Bản tin về Lớp tập huấn bồi dưỡng lý luận phê bình Văn học nghệ thuật

mmmmmmmmmm

LỚP TẬP HUẤN

BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN PHÊ BÌNH VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT

 

Từ ngày 22.11.2017 đến ngày 25.11.2017, tại Cần Thơ, Hội đồng Lý luận, phê bình Văn học-Nghệ thuật Trung ương đã tổ chức lớp tập huấn bồi dưỡng lý luận phê bình cho khoảng 250 học viên của 35 tỉnh thành phố miền trung, tây nguyên và Nam bộ từ Quảng Trị đến Cà Mau. Tham dự lớp có cán bộ tuyên giáo tỉnh, chủ tịch các hội Văn học Nghệ những người phụ trách lý luận phê bình của các tạp chí, báo của các cơ quan, các trường Đại học…

Nội dung là những chuyên đề: “Quán triệt đường lối, quan điểm văn học của đảng trong tình hình hiện nay” (PGS-TS Nguyễn Thế Kỷ), Thông tin về tình hình điện ảnh (Ts Đoàn Minh Tuấn), về múa (PGS-TS NSND Ứng Duy Thịnh), về Âm nhạc (PGS-TS Đỗ Hồng Quân), sân khấu (NSND Lê Tiến Thọ), tình hình báo chí xuất bản (ông Nguyễn Nguyên), về Lý luận phê bình VHNT (TS Lê Thành Nghị),  về tình hình văn học (nhà thơ Trần Đăng Khoa) và chuyên đề: “Kỹ năng viết bài phê bình văn học nghệ thuật” (PGS-TS Phan Trọng Thưởng),

Học viên dự khóa phải viết bài thu hoạch trong 2g30 phút. Có 32 học viên được biểu dương và 2 người bị nhắc nhở vì bài thu hoạch không đạt yêu cầu. Hai đơn vị Đaklak và Đà Nẵng về sớm. Sau khóa học, các học viên đạt yêu cầu được cấp Giấy chứng nhận.

Trong năm 2017 Hội đồng Lý luận, phê bình Văn học-Nghệ thuật Trung ương đã tổ chức 2 lớp, một lớp cho các tỉnh phía Bắc và một lớp cho các tỉnh phía Nam. Tính từ 2009 đến nay, lớp tập huấn tại Cần Thơ là lớp thứ 15.

Dưới đây là vài hình ảnh khóa học

Trao chứng nhận 1

(Đại diện các đơn vị nhận Giấy chứng nhận hoàn thành khóa học

GIẢI VHNT ĐẤT MỚI 2017 CỦA GIÁO PHẬN XUÂN LỘC

LỄ TRAO GIẢI VĂN HÓA NGHỆ THUẬT ĐẤT MỚI 2017 CỦA GIÁO PHẬN XUÂN LỘC

 

Sáng thứ Bảy 14.14.2017, Giáo phận Xuân Lộc đã tổ chức Lễ trao giải VHNT Đất Mới 2017. Mời bạn đọc bài tường thuật trên trang:

http://giaophanxuanloc.net/tin-giao-phan/le-trao-giai-van-hoa-nghe-thuat-dat-moi-2017-tai-tgm-xuan-loc-10384.html

11 Hồng Việt-giải nhất

(Tác giả Hồng Việt điều khiển hợp xướng ca khúc đạt giải nhất của anh trong lễ trao giải-ảnh BCT)

TRAO GIẢI CA KHÚC VHNT ĐẤT MỚI 2017 

Giải Tác giả Tác phẩm đạt giải GiáoPhận
I Jos. Phạm Hồng Việt Ngợi khen tình Chúa Xuân Lộc
II GB Pham Kim Huy Sống trong tình yêu Chúa Xuân Lộc
III Paul Nguyễn Hữu Nhân Nữ Vương Vô nhiễm Xuân Lộc
KK1 Maria Lý thụ Vy Về bên Mẹ Núi Cúi Xuân Lộc
KK2 Jos Nguyễn Viết Phương Gia đình tạ ơn Xuân Lộc
KK3 Dom Lữ Văn Trường Tình khúc hiến dâng Bùi Chu
KK4 Pet Nguyễn Bá Trạng Lên đường cùng Đức Kitô Xuân Lộc
KK5 Jos- Maria Vũ Nhật Tân Có Chúa trong đời Long Xuyên
KK6 Pet Bùi văn nghiệp Kinh chiều Sài Gòn

 

