Janvier), tr.11

                                                THẾ GIỚI THỜI ĐÀM

Trận tấn công lớn của Đức đã khởi ở mặt trận Tây-âu, quả nhiên một trận quan trọng và đã làm cho dư luận Đồng-minh phải kinh ngạc.

Vì đã hơn nửa năm sau, khi quân Đồng-minh đổ bộ lên Tây-âu bấy giờ bộ Tư lịnh Đức mới bắt đầu khởi trận đánh quật lại.

Đạo nhựt lịnh của Đức gởi cho quân đội họ ở miền Tây rằng:

Thời khắc hành động lớn lao đã tới, và bây giờ mới là lúc bộ Tư lịnh Đức vén bức màn bí mật che đậy những sự sửa soạn vĩ đại của quân đội Đức trong nửa năm nay. Như vậy tất những sự sửa soạn của Đức phải cẩn thận lắm.

Theo tin mới nhận được, thì trong vài ngày đầu của trận tấn công, quân Đức đã đánh phủng được chiến tuyến Mỹ nhiều nơi và tiến sâu vào nước Bỉ từ 25 đến 30 cây số, chiếm hai thành Malmedy và Stavelot

Malmedy là một tỉnh Bỉ ở cách phía nam Aix la Chapelle hơn 40 cây số, có lẽ quân Đức định từ đó đánh vòng lên để chiếm lại Aix la Chapelle, nhưng lộ quân thứ nhứt của Mỹ đóng ở Aix tất cũng mạnh lắm; vậy trận Aix la Chapelle nếu diễn ra lần nữa chắc phải kịch liệt hơn những lần trước nhiều.

Trận tấn công lớn của Đức ở Tây-âu khiến ta có thể ngờ rằng có lẽ Đức đã lập xong được một phòng tuyền vững vàng ở Đông-âu nên mới dám xuất kỳ đại đội tiến đánh ở phía Tây như vậy.

KHUYNH HƯỚNG LÀM TRUYỀN THÔNG

CỦA NAM KỲ ĐỊA PHẬN

  1. Tính chuyên nghiệp của Nam Kỳ Địa Phận

Đây là Mục lục Số 1752 (17 Mars 1943):

1. Communique de l’vêché. tr.113

2. Mandement. tr.114 [[3]]

3. Huấn lệnh của Đức Giám mục Saigon. tr.115

4.Thơ chung Đức cha Phê rô (Địa phận Vĩnh Long). tr.119

5. Cuộc cộng tác của giáo hữu nước Nam. tr.122

6. Kiệu Đức Mẹ Lavang. tr.124

7. Thiếu niên với cuộc đời (phiếm luận). tr.126

8. Góp nhặt những chuyện lạ. tr.128: có hai bài ngắn:“Mùa Đông có gì lạ”; “Nếu trái đất ngừng lại”.

Trong 8 nội dung thì có đến 6 bài viết về những sinh hoạt tôn giáo của Địa phận Nam

Kỳ. Không có bản tin thời sự xã hội nào.

Điều này cho thấy Nam Kỳ Địa Phận là tuần báo chuyên về nội dung tôn giáo. Những “Tin Văn”, “thời sự”, “Phiếm luận” chỉ là một phần rất nhỏ trong nội dung. Quan sát những “bản tin” của các mục “Tin Văn”, “thời sự”, “Phiếm luận”, người đọc sẽ nhận ra đó không phải bản tin thời sự (Times) tường thuật những việc đang xảy ra để đưa tin, trái lại Nam Kỳ Địa Phận đăng lại những tin đã xả ra một thời gian trước đó, như những câu chuyện, có yếu tố “chuyện lạ” để hấp dẫn, hoặc  để “mua vui” mà không đặt vấn đề trách nhiệm xã hội (xin đọc “Kiếm tiền xài tết” và  “Sống trăm tuổi” đã trình bày ở trên)

  • Tính khuynh hướng

Chức năng của một tờ báo trước hết là đưa tin. Việc “Bổn Báo” (ban biên tập Nam Kỳ Địa Phận) chọn lựa tin, trình bày bản tin, hướng về đối tượng công chúng để thông tin…thể hiện “khuynh hướng” của tờ báo trước hiện thực đời sống.

Hiện thực của Nam Kỳ Địa Phận hướng đến là hiện thực đời sống tôn giáo của Địa phận Nam Kỳ. Đó là hiện thực chính.

Nhưng Nam Kỳ Địa Phận nằm trong một đất nước bị Thực dân Pháp đô hộ, với những biến cố lịch sử lớn lao, như việc Pháp khai thác thuộc địa, Thế Chiến I (1914-1918), Thế chiến II (1939-1945); cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc đầu thế kỷ XX như: phong trào kháng thuế 1908, phong trào Đông Du của Phan Bội Châu, phong trào Duy tân của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học, Phát xít Nhật chiếm Đông Dương, nạn đói Ất Dâu 1945…

Hiện thực ấy của đất nước và thời đại không thể nằm ngoài trách nhiệm thông tin của tờ báo (phần đạo và phần đời): “Vì lòng ái mộ cho danh Cha cả sáng, cùng ước ao cho con nhà An Nam ta mọi nơi đâu đó đều đua nhau tấn tài tấn đức, cho thông phần đạo và ngoan việc đời…”(Bổn quán kỉnh cáo). Tôi không rõ chủ trương “ngoan việc đời” cụ thể là như thế nào? “ngoan việc đời” có phải là người dân thực hiện đầy đủ trách nhiệm xã hội, trách nhiệm với tổ quốc không? Hay chỉ “sống và làm việc theo pháp luật” đương thời?

Cho nên năm 1914, Nam Kỳ Địa Phận có đăng

“NHÀ NƯỚC THÔNG TRI”

tin về giặc giã:

(Communiqué du Gouvernement, le 10 Novembre 1914)

Số 297, có bài- “Cuộc rước đưa cơ lính pháo thủ Langsa về quê hương trợ chiến” chiều 15/9 tại xã tây Saigon.

NHÀ NƯỚC THÔNG TRI: “các đạo binh Alêmăng đều phải tháo lui vở chạy, hễ binh Langsa có binh Hồng Mao phụ giúp kéo tới đâu thì đều thắng trận tới đó, quân giặc Alêmăng rút chạy không kịp, phải bỏ nhiều súng ống khí giái, và phải bỏ nhiều kẻ đã bị chúng nó bắt lại.

Quan đại lãnh binh sai các đạo binh Langsa, đã đánh dây thép tin cho Nhà nước hay, binh lính Langsa hưng tâm mà đánh đuổi quân nghịch hết lực, và các đạo binh lính Langsa thảy đều tử tế vưng phục, bằng lòng nhịn nhục chịu cực mà thắng chiến, Nhà nước được phỉ mừng tin cậy binh lính mình” (Communiqué du Gouvernement, le 17 Septembre 1914)

Số 298: tin về giặc giã (23 Septembre 1914). tr.623

Số 299: tin về giặc giã từ ngày 22 tới 29 Septembre. tr.639

Số 300: tin về giặc giã từ ngày 29 Septembre tới 6 Octobre. tr.655

Số 301: tin về giặc giã từ ngày 6 tới 13 Octobre. tr.671

Số 302: tin về giặc giã từ ngày 13 tới 20 Octobre 1914. tr. 685

Số 303: tin về giặc giã từ ngày 20 tới 27 Octobre 1914. Tr.701

Số 304. tin về giặc giã từ ngày 27 Octobre tới 3 Novembre 1914

Số 305: tin về giặc giã từ ngày 3 tới ngày 10 Novembre 1914 (tr.734)

Số 306: tin về giặc giã từ ngày 10 đến 17 tháng 11 1914. Tr.748

Số 307: tin về giặc giã từ ngày 17 tới 24/11/1914. Tr.767

Số 308: tin về giặc giã từ ngày 24 Novembre tới 1er Decembre 1914

Số 309: tin về giặc giã từ ngày 2 tới 8 Décembre 1914. Tr.799

Tiếp tục đăng “Nhà nước thông tri” tin về giặc giã ở các số báo: 310, 311, 312, 313, 314, 315, 316, 317…

***

Năm 1922 Nam Kỳ Địa Phận đăng liên tiếp các bản tin về Hoàng đế Khải Định sang Pháp:

Số 686 (4 Mai 1922), tr. 268

Hoàng đế Annam. – Lối ngày 18 Mai thì Đức Hoàng đế Khải Định sẽ xuống tàu Porthos tại cửa Hàn (Tourance) mà sang qua nước Langsa, có quan Thống sứ Pasquier theo hộ giá.

            Chừng Đức Hoàng đế vô tới Saigon là lối 20 Mai, Nhà nước và nhơn dân sẽ bày lễ trọng nghing tiếp Ngài.

            Thuở nay các đấng tiên hoàng nước ta, chưa có ai đã bỏ nước mà đi xa như vậy, mới lần nầy là trước hết nên là một cuộc quan trọng lắm, vì tình thiết Bảo hộ Đại Pháp với nước Nam. Không phải là Hoàng đế đi xem đấu xảo thuộc địa tại Marseille mà thôi, song ý Ngài là đi viếng nước Đại Pháp trước hết, cùng xem mấy nơi tồi tàn giặc Alêmăng đã hủy phá cho hàn cơ cuộc. – Lại cũng đem Hoàng tử giao cho thầy Đại Pháp dạy dỗ văn chương. Bận đi qua thì Đức Hoàng đế đi thẳng tới Paris, chừng về mới ở dự xem cuộc đấu xảo, và các cuộc mừng rước Ngài tại đây thì là trong bận trở về đó. – Chánh phủ Đông Pháp có xuất ra 4000$ đặng dọn dẹp các cuộc rước mừng Hoàng đế tại Marseille. (Bản tin không có tác giả)

Số 690 (1/6/2022), tr.331:

Hoàng đế Annam. – Đức Hoàng đế Khải Định đã vô tới Saigon chiều thứ Hai 22 Mai, Nhà nước rước cách trọng thể, binh lính sắp hàng hai bên đàng từ bến tàu nhà rồng (tàu đi tây) cho tới dinh Tổng thống. Hoàng đế nghỉ tại đây 3 bữa rồi qua thứ 5 thì đã xuống tàu lại mà sang qua tây.

Trong mấy bữa Đức Hoàng đế ở tại Saigon thì quan Thống đốc Nam Kỳ M Cognacq lo tiệc yến đãi đằng Đức Hoàng đế và các quan đi theo cách trọng hậu lắm; và Hoàng đế có ban cho quan Thống đốc le Grand Cordon de L’Ordre Impérial di Dragon de l’Annam. (không có tên tác giả)

Số 691 (ngày 8/6/2022),tr. 350:

Lễ chung nước Nam. – Hôm 28 Mai thì cả nước Annam đã ăn mừng lễ giáp năm Đức Vua Gia Long khôi phục triều đình Huế. Theo như lịnh Hoàng đế Khải Định dạy phải làm cho trọng thể, tại Nhà thờ Chánh Huế ngày ấy có làm một lễ trọng, có đủ các quan tây cũng có đủ các quan Annam tại triều tựu đến chầu và mặc y phục đại lễ, mà kính nhớ ơn các viên quan Langsa đã phò giúp Đức vua Gia Long khi trước.

Số 693 (ngày 22/6/2022),tr. 379:

Hoàng đế Annam. – Đức vua Khải Định đã tới Djibouti ngày thứ Bảy 10 Juin, tàu bị dông gió nên có trễ. Đức vua có lên viếng thành và nhà nước tiếp rước trọng. Vua, Hoàng tử và các quan theo hộ giá thảy đều quới thể an bình. Bữa kế đó thì tàu Porthos chỉ dặm thẳng qua Marseille. (Bản tin không có tên tác giả).

Số 694 (ngày 29/6/2022), tr. 398:

Hoàng đế Annam. – Điện tín tại Paris ngày 21 Juin cho hay Đức Hoàng đế Khải Định đã tới Marseille rồi, có quan Thượng bộ Sarraut quan Thống sứ Charles và quan Thân sĩ Outrey thay mặt quan toàn quyền Long xuống tại bến tàu rước Hoàng đế, lại có những cơ lính Annam bồng súng dàn hầu. Đức Hoàng đế lên xe hơi mà ngự đến dinh Trấn phủ.

Số 695 (ngày 6 Juillet 2022),tr. 414:

Hoàng đế Khải Định. – Đức Hoàng đế Annam đã tới tại Paris ngày 24 Juin, có quan Thượng bộ Sarraut, quan Tổng thống Long cùng nhiều quan rước Đức Hoàng đế tại bến xe lửa, đoạn Ngài đến dinh Thượng bộ thuộc địa là nơi Hoàng đế ở cả lúc ngụ tại Paris. Đoạn Hoàng đế vào viếng Đức Giám quốc Millerand rồi đi viếng nhiều nơi nữa đi tới đâu dân sự thảy đều kính chào tung hô mừng rỡ. Các nhựt báo đền khen ngợi Đức Hoàng đế và Đông cung Thái tử, đằm thắm nghiêm trang, thêm y phục rự rỡ lạ lùng tốt lành, ai ai cũng đều muốn xem cho hẳn. Thãy đều xưng ra Hoàng đế Annam sang viếng Đại Pháp đây là dấu tỏ tình liên lạc Việt Nam với Bảo hộ Pháp quốc càng thêm bền vững.

***

Nam Kỳ Địa Phận cũng thường trích đăng “Thống chế Pétain đã nói”. Tôi không rõ việc đăng những lời của Pétain có mục đích gì? Thông tin về một “lời hay ý đẹp”, hay thông tin chính trị về huấn thị của thủ tướng chính phủ Vichy?

Xin đọc: Thống chế Pétain đã nói (số 1781 năm 1943, tr. 474. Có in hình Pétain):

“Tôi ghét những lời giả dối đã làm hại các người rất nhiều. Đất đai, nó chẳng hề nói dối. Nó vẫn là nơi nhờ cậy của các người. Nó chính là Tổ quốc. Một miếng đất bỏ hoang, ấy là một phần nước Pháp đương chết. Một khoảnh đất hoang được trồng lúa lại, ấy là một phần nước Pháp tái-sinh” [[4]].

Tin của Radio Sài gòn, đăng bài phỏng vấn Ông Jacques Lê Văn Đức Hội đồng liên bang Đông Pháp (số 1706, ngày 22/4/1942, tr.196): Ông Đức nói:

“Nói tắt một lời, Hội đồng mới, dầu là liên bang, hay là Thành-phố, hay là Quản-hạt, vân vân, thì chớ khá dùng chức mình mà lo việc tư, song phải kể mình như là tôi tá phụng công nước nhà, lo công lợi ích lợi chung, vì Thống chế Pétain khuyên bảo ai nấy “Phải phụng sự nước nhà”.

Ông Jacques Lê Văn Đức còn viết bài kêu gọi cầu nguyện cho nước Pháp thắng trận (“Prions, Prions, Prions pour la France) [Số 1614, ngày 4 Juillet 1940. Tr. 379].

Năm 1941, NKĐP số 1690 có bài Một ngày của thống chế Pétain, đăng lại tin của ARIP. Năm 1942, trện NKĐP số 1694, Tác giả Hữu Tâm trong bài Nước Pháp trước thời cuộc nghiêm trọng đã ca ngợi thống chế Pétain.

***

Những bản tin của Nhà nước Pháp (Nhà nước thông tri), về chiến tranh, về Thống chế Pétain, về các quan toàn quyền và bản tin về Hoàng đế Khải Định, Hoàng đế Bảo Đại…là tin thời sự chính trị xã hội. Có lẽ việc đưa tin như thế, Nam Kỳ Địa Phận không thể thoái thác, bởi Nam Kỳ Địa Phận là một tờ báo xuất bản công khai, đặt dưới quyền chính trị của Nhà nước thuộc địa Pháp.

Ở mảng hiện thực khác, tôi không tìm thấy trên Nam Kỳ Địa Phận bản tin nào về phong trào kháng thuế 1908, về vụ án Phan Bội Châu bị Pháp bắt ngày 30.6.1925 và bị đưa ra Hội đồng đề hình ngày 23.11.1925; không có tin Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí bị Pháp kết án tử hình ngày 30.3.1930. Cũng không có dòng tin nào thể hiện tình bác ái với hơn hai triệu người chết trong nạn đói ở Bắc Kỳ từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945; mà chỉ có những dòng tin về sự khó khăn tài chính của tờ báo (xin đọc số báo 1845, ngày 1er Janvier 1945).

Người đọc có thể hiểu vì đó là những tin “xúc phạm đến việc quốc chánh”nằm ngòai tiêu chí của tờ báo. Xin lưu ý rằng, ông Trần Chánh Chiếu, chủ bút báo Nông Cổ Mín Đàm (1906) và chủ bút Lục Tỉnh Tân Văn (1907) bị thực dân Pháp bắt tháng 10 năm 1908 vì có quan hệ với phong trào Đông Du và đăng báo chống Pháp [[5]].

