THƠ TRẦN NGỌC TUẤN

THƠ TRẦN NGỌC TUẤN

Bùi Công Thuấn, trong tập Chút tình tri âm, Nxb Hội Nhà Văn 2009

3b++

Trần Ngọc Tuấn và BCT (ảnh của BCT)

Trần Ngọc Tuấn (8) là người thơ tài hoa, người thơ cuả tình người, tình đời đằm thắm, nhẹ nhàng, tinh tế,  mênh mang. Anh giao cảm xâu xa với người thơ xưa, người thơ  nay. Anh đi nhiều, nơi nào anh cũng có những câu thơ giăng mắc tình son, gặp ai anh cũng chia xẻ cái tình nhân gian đau quặn

Một khúc sông quê

Mẹ mấy lần đưa tiễn

Đêm không trăng

Gió buốt

Sông gầy

Mẹ nhóm bếp

Khói bay

Nhoà ngõ

Tiếng ai qua

Cũng ngỡ buớc con về

( Mẹ – Chân Chim Hoá Thạch )

 

Tôi ngồi tím giọt mưa ngâu

Người ngồi nâng chén bên cầu sông Ngân

Bể dâu ai cũng một lần

Khổ đau cũng chỉ đến ngần ấy thôi

Chúng sinh phách lạc hồn trôi

Thân hoa xác cỏ nhờ tôi tạ lời

            ( Rằm Tháng Bảy Nhớ Nguyễn Du- Chân Chim Hoá Thạch ) 

  

Tự mình quẩy gánh trần gian

Đa mang chấm đất, lang thang dính trời

Một đời không đủ rong chơi

Tự mình hoá cỏ luân hồi nỗi xanh

                ( Nỗi xanh- Con Mắt Dã Quỳ )     

 

Bao người đến, bấy trái ngang

Tôi xin làm suối giải oan cho mình

            ( bên Suối Giải Oan – Giưã Cỏ )

 Trần Ngọc Tuấn đã xuất bản các tập thơ : Giác quan biển (1994); Giữa cỏ (1996); Chân chim hóa thạch (1998); Con mắt dã quì (2000); Gửi dòng sông Đồng Nai (2004). Tập Suối reo (2006) là một bước thăng hoa tư tưởng cuả anh .

Nếu bạn hỏi tôi rằng tập thơ Suối Reo có gì đặc  sắc ? tôi có thể nói ngay điều này, Suối Reo là một tập  thơ Thiền,  nhiều bài đạt đến cái thần của  những bài thơ Thiền trong truyền thống  thơ phương Đông. Đó là một điều lạ, vì Trần Ngọc Tuấn là một nhà thơ trẻ. Những nhà thơ trẻ hôm nay đang loay hoay  thử nghiệm với những cách tân phương Tây, thì Trần Ngọc Tuấn lại tìm về phương Đông, “thung dung tiếp cuộc đăng trình“.  Ở  Suối Reo, Trần Ngọc Tuấn hiển lộ một cốt cách thơ tài hoa hiếm thấy của thơ trẻ .

Nhưng, dấn thân vào con đường thơ tư tưởng, Trần Ngọc Tuấn phải chọn lựa sự thử thách vượt qua hố thẳm. Cái thiếu lớn nhất của văn chương Việt Nam đương đại nói chung và của thơ nói riêng là thiếu tư tưởng. Nguyễn Huy Thiệp đã từng thốt lên tuyệt vọng: “Khỏang trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn“ ( Sông Hương – Tháng 4 / 1990 ). Đã có những thử nghiệm nhưng thất bại .