NHẬN XÉT

  1. Nhận xét chung: Với 80 tác phẩm, số lượng bài thi năm nay giảm so với năm trước (năm 2016: 105 tác phẩm). Về phần nội dung, các thí sinh theo sát chủ đề mục vụ của giáo phận: Gia đình hãy là dấu chỉ lòng Thương xót Chúa, ca ngợi tình thương Chúa qua công trình Tạo dựng, Cứu chuộc, cũng như tiếp tục chủ đề hướng về Đức Mẹ Vô Nhiễm – Núi Cúi, về cuộc đời Dâng hiến, … Phần chuyên môn nghệ thuật đều hơn năm trước, nhưng vẫn thiếu tác phẩm đặc sắc. Một số bài có ý tưởng hay, nét nhạc đẹp, nhưng rất tiếc bị lỗi về một số ca từ hoặc bố cục. Chúng con cũng ghi nhận có một số tác giả rất nhiệt tình viết nhiều, rất đáng khích lệ, hy vọng các tác giả sẽ học hỏi thêm để các tác phẩm sẽ hay hơn, có giá trị hơn trong mùa giải tới.
  2. Các bài đoạt Giải :
  • NGỢI KHEN TÌNH CHÚA (Giải Nhất): Với hòa âm đơn giản nhưng hiệu quả trong âm thể Đô Trưởng trong sáng, tác giả diễn tả niềm hạnh phúc êm đềm trào dâng thành bài ca hân hoan chúc tụng: Hạnh phúc được làm người, được làm con Chúa với bao hồng ân tuôn tràn…Xin cùng với muôn tạo vật dâng lời cảm tạ và Ca Khen Tình Chúa muôn đời.
  • SỐNG TRONG TÌNH YÊU CHÚA (Giải Nhì): Hình ảnh gia đình hạnh phúc được phác họa bởi làn điệu dân ca mộc mạc gần gũi ấm cúng. Gia đình sẽ là mái ấm yêu thương khi Sống Trong Tình yêu Chúa. Có Chúa, vợ chồng, cha mẹ, con cái sẽ biết sống hy sình cho nhau; có Chúa, gia đình sẽ nên mái trường cho các thành viên học Mến Chúa Yêu người, biết thảo hiếu, biết mở  lòng với mọi người để trở nên dấu chỉ của Lòng Thương xót. Xin cảm tạ sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa trong gia đình chúng con, xin Chúa tiếp tục hướng dẫn gia đình chúng con vững tay chèo vượt qua mọi phong ba để đến bến bờ bình an.
  • NỮ VƯƠNG VÔ NHIỄM (Giải Ba): Với âm giai Rê thứ, khi trầm ấm, khi vươn cao, tiết tấu nhẹ nhàng vừa phải cùng với ca từ đơn sơ, tác giả diễn tả tâm tình thảo hiếu biết ơn dâng lên Nữ Vương Vô Nhiễm nguyên tội. Mẹ cao sang nhưng tình mẹ lại ấm áp gần gũi, ngọt ngào như câu ca dao trong lời ru êm ái bên nôi…Với lòng tin tưởng, kính xin Mẹ thương đoái dến đoàn con dại còn nhiều gian khó đau thương trong cuộc đời này, phù giúp đồng hành trong hành trình tiến về quê Trời.
  • SÁU BÀI KHUYẾN KHÍCH: Thể loại nhạc đa dạng từ dân ca đến tân nhac, từ đơn ca đến hợp ca; nội dung cũng phong phú: về hồng ân Gia đình, cuộc đời Dâng hiến, ca ngợi Mẹ Núi Cúi, dấn thân Truyền giáo… nhưng còn vướng một số lỗi về ca từ, về bố cục. Hy vọng sang năm sẽ có những tác phẩm xuất sắc.

          Ban Thánh Nhạc GP Xuân Lộc: Lm. Dom Trần Công Hiển

 

TRAO GIẢI THƠ VHNT ĐẤT MỚI 2017 

Giải  Tác giả  Tác phẩm đạt giải  Giáo Phận
I Pet Lê Thanh Xuaân Trường Ca: Gieo Haït Tin Yeâu Sàigon
II Pet Bùi Văn Nghiệp Tập thơ: Sách Tôbia Sàigon
III Teâreâsa Nguyễn Thị Như Hà Hai Tập Thơ Haiku;

Như lời yêu thương

Xuân Lộc
III Nguyễn Bá Hòa Cánh đồng mùa lũ,

Tứ tuyệt: Người dưng, vết nứt

Ñaø Naüng
KK 1 Madalena Nguyễn Thị Mến Tập thơ: Thắp sáng niềm tin Xuân Lộc
KK 2 Catarina Nguyễn Thị Lam V Đất M Xuân Lộc
KK 3 Anna Nguyễn Đỗ Thái An Tập thơ Theo chân người mục tử Đà Nẵng
KK 4 Jos Nguyễn Hữu Toàn Hành trình cuộc khổ nạn

của Chúa Giêsu

Xuân Lộc
KK 5 Paul TTrần Trung Hậu K chuyn Tin Mng Thái Bình

TÁC PHẨM DỰ GIẢI

Tổng số thơ dự giải VHNT Đất Mới 2017 là 1426 bài, trong đó có 15 tập thơ, 22 chùm thơ, 2 trường ca, 2 bài phú, 1 sớ táo Cao niên.

So sánh với 2016: Thơ Đất Mới 2016 có 1002 bài thơ, (trong đó có 26 tập thơ, chùm thơ, 6 Văn tế, 01 Phú)

Về nội dung, có 110 bài (7,7%) không có tâm tình tôn giáo. Nhiều bài viết về quê hương, về cha mẹ về Hoàng Sa, Trường sa, về Mậu Thân, về chiến tranh; nạn phá rừng, thiên tai thảm họa, Cáp treo Đà Lạt, tặng các cô Bưu chính viễn thông, về tình yêu dở dang…

Về hình thức, có 332 bài “Thơ phong trào” (23%).