TẠM KẾT

  1. Giá trị lớn của những Tin Văn trên Nam Kỳ Địa Phận là những thông tin của giáo hội Công giáo. Tin về Đức Giáo hoàng, các Đức Giám mục, các Linh mục, các giáo họ, các sinh hoạt của đời sống đức tin.    Chẳng hạn bản tin về Giám mục Mossad (người thành lập tờ Nam Kỳ Địa Phận)

                                                                        Địa phận Văn tín  (Nguồn: Năm 1920, số 567, tr. 4)

            -Đức cha Mossard sẽ đi qua Tây trong đầu tháng Janvier đây, có cha SI (P.Sion) đi nữa. Đức Cha đi sớm đặng có chịu quan thầy mổ lấy cái vảy cá trong con mắt ra trước khi sang thành Roma thăm Đức Giáo Tông.

            -Cha Đượm (P. Dumortier) đã đi ra ngoài Dalat hôm thứ bảy trước; xe lửa cha đi bữa đó dọc đàng đụng nhằm một xe đá, làm xe lửa phải hư nhiều, phải đổi xe khác, nên trễ hết 6 giờ. Mà may nhờ ơn Chúa không ai phải hại.

            2. Người đọc cũng có thể tìm thấy những thông tin lịch sử về Nhà nước bảo hộ Pháp, về Hoàng đế Khải Định, về Hoàng đế Bảo Đại; tin về văn hóa văn nghệ Công giáo như Tuồng thương khó của J. B. Tòngtrên số báo các năm: năm 1913, số 212 (tr.60). Năm 1922, số 705 (tr.567). Năm 1923, số 727 (tr. 105). Năm 1943, bài của Jacques Lê Văn Đức đăng trên các số báo: 1746; 1747; 1748; 1749). Đó là những tư liệu rất quý đối với người nghiên cứu tôn giáo, lịch sử, xã hội, văn học Công giáo…

Dù có tính khuynh hướng, song Nam Kỳ Địa Phận là một tờ báo tôn giáo chuyên nghiệp. Trong một thời gian dài đầy biến động lịch sử, Nam Kỳ Địa Phận duy trì được mục tiêu của mình là: “Vì lòng ái mộ cho danh Cha cả sáng, cùng ước ao cho con nhà An Nam ta mọi nơi đâu đó đều đua nhau tấn tài tấn đức, cho thông phần đạo và ngoan việc đời…”. Phần thông tin địa phận giúp kết nối giữa chủ chăn và giáo dân, giữa các giáo dân ở nhiều giáo họ trong địa phận với giáo hội, nhờ đó giáo dân có tình hiệp thông sống đạo sốt sắng hơn. Những giá trị như thế thật lớn lao.

***

Ngày 15/4/2024


[1] Bùi Công Thuấn-Nam Kỳ Địa Phận-Những định hướng khởi đầu

[2] Tướng Georges Catroux là Toàn quyền tạm thời 23.8.1938 đến 25.6.1940

[3] Communique de l’vêché: Thông cáo từ Tòa Giám mục

Mandement: Huấn lệnh (văn bản của giáo chủ dùng để chỉ thị)

[4] Thống chế Pétain (1856-1951)  là thủ tướng trong chính phủ Vichy từ năm 1940 đến năm 1944. Ông được ca ngợi là anh hùng dân tộc Pháp trong Thế chiến thứ nhất nhưng đến cuối đời lại bị kết tội phản quốc vì đã hợp tác với Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. https://cand.com.vn/Ho-so-mat/Thong-che-Petain-Anh-hung-dan-toc-Phap-hay-toi-do-phan-quoc-i392379/

[5] Ngô Sỹ Tráng-Những đồng góp của Trần Chánh Chiếu trong phong trào Duy tân ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX. Tạp chí Khoa học ĐHSP Tp HCM số 8(86) năm 2016. Tr 110-116

NAM KỲ ĐỊA PHẬN-Những định hướng khởi đầu-Bùi Công Thuấn

Bạn có thể đọc các bài viết chính của Bùi Công Thuấn theo link:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

NAM KỲ ĐỊA PHẬNNhững định hướng khởi đầu

(Đọc tuần báo Nam Kỳ Địa Phận số 01, năm 1908)

Bùi Công Thuấn

***

Bạn có thể tải file theo link:

https://drive.google.com/file/d/1kg9wX3GCuFZFNnWl0HMfpcaV94c710Fx/view?usp=sharing

Hoặc: https://www.mediafire.com/file/f9titz1k5l109n2/B%C3%A0i+01-NK%C4%90P+M%E1%BB%A5c+%C4%91%C3%ADch+v%C3%A0+n%E1%BB%99i+dung-No+01+1908.pdf/file

Tuần báo Nam Kỳ Địa Phận do Giám mục Lucien-Emile Mossard (1851-1920) chủ trương thành lập. L. Mossard thụ phong linh mục năm 1876. Ngài đến Sài Gòn ngày 2. 11.1876.

Lm Mossard từng coi xứ Tân Định (1881), Chợ Đũi (1882), nhà thờ lớn Sài gòn (1898), và được phong Giám Mục địa phận Tây Đàng Trong (1899). Ngài đã trông coi địa phận đến năm 1920.

Nam Kỳ Địa Phận in huy hiệu của tòa giám mục Sài Gòn. Chủ bút của Nam Kỳ Địa Phận là Lm J. B Hướng. Linh mục B.P. Paul Vàng (Directeur-Gérant) là người sau cùng phụ trách tờ báo.

Bài Kỷ niệm ba mươi lăm tuổi trọn (số 1788, năm 1943) cho biết: “Vậy trong khoảng 35 năm báo N.K.Đ.P. đã tùng quyền dưới 4 trào Giám mục là: Đức cha Mossard. Đấng sáng lập báo Nam Kỳ; Đức cha Quinton; Đức cha Dumortier và Đức cha J. Cassaigne hiện kim Giám mục địa phận.

Lại cũng thay đổi bốn đời linh mục quản lý là: cha J.B. Huỳnh Tịnh Hướng, tiên khởi chủ nhiệm kiêm quản lý từ 26 Novembre 1908 cho đến 12 Novembre 1909; cha Gabriel Nguyễn Thanh Long, từ 12 Novembre 1909 đến 9 Novembre v1922; cha Jacques Huỳnh Công Quận từ 9 Novembre 22 đến 30 Mars 1943; và từ 5 Avril 1943 đến nay là cha Paul Nguyễn Văn Vàng hiện kim chủ nhiệm kiêm quản lý bổn báo.”

Báo ra ngày thứ Năm hàng tuần. Số đầu tiên ra ngày 26 Novembre 1908 và số cuối cùng ra ngày 1er Mars 1945. Nam Kỳ Địa Phận là một trong những tờ báo có thời gian xuất bản lâu nhất đầu thế kỳ XX. Theo tài liệu của linh mục Vàng, GS Nguyễn Văn Trung cho biết: “lúc đầu có 2000 độc giả, nghĩa là gấp 5, 6 lần độc giả Lục Tỉnh tân văn, Nông Cổ” (Lục Châu Học, chương V). Số báo 1845 (1er Janvier 1945), bài Kính cáo Độc giả, “Bổn Báo” cho biết, cuối năm 1944 có 1700 độc giả.

Nam Kỳ Địa Phận ra đời và phát triển trong bối cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ với chính sánh báo chí khắc nghiệt [[1], cùng với những biến động lớn lao của lịch sử Việt Nam và thế giới (phong trào Đông du, phong trào Duy tân, Thế chiến I, Thế chiến II,…). Bối cảnh ấy đã ảnh hưởng sự phát triển của tờ báo. Chẳng hạn, khuynh hướng “khai đàng văn minh cho nhơn dân đặng tấn phát..” nằm trong tinh thần duy tân: “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”; hoặc chủ trương “không xúc phạm đến việc quốc chánh”, tức là không phản ánh và bày tỏ thái độ đối với tình hình chính trị đương thời. Nam Kỳ Địa Phận kiên định mục đích “mở trí khôn các giáo hữu lớn nhỏ hầu giữ đạo cho tấn tới một ngày một hơn và cũng có chỉ phương thế về sự làm ăn ở đời, cho các giáo hữu vịn theo mà giúp đỡ nhau,..”(Bài Cám ơn Đức Cha). Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Lục xem xét thái độ chính trị của tờ báo, ông khẳng định:

Tôi đã chịu khó mầy mò khoảng 1000 trang báo Nam Kỳ Địa Phận có được trong tay thử xem có bài báo nào có bài báo viết ca tụng hoặc nịnh bợ chế độ thực dân Pháp không?

Tôi không thấy có dù một bài, dù chỉ là nói xa xôi, nói gián tiếp dù mục Văn Tín của tờ báo đăng lại nguyên văn các các thông cáo của nhà nước về thời cuộc như đã nói ở trên.

Điều đó cho thấy tư cách đứng đắn của những vị chủ trương tờ báo”[[2]]

Các nhà nghiên cứu nói về những đóng góp của Nam Kỳ Địa Phận như sau:

Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Lục: phần đóng góp quan trọng nhất vẫn là phổ biến chữ Quốc ngữ đến quảng đại quần chúng, nhất là tại thôn quê cho giới bình dân ít học. Nó có một chỗ đứng nhất định trong dòng văn học nói chung” [1 đd].

Nhà nghiên cứu văn học Công giáo Lê Đình Bảng nhận định Nam Kỳ Địa Phận “mở ra một kỷ nguyên cho báo chí Công giáo Việt Nam. Đọc lại mấy hàng”Bổn Quán Kính Cáo” sau đây, ta càng thấm thía sứ vụ Loan Báo Tin Mừng của những con người cầm bút, hết lòng phục vụ công cuộc “Truyền thông Công giáo” ngay từ buổi đầu gian nan ấy”[[3]].

PGS-TS Đỗ Quang Hưng (Viện nghiên cứu Tôn giáo Việt Nam) trong cái nhìn tổng quan về báo chí trước 1945 nhận xét: Nam Kỳ Địa Phậnsống ngót 40 năm, được coi là tờ báo Công giáo thành công nhất cả về nội dung và hình thức, không chỉ có giá trị về thông tin, giáo dục Công giáo mà còn có đóng góp độc đáo về báo chí, về sự phát triển chữ Quốc ngữ.”[[4]].

Gs Nguyễn Văn Trung (1930-2022) [[5]] là người có nhiều thuận lợi khi nghiên cứu về Nam Kỳ Địa Phận. Ông đã so sánh Nam Kỳ Địa Phận với hai tờ báo cùng thời là Nông Cổ (1901-1921) và Lục Tỉnh Tân Văn (1907-1944), từ đó ghi nhận:

Về nội dung, chúng tôi thấy tờ Nam Kỳ địa phận phong phú đa dạng…Lối trình bày tờ báo của Nam Kỳ địa phận không khác gì thời bây giờ, lối viết Quốc ngữ trừ một vài từ ngữ kiểu nói thông dụng vào thời đó, ở miền Nam rất gọn, sáng sủa, dễ hiểu và nhất là rất khó tìm thấy một lỗi viết chính tả, không khác gì lối viết văn xuôi bây giờ”; Nam Kỳ địa phận “chỉ có 1/3 nói về đạo, còn lại nói về đời… nó là một vốn tư liệu phong phú, đa dạng mà ngày nay chúng ta có thể khai thác về nhiều mặt: kinh tế, thương mại, phong tục, sử ký, y học dân tộc, văn học, ngôn ngữ, v.v..”; “Chỉ nguyên mảng văn học truyền miệng (câu thai, đố, đối, tục ngữ, chuyện giải buồn, tiếu đàm…) riêng của miền Nam chúng ta có thể sưu tầm được cả trăm, ngàn câu, có cả giải thích, hẳn là một điều thật quí…”

                                                            ***

NỘI DUNG NAM KỲ ĐỊA PHẬN SỐ 1 (1908)

Mục lục số 1

Bổn quán kính cáo

Nam Kỳ Địa Phận Nhựt rình chung

Cảm ơn Đức cha

Lời rao cần kíp

Lời ngạn ngữ vua Salomom

Thánh Thể kiệu

Nhơn lai Thiên Chúa mạc hình dong

Bổn phận kẻ làm cha mẹ

Cổ loại tương phùng

Con nít có trí

Ngải mơn

Phương linh dược

Bốn đấng chịu tử đạo

Thuốc trị bịnh tức lói

Cọp bắt người ta tại Cù Mi

***

            Nam Kỳ Địa Phận số 1 (1908) công bố mục đích tờ báo, trình bày một khuôn mẫu hình thức (xem mẫu bìa và các đề mục trang), định hướng nội dung các chuyên mục và xác lập đối tượng cùng những tương tác với người đọc.

            1.Về mục đích lập báo: Nam Kỳ Địa Phận vừa có mục đích tôn giáo, vừa có mục đích xã hội, nhưng tránh vấn đề chính trị (“không xúc phạm đến việc quốc chánh”):

Bài Bổn quán kính cáo nói rõ:

“Vì lòng ái mộ cho danh Cha cả sáng, cùng ước ao cho con nhà An Nam ta mọi nơi đâu đó đều đua nhau tấn tài tấn đức, cho thông phần đạo và ngoan việc đời…”

Bài cám ơn Đức Cha cũng nhắc lại mục đích này: “thơ chung của Đức Cha gởi mà thông tin Người có định lập một cái nhựt trình chữ Quốc ngữ, để cho các bổn đạo ở xứ nầy xem cho rõ việc đạo, lại dạy cho biết việc đời”.

2.Về tư tưởng,

 Nam Kỳ Địa Phận hướng đến mục đích giáo dục quốc dân và canh tân đất nước:

“nhựt báo nầy có ý khai đàng văn minh cho nhơn dân đặng tấn phát, cho bề đạo việc đời đều thông thuộc”.

Nền tảng giáo dục dựa trên giáo lý Công giáo (truyện Ngải Mơn) và đạo đức Nho học.

Thí dụ: nhận xét về tình hình suy đồi phong hóa đương thời, Nam Kỳ Địa Phận viết:

 “Việc quân thần, quốc chánh thì hay vậy; mà còn việc phụ tử, phu phụ, bằng hữu, là

cha con, vợ chồng, anh em bạn hữu, thì sự hiếu thảo, tín ngãi và nhơn nghĩa chẳng toàn, đã suy khuyết nhiều. Dầu cho nước mạnh nhà giàu đi nữa mà đạo cang thường chẳng giữ thì sự vinh hoa phú quý cho mấy cũng không bền.” (Bổn quán kỉnh cáo).

Nhận xét trên dựa vào nội hàm ý thức hệ Nho giáo khi nói về các quan hệ xã hội: “quân thần” (vua-tôi), “phụ tử” (cha-con), “phu phụ” (vợ-chồng), “hiếu thảo” (đạo Hiếu), “tín ngãi, nhơn nghĩa” (Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín), “đạo cang thường” (tam cương: ba giềng mối xã hội-Quân thần, Phụ tử, Phu phụ; “ngũ thường” là 5 phẩm chất đạo đức-Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín).

3. Nội dung

Nam Kỳ Địa Phận bao quát nhiều lĩnh vực: “báo sẽ biện luận về những đều sau nầy: Đạo lý, Phong hoá, Bá nghệ, Bát học và Văn tín”.

Nam Kỳ Địa phận là một tờ báo Công giáo nhưng hướng đến đối tượng độc giả rộng rãi, gồm cả Lương và Giáo.  

Nam Kỳ Địa Phận Nhựt trình chung/

Lương, Giáo hai bên mặc thích dùng”.

Chủ bút cũng kêu gọi bạn đọc góp bài. Đề tài được mở ra rất rộng:

Vậy trong chư quới vị ai thấy đều chi hữu ích, miễn là không xúc phạm đến việc quốc chánh cùng danh vị người ta, thì xin viết mà gởi đến. Bổn quán Nhựt báo sẽ liệu mà ấn hành; chớ ngại ít nhiều hay là nói cao thấp” (Bổn quán kỉnh cáo).

            4.Thể loại bài viết:

Qua các bài viết, Nam Kỳ Địa Phận số 1 đã định hình thể loại, có cả thơ và văn xuôi. Có bài nghị luận về một vấn đề (Bổn phận làm cha mẹ, Phương linh dược), có truyện “người thật việc thật” (Thánh Thể Kiệu, Cọp bắt người ta tại Cù Mi), có truyện cười (Con nít có trí, Ngải Mơn), Ngụ ngôn (Cổ loại tương phùng), có bản tin (Bốn Đấng chịu tử đạo) và có cả “quảng cáo” (Sửa đồng hồ, Thuốc trị Phong lác, Sách Đức Chúa Bà hiện ra tại Lourdes).

Các bài viết có văn phong vừa bác học, hiện đại (ngôn ngữ thời sự), vừa rất bình dân. Xen kẽ vào lý lẽ (dùng từ Hán-Việt) là trích dẫn danh ngôn đông tây, hoặc dẫn chứng các nhân vật nổi tiếng. Khẩu ngữ Nam bộ được dùng rộng rãi. Tính cách nhân vật và văn hóa Nam bộ được khắc họa rõ (xin đọc bài Ngải Mơn). Nhờ đó, tờ báo trở thành tiếng nói của nhiều thành phần xã hội.

5.Yếu tố “đạo và đời” trong Nam Kỳ Địa Phận số 1 được trình bày thế nào?

Xin điểm qua các bài trong Nam Kỳ Địa Phận số 1: có 7 bài nói về đạo trong tổng số 13 bài, như vậy số bài nói về đạo chiếm hơn 50% nội dung tờ báo, không phải “chỉ có 1/3 nói về đạo” như GS Nguyễn Văn Trung cho biết ở trên. Cụ thể là:

1.Bài Cám Ơn Đức Cha: “mở trí khôn các giáo hữu lớn nhỏ hầu giữ đạo cho tấn tới một ngày một hơn và cũng có chỉ phương thế về sự làm ăn ở đời, cho các giáo hữu vịn theo mà giúp đỡ nhau,..