Tất nhiên Trần Ngọc Tuấn không phải là nhà thơ tư tưởng, nhưng thơ Trần Ngọc Tuấn trong Suối Reo là thơ tư tưởng. Giá trị thẩm mỹ của nó là ở tư tưởng và ở cách thể hiện tư tưởng.Vì thế người đọc chỉ có thể tiếp cận tư tưởng trong thơ Trần Ngọc Tuấn bằng lăng kính của mỹ học Thiền, bằng cái Tâm Bát Nhã và cách đọc thơ vô ngôn. Hơn nữa Trần Ngọc Tuấn có kiểu tư duy thơ rất riêng khiến cho thơ anh không dễ đọc. Nhưng khám phá được thế giới nghệ thuật ấy người đọc sẽ nghe thấy suối reo trong tâm hồn mình

Suối Reo có một sự khác biệt với thơ Thiền truyền thống ở chỗ tác giả của thơ Thiền truyền thống là các Thiền sư, còn  Trần Ngọc Tuấn là nhà thơ hiện đại. Vì thế Suối Reo là thơ của đời ánh lên sắc Thiền, thơ của một con người còn  đang “qua dốc sương mù

Gánh củi qua dốc sương mù

  Mồ hôi giọt gịot gió ù ù bay

  Nghìn tia nắng dệt trang ngày

 Bước chân hoan hỉ , đêm này lửa reo

Sống là gánh lấy bao nhiêu nỗi vất vả như người gánh củi. Ngày đêm  phải vượt qua con  dốc  sương mù và đương đầu với gió ù ù thổi bay.Với cách nhìn đời như thế, bài thơ thường sẽ chuyển về những tâm tình thở than. Thế nhưng Qua Dốc Sương Mù lại  rực rỡ ánh sáng của sự thăng hoa. Đó không phải là thứ ánh sáng thiên nhiên của nghìn tia nắng, hay ánh sáng của đêm lửa reo, mà là ánh Phật quang. Nỗi vất vả, thống khổ trở thành con đường hạnh ngộ. Người gánh củi kia tự sáng trong “bước chân hoan hỷ ‘. Bài thơ không còn là sự minh giải cho ý nghĩa hiện thực mà trở thành  khỏanh khắc “đốn ngộ“ khi con người đã vượt qua được “dốc sương mù“, nhìn đời bằng Trí Huệ Bát Nhã  (Prajna- Chữ của nhà Phật )

Nhưng làm sao vượt được “dốc sương mù “ ? Trần Ngọc Tuấn vẫn đang tự hỏi .

“ Hỏi thăm người trốn chơi xa

 Mà sao râu tóc phôi pha bụi trần

  Hỏi thăm người biệt giai nhân

Mà sao nhan sắc tần ngần ngóng trông

Hỏi thăm người có hay không

Mà sao chuông vọng âm âm gió mùa “

( Hỏi Thăm )

Trần Ngọc Tuấn đã “trốn“ , đã “biệt‘cuộc đời này, trốn biệt những sắc dục giai nhân, thế sao con người ấy vẫn râu tóc phôi pha vì bụi trần, vẫn ngóng trông nhan sắc giai nhân? vẫn mê đắm , không hay, không biết, không nhận ra tiếng chuống thức tỉnh, dù tiếng chuông ấy ‘vọng âm âm “ trong gió mùa ? Hình hài, thân xác, cuộc đời này nặng nề biết bao, nó trói buộc con người mãi trong cõi vô minh. Hỏi cũng là trả lời. Tiếng chuông thức tỉnh ấy  là tiếng chuông vọng trong tâm, mà dũng lực của nó có sức  khai mở  Tâm Bát Nhã

Với Tâm Bát Nhã con người sẽ nhận ra  mình đang đánh bắt đời mình

Chẳng chấp gì bé lớn

  Một mình nghe lặng thinh

 Mây trên đầu luẩn quẩn

Ông ngồi câu bóng mình

( Ngồi Câu )

Một ông ngồi câu trong thinh lặng, mây bay trên đầu. Câu chỉ để câu, không cần được cá lớn hay cá bé. Nhưng ngồi mãi chẳng được con cá nào, bóng ông đổ trên cần câu .

Tất nhiên bài thơ không nói đến việc câu cá. Bỏ cái vỏ ngôn ngữ ấy đi, tư tưởng Thiền bừng sáng lên.Con người luẩn quẩn trong trong chấp, không nhận ra  mình đang đánh bắt (câu cá) chính mình. Mình vừa là người buông lưỡi câu lại vừa là nạn nhân bị lưỡi câu móc vào. Thực tại hư ảo ( câu không được gì) mà điều tìm kiếm cũng hư ảo (câu cái bóng).Vậy mà con người lại lẩn quẩn móc dính vào cái hư ảo ấy không sao gỡ ra được.