Thơ phong trào” là thơ bình dân. Ca dao là nghệ thuật bình dân song nhiều bài rất hay. Thơ là để chia sẻ tri âm, góp tiếng nói động viên nhau sống vui, sống có ích, Thơ phong trào ít quan tâm đến nghệ thuật.

ĐẶC SẮC CỦA THƠ ĐẤT MỚI 2017

Thơ Đất Mới 2017 không tập trung hẳn vào một chủ đề nào. Các tác giả tiếp tục khám phá những đề tài đã được viết nhiều trong những năm qua.

Đó là đề tài về Đời dâng hiến, thơ tỏ lộ tâm tình của nữ tu (Như lời yêu thương tập thơ 58 bài), thơ là tiếng nói tri ân với Đức cha Vũ Duy Thống (chum thơ Theo chân Mục tử). Thơ về Đức Mẹ Núi Cúi (Núi Cúi ngắm mẹ ẵm nhẹ Chúa Con; Nắm đất dưới chân Núi Cúi; Về thăm núi cúi), về đời sống và đức tin của người Công giáo (tập thơ Thắp sáng niềm tin viết về gia đình và giáo xứ, sống bác ái, sống loan báo Tin Mừng; Dâng gia đình. Rước lễ không nghiêm, đi lễ đứng ngoài nhà thờ; về sinh hoạt của giáo phận (Sớ Táo Cao Niên). Thơ lấy cảm hứng từ Kinh Thánh: Đừng ly dị, Câu hỏi về ly dị, Tiệc cưới Cana; Phú lưu vong Ai Cập; phổ thơ 15 chương sách Tôbia; 114 bài tứ tuyệt lấy chủ đề giáo dục gia đình trong các sách: Châm ngôn, Huấn ca và Khôn ngoan; Hành trình cuộc khổ nạn của Chúa dài 150 khổ thơ.

Về nghệ thuật, thơ Đất Mới 2017 ghi nhận những nỗ lực sáng tạo mới, đó là việc thi hóa Kinh Thánh: Tác giả Bùi Văn Nghiệp đã chuyển 15 chương của sách Tôbia thành 191 khổ thơ, (746 câu thơ). Sách Tôbia kể lại câu truyện khá phức tạp, chuyển thành thơ, bảo đảm cốt truyện là việc khó. Đây cũng lá tác giả có số tác phẩm khá đồ sộ tham gia giải.

Một nỗ lực nghệ thuật khác là làm thơ Haiku. Tác giả Nguyễn Thị Như Hà có hai tập thơ hơn 900 bài, trích 440 câu trong các sách Huấn ca, Châm ngôn, Is, Ai ca, Diễm ca; Giêrêmia; A-mốt; Ê-phê-xô; Mt; Ga; Lc; 2Côrintô; Mikha; Gióp; Tv; 2Samuel, Đệ nhị luật và chuyển hóa thành thơ Haiku. Quả là một nỗ lực công phu. Tuy vậy, nhiều bài chưa đạt được phẩm chất nghệ thuật của thơ Haiku.

Thơ Đất Mới 2017 có một trường ca thơ văn xuôi khá ấn tượng. Đó là trường ca Gieo hạt tin yêu của tác giả Pet Lê Thanh Xuân. Trường ca gồm 6 chương, 2283 chữ, tương đương với một truyện ngắn kể lại từ thời cha ông đi mở cõi, nghèo. Gặp hạt giống đức tin (chương I)…Đó là trường ca đẹp về ngôn ngữ, đẹp về tình người, và đẹ về tư tưởng nhân văn Công giáo. Xin đọc (Tác phẩm đạt giải nhất)

Nhìn chung thơ Đất Mới 2017 có những bước phát triển so với 2016. Đó là số lượng tác phẩm tham gia nhiều hơn, là sự thể nghiệm những hình thức nghệ thuật mới, như thi hóa Kinh Thánh, tiếp tục khai thác nghệ thuật dân tộc (thơ Lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt, Phú, thơ thuận nghịch, sớ…). Cũng đã có những thể nghiệm thơ hiện đại (tập thơ Chốn Viên Kỳ, 57 bài). Về nội dung, thơ tiếp tục khám phá sâu hơn những đề tài mà thể lệ cuộc thi đã đặt ra với mục đích “xây dựng những giá trị văn hoá Công Giáo nơi cộng đồng dân Chúa.”. Điều đáng mừng là cuộc thi đã quy tụ được nhiều tài năng, tâm huyết và đã tạo nên một vườn thơ Công giáo.

Ước mong con đường sáng tạo sẽ có đông đảo hơn nữa những tài năng và tâm huyết để những giá trị văn hóa Công giáo được sáng lên trong lòng văn hóa dân tộc.