2.Bài Lời ngạn ngữ của vua Salomon: giảng trực tiếp Kinh thánh. Bài viết giới thiệu sự khôn ngoan của vua Salomon rồi trích và giải thích câu của Salomon: “Kính sợ Chúa, ấy thật là đầu cội rễ sự khôn ngoan; kẻ mê muội thì khinh dễ sự khôn ngoan và lời răn dạy” (C.1, v. 7.)

3.Bài Thánh Thể Kiệu kể một gương đạo đức tôn giáo: Đức Vua Manuel nước Búttughê, dù là vua, nhưng đã cùng với vác thầy phó tế khiêng Kiệu Thánh thể trong ngày lễ Mình Thánh Chúa.

4.Bài Nhơn lai Thiên Chúa mạc hình dong, (thơ chữ Hán)

5.Bài Bổn phận làm cha mẹ dẫn truyện thánh để đặt vấn đề: ông thánh Gioang Baotixita, Ông thánh Grêgoriô, Ông thánh Ambrôxiô

6.Bài Cổ loại tương phùng (Đui què gặp nhau): truyện ngụ ngôn bằng thơ song thất lục bát về sự tương trợ nhau để sinh tồn.

7.Bài Con nít có trí: truyện cười nói về sự thông minh của con nít

8.Bài Ngải Mơn: truyện ngắn, phê phái thói mê tín của Ba Miểng, một người đạo dòng. Nhân vật một người chầu nhưng, trực tiếp giảng đạo:  

“có một người chầu nhưng, người nầy thấy ba Miểng khua môi không nhằm, sanh gương xấu cho kẻ ngoại, thì đỏ mặt mà nói rằng: chú Ba nè, chú là người đạo dòng mà chú ăn nói như vậy, thiệt tôi hổ thẹn quá. Chú không nhớ trong Kinh Tin Kính, câu thứ nhứt dạy ta tin có một Đức Chúa Trời phép tắc vô cùng mà thôi sao? Vậy dầu thiên thần thì cũng còn kém xa Chúa ngàn trùng, phương chi ma quỷ là loạn thần Chúa phạt, mà chú dám nói nó thua Chúa có một phép sống mà thôi. Nói như vậy có phải là lộng ngôn phạm thượng và bất thông đạo lý không? Dẫu một hai khi ma quỷ có làm hại cho ngưởi nọ kẻ kia đi nữa, chẳng qua là tại Chúa cho phép nó làm, hầu thử kẻ lành như ông Gióp, hay là phạt kẻ dữ như vua Saolê. Nếu Chúa cấm thì ma quỷ chẳng có phép mà làm rụng một sợi tóc trên đầu ta, có đâu mà làm chết, làm sống? Âu là chú cậy mình đạo dòng, tưởng mình thông hiểu các lẽ cao sâu trong đạo, nên chẳng sá chi đến việc nghe giảng sách phần mới buông lời thế ấy.”

9.Bài Phương linh dược: văn nghị luận bàn về chữa bịnh nghèo.

10.Bài Bốn Đấng sẽ lên bậc Á thánh: bản tin tôn giáo về phong thánh.

11.Bài Thuốc trị tức lói: giới thiệu bài thuốc chữa bịnh.

12.Bài Cọp bắt người tại Cù Mi: Bổn báo chỉ cách bắt cọp cho ngững người thợ rừng ở Cù Mi (Bà Rịa)

13.Có ba mục quảng cáo: sách Truyện Đức Chúa Bà hiện ra tại Lourdes, Tiệm sửa đồng hố và các thứ đồ máy, Thuốc trị phong lác.

Như vậy số bài nói về Đạo chiếm một phần lớn nội dung, tất cả đều tập trung vào chủ đề, nhưng đa dạng về kiểu loại bài. Sức hấp dẫn của những bài này là những câu chuyện “người thật việc thật” trong đời sống, những gương sáng trong Kinh thánh và giúp giải quyết những vấn đề cụ thể của việc sống đạo. Những chuyện đời đều có mục đích giáo dục “khai đàng văn minh cho nhơn dân”.

6. Góp phần phổ biến và phát triển chữ Quốc ngữ (ý kiến của Nguyễn Văn Lục và Đỗ Quang Hưng).

Đúng như GS Nguyễn Văn Trung nhận định: “lối viết Quốc ngữ trừ một vài từ ngữ kiểu nói thông dụng vào thời đó, ở miền Nam rất gọn, sáng sủa, dễ hiểu và nhất là rất khó tìm thấy một lỗi viết chính tả, không khác gì lối viết văn xuôi bây giờ”.

GS Nguyễn Văn Trung cho biết thêm: “Tập thể những người làm tờ báo Nam Kỳ địa phận những năm đầu thế kỷ vừa qua là những người thông thạo văn hóa phương Tây mà vẫn thấm nhuần Nho học, vừa là những người biết cách làm báo như nhà nghề, mà cũng biết viết văn Quốc ngữ gọn, rõ, không sai chính tả. Bây giờ, tìm được những linh mục, trí thức gốc miền Nam còn am hiểu Nho học, biết viết văn Quốc ngữ như những linh mục Hồ Tấn Đức, Nguyễn Thanh Chiêu hồi đầu thế kỷ không phải là điều dễ”;

Đây là cách làm việc: “Sửa bài vở là công của Lm Hồ Tấn Đức “tánh người rất kỹ càng, nên bài vở của ngài tự sửa lấy, từ dấu hỏi dấu ngã chí chấm phết đều giữ hoàn toàn không sai một nét”, còn các bài vở khác thì đều gửi bản vở thứ hai cho ngài coi lại, sửa chữa; ngài sửa chữa cho các sách của nhà in Tân Định nên “nhờ ngài mà sách vở báo chí của nhà in Tân Định mới có vẻ đúng đắn hơn các nhà in khác trong Nam kỳ“(Lục Châu Học, chương V, đd)

Xin đọc một đoạn văn trong bài Thánh Thể Kiệu. Văn rất trong sáng, trừ một vài từ của khẩu ngữ (“thì”, “dong nhan”, “mà đặng”):

“Hôm ngày lễ Mình Thánh Chúa, nhằm ngày 20 tháng Năm ta, năm nay đây, đã kiệu Mình Thánh Chúa. Các đấng Giám mục, Linh mục, Giáo hữu nam phụ lão ấu, ca nhạc, đèn đuốc nghinh Mình Thánh Chúa ra mà kiệu.

            Đức Vua Manuel xin xen hàng cùng các thầy phó tế lãnh khiêng bàn kiệu. Triều thần e nhẹ thể oai nhan, thì tâu Đức Vua rằng: “Đức Vua hạ giá chầu Thiên Chúa thì là trọng; mà Đức Vua trao tay vàng cầm bàn kiệu, thì e nhẹ dong nhan thánh đế chăng.” Đức Vua bèn đáp rằng: “Vua cả cai trị trời đất ngự bàn kiệu, còn vua thế gian mà đặng khiêng bàn kiệu thì sao lại mất dong nhan oai thể, chẳng là nghịch lẽ lắm đó?”

            Đức Vua thân chinh vào nắm lấy tay bàn kiệu cùng quì hai gối xuống đất mà kính lạy Mình Thánh Chúa. Ai nấy thấy đều hãi hùng, mà ngợi khen Đức Vua chẳng dừng”.

***

ĐỌC NAM KỲ ĐỊA PHẬN số 1

Xin đọc những bài chính:

       (Lưu ý: để giữ đúng văn phong ngôn ngữ đầu thế kỷ XX, các bài báo được đánh máy lại nguyên văn chính tả của bản in 26.11.1908. Có một số từ có cách viết khác ngày nay. Thí dụ: vui mầng (vui mừng), quới vị (quí vị), đặng (được), những đều (những điều); dong nhan (dung nhan); nhơn hiền (người hiền)…Phần in đậm là để lưu ý bạn đọc).

***

BỔN QUÁN KỈNH CÁO

(NKĐP, số 01, tr.1-4)

“Vì lòng ái mộ cho danh Cha cả sáng, cùng ước ao cho con nhà An Nam ta mọi nơi đâu đó đều đua nhau tấn tài tấn đức, cho thông phần đạo và ngoan việc đời thì Đức Giám mục đã dạy kiến tạo nhựt báo nầy để mà thúc giục mọi người lo tấn phát.

            Trong Nhựt báo sẽ biện luận về những đều sau nầy: Đạo lý, Phong hoá, Bá nghệ, Bát học và Văn tín.

            I. Sẽ dùng lý lẽ, tích truyện, hoặc lấy lời thánh hiền, mà phân biệt chánh tà cùng dẫn đàng chơn thật.

            II. Kể những gương lành, truyện thánh, tích những đấng thông minh cùng người danh sĩ; để cho con trẻ đặng học đòi noi theo, cho đặng răn mình sửa nết, trước là cho nên người đức hạnh phần đạo, sau là nên kẻ thông minh lịch lãm phần đời. Xét việc xem sóc dạy dỗ con trẻ trong nước ta hãy còn im lưu trì hưỡn, chưa có tấn cho kịp thì. Phép mình ít biết, phép người cũng không thuộc, việc đạo ít thông, việc đời lại càng thua sút. Nhơn cớ là bởi chẳng chuyên cần lo lắng việc dạy dỗ con trẻ cho kỹ càng. —Việc văn chương chữ nghĩa cũng còn chậm trễ. Chẳng phải thiếu người thông thuộc, song thiếu kẻ nông lòng dốc sức cho có trường hay, thầy giỏi. Trúng là việc rất cần, vì học mà nên, hay là không học mà nên? Muốn học cho nên phải có thầy thông minh đức hạnh; học nên mới biết đàng chánh nẻo tà, đâu là trung, đâu là hiếu. Có học mới biết pháp thủ lễ nghi, mới rỡ Hanh cha mẹ, đẹp mặt họ hàng. Lại hễ là Bất học thì vô thuật, và không học thì không biết biến hóa, thì sao cho tiện bề sinh phương lập nghiệp? Nên ước lo cho việc giáo huấn mỗi nơi mỗi họ đều tấn tới.

            Còn xét về chánh việc Phong hóa thì đã ra cuộc biến dời nhiều. Mấy kẻ đã quên thói lành gương tốt tổ tông di truyền, mà lại thêm sinh biến nhiều thế! Việc quân thần, quốc chánh thì hay vậy; mà còn việc phụ tử, phu phụ, bằng hữu, là cha con, vợ chồng, anh em bạn hữu, thì sự hiếu thảo, tín ngãi và nhơn nghĩa chẳng toàn, đã suy khuyết nhiều. Dầu cho nước mạnh nhà giàu đi nữa mà đạo cang thường chẳng giữ thì sự vinh hoa phú quý cho mấy cũng không bền. Bởi đó người ta thường hay nói: Không ai giàu ba họ, vinh ba đời; là tại vì không lo sửa cái đức tánh mình. Vậy xin những đấng thông minh trí thức phân tỏ cho ai nấy đặng cải ác tùng thiện, gương lành thì theo, thói hư thì lánh. Cho kẻ trên người dưới, kẻ khó người giàu đều biết tương kính tương ái, kính nhau, thương nhau, giúp nhau như người đồng quốc đồng gia, một nhà một nước vậy. Ấy là sự lo tích lấy cái tâm đức mà lưu lại cho con cháu đặng nhờ; rồi sau mới lo tới thâu tích tiền tài, thì chẳng hại chi vì có chữ đức buộc chữ tài cho vững.

III. Về nghề nghiệp làm ăn thì ta sánh cùng người nước khác không đặng. Kể ra thì là: Sĩ, Nông, Công, Thương, Tiều, Ngư, Canh, Mục, là nghề văn chương, nghề làm ruộng, làm thợ, buôn bán, đốn củi, nghề bắt cá làm vườn và nuôi trâu bò chiên dê. Mà chưa thấy nghề nào cho thiệt phát. Dẫu cho có nhiều người thạo, kẻ nghề nọ, người nghiệp kia mà cũng chưa đủ sánh. Ta có biết cái chi thì một mình hay, một mình biết, một mình làm, không ai coi trước giúp sau; còn người nước khác, hễ là tìm đặng cách gì, kiếm đặng phương chi, thì xúm nhau hùn với nhau, chỉ vẽ cho nhau làm. Dẫu nhiều khi ban đầu không đặng khá, cũng có nhiều khi bị thiệt hại, song cũng không sờn lòng, lại bởi có người hiệp sức giúp trí, thì sau hết việc cũng thành và đặng lợi cả. —Người nước ta, hễ thấy ai mới nổi nghề gì, tính làm cái chi, thì chẳng những là không ai tiếp giúp, mà lại đứng đó mà nhìn, cầu cho việc bất thành, mà nhạo chơi. Cứ việc ai nấy lo, bè ai nấy chống, cho nên phải xiêu lưu tứ tán, cùng phải gian nan đồ khổ, xác thiếu thốn, hồn ra trễ nãi. Thôi tự tư dĩ hậu, thì ta hãy đồng tâm hiệp lực mà giúp nhau, cho mọi nơi mọi xứ đều an cư lạc nghiệp.

  1. Lo cho mỗi nơi có những nhà làm nghề, cho con nít kẻ lớn có thể làm ăn. Nam nữ

 mới lớn lên, mà không phương làm ăn thì phải hiểm nghèo nhiều thê. Ở nhưng làm sao cho

khỏi sự dữ? mà đi làm mướn nơi không đạo đức, kết bạn cùng kẻ vô nhơn, thì cũng như gieo

mình xuống hố.

  • Trong các nghề làm ăn, ai thông nghề nào thì thủ nghệ ấy; Nhứt nghệ tinh nhất

thân vinh, là một nghề cho ròng cũng độ thân đặng; song hãy lo mở mang cho rộng hơn. Muốn mở rộng, một mình không sức, nên phải hiệp nhau; bảo nhau thì có tôn ti thượng hạ, có kẻ biết chỉ vẽ. Có đua tranh, tìm kiếm, thì lần lần nghề mới ra tinh ròng.

           Luận về cuộc thương mãi, thì xem ra lớn hơn các nghề; vì cuộc buôn bán có thạnh vượng, thì các nghề mới phát; ai làm nghề chi cũng có một ý, là cho đặng bán cái vật mình làm ra, mà như không có nhà buôn bán trữ hàng hóa thì bán cho ai? Mấy người nước khác đặng giàu có phú quý là tại đâu? Cũng là lại nhờ một sự hùn hiệp với nhau mà làm nghề nọ nghề kia, nhứt là buôn bán. Nên ta cũng phải cứ đó mà noi theo.

IV. Sẽ nói về những sự thường mở trí cho con nít. Nhiều vật, nhiều món ta dùng, thấy đó mà không biết bởi đâu mà tới, làm làm sao. Những cuộc cơ xảo máy móc cũng nên biết. Lại có nhiều sự thường trong trời đất xảy ra, thấy mà chẳng hiểu, thì nhiều khi cũng sinh bán tín bán nghi; mà như biết thì cũng có ích nhiều bề.

V. Nói về những tin tức trong Hội thánh, trong các họ, đâu có việc chi nên hay, nên biết, thì thông báo cho nhau, cùng là quốc gia, luật pháp v.v

Sau hết, trong phần Tạp vụ sẽ để những truyện vui giải buồn; những bài thuốc linh đơn thần hiệu cùng là câu thai câu góp v.v.

***

Vậy trong chư quới vị ai thấy đều chi hữu ích, miễn là không xúc phạm đến việc quốc chánh cùng danh vị người ta, thì xin viết mà gởi đến. Bổn quán Nhựt báo sẽ liệu mà ấn hành; chớ ngại ít nhiều hay là nói cao thấp. Vì có thương nhau muốn làm ích cho nhau, thì cứ lời chơn chất minh bạch mà dắc díu nhau. Chớ lo kẻ năng thuyết bất năng hành, là hay nói hay chê mà không hay làm; hay là như có làm, thì lại sinh sự xích mích, vì là trước danh lộ tính, là cho đặng khoe cái tài của mình, chớ không tìm ích chung. Hễ vạn sự dĩ hòa vi quới là trong việc nào cũng phải lấy chữ hòa hảo là quý mà thôi.

Vậy xin ai nấy lo mua nhựt báo nầy mà xem, trước là đặng nhiều phần ích và hồn và xác, sau là lấy đó giáo huấn cháu con, cho trai đặng gặp đường thông minh, gái đặng thấy gương đức hạnh, mà học đòi noi theo.—Bán giá rẻ, vì Đức cha muốn cho ai nấy có thể mà mua đặng, lại vì hết lòng muốn làm ích cho mọi người, chớ không có ý tìm lợi như lời lân ái chí thiết Đức cha nói trong thơ chung gởi cho bổn đạo ngày mồng 10 tháng 8 tây trước đây rằng: “Ta cất tiếng khuyên mời anh em, xin anh em vui lòng vội vã nhậm lấy phương ta dùng mà làm ích cho anh em. Nhựt trình ấy lập ra chẳng phải cho đặng té lợi cho Nhà chung, một có ý gieo tin lành trong vườn Hội thánh, có ý cho gia đạo mọi người mọi nơi đều đặng nhờ ích lợi cho phần hồn phần xác mọi bề…” Thường người ta nói cầu danh bất cầu lợi, mà đây danh không cầu, lợi cũng không kiếm, một tìm ích chung cho mọi người và cho Danh Cha cả sáng mà thôi.