Bài thơ có thể làm người đọc “ngộ“ ra được điều gì đó về cuộc đời này, về thực tại “thất vọng , vô thường , vô ngã “ (dukkha, aniccaanatta ) .

Trong cái thực tại thất vọng, vô thường,  vô ngã ấy, con người còn lại gì ?

Đất nứt nẻ đồng khô mùa khát

Ta còn gì ngòai nắng lặng im

Tâm địa chấn rung rùng biển động

Ta còn gì ngòai sóng lặng xô

 Mưa trút nước lũ tràn đê vỡ

Ta còn gì ngòai mây lặng trôi

 Cây trụi lá trơ thân giông bão

Ta còn gì ngòai gió lặng yên

 Mùa cuối đông vườn không ong bướm

Ta còn gì ngòai hoa lặng rơi

 Chuyến hạnh phúc còn không vé vớt

Ta còn gì ngòai em lặng đau

 Thanh tịnh một vì sao lẻ bóng

Ta còn gì ngòai ta lặng thinh

                        ( Lặng )

Câu hỏi “ta còn gì “ là câu hỏi của “hố thẳm“: “Bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm , một cách im lặng , không hy vọng , một cách rộng lượng “( N. Kazantzaki ). Con người phải chịu lấy tất cả những phũ phàng, mất còn ở đời, như chịu đựng cơn khát nắng hạn, chịu đựng những kinh hòang rùng rùng địa chấn, chịu đựng sự tàn phá của lũ tràn đê vỡ,  giông bão càn quét trụi không, chịu đựng  giá rét mùa đông vắng bóng sự sống, chịu đựng những nỗi đau bất hạnh và sự cô độc như vì sao lẻ bóng .

Tư tưởng của bài thơ không lộ ra trong cái quay quắt những đau đáu mất- còn, mà hiển minh trong cái im lặng. “Ta còn gì ngòai ta lặng thinh “. Sự im lặng bộc lộ tất cả dũng lực vượt qua  có – không. Cái còn tồn tại trong chính cái mất, vượt qua mất –còn  là Chân Như .

Bài thơ mang một khí vị Thiền đặc biệt ở thi pháp. Khí vị này đem đến những mỹ cảm trí tuệ cho người đọc. Cái tĩnh trong cái động , cái còn trong cái mất . Những tứ thơ được triển khai trong  kiểu tư duy nhị nguyên tương phản còn – mất, dẫn người đọc vào sự rối bời  vô minh của ngôn ngữ , cũng như sự rối bời của thực tại có – không. Khi còn có Ta, và khi cái Ta bị nhận chìm trong những khốc liệt địa chấn , giông bão , khô khát , mong chờ hạnh phúc , mong chờ hoa bướm , thì cái Ta ấy còn đau, còn cô độc, còn sợ hãi, còn vọng tưởng …Vì  làm gì có “cái ta“. Bản chất của “cái ta”  là “vô ngã “ .

Chỉ  khi đạt tới cái  vô ngãkhông bóng ,  không hình “, con người mới nhẹ nhàng qua sông  ( “ Đáo bỉ ngạn “ – Chữ của nhà Phật )

Nhẹ nhàng cánh nhạn qua sông

Nhạn không lưu bóng, sông không bóng hình

Thung dung tiếp cuộc đăng trình

 Mặc con sống vỗ một mình ra khơi “

                            ( Ra khơi )

Đạp lên sóng vỗ mà ra khơi, thung dung như cánh nhạn ruổi rong đăng trình, Con Người ấy có sức mạnh của cả vũ trụ, cao hơn  cả vũ trụ.Tứ thơ mang khí vị câu thơ làm rung chuyển thái hư của Không Lộ Thiền Sư

Trạch đắc long xà địa khả cư

Dã tình chung nhật lạc vô dư

Hữu thì trực thướng cô phong đĩnh

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư

                      ( Ngôn Hòai )

 Qua sông (đáo bỉ ngạn) rồi, lại sống như chưa qua sông, con người hồn nhiên biết bao, cuộc đời tươi xanh biết bao,  một đọt lá trên cành cũng trổ sinh bao la sự sống

Đâu ngờ một ngọn gió lay

Mà hoa rơi rụng mà mây tan tành

Đâu ngờ một đọt đầu cành

Rừng xưa lại thắm , mùa xanh lại về

                          ( Đâu ngờ )

Và tất cả cùng tỏa sáng, cùng reo cười .