TRAO GIẢI TRUYỆN NGẮN VHNT ĐẤT MỚI 2017

4 Lê Quang Trạng

Nhà văn trẻ Lê Quang Trạng (Long Xuyên) Giải nhất truyện ngắn và Kịch (số 10)

Giải Tác giả Tác phẩm đạt giải Giáo phận
I Lê Quang Trạng Những tiếng chuông trầm Long Xuyên
II Lê Đức Quang Tiếng chuông Nha Trang
III Philip Huỳnh Ngọc Nhân Chồng tôi Xuân Lộc
KK 1 Fx Cao Dương Cảnh Mái trường chủng viện Cần Thơ
KK 2 Vinc Chung Thanh Huy Những ánh sao đêm. Sàigon

 Có 55 truyện ngắn dự giải Đất Mới 2017 (Năm 2016 có 44 truyện của 31 tác giả)

VỀ NỘI DUNG

Truyện ngắn năm 2017 không tập trung nhiều vào một chủ đề nào, mặc dù thể lệ cuộc thi có đề xuất những chủ đề cụ thể như chủ đề: đời dâng hiến, về Mẹ Vô Nhiễm Núi Cúi (bảo vệ sự sống, nhân phẩm…), về gia đình sống bác ái, sống loan báo Tin Mừng, về bảo vệ môi trường,…

Những truyện viết về Đời dâng hiến đều nhận thức được con đường theo Chúa là con đường khó khăn. Chúa gọi môn đệ của Người trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, có khi xuất phát từ những nghịch cảnh. Truyện Mái trường chủng viện, tu sinh có gia đình cha mẹ bất hòa phải ly thân. Đây là một trở ngại rất lớn đối với ơn gọi đời tu.

Hình ảnh các nữ tu đuợc miêu tả là hiện thân vẻ đẹp của Lòng Thương Xót đối với tha nhân. (Những ánh sao đêm, Yêu thương dậy sóng)

 Chủ đề về gia đình có nhiều truyện miêu tả bi kịch của gia đình Công giáo trong môi trường xã hội phức tạp. Chẳng hạn, gia đình vợ chồng khác tôn giáo (truyện Tiếng chuông). Đạo ai nấy giữ. Sau ngày cưới, mấy lần chị tranh thủ đi nhà thờ, anh nhăn nhó trách chị bỏ bê con cái, không có trách nhiệm với gia đình. Dần dần lâu ngày, chị ngại cãi nhau với anh nên hầu như không đi nhà thờ nữa…

Chồng tôi là câu chuyện sống chứng nhân của người Công giáo. Truyện kể: Tôi lấy chồng đã hơn 7 năm, đã có 2 con, 1 trai, 1 gái, gia đình rất hạnh phúc. Chồng tôi cái gì cũng được, nhưng đáng buồn là anh chỉ biết sống cho mình mà không hề quan tâm đến tha nhân. Tôi chỉ biết âm thầm cầu nguyện. Và ơn Chúa đã thức tỉnh anh.

Truyện Mẹ tôi kể lại cuộc tìm kiếm mẹ suốt 25 năm, một người mẹ không hề biết mặt. tôi là đứa trẻ bị bỏ rơi. Chú tôi kể: Cô chú lớn lên ở cô nhi viện. Sau 1975, chú ra đời kiếm sống. Một lần, có một bà xin ăn, ngồi bên vỉa hè, bế một đứa bé 12 tháng tuổi. Bà gửi đứa bé cho chú để đi vệ sinh, rồi không quay lại nữa.  Vì không thể chăm sóc tôi, chú đến cô nhi viện xin cô về giúp. Tôi được cô chú nuôi dạy và cho ăn học… 25 năm sau tôi mới biết mặt mẹ. Và biết rằng mẹ cũng đã đi tìm tôi suốt 25 năm.

Những truyện trên khẳng định điều này, dù cuộc sống có bao nghịch cảnh nhưng trong đáy sâu tâm hồn con người vẫn còn những giá trị nhân văn đẹp đẽ. Người viết văn là người nhìn thấy, trong những cảnh đời bi đát, vẫn còn đó tình người và niềm hy vọng. Và làm sáng lên niềm hy vọng ấy.

VỀ NGHỆ THUẬT

Năm 2017 không có truyện xuất sắc, mới lạ về bút pháp, giọng điệu hoặc nghệ thuật.

Đa số truyện viết bằng bút pháp hiện thực, sử dụng nhiều kỹ thuật viết hồi ức. Nhiều truyện chỉ có tâm trạng và nhớ, tính truyện rất nhạt (Hạnh phúc đêm Giáng sinh, Cuối mùa chay, Nước mắt người tội lỗi, Cứ để Chúa về). Nhiều truyện còn ở dạng ký, thuật lại một chuyến về thăm nhà, thăm quê; hoặc kể thành tích “người tốt việc tốt”; nhiều truyện chủ đề mờ nhạt, lời kể chưa có tính văn chương,… (Mùa xuân, Những bất ngờ của Mai, Người tiên phong, Những người giữ cầu, Ơn nghĩa thầy trò, Tình cha, Chuyện nhà nội tổ, Gió giữa mùa, Những nốt lặng sáng trong, Nghĩa tình thủy chung), có truyện là nỗi bức xúc của tác giả vì mình người nhập cư không được bầu vào Ban hành giáo của giáo xứ (Phép vua thua lệ làng)

Nhiều truyện sử dụng hư cấu giả tưởng, bất chấp tính logic của hiện thực, thành ra mất đi tính thuyết phục của truyện.