***

Sau kỉnh lời cùng chư quới vị, các hàng viên quan chức sắc, hương chức cựu tân, cùng quý nhơn quý hữu đặng tường. Nay mong ơn Đức Giám mục quờn cao chức trọng, đã dạy lập cuộc nhựt báo nầy có ý khai đàng văn minh cho nhơn dân đặng tấn phát, cho bề đạo việc đời đều thông thuộc. Ấy là ơn rất trọng ta phải cám mến không cùng. Người mà thương lo cho ta, huống chi ta là người đồng một quốc âm với nhau, há dễ ta lại làm ngơ! Gẫm trong chư quới vị, chẳng thiếu chi nhơn hiền kiến thức, trí tri lực lãm, văn nghệ lầu thông; nếu khấ..tay vùa giúp, ắt là sanh dân bớt cơ nghèo bần khổ. …người đồng thinh đồng khí, thì hãy đồng chí đồng tâm, mà vẽ thúc giục cho muôn dân đặng nhờ phước.

BỔN QUÁN CẨN KÝ

(số 1-trang 2, 3, 4)

***

BÀI CÁM ƠN ĐỨC CHA

            (NKĐP, số 01, tr.5)

Chúng tôi đã đặng thơ chung của Đức Cha gởi mà thông tin Người có định lập một cái nhựt trình chữ quốc ngữ, để cho các bổn đạo ở xứ nầy xem cho rõ việc đạo, lại dạy cho biết việc đời, nên chúng tôi tạm đôi hàng mà tạ ơn Người, vì đã có công tìm phương cách nọ kia mà giúp đỡ chúng tôi cho bản việc bổn phận chúng tôi phải làm. _Chúng tôi tưởng rằng: sự lập nhựt trình nầy thì làm ích nhiều lắm cho hết mọi người lớn nhỏ trong anh em chúng tôi, hoặc có sự gì trắc trở trong cửa nhà kém giờ mà dạy dỗ con cái mình cho đủ đều về lẽ đạo, thì nhựt trình nầy sẽ giúp phò kẻ ấy, kẻo có nhiều nhà có đạo bởi bối rối việc đời, mà bỏ qua hay là không dạy dỗ con cái mình cho đúng phép chăng. Theo như thơ chung Đức Cha đã nói, thì nhựt trình lập ra trước là giúp đàng mở trí khôn các giáo hữu lớn nhỏ hầu giữ đạo cho tấn tới một ngày một hơn và cũng có chỉ phương thế về sự làm ăn ở đời, cho các giáo hữu vịn theo mà giúp đỡ nhau, chớ chẳng phải là làm nhựt trình nầy mà tìm ích hay là danh vọng chi. Nên xin anh em trong giáo hữu đâu đó có xem nhựt trình nầy, chớ ai khá đem lòng nhạo báng cùng soi bói làm chi, nói tắt một lời, là Đức Cha có ý lập nhựt rình nầy để chỉ dẫn cho ta biết đàng chánh nẻo tà, và dạy sự thương yêu giúp đỡ nhau mà thôi. Vậy anh em giáo hữu chúng tôi hết lòng cung kính cảm tạ và xin Đức Cha ban phép lành cho chúng tôi.

                                                                               Giáo Hữu Đồng Ái Kính Và Cảm Tạ.

                                                                                                       H.K.K

LỜI NGẠN NGỮ CỦA VUA SALOMON

(NKĐP, số 1. trang 6)

            Vua Salomom là một vị đại vương, thượng trí thông minh, bởi ơn Đức Chúa Thánh Thần soi sáng, thì đã chép sách chỉ dẫn đàng nẻo khôn ngoan mà dạy răn con cái. Ta sẽ rút một k…một đều cho quý vị xem. Những lời ấy Hội thánh kể như Lời Đức Chúa Thánh Thần phán, vì chính mình Người là sự khôn ngoan thật, đã soi sáng cho vua ấy chép vào trong sách Thánh kinh. Vậy Người chép rằng: “Kính sợ Chúa, ấy thật là đầu cội rễ sự khôn ngoan; kẻ mê muội thì khinh dễ sự khôn ngoan và lời răn dạy” (C.1, v. 7.)

            Vậy ta xét coi sự khôn ngoan thật ở tại đâu? Sự khôn ngoan thật và sự thông thái khác nhau. Thông thái là biết nhiều điều, khôn ngoan là biết làm lành lánh dữ, biết kính sợ chỗ phải kính sợ. Dầu cho biết nhiều sự mà cậy mình, chẳng nhìn được Chúa, chẳng kính sợ cùng vưng lời Người dạy dỗ mà làm lành lánh dữ thì liền ra tối tăm mê muội chẳng còn đáng bậc thông minh nữa.

***

THÁNH THỂ KIỆU

(NKĐP, số 01, tr.7)

            Nước Búttughê là một nước ở phương tây, giáp cõi nước Hiphanho; tuy nước ấy đất đai hẹp hòi, nhơn số cũng là thua sút, song bát vật cơ xảo thì chẳng kém, tày bì với các nước văn minh. Thường bả nhứt tâm hành chánh đạo; từ vua chí dân một lòng tận tình trực chỉ khâm sùng Thiên Chúa.

            Hằng năm vua quan dân sự chẳng khi nào sai ngoa những ngày Duminh, Lễ cả, lại ép buộc những người ngoại quốc vào trong nước phải tùy tục. Các ngày Lễ cả tương bày rực rỡ, trau giồi dọn dẹp đền thờ đền thánh, tỏ lòng sốt sắng xứng con trời tôi vua. Mà trong các lễ thì lễ Mình Thánh Chúa lại dọn lớn hơn bội phần, chẳng những đền thờ chưng bông hoa, cờ xí, đèn đuốt, song lại ngoài các ngỏ lộ dựng treo những đại kỳ, hoa dây vắt chạy lợp phủ, gấm địa trải treo rất xinh đẹp. Vì ngày lễ nầy thì kiệu Mình Thánh Chúa đi các ngả trong thành kinh đô.

            Hôm ngày lễ Mình Thánh Chúa, nhằm ngày 20 tháng năm ta, năm nay đây, đã kiệu Mình Thánh Chúa. Các đấng Giám mục, Linh mục, Giáo hữu nam phụ lão ấu, ca nhạc, đèn đuốc nghinh Mình Thánh Chúa ra mà kiệu.

            Đức Vua Manuel xin xen hàng cùng các thầy phó tế lãnh khiêng bàn kiệu. Triều thần e nhẹ thể oai nhan, thì tâu Đức Vua rằng: “Đức Vua hạ giá chầu Thiên Chúa thì là trọng; mà Đức Vua trao tay vàng cầm bàn kiệu, thì e nhẹ dong nhan thánh đế chăng.” Đức Vua bèn đáp rằng: “Vua cả cai trị trời đất ngự bàn kiệu, còn vua thế gian mà đặng khiêng bàn kiệu thì sao lại mất dong nhan oai thể, chẳng là nghịch lẽ lắm đó?”

            Đức Vua thân chinh vào nắm lấy tay bàn kiệu cùng quì hai gối xuống đất mà kính lạy Mình Thánh Chúa. Ai nấy thấy đều hãi hùng, mà ngợi khen đức vua chẳng dừng.

            Khi đã huờn tất lễ đoạn, Đức Vua ngự giá hồi cung, thì nhơn dân đón hai bên đàng cả tiếng tung hô và chúc mừng rằng: “Vạn tuế, vạn tuế Đức Vua Manuel xứng đấng làm con nhà có đạo! Vạn tuế! vạn tuế Đức Vua là tôi trong thần Thiên Chúa!”

            Thật vua nầy tuy phần đời tuổi còn thấp trẻ mà lòng đạo đã quá người trưởng lão. Chẳng những một dân Búttughê chúc tụng bia danh Đức Vua Manuel nầy, song bá tánh cũng đều đáng tạc để: Mãn chiền tồn khiêm thọ ích (Kiêu ngạo thì bị thiệt hại, còn khiêm nhường thì đặng ích).

                                                                                                P. Toại Công Tri sĩ

***

(Bài này không có nhan đề)

Nhơn lai Thiên Chúa mạc hình dong,

Sinh, dục, tái bồi, phỗ thế công;

Vâng lãnh thập điều minh tánh giáo,

Tuần hườn thất tích cáo tân còng,

Chiêu chiêu thánh đạo thiên trung nhựt,

Mục mục thần ân thảo thượng phong.

Tợ thử tiên thi, hà dĩ báo?

Nguyện nhơn chiếu sự phỗ thiên đồng.

                                    CẦU KHO

***

BỔN PHẬN KẺ LÀM CHA MẸ

(NKĐP, số 01, tr.8-9)

Cha mẹ muốn dạy dỗ con cái cho nên tốt lành đức hạnh, thì việc trước hết cha mẹ phải lo, là cho mình đặng nên gương sáng cho con cái noi theo. Như trong Thánh kinh nói về ông Zacharia là cha và bà Isave là mẹ ông thánh Gioang Baotixita rằng: “Hai ông bà trước mặt Chúa thật là người nhơn đức, và hằng nắm giữ điều răn Chúa luôn.” Vậy kẻ làm cha mẹ mà có nhơn đức, thật là đều rất quý báu cho mình và cho con cái chẳng sai. Vì nhơn đức hay là tính nết xấu cha mẹ cũng lưu truyền cho con cái từ thuở đầu thai, chẳng khác chi như khí huyết tốt, thì sinh con cái ra nó đặng mạnh mẽ; mà khí huyết xấu, thì sinh con cái ra nó yếu đuối bịnh hoạn.

            Vậy trong gia đạo, thì cha mẹ nhơn đức phải cho rạng ngời, nết na phong hóa phải cho toàn hảo, sảng chiếu ra như mặt trời mặt trăng; thì ắt là con cái sẽ trở nên xinh tốt đẹp đẽ như mấy vì tinh tú khác. Ông thánh Grêgoriô nói rằng: “Kẻ gánh việc dạy dỗ kẻ khác thì phải tinh sạch các tính mê thói xấu mới đặng. Vì con mắt lờ không lẽ thấy đặng vật nhỏ tăm tăm; hay là lay đầy bùn lấm thì không phủi chùi vật gì cho sạch đặng”. Ông thánh Ambrôxiô tấn sĩ rằng: “Ớ kẻ làm cha mẹ, nếu phò người chẳng giữ lòng sạch sẽ, là sạch sự bợn nhơ tội lỗi, thì chớ trông sẽ dạy dỗ con cái mình nên. Trước phải sửa lòng dạ mình cho sạch tội lỗi đã, sau mới sửa lòng dạ con cái mình cho sạch đặng.”

                                                                                                                               CẦU KHO

CỔ LỌAI TƯƠNG PHÙNG

            (Đui què gặp nhau)

(NKĐP, số 01, tr.9)

[Đây là một truyện thơ dài, xin tóm tắt như sau]

Anh Què gặp anh Đui, cả hai cùng than khổ. Đui đề nghị cả hai nhập một giúp đỡ nhau: Anh Đui cõng anh Què (“Tôi cõng anh đường xa cũng nổi/ Anh ngồi trên chỉ lối cho rành…”. Hôm ấy hai anh hợp lực giúp nhau, nên họ dư ăn dư mặc (“Vậy bữa ấy hai anh hiệp lực/ Nên trong đời túc thực dư y”)

Tác giả kết luận:

            Nầy gương cho kẻ đời ni,

            Sang giàu, hèn khó, nghĩ suy học đòi.

            Phải tương trợ những hồi gay trở,

            Phải giúp đỡ trong thuở ngược xuôi.

            Nước còn quên cát làm doi

            Huống chi ta chẳng tái bồi lấy nhau

                         LÂM TRUNG, Dật sĩ

CON NÍT CÓ TRÍ

(NKĐP, số 01, tr.7)

            Ông già kia tuổi tác xem ra đáng kính, đi dạo đến nhà nọ, ngồi nói chuyện chơi, có năm ba người. Trong nhà có một đứa con nít độ chừng năm sáu tuổi, cái tiếng, cái cung dọng nó nói ai cũng khen là có trí. Ông già thấy vậy thì nói rằng: – Con nít mà có trí làm vậy, thì thường thường hễ đến khi lớn thì nó ra u mê đi”.- Thằng nhỏ nghe vậy thì đáp lại rằng: Thưa với ông, vậy thì hồi nhỏ ông có trí lắm, phải không ông?

***

NGẢI MƠN

(NKĐP, số 1, tr.10-13)

            Tại Tân Lập có một tên kia thiên hạ thường kêu là ba Miểng, tưởng là tại anh ta sứt môi chớ không phải là tên tộc và Ba Miểng nầy là người đạo dòng mà cũng hay tin những chuyện dị đoan huyễn hoặc, cũng nói những đều cớ trêu không nhằm đạo lý. Bữa nọ anh ta đi chơi trong xóm ngoại, vô nhà kia gặp ba bốn người ngồi đàm tiếu với nhau về việc ngải nghê Mên man. Có kẻ khen Mên giỏi, ngải cao, nào ngải nhắn, ngải đo dấu chơn, nào phép thư da trâu lưỡi búa vô bụng cùng những phép chuyện chữa mở ngải rất hay. Người khác thêm rằng: họ nói ở Sốc Rồ có một thầy Mên nuôi thứ ngải mơn hay quá, hễ người nào cầm nó, thì bất luận là xin hỏi ai điều chi được hết, dầu vàng ô bạc khạp, họ cũng tuôn ra cho. Ba Miểng ngồi nghe vẫu tai, rồi đáp rằng: Mên thiệt ngải cao! Nó nhờ ông … phù hộ nên làm được những chuyện lạ lùng quá tri. Ma quỷ cũng có phép tắc lắm nó thua Đức Chúa Trời có một phép mà thôi, là làm chết được, song làm sống không được.

            Trong những kẻ ngồi đó có một người chầu nhưng, người nầy thấy ba Miểng khua môi không nhằm, sanh gương xấu cho kẻ ngoại, thì đỏ mặt mà nói rằng: chú Ba nè, chú là người đạo dòng mà chú ăn nói như vậy, thiệt tôi hổ thẹn quá. Chú không nhớ trong Kinh Tin Kính, câu thứ nhứt dạy ta tin có một Đức Chúa Trời phép tắc vô cùng mà thôi sao? Vậy dầu thiên thần thì cũng còn kém xa Chúa ngàn trùng, phương chi ma quỷ là loạn thần Chúa phạt, mà chú dám nói nó thua Chúa có một phép sống mà thôi. Nói như vậy có phải là lộng ngôn phạm thượng và bất thông đạo lý không? Dẫu một hai khi ma quỷ có làm hại cho ngưởi nọ kẻ kia đi nữa, chẳng qua là tại Chúa cho phép nó làm, hầu thử kẻ lành như ông Gióp, hay là phạt kẻ dữ như vua Saolê. Nếu Chúa cấm thì ma quỷ chẳng có phép mà làm rụng một sợi tóc trên đầu ta, có đâu mà làm chết, làm sống? Âu là chú cậy mình đạo dòng, tưởng mình thông hiểu các lẽ cao sâu trong đạo, nên chẳng sá chi đến việc nghe giảng sách phần mới buông lời thế ấy.

            Còn việc ngải nghệ có đều chi hay, mà chú bội khen rằng quá trí? Ngải nó là một thứ thuốc độc kia cũng như những vị thuốc độc trong tiệm thuốc chệc, mỗi vị độc thì có vị khác trừ giải. Cho nên chuyện bỏ ngải, mở ngải, thì cũng như bỏ thuốc độc, giải thuốc độc vậy, chớ có lạ gì? Còn những việc dị đoan cầu ma, tróc quỉ thầy ngải làm, chẳng qua là ma quỷ dựa hơi phỉnh phờ những kẻ non lòng yếu sức, cho nó tin sợ, mà lỗi lịnh Chúa cho ra đều tội lỗi, chớ có linh thính vào đâu được?

            Ba Miểng thấy một người chầu nhưng bạn hôm sớm mai mà ăn nói sách hoạch, lại trách mình là đạo kim cổ, thì cứng họng, thẹn thuồng xẻn lẻn lui ra.

            Song bởi anh ta nghe chuyện ngải mơn thì đem bụng tin, nên trở về nhà ăn cắp của vợ mười đồng bạc nhảy xuống xuồng bơi tuốt qua Sốc Rồ tìm thầy ngải.

            Thời may tới đó gặp một người Cao Mên, hỏi thăm, nó dắc tới nhà thầy ngải kia tên là Lão Xược.