Trăng tự sáng giữa tầng không

Suối tự chảy giữa mênh mông đất trời

Kìa ai bất chợt tự cười

Trái tim tự hát lẽ đời tự nhiên

( Tự Nhiên )

Niềm hoan lạc vô biên

Suồi reo, biển lặng, sông đầy

Vầng trăng tròn trặn, mây bay yên bình

Cánh én liện, nụ hoa xinh

Tình người chân thật, hồn mình an nhiên

( Kho Báu )

Thơ Thiền của Trần Ngọc Tuấn dẫn ta vào  cõi sáng của tư tưởng, cõi an bình của  tâm tư và  niềm hỷ hoan của bước chân  người gánh củi thung dung vượt qua dốc sương mù  cuộc đời. Phải có một trình độ “giác ngộ “ nào đó  của tâm thức, phải trải qua bao nhiêu tra vấn, bao nhiêu giông bão, nắng hạn, bao nhiêu mất còn, phải bao nhiêu kiếp hóa thân, Trần Ngọc Tuấn mới có thể viết được những câu thơ của “trái tim tự hát lẽ đời tự nhiên “ như thế.

Nhiều bài tứ tuyệt có phẩm chất cổ điển nhưng thật mới lạ (An Nhiên, Trắng,  Trên Núi Tuyết, Ngồi Câu, Trà Sớm ..) . Nó vừa dẫn ta về suối nguồn thơ cổ điển vừa làm ta ngạc nhiên về những phát hiện tư tưởng ngay trong đời thường. Bài Ngồi Câu là một cặp sánh đôi rất tuyệt với Giang Tuyết của Liễu Tông Nguyên (773-819). Hình ảnh bướm hoa trong  Vậy Thôi dẫn ta về vối Xuân Vãn của Trần Nhân Tông. “giọt sương tan trên lá xanh“ trong Lên Đồi Tịnh Độ mới lạ hơn “giọt sương phô trên ngọn cỏ “ trong Thị Đệ Tử của  Vạn Hạnh Thiền sư. Hình ảnh “cuối vườn hoa khai “trong Vô Thường  phải chăng  là một với tứ thơ  “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai “ trong Cáo Tật Thị Chúng của Mãn Giác Thiền Sư (1052-1096). Bài Rỗng Rang  âm vang lời Thiền : Chư Phật và chúng sinh đều có chung một tánh giác. Chư Phật hằng sống với tim rỗng rang thanh tịnh.

Tứ tuyệt Lục bát của Trần Ngọc Tuấn vừa có cái giản dị chân tình của ca dao vừa có sự sang trọng trí tuệ của Tứ Tuyệt  cổ điển. Đó là sự làm mới Lục bát truyền thống, cũng là cách Việt hóa Tứ tuyệt của thơ Đường .. . Suối Reo bay trong cái cao rộng của thơ cổ điển, sang trọng hồn nhiên bên cái đằm thắm lục bát thơ Thiền của Phạm Thiên Thư. Và Trần Ngọc Tuấn có cái tài hoa riêng của anh. Tôi tin rằng nhiều bài thơ trong tập Suối Reo có thể sống lâu dài với thời gian. Tuy vậy, khi anh viết thơ Thiền chỉ bằng khái niệm nhà Phật thiếu cái chiêm nghiệm máu thịt của bản thể, thì hồn thơ của anh không còn cái diễm tuyệt mênh mang quyến rũ như là phẩm chất thẩm mỹ vốn có trong thơ anh.Ta hiểu, làm thơ tư tưởng khó biết bao, và thật đáng trân trọng những bài thơ đã hóa thân từ chính tâm thức Trần Ngọc Tuấn.

_________________