Văn chương hướng con người đến Chân, Thiện, Mỹ, Vì thế cần sự chân thực, chân thực trong cách miêu tả, và chân thực trong tâm tác giả. “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”(Nguyễn Du).

XIN LƯU Ý

Có 15 truyện nằm ngoài thể lệ cuộc thi VHNT Đất Mới, chiếm 25%.

Xin nhắc lại, tiêu chí giải VHNT Đất Mới là: xây dựng những giá trị văn hoá Công Giáo nơi cộng đồng dân Chúa.”, “truyện chưa tham gia bất cứ cuộc thi nào khác”.

                                                (Thông báo về thể lệ cuộc thi VHNT Đất Mới 2017).

Ăn tết xa nhà (Eo nín thở) và  Đèn pha chói mắt  là truyện đã dự thi năm 2015.

Mưa, đã dự thi Viết Văn đường Trường Quy Nhơn 2014.

Chúa thắng trong ta đã dự thi Viết Văn đường Trường Quy Nhơn 2016.

Tấm áo ngày xuân, đã dự thi Viết Văn đường Trường Quy Nhơn 2017.

Đông tây kim cổ là một bài nghiên cứu, so sánh Kinh thánh với tục ngữ, ca dao, cổ tích. Thương hồ, Trung thu; Lời xin lỗi muộn màng, Người thắp lửa có nội dung văn hóa Phật giáo.

BAN VĂN HÓA GP XUÂN LỘC

9 Toàn cảnh 2

(Toàn cảnh hội trường nhìn từ góc các tác giả đạt giải-ảnh BCT)

TRAO GIẢI TRUYỆN DÀI VĂN HÓA NGHỆ THUẬT ĐẤT MỚI 2017

Đất Mới 2017 có 4 truyện dài và 8 truyện vừa

Giải Tác giả Tác phẩm Giáo phận
I Teâreâsa Nguyễn Phương Thảo Ôi tội hồng phúc Canada
II Trầm Thị Sương Những ngày còn lại Vĩnh Long
III Teâreâsa Bùi Thị Hồng Ân

Maria Bùi Thị Hoài ân

Ngọn đèn dầu nhỏ Xuân Lộc
KK 1 Maria Phạm Thị yến Hai đứa trẻ Thanh Hóa
KK 2 Teâreâsa Phạm Thị Khiết Tâm Mưa rừng Xuân Lộc
KK 3 Maria Hồ Thị Phương Anh Đóa Quỳnh bất tử Xuân Lộc

VỀ NỘI DUNG

Chủ đề về Linh mục

Trong nhiều truyện dài và truyện vừa, nhân vật Linh mục để lại ấn tượng tốt đẹp. Các Linh mục hiện diện giữa mọi người, tỏa sáng niềm tin yêu, củng cố đức tin cho giáo dân.

Trong Mưa rừng, cô giáo Mai bị hất hủi trong tình yêu, một thân một mình xin đi dạy ở vùng sâu vùng xa Bù Đăng Bù Đốp khi đang mang thai. Ở đây, Mai được Già Ôm, thầy Hiệu trưởng, cha xứ giúp đỡ, chăm sóc. Cô sinh con. Mẹ con sống chan hòa trong tình yêu thương của mọi người. Cha xứ trong truyện Con lật đật, đã cưu mang một người bị liệt, ngồi ăn xin ở chợ Cầu. Anh ta bị bịnh tim. Khi cha qua đời vì bịnh lao, ngài đã cho anh ta trái tim của mình, nhờ đó anh ta được cứu sống. và cùng giáo xứ tiếp tục công việc của cha xứ là xây nhà thờ. Ngọn đèn dầu nhỏ là tâm nguyện của Linh mục Thiên Phúc, muốn được gắn bó với giáo dân và trở nên ngọn đèn dầu nhỏ bên nhà tạm của Chúa. Đóa quỳnh bất tử là cuộc đời dấn thân của Lm Cảnh Phương. Ngài tình nguyện đi phục vụ tại Châu Phi, chấp nhận bao nhiêu khó khăn để đem Tin Mừng đến cho muôn dân. Ở đây, ngài bị bọn thù nghịch sát hại.

Chủ đề về người trẻ, tình yêu và hôn nhân

Có lẽ Năm 2017 Mục vụ Gia đình là chuẩn bị cho các bạn trẻ bước vào đời sống Hôn nhân vì thế nhiều truyện dài và truyện vừa viết về đời sống gia đình, về người trẻ và bi kịch tình yêu và hôn nhân.

Truyện Hai Đứa trẻ là tình cảnh của Trà và Hương, hai đứa trẻ bị trao nhầm cha mẹ lúc mới sinh. Truyện chỉ ra những bi kịch trong gia đình đã đẩy người trẻ vào thảm cảnh. Chỉ có tình yêu thương, sự bao dung tha thứ, và Đức tin mới đem lại bình an.