            Ba Miểng vào lạy, xin chuộc ngải mơn. Thầy Cao Mên chịu cho mà đòi ăn mười đồng bạc. Ba Miểng lật xơ mốc ra, lấy bạc trao. Lão Xược vô buồng lấy cục ngải đem ra, coi giống như miếng da trâu khô biểu ba Miểng sè bàn tay mặt ra và lấy ngải va chà cùng bàn tay, rồi dặn rằng: Xong rồi đá. Vậy hễ khi chú muốn xin hỏi ai điều gì, thì trước hết chú phải lấy tay nầy, mà vuốt ngang qua miệng một cái, ngải trong tay sang qua miệng tiên đoán cho chú, chắc chú sẽ đắc lời. Ba Miểng lòng mầng phơi phới, lạy tạ rồi ra, nhẩy xuống xuồng, bơi tuốt một buổi, quên ăn quên uống. Đến nhà ông hộ K…cặm xuồng dưới bến, nhảy lên bờ, đi thẳng vô cửa ngỏ ngói. Chó nó thấy đi tướng đầu quân môi trớt, quàn tà lỏn, áo mỏng trôn, bộ giò mốc cời, nó sủa thôi đà tét mép. Anh ta cứ lủi vô nhà trong, lấy tay vuốt mỏ một cái, rồi nhảy thót lên bộ ngựa giữa ngồi chéo mẩy huế chinh chòng. Lại hỏi lớn tiếng rằng: có anh hộ ở nhà không? Biểu ảnh ra tao nói chuyện một chút.

            Ông hộ đang nghỉ nhà sau, nghe đầy tớ nói có một thằng điên ở đâu vô ngồi nhà trên, thì ổng biểu đuổi nói đi. Ba Miểng không chịu đi, lại rằng: Mầy xuống nói với anh hộ, biểu ảnh cho tao mượn đỡ vài ngàn đồng xài chơi: dạo này tao túng.

            Ông hộ nghe vậy, thì nói với đầy tớ rằng: Biểu chú đó ra nhà sau, tao cho mượn. -Ba Miểng mầng khấp khởi, liền bước xuống, đi xênh xang, năm bảy bước gặp ông hộ. Ổng la lớn rằng: Thằng ba, thằng tư ở đâu? Biểu trẻ bắt thằng này vật xuống quết năm chục, rồi đuổi đi cho rảnh. Đồ điên ở đâu mà tới đây vậy! Đầy tớ làm y như lời ông hộ dạy. Ba Miểng ta sưng mông, than khóc inh ỏi rằng: Trời đất ôi! Ông tà á rặc hại tôi! – Những người trong nhà nghe, không hiểu chuyện gì, tưởng là thằng điên nói xàm, cười lộn ruột một hồi, rồi đuổi đi.

            Tôi nghiệp anh ta xuống xuồng, rồi nghĩ tủi, rồi giận lão thầy ngải láo xược, tính trở lên Sốc Rồ đòi bạc lại, liền nhổ giầm bơi trở lại. Đến Sốc Rồ, lên nhà Lão Xược la om sòm rằng: thầy nói ngải thầy cao lắm, nói đâu nghe đó, thầy coi cái mông tôi đây! Thầy báo, thầy hại cho họ đánh tôi vêu mông. Thầy phải trả bạc lại cho tôi. -Lão Xược rằng: Khéo nói lạ thế, đành mua, đành bán rồi thì thôi, có đâu mà đòi đi trả lại? Mà để tôi hỏi chú đều này: chú có làm y như lời tôi dặn không? -Ba Miểng rằng: sao mà không y? -Lão Xược nhìn sững Ba Miểng một hồi, rồi thêm rằng: Đây nè, cớ sự nầy là tại chú. Để tôi giải cho chú nghe, chú đừng phiền tôi. Chú thì sứt môi, chắc hồi chú vuốt miệng, chú không rà tay vô cái kẽ sứt đó, nên cái hơi vơ doan bạc phận trong ruột chú nó xì ra tại cái lỗ ấy, nó làm cho chú bị đòn như vậy, chớ có phải tại ngải thấp ở đâu? Mà thôi, nếu chú còn bụng tin tưởng tôi, thì chú cứ trở về kiếm thêm vài chục nữa, đem lên đây tôi cũng ráng chịu khó làm ơn trợ chú một phen nữa.

            -Thôi, thôi, lạy ông, lạy cha tôi kiểu thầy.

            Thấy ba Miểng đó, nghĩ thầm cười:

            Bị quất ít roi, mông rã rời;

            Bởi nói không suy, nên lỗi đạo,

            Vì nghe chẳng xét, mới lâm đời.

            Mên kia lão khẩu phân rành rẽ,

            Hộ nọ cao tay xử rạch ròi.

            Án Miểng này treo, răn Miểng khác.

            Nói nghe cẩn thận, phải cân lời.

                                  LÂM TRUNG, Dật sĩ.

***

PHƯƠNG LINH DƯỢC CHỮA BỊNH NGHÈO

(NKĐP, số 01, tr.13)

(Bài nghị luận khuyến khích làm ăn để chữa bịnh nghèo. Xin trích đọan mở đầu:)

“Trong cuộc trần gian không chi khốn hơn là bịnh hoạn. Khi lâm phải, ai lại không tìm thầy chạy thuốc? Tìm là tìm thầy giỏi, chạy là chạy thuốc hay. – Gẫm sự nghèo cũng là một bịnh, cũng là khốn, cũng là tai. Nhưng vậy ít người cho bài, ít người lo thuốc. Thầy thuốc thì thầy thuốc. Bịnh đau thì bịnh đau. Phải ai tai nấy. Giúp không giúp, lại chê bai, rằng: Khó khăn nói chẳng nên lời. Chớ thật sự, chẳng phải tại khó khăn mà nói chẳng nên lời. Song tại vì mình thốn thiếu, nên mới tính, mà làm không đặng, té ra như việc nói khoét. Hay là thiên hạ thấy không làm, thì tưởng là không biết luận tính kế chi. Cũng có khi là họa lai thần ám, là mắc hoạn nạn nghèo khổ nên rối trí đi. Mảng lo cho vợ con, làm không kịp thở, có rảnh có hở đâu mà tính phương chi, luận kế gì cho hay đặng? Thấy người ta phát đạt, mình cũng mong vinh hoa (thấy người ta giàu mình cũng muốn). Mà ngặt nghĩ lại, lực bất tùng tâm (muốn mà không sức) nên cũng còn tấn thối lưỡng nan (còn lưỡng lự) chưa lo bề bước tới…”

                                                                                           HUỲNH KIM LAN, Lương y

***

BỐN ĐẤNG SẼ LÊN BỰC “Á THÁNH”

(NKĐP, số 01, tr.14)

Đức cha có đặng tin bên thành Rôma thuyết rằng: nội tháng 10 tây tới đây thì sẽ lo việc tôn bốn Đấng đã chịu tử vì đạo tại Nam kỳ, lên bực á thánh, là cha Lộc, cha Lựu, Trùm Lựu và Phaolô Hạnh.- Sang năm sau lễ Phục Sinh có lẽ trông sẽ đặng làm lễ Phong thánh bốn Đấng ấy tại Rôma.-Nầy là tin rất đáng vui mầng, ta hãy cám đội ơn Chúa.

***

THUỐC TRỊ BỊNH TỨC LÓI

(NKĐP, số 01, tr.15)

Thường con nhà học trò mà siêng năng, thì nghe người hay bị tức lói; khi không nó bắt đánh trống ngực, trái tim quạt lia, làm cho mệt đuối sức.- Có bài thuốc gia truyền rất hiệu nghiệm mà trị chứng ấy, là lúc bị như vậy thì mỗi ngày sớm mai bụng đói lấy chừng mươi hột tiêu sọ, mà nhai biến đi và nuốt hết (ngày nào biết có công việc phải lao lực nhiều hơn thì ăn chừng mươi lăm hột). Cứ làm vậy ít bữa thì yên tâm. Đã dễ, lại rẻ tiền: Hãy thử mà coi.

***

CỌP BẮT NGƯỜI TẠI CÙ MI

(NKĐP, số 01, tr.15)

[tóm tắt] Bà Rịa đi ra ngoài nữa có một họ tên là Cù Mi. Xứ ấy là rừng biển…

Mới đây cha sở họ Cù Mi gởi thơ cho bổn quán mà nói rằng từ hôm mùng 9 Sept tới nay có 3 thợ rừng tên là Yên, Điểu và Lân, đang làm cây trên rừng mà bị cọp bắt giữa ban ngày. Chỗ đó xa nhà thờ  bảy tám trăm thước tây mà thôi.

Về phần Bổn quán thì xin chỉ trước một phương thường người ta hay làm, dễ, không chi hiểm nghèo. Chính mình trong Bổn quán đã có làm như vầy và bắt đặng một con cọp lớn tại Ba Lai chỗ Cửa Đại, và đặng bạc thưởng 25 đồng nữa.

Bắt một con chó, buộc theo chỗ cọp hay đi…

Còn một thế khác dễ hơn, khỏe hơn và không có phải sợ chuyện gì…cũng thí một con chó buộc nó gần vách chừng hai ba thước tây…cấm súng hai lòng, nạp hai viên đạng to. Chừng cọp lại mà rình con chó, thì phải cho tỉnh, nhắm ngay tim mà đưa một phát, nó nhào lăn. Rồi nhắm lại, bồi một phát nữa, chắc hết cựa quậy.

                                                                                                                        BỔN QUÁN

***

[QUẢNG CÁO-trang bìa sau]

Truyện Đức Chúa Bà hiện ra tại Lourdes

Tại nhà in Tân Định có bán sách thuật lại đủ gốc tích Đức Chúa Bà hiện ra tại thành Lourdes. Sách nầy chép tiếng xuôi dịu rất hay, lại có hình đẹp lắm.

            Giá một cuốn……0$60

            Đóng bìa rồi . ….0 80.

Tiệm sửa đồng hồ và các thứ đồ máy

Ông Carôlô Tị ở Đất Hộ (Saigon) Boulevard Luro, môn bài số 48, có sửa đồng hồ lớn, đồng hồ quả quít, và các thứ máy. Sửa kỷ, tốt, chắc, lại ăn giá rẻ.

Thuốc trị phong lác

Thầy Nicolas Tàu ở Ba Giồng có tìm đặng thuốc trừ bịnh Phong Lác, bất kỳ thứ nào, từ ba mươi năm trở lại thì chắc cho hết. Không biết bao nhiêu người nhờ thuốc thầy nầy mà đặng lành. -Ai muốn đến mà xin khán bịnh, hay là viết thơ mà bàn hỏi, cũng đặng. Đề bao thơ như vầy:

            Monsieur Nicolas Tàu, à Ba Giồng, par Tân Hiệp.


[1] sắc lệnh ngày 30-12-1898 của tổng thống Pháp Félix Faure, qui định thêm: tất cả những tờ báo in bằng quốc ngữ Việt Nam phải có sự cho phép trước của quan toàn quyền

[2] Nguyễn Văn LụcDòng văn học mang dấu Chúa (phần 51-Kết)

https://sites.google.com/site/gsnguyenvanluc/bai-viet-2014/phan-51

[3] Lê Đình BảngBáo chí Công giáo Việt Nam một hành trình thế kỷ (1908-2019)

[4] Đỗ Quang HưngBáo chí tôn giáo ở Việt Nam trước 1945

[5] Nguyễn Văn TrungLục Châu Học-Chương V. http://nguyenvantrung.free.fr/lucchauhoc/index.html

SẤM TRUYỀN CA của Lữ Y Đoan & Những giá trị văn chương

Bạn có thể đọc các bài viết chính của Bùi Công Thuấn theo link:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

SẤM TRUYỀN CA của Lữ Y Đoan

& Những giá trị văn chương

Bùi Công Thuấn

***

TỔNG QUAN

Năm 1956, trong “Mấy lời nói đầu” Sấm Truyền ca (bản chép lại), ông Thaddoeus Nguyễn Văn Nhạn viết: “Theo truyền khẩu, bốn Sấm truyền ca này do linh mục Louis Đoan (thầy cả Lữ-y Đoan) viết ra lối năm 1670”.

Đến nay, nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Vy Khanh khẳng định: “Sấm Truyền Ca là một tác phẩm văn học đặc sắc vì phản ảnh một nỗ lực Việt Nam hóa và bình dân hóa Kinh Thánh bằng cách mượn những yếu tố văn hóa Việt Nam và Ðông phương để diễn dịch Kinh Thánh. Trước hết, có thể nói Sấm Truyền Ca là dấu tích văn bản Nôm xưa nhất của Việt Nam” (1670) [[1]].

Văn bản gốc chữ Nôm của Sấm Truyền Ca đã thất lạc. Hiện chỉ còn những bản chép tay và bản in lại. Hai nhà nghiên cứu Lm. Trăng Thập Tự và Nguyễn Thanh Quang [[2]] đã ghi “niên biểu” quá trình xuất hiện, thất lạc, tìm thấy, sao chép, nhuận sắc Sấm Truyền Ca từ văn bản chữ Nôm đến chữ Quốc ngữ lưu truyền từ 1670 đến nay.

Khi viết bài này, tôi sử dụng bản Tạo Đoan Kinh do Tập San Y sĩ xuất bản tại Canada năm 2000 (tức là bản chép tay của Paulus Tạo) vì gần với bản Nôm hơn. Tôi cũng đối chiếu với Sách Sáng Thế, bản dịch của Nhóm các giờ kinh phụng vụ và bản tiếng Anh (The Book of Genesis [[3]].

Có nhiều vấn đề không được đề cập đến trong bài viết này: vấn đề về tiểu sử tác giả Lữ Y Đoan [[4]]. Các vấn đề về văn bản học, về chú giải Kinh thánh, về Thần học được trình bày trong Sấm Truyền Ca; về nghiên cứu bối cảnh lịch sử, văn hóa thời Trịnh-Nguyễn phân tranh (1627-1672) ảnh hưởng đối với Lữ Y Đoan và Sấm Truyền Ca; việc thành lập giáo phận Đàng Trong, giáo phận Đàng Ngoài (1659), và ảnh hưởng của văn học dân tộc đối với việc sáng tác Lữ Y Đoan thế nào [Đào Duy Từ (1572-1634), Phùng Khắc Khoan (1528-1613), Nguyễn Hữu Hào (1648-1713)]…

 Sấm Truyền Ca của Lữ Y Đoan là bản “diễn ca” Sách sáng thế (The Book of Genesis) của Cựu Ước. Đó là bản dịch Kinh thánh ra tiếng Việt (chữ Nôm) và diễn thành thơ lục bát (Diễn ca). Chúng tôi sẽ xem xét Tạo Đoan Kinh ở góc độ thể loại: Tạo Đoan Kinh là một tác phẩm dịch, và Tạo Đoan Kinh là một truyện thơ Nôm. Để dịch một tác phẩm tiếng nước ngoài sang tiếng Việt, người dịch phải hiểu biết sâu sắc văn bản, hiểu ngôn ngữ và văn hóa nước ngoài; đồng thời cũng phải hiểu biết sâu sắc tiếng Việt và văn hóa Việt. Để kiến tạo một truyện thơ, tác giả phải tuân thủ những đặc điểm thể loại truyện (phương thức tự sự) và thể loại thơ (phương thức trữ tình).

TẠO ĐOAN KINH, BẢN DỊCH SÁCH SÁNG THẾ

1.Nhận xét việc dịch của Lữ Y Đoan, linh mục Phalô Quí (1885) viết:

“a. Thầy cả Lữ Y Đoan dựa theo Kinh thánh khá chặt chẽ, trừ những câu về tên

riêng của dòng dõi các tổ phụ thì viết đại khái theo điểm chính.

b. Những câu không phù hợp dân tộc tính An-nam thì trình bày theo sự kiện thần

thoại mà người Á-đông quen dùng chẳng hạn như ông Lót [5]và hai đứa con gái của mình…

c. Về tên riêng, không rõ chữ Nôm xưa viết thế nào, chỉ theo bổn của Phan Văn

Cận (1820) và tôi đã chữa lại theo lối phiên âm của các linh mục Langsa quen dùng tại Sàigòn hiện nay (1885)” (Nguồn: bản chép tay của Paulus Tạo, tr. 7 bis).

            2. Một “chiến lược” dịch.

            Hẳn nhiên thầy cả Lữ Y Đoan biết rằng khi dịch Kinh thánh sang tiếng Việt, dịch giả phải bảo đảm tuyệt đối tính chuẩn xác của nội dung Kinh thánh. Vì đó là “Lời Chúa”. Nhưng Lữ Y Đoan cũng có nhiều kinh nghiệm dạy đạo cho dân. Với người bình dân, ngôn ngữ dạy đạo phải dễ hiểu, gần gũi, ngắn gọn; nội dung thông tin không trái với tín ngưỡng, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Tôi nghĩ, ông có một “chiến lược” dịch và “diễn ca” đối với đối tượng giáo dân đương thời. Nói theo ngôn ngữ của Tông huấn Giáo hội tại Châu Á (Ecclesia in Asia. Xin đọc đoạn 20 & 21), đó là chiến lược “hội nhập văn hóa”: trình bày mầu nhiệm Đức Kitô cho dân tộc mình, theo những kiểu mẫu văn hoá và cách suy nghĩ của họ”.

Lữ Y Đoan làm giảm đi sự phức tạp, rắc rối của Sách Sáng Thế bằng cách chỉ tập chú vào các tổ phụ chính: A-dong, Abraham (Ap-ram), Isaac (I-giac), Jacob (Gia-cước) và Joseph (Dư-đạc); thuật lại các biến cố, các sự kiện chính; đặc biệt nhắc lại nhiều lần lời hứa của Thiên Chúa (Trời) và lược bớt những thế hệ cháu chắt dòng tộc chằng chịt. Ở những chỗ lược bớt, ông thay bằng một vài câu tổng luận hoặc lời bình ngoại đề, nhờ thế rút gọn phần tường thuật và bảo đảm được độ tin cậy về nội dung của Sách Sáng Thế.

Thí dụ, Chương 36 Sách Sáng Thế kể về dòng dõi Esau (Án-giao). Tác giả Sách Sáng Thế đã kể ra tên của gần 100 nhân vật với các quan hệ dòng họ, bản dịch của Nhóm các giờ kinh phụng vụ dẫn người đọc vào một rừng tên xa lạ. Thực ra, Sách Sáng Thế kể chi tiết tên dòng tộc các tổ phụ là để bảo đảm tính lịch sử. Nhưng cách viết liệt kê, ngôn ngữ khô khan nên khó đọc. Lữ Y Đoan đã lược bỏ hết tên các nhân vật con cháu, chỉ giữ lại nhân vật chính là Án-giao (Esau) và thêm vào nhận xét, lý giải của mình. Ông viết tổng luận như sau (xin chú ý thái độ diễn ngôn của Lữ Y Đoan):

            Đoạn này chép chuyện gia đàng

            Sinh cơ lập nghiệp của chàng Án-giao

            …

                        Đời con chỉ biết trần gian,

                        Đời cháu nhân nghĩa lại càng mờ lu.

                        Sinh cư theo luật giang hồ,

                        Mạnh ăn, yếu chết, cõi bờ tóm thâu.

                        Địa phương bộ lạc đạp nhầu,

                        Dân nào sống sót rừng sâu lánh nàn.

                        Án-giao cháu nội đầy đàn,

                        Người nào võ nghệ cũng trang anh hùng.

                        Gươm đao càng lúc tưng bừng.

                        Mỗi người đều chiếm một vùng phì nhiêu.

                        Cũng như ngọn sóng thủy triều,

                        Trở nên lãnh chúa binh nhiều dân đông.

                        Biên cương mở rộng tứ tung,

                        Phân quyền cai trị, loạn trong giặc ngoài.

                        Trải qua lịch sử vần xây,

                        Thăng trầm chế độ lại gầy bá vương.

                        Đánh nhau xương ngập chiến trường…               

                                                                    (tr.115)

                        Notes: Án-giao (Esau), con của Isaac và Lan-bạch (Rebecca)

Nhờ cách viết này mà Tạo Đoan Kinh trở nên dễ đọc, dễ hiểu, dễ cảm nhận đối với người đọc thời ấy (và hôm nay).

            3. Chọn lựa một cách dịch

Xin khảo sát trích đoạn 21.

Xin đối chiếu Tạo Đoan Kinh với bản dịch của “Nhóm các giờ kinh phục vụ”:

Chương 21 Sách Sáng Thế:

            “Ông I-xa-ác chào đời

1 ĐỨC CHÚA viếng thăm bà Xa-ra như Người đã phán, và Người đã làm cho bà như Người đã hứa.2 Bà Xa-ra có thai và sinh cho ông Áp-ra-ham một con trai khi ông đã già, vào thời kỳ Thiên Chúa đã hứa.3 Ông Áp-ra-ham đặt tên cho đứa con sinh ra cho ông là I-xa-ac, đứa con mà bà Xa-ra sinh ra cho ông.4 Ông Áp-ra-ham cắt bì cho I-xa-ac, con ông, lúc nó được tám ngày, như Thiên Chúa đã truyền cho ông.5 Ông Áp-ra-ham được một trăm tuổi khi sinh được người con là I-xa-ac.6 Bà Xa-ra nói:

Thiên Chúa đã làm cho tôi cười; tất cả những ai nghe biết sẽ cười tôi.”

7 Bà còn nói:

“Ai dám báo trước cho ông Áp-ra-ham rằng Xa-ra sẽ cho con bú? Thế mà tôi đã sinh cho ông một con trai, khi ông đã về già!”

            Đoạn 21 (Tạo Đoan Kinh của Lữ Y Đoan)

Mấy mùa xuân đã trải qua

Những điều Trời hứa cho nhà Ra-ham

Thì nay đến lúc thực hành

Sa-ra sinh một trẻ nam nối dòng

Vui trong cảnh xế vợ chồng

Đặt tên I-giác cầu mong đắc thành.

Cắt bì, bát nhật cử hành,

Ra-ham vừa chẵn một trăm tuổi đầu.

Sa-ra cảm nghĩa thiên mầu,

Một niềm vui lớn phủ bao khắp vùng.

Nào ai son sẻ lạnh lùng,

Già nua mà đã sinh con cho chồng”

Một đoạn trích nhỏ cũng giúp nhận ra một vài đặc điểm nghệ thuật dịch Kinh thánh của Lữ Y Đoan.

Lữ Y Đoan không bám sát từng câu của nguyên tác Sách Sáng Thế, nhưng bảo đảm nội dung câu chuyện của nguyên tác (tức là bảo đảm các yếu tố cột trụ của truyện là cốt truyện, nhân vật, tình huống, thời gian, không gian). Ông cũng chuyển hai câu nói trực tiếp của bà Sara thành tiếng nói nội tâm (kiểu câu nói gián tiếp) của Sara.

 Lữ Y Đoan đã chuyển những từ “Đức Chúa”, “Thiên Chúa” thành chữ “Trời” (chữ Trời viết hoa).

Trong bản dịch của “Nhóm các giờ kinh phụng vụ”, chương 21 có 10 lần kể về Thiên Chúa ở ngôi chủ ngữ:  Thiên Chúa viếng thăm, Thiên Chúa đã hứa, Thiên Chúa đã truyền, Thiên Chúa đã làm cho, Thiên Chúa đã phán, Thiên Chúa nghe, Thiên Chúa gọi, Thiên Chúa mở mắt, Thiên Chúa ở với. Việc Sách Sáng Thế tô đậm chữ “Đức Chúa” là để nhấn mạnh đức tin tôn giáo. Lữ Y Đoan chỉ nói về Trời 7 lần. Ông chuyển cấu trúc mệnh đề (Thiên Chúa+hành động) thành danh từ: ý Trời, phước Trời, Thiên cơ, Trời ơi, có Trời. Cách dịch này tạo cho văn bản sự gần gũi với người Việt, vừa chuyển hẳn nội hàm tôn giáo sang ý nghĩa tâm linh Việt (người Việt tin thờ Trời đất. Trước sân nhà người bên lương có bàn thờ Thiên), dễ đưa nội dung Kinh thánh vào văn hóa Việt.

3.Dùng từ Hán-Việt và thuần Việt.

 Lữ Y Đoan có dụng ý khi dùng cả hai loại từ Hán Việt và thuần Việt trong văn bản.  Có lẽ ông hướng đến cả hai đối tượng trí thức Nho học và công chúng bình dân. Những từ Hán-Việt tạo nên sự trang trọng, những từ bình dân và khẩu ngữ tạo nên sự gần gũi thân tình.

Mấy mùa xuân đã trải qua

Những điều Trời hứa cho nhà Ra-ham

Thì nay đến lúc thực hành

Sa-ra sinh một trẻ nam nối dòng

Vui trong cảnh xế vợ chồng

Đặt tên I-giác cầu mong đắc thành.

Cắt bì, bát nhật cử hành,

Ra-ham vừa chẵn một trăm tuổi đầu.

Sa-ra cảm nghĩa thiên mầu,

Một niềm vui lớn phủ bao khắp vùng.

Nào ai son sẻ lạnh lùng,

Già nua mà đã sinh con cho chồng”

            Những từ Hán-Việt là “thực hành”, “bát nhật cử hành”; “đắc thành”, “Thiên mầu”…Những từ khẩu ngử là “thì nay đến lúc”, “vừa chẵn một trăm tuổi đầu”, “già nua mà đã”…

            Ngưòi đọc hôm nay còn gặp nhiều từ bình dân rất gần gũi:

                        Cháo cơm đắp đổi chờ qua tháng ngày

(Đoạn 47. Tr. 152)

Cha già gấn đất xa trời

(Đoạn 47. Tr. 153)

Miền đông nối tiếp lộ trình

Đèo heo hút gió một mình xông pha

(Đoạn 29. Tr. 85)

Mai kia, mốt nọ bất thần,

(Đoạn 30. Tr.92)

Gia-cước tài cán bao nhiêu

Giàu nhờ của vợ, còn nhiều mưu mô

(Đoạn 31. Tr.93)

Nhưng nhờ trời độ bình yên

Tai qua nạn khỏi, ưu phiền cũng vơi.

(Đoạn 31. Tr.94)

Bữa cơm, bữa cháo cầm hơi

Bao nhiêu lúa gạo cũng trôi phương nào.

                        (Đoạn 43. Tr.138)

4. Viết thêm những “lời bình ngoại đề”

Ở đọan trích trên (đoạn 21 Tạo Đoan Kinh), Lữ Y Đoan thêm vào câu đầu tiên “Mấy mùa xuân đã trải qua”, tạo bối cảnh thời gian (một yếu tố của cốt truyện).

Trong cấu trúc tác phẩm, ông thêm vào đoạn “Vào đề và đoạn “Lời kết”:

Vào đề

Ngày ngày trước mắt chúng sinh,

Chữ đời chữ đạo phân minh đôi đường.

Xưa nay trong kiếp vô thường,

Thấy điều vân cẩu mà thương nhân phàm.

Loài người từ thuở a-đam,

Đua nhau xây dựng mộng ham làm trời.

Một pho Kinh thánh ra đời

Chứng minh vạn đại những lời do Thiên”

                     (Bản in Canada năm 2000, tr.3)

            Lời kết:

                        Tích xưa cho thấy vấn đề:

                        Sự đời sự đạo đi kề bên nhau.

                        Đời thì danh lợi xôn xao,

                        Đạo thì trầm lặng để cầu ý ngay.

                        Thế gian phải có một ngày,

                        Hầu coi thắng lợi về tay ông Trời.

                                           (Bản in Canada năm 2000, tr.163)

            Hai đoạn Vào đềLời kết tạo nên sự thống nhất chủ đề cùa Tạo Đoan Kinh; tạo nên sự khác biệt về cấu trúc đối với nguyên tác và cũng là điều tác giả muốn người đọc lưu tâm.

            5. Việt hóa tên người, tên đất

Điều dễ nhận thấy là Lữ Y Đoan đã Việt hóa tên nhân vật, tên địa danh; thường là phiên âm theo tên Latinh, có khi đặt hẳn tên Việt:

            Ca-in năm tháng chập chồng,

            Sinh ra Ê-nóc thấy lòng sướng vui.

            Xây thành, đắp lũy, dựng đời,

            Lấy tên con gọi “vùng trời khai hoang”

            Nối nhau con cháu đầy đàn,

            Số này La-mạc một chàng đa thê.

            Sinh ra lắm kẻ tài nghề:

            Gia-bên: du mục nhiều bề quy mô;

            Dự -bàng: thỉ tổ xướng thơ,

            Chế ra nhạc khí, sáo ru đờn kèn;

            Từ -canh: tổ mộc tổ rèn,

            Mở thời kim khí, dựng nền võ công;

            Nương mai: mỹ nghệ phấn son,

            Làm cho thành phố ngày phồn thịnh hơn.

                                    (Đoạn 4, câu 17-22 tr. 16)

            Notes: Ê-nóc (Enoch); La-mạc (Lamech); Giabe6n (Jabel); Dự-bàng (Dubal); Từ-canh

 (Tubalcain); Nương-mai (Noelma)

Bản dịch của Nhóm các giờ kinh phụng vụ phiên âm cách đọc tên nhân vật, đọc rất xa lạ:

“Ông Ca-in ăn ở với vợ. Bà thụ thai và sinh ra Kha-nốc, . Ông xây một thành, và lấy tên con mình là Kha-nốc mà đặt cho thành ấy…18 Kha-nốc sinh I-rát; I-rát sinh Mơ-khu-gia-ên; Mơ-khu-gia-ên sinh Mơ-thu-sa-ên; Mơ-thu-sa-ên sinh La-méc.19 La-méc lấy hai vợ, một bà tên là A-đa, bà thứ hai tên là Xi-la.20 Bà A-đa sinh Gia-van; ông này là ông tổ các người ở lều và nuôi súc vật.21 Em ông này tên là Giu-van; ông này là ông tổ các người chơi đàn thổi sáo.22 Còn bà Xi-la thì sinh Tu-van Ca-in; ông này là ông tổ các người thợ rèn đồng và sắt. Em gái Tu-van Ca-inNa-a-ma (Chương 4, câu 17-22)

            6. Sự khác biệt giữa bản dịch và “Diễn ca”

Người đọc cũng cảm nhận điều này: Sách Sáng Thế bản văn xuôi đọc rất nặng nề, rắc rối, xa lạ, bởi câu chuyện được kể xảy ra ở mãi đâu đâu với tên người, tên đất, dòng tộc không ai biết (lúc ấy việc giao thương quốc tế vào giao lưu văn hóa còn rất hạn chế). Trái lại, khi đọc cùng một chương ở Tạo Đoan Kinh, người đọc thấy nhẹ nhàng dễ tiếp nhận. Sự khác biệt này là hiệu quả nghệ thuật “diễn ca” của Tạo Đoan Kinh

Thí dụ Chương V Sách Sáng Thế và đoạn V Tạo Đoan Kinh:

            Chương V, Sách Sáng Thế (Chỉ chú ý thuật sự việc).

            “25 Khi ông Mơ-thu-se-lác được 187 tuổi, thì sinh ra La-méc. 26 Sau khi sinh La-méc, ông Mơ-thu-se-lác sống 782 năm và sinh ra con trai con gái. 27 Tổng cộng ông Mơ-thu-se-lác sống được 969 năm, rồi qua đời.

28 Khi ông La-méc sống được 182 hai tuổi, thì sinh ra một người con trai. 29 Ông đặt tên cho con là Nô-ê; ông nói: “Khi tay chúng ta phải làm lụng cực nhọc, thì trẻ này sẽ đem lại cho chúng ta niềm an ủi phát xuất từ đất đai ĐỨC CHÚA đã nguyền rủa.” 30 Sau khi sinh ông Nô-ê, ông La-méc sống 595 năm và sinh ra con trai con gái. 31 Tổng cộng ông La-méc sống được 777 năm, rồi qua đời.

32 Khi ông Nô-ê được 500 tuổi, thì sinh ra Sêm, KhamGia-phét.

            Đoạn V Tạo Đoan Kinh, Lữ Y Đoan lướt qua sự việc mà nhấn mạch đến “Đạo trời là gốc” và thái độ “sống đạo giữa đời”.

            Đến đời La-mạch đinh ninh:

            Đạo trời là gốc nhân sinh phải tùng.

            Mã-thư-san thọ nhứt ông,

            Chín trăm sáu chín vào vòng tử quy.

            La-mạch khi có No-e

            Rằng: nguồn an ủi cho nghề canh nông,

            Vì xưa do tội tổ tông

            Đất đai Chúa phạt nhọc công việc làm.

            No-e thân phụ Sem, Cam,

            Cùng là Gia-phết siêng chăm luật Trời

            Lược qua gia phả loài người

            Sống đạo giữa đời khác tộc Ca-in.

                        (Bản in Canada năm 2000, tr.19)

            7. Ngôn ngữ hiện đại.

 Điều làm ngạc nhiên người đọc hôm nay là ngôn ngữ của Tạo Đoan Kinh (thế kỷ XVII) rất gần với ngôn ngữ của hôm nay (thế kỷ XXI).

Thí dụ:

            Gia-cước cà nhắc một chơn lên đàng

(Đoạn 32, tr.103)

Mình là thiểu số mỏng giòn

(Đoạn 34. Tr.109)

Chú mày bá láp bá xàm

(Đoạn 37, tr.116)

Chi bằng bán quách cho xong

Lấy tiền ăn nhậu, sống còn mặc ai

 (Đoạn 37, tr.116)

            Bao năm gây dựng cơ đồ

Trà-nam đất hứa bây giờ tản cư

(Đoạn 46, tr. 148)

Quan trên nghi kỵ điệp viên

Tù tội, dằn vặt, không yên trí lòng

(Đoạn 42.tr. 137)

Mời cha di tản tạm thời

Vì cơn đó khổ cằn còi còn lâu

(Đoạn 45. Tr.145)

Biền-mân đen tối ý đồ,

(đoạn 49. Tr. 158)

Sinh cư theo luật giang hồ,

                                    (Đoạn 36, tr 115)

Trong Tạo Đoan Kinh rất ít gặp từ cổ (tôi chỉ gặp một chữ “quờn”, nghĩa là quyền). Theo tôi quan sát, trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954), người dân

Hay dùng chữ “tản cư”, còn trước 1975, ở miền Nam hay dùng chữ “di tản”. Chữ “mỏng giòn” cũng được nhà đạo dùng cách nay không lâu. Chữ “ý đồ đen tối” là ngôn ngữ chính trị đương đại.

  Tôi không có điều kiện tra cứu tự điển cổ ngữ hay so sánh với văn bản các tác phẩm cùng thời, để xem xét đặc điểm ngôn ngữ của Lữ Y Đoan, nhưng đọc thơ (chữ Quốc ngữ) của Linh mục Felippe do Rosario Bỉnh (1759-1833), tôi thấy ngôn ngữ của linh mục Bỉnh còn cổ hơn ngôn ngữ Tạo Đoan Kinh nhiều.