Ôi tội hồng phúc là một truyện dài gần 500 trang in, được viết rất chuyên nghiệp và hấp dẫn. Truyện miêu tả bi kịch tình yêu của người trẻ trong xã hội Canada. Có sự tương phản gay gắt giữa văn hóa truyền thống Việt và văn hóa phương tây, giữa cách nghĩ, cách sống của người trẻ vô thần với bạn bè, người yêu có đức tin Công giáo. Sự đối mặt với vấn đề tình yêu, hôn nhân, tính dục của người trẻ. Và thái độ quyết liệt bảo vệ sự sống cho 3 đứa trẻ sinh ra trong nghịch cảnh. Kết truyện là câu Kinh thánh: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người”(Rm 8, 28)

Những ngày còn lại là ý chí hoàn lương của một bạn trẻ sa ngã vào ma túy và bị HIV. Sau khi từ trại cai nghiện trở về, Phong từ bỏ tất cả, kể cả tài sản của Cha để lại. Phong cố gắng sống tốt những ngày còn lại và yên tâm ra đi khi hai em được sống trong sự chăm sóc yêu thương. Truyện nhắc nhở trách nhiệm cha mẹ đối với số phận của con cái.

VỀ NGHỆ THUẬT

Truyện dài năm nay có nhiều điều mới lạ nhưng cũng nhiều hạn chế. Ôi tội hồng phúc là một truyện dài hấp dẫn, viết chắc tay và có bề dày văn hóa. Truyện mở ra một thế giới rất khác với cuộc sống thực ở Việt Nam, xã hội người Việt ở Canada, và dự báo người trẻ Việt Nam đến một lúc nào đó cũng sẽ lâm vào những bi kịch tình yêu, hôn nhân như vậy. Cần một bờ vai là truyện đầy ắp những vấn đề xã hội rất “nóng” mà con người VN đang phải đối mặt, như ly dị, bỏ thai, bắt cóc trẻ, buôn bán nội tạng, vượt biên, ăn thịt người trên thuyền. Đời Dâng Hiến là truyện kết hợp được những vấn đề hiện thực với những yếu tố hoang tưởng, như hư như thực trong hình ảnh một cô gái mọc cánh, âm thầm thực hiện một sứ mệnh thiêng liêng.

Hạn chế là ở kỹ thuật dựng truyện, sử dụng chất liệu hiện thực và các giá trị văn chương-tư tưởng. Chẳng hạn, truyện Cần một bờ vai dựng quá nhiều bi kịch xã hội. Có quá nhiều điều phi thực khiến cho truyện trở nên thiếu tính thuyết phục.

Ôi tội hồng phúc là một truyện được viết chuyên nghiệp nhưng cũng có nhiều cảnh, nhiều tình huống vi phạm tính chân thực của tác phẩm. Chẳng hạn, nhân vật Tuấn dẫn con đi cửa hàng thực phẩm. Lúc ấy có hai thiếu niên đang chơi trò chơi ở máy tự động. Máy bị kẹt tiền, rung lắc dữ dội và đổ ập xuống người Tuấn. Anh được đưa và bệnh viện cấp cứu nhưng không qua khỏi. Thật không thẻ tin nổi ở một đất nước phương Tây, khó thể xảy ra một việc mất an toàn đến vậy. [Tác giả cho biết, việc máy bán hàng tự động gây tai nạn ở Canada đã xảy ra nhiều. Xin đọc: https://www.thoughtco.com/are-vending-machines-more-deadly-than-sharks-3970604]

Đánh giá chung: Có thể nói, giải VHNT Đất Mới năm nay, về truyện dài đã có những thành công nổi trội về cả nội dung và nghệ thuật so với năm trước và theo kịp với mặt bằng chung của văn chương VN hiện nay, dù rằng vấn đề cách tân nghệ thuật chưa được đặt ra.

TÁC PHẨM NẰM NGOÀI TIÊU CHÍ

Có 04 truyện nội dung nằm ngoài tiêu chí VHNT Đất Mới

Nơi đó một vùng quêvăn học Cách mạng. Truyện kể về nhân vật Tri, con liệt sĩ, mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ. Tri chăm ngoan, sống nghĩa tình. Đảng ủy và Hội phụ nữ xã cù lao Long Thanh đã chăm chăm sóc Tri. Tri cũng được sự thương yêu đặc biệt của thầy cô giáo. Học xong ĐH, Tri về công tác tại địa phương. Truyện ca ngợi nghỉa tình Cách mạng.

Đời Dâng Hiến, kể chuyện Diệp Vân, một cô gái có hai vết sẹo mọc thành cánh như cánh chim. Cô không biết mình là người hay chim. Cô nhận lệnh từ một Bà Cao cả bảo vệ động vật hoang dã. Vân bị chết trong lửa. Cô được Bà cao cả đưa về cõi tiên.

Chủ đề bảo vệ chim cò, đồng thời tố cáo nạn ô nhiễm, nạn vô cảm, tình trạng đô thị hóa. Truyện nằm ngoài tiêu chí nội dung vì không có ánh sáng Tin Mừng, sai lạc về tư tưởng. Truyện vừa cậy nhờ ông thần cây đa, vừa đến chùa cầu nhà sư, vừa quy kết tất cả là do số mệnh, lại vừa có một Bà quyền uy (Bà bề trên- có dáng dấp đức Mẹ) ra lệnh cho Vân và bắt Vân chịu khổ, sau cùng Vân phải chịu chết cháy. Điều này sai lạc tín lý về Đức Mẹ.