Xin đọc

            Ở TẠM NƠI THÀNH MACAO THƠ

                                    Felippe do Rosario Bỉnh

            Tuy rằng gưởi gắp chốn Macao

            Hai chữ thanh nhàn xiết kể bao

            Hôm sớm phần hồn dầu mặc sức

            Tháng ngày việc xác chẳng tơ hào

            Xây vần tám tiết hằng no ấm

            Đắp đổi tư mùa khỏi khát khao

            Gần chợ gần sông gần núi bể

            Tăm mùi không chút vẻ tanh tao

                        (Nhật trình kim thư khất chính Chúa giáo. 1793-1826)

            Notes: gưởi gắp: gửi gắm, nương nhờ; Tăm mùi: tăm hơi [[6]]

NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN CHƯƠNG

            1.Giá trị tư tưởng.

            Nội dung Tạo Đoan Kinh là nội dung Sách Sáng Thế, đó không phải là sáng tạo của Lữ Y Đoan. Vậy, kể chuyện Sách Sáng Thế, mục đích diễn ngôn của tác giả là gì?

Xin lưu ý rằng, Tạo Đoan Kinh có cấu trúc: Vào đề-Kể chuyện Kinh thánh-Lời kết. Sau này Nguyễn Du cũng cấu trúc Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) như vậy. Nguyễn Du viết phần mở đầu để đặt vấn đề “tài mệnh tương đố” (“Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”). Sau đó kể lại số phận Kiều chứng minh cho thuyết ấy. Đoạn kết, Nguyễn Du hóa giải “tài mệnh tương đồ” bằng chữ Tâm của nhà Phật (“Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”).

Như vậy Tạo Đoan Kinh là truyện kể có tính luận đề.

                        Tích xưa cho thấy vấn đề:

                        Sự đời sự đạo đi kề bên nhau.

                        Đời thì danh lợi xôn xao,

                        Đạo thì trầm lặng để cầu ý ngay.

                        Thế gian phải có một ngày,

                        Hầu coi thắng lợi về tay ông Trời.

                                           (Bản in Canada năm 2000, tr.163)

            Thế gian có “đạo”, có “đời”; có thiện, có ác. Những người lương thiện, biết tin vào trời, hiều ý trời, hành động thuận thiên thì được trời ban phước.

                        Làm lành được hưởng phước dư,

                        Làm dữ bị phạt, liệu cư xử hành.

                                   (đoạn 4, tr.14)

            Từng làm sáng tỏ đạo trời,

Khi lâm biến cố có Người chở che.

Như trong trường hợp No-e,

Đại họa đến kề, gia đạo an vui.

                       (Đoạn 7. Tr 22)

                        Nhờ Trời độ mạng chàng trai

                        Được nhiều tín cẩn với tài đảm đương

Sống trong may mắn khác thường

Các quan cũng thấy có ơn chư thần

                        …

                        Sống trên nhung lụa giàu sang

                        Nhưng riêng Dư-tiệp đạo tâm hẳn hòi

                        Luôn luôn thờ kính ông Trời

                        Vưu nhân bất khả, giúp đời thí công

                                                (Đoạn 39. tr.123-124)

                        Tạ ơn Thượng đế ơn ban

                        Trong cơn hoạn nạn vinh quang chan hòa

                                                (Đoạn 41. Tr.133)

Lữ Y Đoan đã trình bày đức tin của người theo Kitô giáo hoàn toàn hòa nhập trong niềm tin tâm linh dân tộc. Đạo Chúa là “đạo Trời”. Có lòng tin Trời thì được Trời độ mạng sống trong may mắn. Sống làm sáng tỏ đạo Trời thì được Trời chở che như ông No-e trong Đại hồng thủy.

Trình bày Kinh thánh trong hội nhập văn hóa dân tộc, thầy cả Lữ Y Đoan đã mạnh dạn khám phá, sáng tạo những cách diễn dạt gần gũi phù hợp với độc giả Việt. Có sự hòa hợp rất tinh tế ý thức về Thiên Chúa của Kitô giáo, với Thiên mệnh của Nho giáo và Trời của tâm linh Việt. Lữ Y Đoan sử dụng thuyết âm dương ngũ hành cùng với Thiên mệnh của Nho giáokhi nói đến “cơ trời- thiên cơ”, “luật trời, định mạng”; “Âm từ dương xuất”.

Cơ trời sinh hóa hóa sinh

Ngũ hành thiên địa tiến trình yên xuôi

                        (Đoạn 2, tr.7)

Bình tâm đừng có nghi ngờ,

Đó là định mạng, thiên an bài

                        (Đoạn 45, tr.145)

Thì đây diễn biến luật trời

Âm từ dương xuất, nữ thời do nam

                     (Đoạn 2, tr.10)

Tất cả những ý niệm đó được dùng để giải thích cuộc tạo dựng của Thiên Chúa:

            Kể ra đại cuộc tạo thành

            Một tay Thượng đế quyền năng kiện toàn

                                    (Đoạn 2, tr. 7)

Trong cách trình bày, Lữ Y Đoan dùng ý thức về ông Trời làm trụ cột. Đúng là có “đạo trời” trong tâm linh Việt. Vì thế Tạo Đoan Kinh rất nhẹ nhàng chất tôn giáo mà thấm đẫm màu sắc tâm linh Việt.

            Khi kể truyện Kinh thánh, ngoài việc khẳng định lòng tin vào Trời, Lữ Y Đoan còn tập trung giáo dục đạo đức. Ông sử dụng những khái niệm đạo đức của Nho giáo, kết hợp với truyền thống dân tộc để giáo dục đạo vợ chồng, đạo hiếu thảo, “tam cương, ngũ thường”; việc “tu thần, tề gia” phải “minh đức, tân dân” (Sách Đại học: “Đại học chi đạo tại minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện”-

            Phu thê đạo trọng, ở đây công bằng

                                  (tr. 55)

            Vợ đâu chồng đó gia đình hợp nhau

                              (Đoạn 20-tr. 56)

            Tiếp theo là Set khuếch trương

            Tu thân vi bổn, chủ trương ôn hòa.

            Nêu cao hiếu thảo mẹ cha,

            Tiếp theo Ê-nữu tề gia vẹn toàn

            Trước lo trọng nghĩa tào khang

            Làm ăn cần kiệm nuôi đàn cháu con

                            (Đoạn 5, tr.18)

Trong thì minh đức tân dân,

Ngoài thì ngũ đức, tam cang thực hành.

                            (Đoạn 5, tr.18)

            Hoàng thiên bất phụ thiện tâm

                                              (Đoạn 4, tr. 14)

Note: sách Minh Tâm Bửi Giám: Hoàng thiên bất phụ thiện tâm nhân-Trời không phụ

          người có lòng thiện

Nói về Ich-manh (Ismael) có 12 con trai mở mang bời cõi dựng nghiệp, tác giả nhận xét:

Nhờ nơi phúc đức tông đường,

Ông bà đạo nghĩa, cháu con sang giàu.

               (Đoạn 25, tr.72)

Như vậy, Lữ Y Đoan kể truyện Kinh thánh không chỉ đem đến cho người đọc Việt

Những hiểu biết về Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, con người; về các tổ phụ và về sự phát triển của dân tộc Israel; mà nhân theo câu truyện Kinh thánh, ông rút ra các bài học đạo đức cho bạn đọc. Nói cách khác, ông làm cho Kinh thánh hội nhập vào cả văn hóa, đạo đức dân tộc. Người đọc sẽ thấy Kinh thánh không hề xa lạ hay mâu thuẫn với đời sống giáo dân Việt. Trái lại, Kinh thánh còn là bằng chứng hiển nhiên cho những chân lý mà dân Việt sống đạo hàng ngày.

            Lữ Y Đoan còn đưa ra những nhận xét có tính triết lý.

                        Chuyện đời là chuyện chiến tranh

Cá lớn, cá bé giựt giành miếng ăn

                                                 (Đoạn 14, tr 38)

                        Mưu đồ là thói người ta

Xưa nay thành sự vốn là Trời cao

                                              (Đoạn 29, tr.88)

                        Gian nan là lẽ huyền vi

Đốt nung cuộc sống để tri đá vàng.

(Đoạn 39, tr.124)

Trò đời là cái hư vô

                                    Cũng vì ích kỷ làm nhơ tình người

                                    Ngay gian xin có mấy lời

                                    Tớ vì chữ hiếu mong trời chứng minh

                                                               (Đoạn 44, tr 144)

                        Đời người trong kiếp trăm năm,

Làm sao sánh được thời gian của Trời.

(Đoạn 50. Tr. 162)

                        Ngược xuôi trên biển âm dương

Kẻ đi người tới theo đường tử sinh

(Đoạn 50, tr. 161)

Những nhận thức triết lý này đã xuất hiện trong văn học dân tộc trước và sau Lữ Y

Đoan. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) nói nhiều đến “thói đời”. Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) nói đến “thế cục”, lẽ “huyền vi” (“Kìa thế cục như in giấc mộng/ Máy huyền vi mở đồng khôn lường”- Cung oán ngâm khúc). Nguyễn Du (1766-1820) nói đến “Trăm năm trong cõi người ta” (Câu 1-Đoạn trường tân thanh).

2.Giá trị văn chương

a.Văn chương là nghệ thuật ngôn từ, tức là sự sáng tạo Cái Đẹp bằng ngôn ngữ.

Nguyễn Tuân chủ trương “Văn phải là văn”. Ai cũng có thể kể chuyện, ai cũng có thể làm vài câu Lục bát, thậm chí làm hẳn một “bài thơ”, nhưng nhà văn thì khác với “thợ” văn, “thợ” thơ (chữ của Nam Cao).

            Tạo Đoan Kinh có nhiều câu, nhiều đọạn, nhiều hình ảnh được dệt bằng ngôn ngữ rất đẹp, vẻ đẹp vừa bình dân, vừa trí thức Nho học và rất Việt Nam. Người đọc hôm nay ngạc nhiên về vẻ đẹp tiếng Việt thế kỷ XVII của Tạo Đoan Kinh. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nhận xét: “Trong 3606 câu lục bát của “Sấm truyền ca” (quyển 1: Tạo đoan kinh) còn có nhiều câu thú vị, bất ngờ như vậy. Đọc nó ta càng thêm quý thêm yêu tiếng Việt và biết ơn công lao của bao lớp người đã gìn giữ, bồi đắp, phát triển cho nó ngày càng đẹp đẽ, trong sáng, đủ sức chuyển tải và truyền đạt được mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của người Việt chúng ta” [[7]].

                        Tuyệt vời như một bài thơ

Như đồng lúa chin vàng mơ khắp trời

(Đoạn 49, tr.157)

                        Đường về mấy dặm quan hà

Vừa qua sông lớn lại qua truông dài

(Đoạn 31. Tr.95)

                        Tạ từ vó ngựa lên đàng

Sương mai phủ kín dặm ngàn đôi bên

(Đoạn 31.tr. 99)

            Náu nương bộng đá che tranh,

Ca-in trưởng tử vừa sanh ở đời.

Eva nở một nụ cười,

Thậm cảm ơn Trời ban một đứa con.

                                    (Đoạn 4, tr.13)

b.Đặc sắc nghệ thuật của Tạo đoạn Kinh là ở nghệ thuật kể truyện.

Cậu chuyện được kể lại sống động với tốc độ nhanh, sự kết hợp kể và tả nhuần nhiễn. Những lời bình tinh tế giúp người đọc cảm nhận được ý nghĩa tư tưởng cũng như diễn

ngôn của tác giả.

Đoạn viết về Đại hồng thủy thật dữ dội (Đoạn 7, tr. 23), đoạn kể lại việc hỏi vợ, đưa dâu cho I-giác (Isaac) đậm chất Việt (Đoạn 24, tr.65). Đoạn anh em Gia-cước (Jacob) gặp nhau rất cảm động (Đoạn 33, tr.103). Đoạn kể đầy kịch tính về Thùy-nga (Dina), con gái Lệ-anh (Léah), bị con trai (Shechem) tộc trưởng Hà-môn (Hamor) bắt về cưỡng hiếp. Sau đó Tộc trưởng Hà-môn nhận lỗi, con trai tộc trưởng cũng nhận lỗi và xin được cử hành lễ cưới cho rạng rỡ hai bện (Đoạn 34, tr.106). Đoạn kể lại việc Dư-đạc (Judas), vợ chết, đi tìm gái (Đoạn 38, tr 119), lại gặp Thanh Mai (Tamar) là con dâu mà không biết, sau đó Thanh-mai sinh hai đứa con. Thanh-mai có chứng cớ là gậy và nhẫn của Dư-đạc, nàng đòi công lý. Tác giả rút ra bài học: “Con dâu tức lý ra tay,/ Công bằng đòi hỏi, một bài học đau!”. Trong nguyên tác Sách Sáng Thế không có nhận xét về Dư-đạc: “một bài học đau”.

Có một sự khác biệt là, những truyện thơ Nôm viết dưới nhãn quan tư tưởng Phật, Nho, Lão sau Lữ Y Đoan đều mang một khuôn mặt buồn:

 “Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

                    (Đoạn trường tân thanh)

Trăm năm còn có gì đâu,

Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì

                     (Cung Oán ngâm khúc).

Trái lại, Sấm Truyền Ca là bài ca đầy lòng tin, niềm vui, và niềm hy vọng.

Tháng ngày I-giác sống yên,

Chăn nuôi phát đạt, đồng điền thạnh hưng.

Tay Trời vùa giúp lạ lùng

Trở nên đại phú khắp vùng không ai.

               (Đoạn 26, tr.76)

Nhưng nhờ trời độ bình yên,

Tai qua nạn khỏi, ưu phiền cũng vơi

(đoạn 31. Tr.94)

c.Khả năng Việt hóa Kinh thánh.

Thú vị khi đọc Tạo Đoan Kinh là những cảnh, những tình huống, những sinh hoạt, những nói năng nghĩ suy của con người trong Sách Sáng Thế lại hiện diện trong bầu khí sinh hoạt Việt Nam.

Ave sinh con:

            Náu nương bộng đá che tranh,

Ca-in trưởng tử vừa sanh ở đời

Eva nở một nụ cười

Thậm cảm ơn Trời ban một đứa con

                                               (Đoạn 4, tr.13)

Nụ cười của Eva, tâm tình của Eva, hạnh phúc đơn sơ của Eva trong “bọng đá che

tranh” chẳng khác gì niềm hạnh phúc sinh con của một phụ nữ quê nghèo Việt Nam.

            Đây là lẽ thuận hòa và tính cách đại lượng của Ap-ram khi phân chia đất cho cháu. Cách nói năng đúng là giọng nói thẳng thắn, đầy yêu thương, chân tình Việt:

                        Áp-ra muốn vẹn mọi bề,

                        Mời Lót là cháu, vấn đề đặt ra:

                        Chớ nên để sự bất hòa,

                        Vậy cháu nhìn thẳng bao la cánh đồng,

                        Chọn tây thì bác qua đông,

                        Hay là ngược lại bác nhường cháu luôn.

                        Xa nhau cốt nhục tuy buồn,

                        Nhưng hòa vi quý, cháu đừng ngại xa

(Đoạn 13, tr.37)

            Đây là đọan lão bộc đi hỏi vợ cho I-giác. Ông trình bày rất chân tình với nhà gái về gia cảnh, về tiêu chuẩn chọn nàng dâu và luôn nói đến duyên trời, ý trời. (xin lưu ý, chữ “Trời” viết hoa). Nhà gái nghe xong thì đẹp lòng, không chê vào đâu được. Sự trân trọng, cách nói năng chân thành rất tự trọng và niềm tin yêu trong hôn nhân không khác gì trong những đám hỏi, đám cưới Việt.

Hàn huyên trao đổi rộn lời,

            Cỗ bàn đã dọn, chủ mời điểm tâm.

            Lão bộc từ tốn phân trần:

            Trước khi cầm đũa tôi cần trình qua.

            Bồ-tuân: xin cứ nói ra.

            Lão bộc thuật lại việc nhà Ra-ham.

            “Kể từ dấn bước phong trần,

            Thiên thời, địa lợi, nhân tâm có thừa.

            Cuộc đời dầu gặp gió mưa,

            Bàn tay Thượng đế giúp chưa lâm nàn.

            Về già được phước khang an,

            Sa-ra sinh được một trang anh tài,

            Thật là đẹp mặt nở mày,

Quý danh I-giác, hôm nay trưởng thành.

Vì không chọn gái Trà-nam,

Phái tôi trách nhiệm tiến sang quê nhà.

Ra đi tôi nguyện thiết tha,

Mong Trời cho biết ai là nàng dâu.

Và đây đặc điểm yêu cầu,

Gái nào thí nước lại giàu từ tâm.

Biết bao thiếu nữ trong đàn,

Nhưng chỉ có nàng Lan-bạch giúp tôi.

Quả nhiên nhận đúng ý Trời,

Tôi trao vòng xuyến vàng mười đáp ân.

Biết ra là cháu Ra-ham,

Lương duyên tiền định, xích thằng đã xe.

Mấy điều gia chủ vừa nghe,

Tôi xin lãnh ý phán phê thế nào”.