Xô ngã bức tường rêu, là một truyện tình. Tác giả khoe tài “cưa” gái. Một thanh niên Việt Nam khoảng 30 tuổi, đã cưa đổ một cô gái người Hoa có gia đình thờ Phật. Anh ta dùng chiêu “đẹp trai không bằng chai mặt” và dùng quà cáp vật chất để dụ dỗ lấy cảm tình cô gái và cha mẹ nàng. Nhiều cảnh miêu tả nhân vật Tôi thiếu văn hóa.

Thí dụ, trước mặt bố mẹ cô gái, nhân vật Tôi lợi dụng say xỉn, ôm cô gái trên giường, bị mẹ cô la, mãi Tôi mới buông cô ra. Họặc bạn bè nói với Tôi rằng, muốn cưa cô gái thì cứ “chịch” cho nàng mang bầu là cha mẹ cô ta sẽ phải gả.

BAN VĂN HÓA GP XUÂN LỘC

2 BCT

(BCT thay mặt Ban Văn hóa Gp Xuân lộc công bố giải và nhận xét các tác phẩm đạt giải)

TRAO GIẢI KỊCH & ẢNH GIẢI VHNT ĐẤT MỚI 2017

Giải Tác giả Tác phẩm Giáo phận
I Lê Quang Trạng Bài thuốc thần kỳ Long Xuyên
II Giuse Phạm Hiển Vị thánh can đảm Sàigon
III Anê Võ Thị Phương Din nguyn mng 100 năm

Đức M hin ra Fatima

Quy Nhơn
KK Vũ Thị Nguyên Nhi Đường về nhà. Xuân Lộc

SỐ LƯỢNG KỊCH BẢN

Có 09 kịch bản tham gia giải VHNT Đất mới 2017, trong đó có một kịch bản không hợp lệ (Kịch bản K07: Hạnh phúc gia đình, đã dự thi 2016).

NHẬN XÉT CHUNG

Hai kịch bản: Chuyến hành hươngDiễn nguyện chào mừng 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima chưa phải là một kịch bản văn học. Chuyến hành hương như một văn bản ký, thuật lại câu chuyện trong chuyến đi Tà Pao. Diễn nguyện chào mừng 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Fatima chỉ là minh họa cho việc kể chuyện, chưa xây xựng thành một kịch bản văn học đúng với đặc trưng thể loại kịch (có thể xem diễn nguyện là một thể loại riêng, có tính diễn xướng nhiều hơn tính kịch)

Ai xứng đáng là kịch hóa một truyện ngụ ngôn. Vị thánh can đảm kịch hóa một hành động “dũng cảm” của thánh Savio.

Các kịch bản: Đứa bé tật nguyền, Sám hốiĐường về nhà cùng khai thác những vấn đề của gia đình: Cha mẹ lo làm ăn để con cái hư hỏng. Con gái không nghe lời cha mẹ, bỏ nhà theo trai, sinh con tật nguyền. Các tác giả đều chỉ ra nguyên nhân, miêu tả con đường hoán cải và trở về bằng tình thương yêu, sự cầu nguyện và sự tự hoán cải của mỗi người. Tuy vậy, việc xây dựng mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn kịch chưa triệt để và chưa thuyết phục.

Bài thuốc thần kỳ là một kịch bản có nhiều tố chất của một kịch bản văn học, tức là tính nghệ thuật và sự sáng tạo. Một đoàn tu sinh được Chủng viện cử đến giúp đỡ cho một Bệnh viện tâm thần do một nhóm y bác sĩ Công giáo về hưu lập ra. Ở đây các thầy đã chứng kiến bác sĩ Bệnh viện trưởng giúp đỡ cho bệnh nhân số 26, người tự nhận mình là quốc vương bắt mọi người phải quy phục. Những ngày sau đó, các thầy cũng dùng phương pháp hóa thân nhập vai với người bệnh nhân này, nhờ đó giúp chị thức tỉnh. Chị bị con đối xử phũ phàng gây tổn thương tinh thần. Chỉ có tình yêu thương, sự cầu nguyện và ơn Chúa mới giúp chữa lành những vết thương tâm tưởng không thể nào thôi chảy máu.

Thể loại kịch, VHNT Đất Mới chưa có tác giả chuyên nghiệp, chưa có được những kịch bản vừa có phẩm chất nghệ thuật, vừa đặt ra và giải quyết được những vấn đề của đời sống Công giáo, và rộng lớn hơn là những vấn đề của thời đại. Ước mong các tác giả nỗ lực sáng tạo hơn nữa. Năm 2016 các tác giả đã thử khai thác Kinh Thánh. Năm nay các tác giả tiếp tục khai thác đề tài thánh (thánh Savio, Đức mẹ hiện ra ở Fatima). Đây là một hướng khám phá có nhiều khả năng. Đề tài về gia đình hầu như đã đi theo lối mòn.