Bồ-tuân nghe rõ đuôi đầu,

Rằng: “ai dám cưỡng ý cao thiên đình

Lã -bàng cũng biểu đồng tình,

Gả nàng Lan-bạch tác thành lứa đôi.”

Lão bộc quỳ gối tạ Trời,

Đã cho mọi sự xong xuôi, tốt lành.

                      (Đoạn 24, tr.68)

Notes: Ra-ham (Abram); Bồ-tuân (Bathuel); Lã-bàng (Laban); Trà-nam (Chanaan); Lan-

bạch (Rabecca); Xích thằng: chỉ thắm tơ hồng, chỉ buộc duyên vợ chồng trong truyện ông Tơ bà Nguyệt.

Nguyên tác Sách Sáng Thế, chương 24 viết: “33 Người ta dọn cho ông ăn, nhưng

ông nói: “Tôi sẽ không ăn gì trước khi nói những điều tôi cần phải nói.” Ông La-ban thưa: “Xin ông cứ nói.”, Lữ Y Đoan chuyển “Tôi sẽ không ăn gì trước khi nói” thànhTrước khi cầm đũa tôi cần trình qua” là một cách dịch thuần Việt mộc mạc nhưng thật tài tình.

Tình quê hương, lòng biết ơn tổ tiên, và lòng tin vào Trời được tô đậm trong suốt

tác phẩm. Đây cũng là đặc điểm tâm thức Việt.

Gia-cước (Jacob) nói với Dư-tiệp (Joseph):

            Khi cha về với tổ tiên,

            Xin đừng mai táng tại miền Giếp đây.

            Hãy thề chắc chắn việc nầy,

            Thi hài cha được chôn ngay quê nhà.

            Dư-tiệp thề với cha già,

            Chúng con thỏa mãn tang ma hẳn hòi.

                        (Đoạn 47, tr.154)

                            Note: Giếp: Aegyptus-Ai Cập

Gia-cước dặn Dư-tiệp cầu Thượng đế

            Người cầu Thượng đế Bá-lâm,

            Là Chúa I-giác thành tâm kính thờ.

            Giúp tôi từ bé đến giờ,

            Chư thần hãy độ trẻ thơ nhơn hiền.

            Nối danh tôi với tổ tiên,

            Chúng cầu Thượng đế bình yên một đời.

            Giúp chúng lớn mạnh khắp nơi,

            Giúp cho xứ sở giống nòi gia tang.”

                        (Đoạn 48, tr.155)

                   Note: Bá-lâm: Abraham.

d. Những cách nói thuần Việt

     Tính chất văn hóa Việt của Tạo Đoan Kinh còn thể hiện ở việc sử dụng những cách nói thuần Việt

Cháo cơm đắp đổi chờ qua tháng ngày

(Đoạn 47. Tr. 152)

Cha già gấn đất xa trời

(Đoạn 47. Tr. 153)

Miền đông nối tiếp lộ trình

Đèo heo hút gió một mình xông pha

(Đoạn 29. Tr. 85)

Mai kia, mốt nọ bất thần

(Đoạn 30. Tr.92)

Gia-cước tài cán bao nhiêu

Giàu nhờ của vợ, còn nhiều mưu mô

(Đoạn 31. Tr.93)

Nhưng nhờ trời độ bình yên

Tai qua nạn khỏi, ưu phiền cũng vơi.

(Đoạn 31. Tr.94)

SẤM TRUYỀN CA VÀ VĂN CHƯƠNG DÂN TỘC

            Lời tựa của Trần Hớn Xuyên: “Tôi không xét về mặt hợp hay không hợp Kinh thánh, tôi mến phục lối thơ lục bát của người xưa và cách dùng chữ An-nam hồi đó để lột tả được ý nghĩa của Kinh thánh cho người An-nam dung cách dễ dàng. Vì thế, tôi đã xin chép lại để làm tài liệu quý giá, dành cho con cháu ngày sau, được biết ông bà ngày xưa cũng đã đóng góp rất nhiều vào kho tàng quốc văn của dân tộc”. (Cái tắc 17/5/1910)

            GS Trần Thanh Đạm đặt Sấm Truyền Ca trong nền văn chương Việt: điều không thể phủ nhận là Sấm Truyền Ca là một tác phẩm thuộc di sản văn chương cổ điển của dân tộc, cần được tôn trọng giữ gìn, nghiên cứu, phát huy”[[8]].

            Giáo sư Trần Thái Đỉnh đã nói lên cảm nghĩ sơ khởi của mình như sau: Cảm tưởng đầu tiên khi cầm trong tay và đọc tập “Sấm Truyền Ca” là vui mừng và hãnh diện vì mình có một tài liệu quý giá như thế cả về giá trị văn học lẫn về phương diện lịch sử” [6-đd].

            Giám mục Mathêô Nguyễn Văn Khôi nói đến đóng góp của người Công giáo vào văn học Việt: Tác phẩm Sấm Truyền Ca của linh mục Lữ Y Đoan (Louis Đoan) đã ra đời, không những như một tác phẩm mang tính tôn giáo, mà còn như một đóng góp rất sớm của người Công giáo Việt Nam vào nền văn học nước nhà” (Sấm Truyền Ca bản in 2020.tr. 9)

            Nhà nghiên cứu Lê Đình Bảng trong công trình “Văn học Công giáo Việt Nam, những chặng đường” nhìn vấn đề trong dòng chảy lịch sử văn học Công giáo: “Riêng bản thân chúng tôi…đã trộm nghĩ rằng Sấm Truyền Ca của Lữ Y Đoan đã đạt chuẩn giá trị một tác phẩm văn học Công giáo, bởi vì: Sấm Truyền Ca khép lại một chặng đường chữ Nôm, có thể sánh vai với một số truyện thơ Nôm Việt Nam có giá trị cùng thởi. Sấm Truyền Ca là dạo khúc mở đầu cho mảng văn học Công giáo ‘Phúc âm Diễn ca’ sau này” [[9]].

            GS Nguyễn Văn Trung nhận định: “Tôi coi đây là một tác phẩm văn học mang màu sắc tôn giáo tương đương với những truyện thơ Nôm nổi tiếng Chinh Phụ Ngâm, Kim Vân Kiều…”[[10]].

            Nhà nghiên cứu Nguyễn Vy Khanh nhìn ở góc độ giao lưu văn hóa: “Có thể nói Sấm Truyền Ca là một giao lưu điển hình theo kiểu Việt Nam, khởi từ căn bản tự chủ dân tộc để thu nhận các nền văn hóa thế giới” [[11]].

            Những ý kiến của các nhà nghiên cứu trên đủ khẳng định Sấm Truyền Ca là một truyện thơ Nôm trong di sản văn học dân tộc, sánh ngang với những truyện thơ nôm khác. Hơn thế, Sấm Truyền Ca còn mở ra thể Diễn ca Kinh thánh về sau, và nhìn xa hơn, Sấm Truyền Ca còn là “một giao lưu văn hóa” với các nền văn hóa thế giới (Nguyễn Vy Khanh).

            Có lẽ cũng cần minh định thêm đôi điều.

1.Căn cứ vào năm sáng tác (1670), có thể khẳng định Sấm Truyền Ca là tác phẩm truyện thơ nôm sớm nhất. Trong Sấm Truyền Ca, người đọc thấy phảng phất bóng dáng những câu thơ của các tác phẩm sau đó: Đoạn trường tân thanh (Nguyễn Du), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu).

Thử so sánh: Thiên Nam ngữ lục (các sử gia cho rằng tác phẩm này được viết vào đời chúa Trịnh Căn khoảng năm 1682-1709, chưa rõ tác giả).  Đại Nam quốc sử diễn ca (Lê Ngô Cát-1870), Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều của Nguyễn Du), nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Nguyễn Du viết truyện Kiều sau khi đi sứ Trung quốc (1814). Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu (được sáng tác vào đầu những năm 1850, và được Trương Vĩnh Ký phiên âm chữ quốc ngữ và xuất bản năm 1889). Nhị độ mai (Khuyết danh) ra đời khỏang đầu thế kỷ XIX, bản Nôm in sớm nhất năm 1876 [[12]]…

2.Sấm Truyền Ca vừa là một bản dịch Kinh thánh, vừa là một truyện thơ Nôm, tức

là một truyện thơ Nôm có nội dụng văn học nước ngoài. Điều này sau đó ta cũng gặp trong Đoạn trường tân thanh, Lục Vân Tiên… Những truyện thơ Nôm này mượn cốt truyện Trung Quốc, chịu ảnh hưởng tư tưởng và thi pháp văn học Trung Quốc. Trái lại Sấm Truyền Ca mang đến những điều mới mẻ cho văn học Việt.Đó là tư tưởng Thần học, triết học Kitô giáo cùng với những truyền thống văn hóa phương tây. Sấm Truyền Ca còn mở ra việc tiếp nhận văn học, văn hóa nước ngoài trên nền tảng tâm thức Việt. Xin lưu ý, văn học Việt thời đó đã dung nạp tư tưởng Phật, Nho, Lão (tam giáo đồng nguyên) làm nền tảng tư tưởng của mình.

3. “đóng góp rất sớm của người Công giáo Việt Nam vào nền văn học nước nhà”. Sự đóng góp này có thể khởi đi từ Girolamo Majorica (1591-1656) với những truyện

văn xuôi chữ Nôm. Majorica viết những tác phẩm chữ Nôm với sự giúp sức của những thầy giảng người Việt như Vito Trí, Văn Nghiêm, một người tên Hiên và một người có tên thánh là An-tôn [[13]]. Thầy giảng Gioan Thanh Minh (1588-1663) “viết nhiều thi phẩm chữ Nôm về hạnh các thánh như Constantini Le Grand, Barlam, Josaphat, Maria Madalena, Inhatio Loyola, Phanxicô Xavie, Dominico, Catariana”…[[14]]. Thầy cả Lữ Y Đoan (1613-1678) với Sấm Truyền Ca. Linh mục Felippe do Rosario Bỉnh (1759-1833), người đã viết 27 cuốn sách bằng Quốc ngữ, trong đó có truyện các thánh, Sách sổ sang chép các việc, Truyện An Nam Đàng Trong, Truyện An Nam Đàng Ngoài…

Những sáng tác của các tác giả Công giáo buổi đầu, ngoài ý nghĩa tôn giáo còn là những đóng góp rất giá trị vào văn học dân tộc. Đó là thể loại truyện Nôm, truyện thơ Nôm, truyện thơ bằng chữ Quốc ngữ, tư tưởng Thần học và triết học Kitô giáo, ngữ liệu Kinh thánh và văn hóa phương Tây…

Riêng tác phẩm của thầy cả Lữ Y Đoan có ý nghĩa thật quan trọng. Sấm Truyền Ca là một truyện thơ Nôm đồ sộ. Chỉ riêng Tạo Đoan Kinh đã dài 3606 câu lục bát (Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du dài 3254 câu lục bát). Sấm Truyền Ca bị cấm đoán rồi trôi giat, thất lạc, tìm thấy; và đặc biệt là trong lời tựa của Phan Văn Cận, ông cho biết, từ năm 1816, vâng lời nhiều thầy cả, ông đã viết Sấm Truyền Ca ra chữ Quốc ngữ. Lưu ý rằng, giả thiết Nguyên Du viết Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) từ 1814 bằng chữ Nôm thì Sấm Truyền Ca đã có văn bản chữ Quốc ngữ. Một đóng góp thật mới mẻ và kỳ diệu! Giả như Truyện Kiều lúc đó được viết ra chữ Quốc ngữ thì ngày nay việc nghiên cứu Truyện Kiều sẽ thuận lợi biết bao.

THAY CHO LỜI BẠT

1.Với những giá trị đã được khám phá, có thể khẳng định Sấm Truyền Ca của Lữ Y Đoan là một tác phẩm văn học Công giáo, cũng là di sản của văn học dân tộc có giá trị quý báu về nhiều mặt, đặc biệt là về ngôn ngữ, về tư tưởng, về thể loại truyện thơ Nôm và cả bản chuyển sang chữ Quốc ngữ.

Dù bị cấm đoán, bị lưu lạc, thất truyền, rồi được tìm thấy, suốt từ 1670 đến nay, Sấm Truyền Ca chứng tỏ một sức sống bền vững trong lòng dân tộc. Qua Sấm Truyền Ca, người đọc hôm nay hiểu được sức mạnh tinh thần, sự giàu có văn hóa, khả năng Việt hóa những tinh hoa nhân loại để làm giàu cho văn học dân tộc của cha ông xưa. Lời tựa của Trần Hớn Xuyên (1910) vẫn còn nguyên giá trị cho hôm nay: “tôi mến phục lối thơ lục bát của người xưa và cách dùng chữ An-nam hồi đó để lột tả được ý nghĩa của Kinh thánh cho người An-nam dùng cách dễ dàng. Vì thế, tôi đã xin chép lại để làm tài liệu quý giá, dành cho con cháu ngày sau, được biết ông bà ngày xưa cũng đã đóng góp rất nhiều vào kho tàng quốc văn của dân tộc”.

2. Còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, tìm kiếm, lý giải dựa trên tư tưởng hội nhập văn hóa của Tông huấn Giáo hội tại Châu Á (Tông huấn Ecclesia in Asia của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II, ngày 06/11/1999) và khả năng Việt hóa tinh hoa nhân loại của dân tộc Việt. Nhưng trước hết cần đặt Sấm Truyền Ca vào dòng chảy văn học Việt như một tác phẩm truyện Nôm đầu nguồn, đúng với tầm vóc của một tác phẩm đem đến nhiều giá trị cho văn học Việt. Rất cần sự đóng góp của nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu cả trong và ngoài giáo hội.

Tháng 4/ 2024


***


[1] Nguyễn Vy KhanhTiếng Việt và một số tác phẩm mới phát hiện http://vietsciences.free.fr/vietnam/tiengviet/tiengvietvamotsotacphammoi.htm

[2] Trăng Thập Tự-Nguyễn Thanh Quang:

  -“Sấm Truyền ca-Truyện thơ Kinh thánh long đồng từ thế kỷ XVII

  -“Tìm, phục hồi bản quốc ngữ 1870 của Sấm Truyền ca”,

[3] The Book of Genesis. https://www.vatican.va/archive/bible/genesis/documents/bible_genesis_en.html

[4] Lm Đào Quang Toản dẫn “Nhật ký” của Đức cha Lambert đã đặt lại vấn đề tác giả Sấm truyền ca:

Đào Quang Toản-Linh mục Louis Đoan và Sấm Truyền Ca

[5] Chuyện ông Lót: Sáng thế ký 19,8

[6] Dẫn theo “Những bài thơ trong Nhựt Trình Kim Thư Khất Chính Chúa Giáo” do Roland Jacques OMI sưu tầm, Đoàn Xuân Kiên chuyển và chú thích. Định Hướng Tùng Thư xuất bản lần thứ nhất 2004.

[7] Phạm Xuân NguyênĐọc cùng bạn: Một truyện thơ cổ có giá trị văn hóa

https://danviet.vn/doc-sach-cung-ban-mot-truyen-tho-co-co-gia-tri-van-hoa-20210810175315947.htm

[8] Nguồn: Nguyễn Văn TrungVề một số sách cũ do người Công giáo viết ra từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX. Trong tập “tài liệu tham khảo”: Về sách báo của tác giả Công giáo (Thế kỷ XVII-XIX), trường Đại học Tổng hợp Tp HCM, Khoa Ngữ Văn 1993.

[9] Lê Đình BảngVăn học Công giáo Việt Nam- những chặng đường. Nxb Tự điển Bách Khoa 2010, tr. 124.

[10] Thư gửi Giám mục Barth Nguyễn Sơn Lâm, Chủ tịch Ủy ban Phụng tự HĐGMVN, 1989. Dẫn theo Lê Đình Bảng, nguồn: Văn học Công giáo Việt Nam, những chặng đường. Nxb Tự điển Bách Khoa 2010, tr 123.

[11] Nguyễn Vy KhanhTiếng Việt và một số tác phẩm mới phát hiện

http://vietsciences.free.fr/vietnam/tiengviet/tiengvietvamotsotacphammoi.htm

[12] Nguyễn Thị Hải VânNghiên cứu văn bản tác phẩm diễn Nôm Nhị độ mai-Luận văn Tiến sĩ-Học viện Khoa học xã hội: https://luanvan.net.vn/luan-van/nghien-cuu-van-ban-tac-pham-dien-nom-nhi-do-mai-81770/

[13] Trần Thị Phương PhươngHoàng Xuân Hãn và tư liệu tác phẩm chữ Nôm của Girolamo Majorica tại thư viện quốc gia Pháp ở Paris: Tạp Chí Khoa Học Trường Đại Học Trà Vinh,Số 42, tháng 2 năm 2021, tr. 72-77 DOI: 10.35382/18594816.1.42.2021.693

https://gpquinhon.org/q/van-hoa/hoang-xuan-han-va-tu-lieu-tac-pham-chu-nom-cua-girolamo-maiorica-tai-thu-vien-quoc-gia-phap-o-paris-5683.html?fbclid=IwAR0KLEKyrNZCuwl7SE_E88wvy4VsXtkaDqJ047nw1OuOV6Lg-VkNXImuIa4

[14] Lê Đình BảngVăn học Công giáo Việt Nam- những chặng đường. Nxb Tự điển Bách khoa 2010, tr.107