Vẫn biết rằng sáng tạo nghệ thuật là rất khó. Mong các tác giả nâng cao tay nghề để có những tác phẩm kịch đặc sắc được dựng trên sân khấu này

ẢNH NGHỆ THUẬT

ẢNH ĐẠT GIẢI 2017

(Ảnh đạt giải Nhì, Ba và khuyến khích- không có giải Nhất)

Giải II: Lửa trại giáo lý viên-Paul Nguyễn Văn Hòa –Xuân Lộc

Giải III: Chốn bình yên-Anna Nguyễn Thị Tính- Xuân Lộc

KK 1: Đã bao lâu rồi– Aug Nguyễn Minh Lâm- Xuân Lộc

Nhận xét chung về ảnh dự thi

Số lượng ảnh tham gia rất ít (các cuộc thi ảnh có từ vài trăm đến vài ngàn).

Một số ảnh có ý tưởng rất tốt nhưng ảnh không nói lên được ý tưởng đó.

Chưa đi sâu để thể hiện sinh hoạt của người Công Giáo trong xã hội.

Các ảnh dự thi thiếu sáng tạo trong cách nhìn và bố cục không chặt chẽ.

 Xin góp ý cho những cuộc thi năm sau:

  • Cần bám sát những sinh hoạt tôn giáo của giáo phận
  • Thời gian gần đây Đức Giám Mục có những lần đi thăm hỏi các tiểu thương ngoài chợ…Thăm hỏi và an ủi những bệnh nhân và người già neo đơn…Thăm và trao đổi với các tôn giáo khác tại các chùa chiền…Thiết nghĩ đây là những nét mới và đa dạng cho nhiếp ảnh tác nghiêp
  • Khai thác những hình ảnh khám bệnh, phát thuốc, trao quà do các Giáo xứ thường tổ chức dành cho những vùng nghèo khó…
  • Các thành viên của Ban Truyền Thông Giáo Phận cần tích cực tham gia cuộc thi Văn Hóa Đất Mơi vì các bạn có điều kiện và thời gian tiếp cận…

Nhận xét riêng về những tác phẩm khá:

1.Bộ ảnh: Đã bao lâu rồi: Bộ ảnh lột tả được những khuôn mặt đầm đìa nước mắt…Nhưng nếu không có bài viết kèm theo sẽ không biết các cháu khóc vì điều gì…Ảnh chưa thể hiện được ý tưởng

2.Ảnh Chốn bình yên : Có lẽ ảnh chụp vào Lễ Các Thánh nên nghĩa trang rất nhiều hoa…Ông cụ và các cháu thiếu nhi đang nhớ về người thân đẫ rnằm an nghỉ nơi nghĩa trang an bình…Ảnh thể hiện khá chỉn chu…tiếc rằng tác giả đã dùng tương phản quá tay nên các vùng tối bị đen thui…

3.Bộ ảnh:Thắp sáng tin yêu và ảnh: Lửa trại GLV hạt Phú Thịnh: Bộ ảnh khá tốt nhưng thể hiên chưa đạt nhất là ảnh cuối lỗi kỹ thuật nặng vì quá noise ở phía dưới…Ảnh Lửa trại GLV hạt Phú Thịnh chất lượng hơn…

4.Ảnh Chia sẻ , ảnh Thánh giá đời thường và ảnh Sớt chia : Ý tưởng tốt nhưng diễn tả bằng hình ảnh chưa đạt về bố cục và ánh sáng…

5.Ảnh Thập tự trong thiên nhiên: Đáng ra tác giả nên chụp 3 ảnh riêng từng phần và một ảnh tổng quát như lời diễn giải …

6.Ảnh Hy sinh: Ảnh thể hiện người khuyết tật chung tay làm vệ sinh môi trường…Tuy nhiên tên ảnh “hy sinh” không ổn…

7.Ảnh Nguyện cầu trong đêm: Một lễ đêm tại cuối giáo đường ảnh chỉ như một kỷ niệm…

8.Ảnh : Hãy sống có ý nghĩa vì gia đình là số 1 : Có 2 ảnh khá giống nhau…Nguồn sáng khá đẹp…Nhưng chủ đề không nổi lên được về đời sống gia đình trong đời sống đạo…

BAN VĂN HÓA GP XUÂN LỘC

 

GƯƠNG MẶT LOÀI HOMO SAPIENS

GƯƠNG MẶT LOÀI HOMO SAPIENS

(Đọc bản thảo Gương mặt loài Homo Sapiens, tiểu thuyết lịch sử của Trần Như Luận)

Bùi Công Thuấn

 

 Khuôn mặt 5

(Bìa do BCT thiết kế để minh họa bài viết)

 

 Trong “Lời bạt”, khi kể lại việc viết cuốn tiểu thuyết Gương mặt loài Homo Sapiens, tác giả thổ lộ, đó là “những câu chuyện rất thật” của lịch sử. Cơ duyên là như thế này. Thân phụ tác giả đã tiếp xúc với nhân vật Po Martin (nhân vật chính của tác phẩm), và đọc Hồi ký của Po. Năm 2006 khi sang Mỹ, tác giả may mắn gặp và nói chuyện với Xho Martin, con của Po. Để làm tăng sức thuyết phục về “sụ thật” lịch sử được nói trới trong tác phẩm, tác giả còn cho in chân dung nhân vật. Đó là những con người có thật trong lịch sử hiện đại như như vua Léopold II, Hitler; Anne Frank, Mobutu, Lumumba, Bob Dylan, Albert Kahn, Lm Casmir, Disanka; … Hơn thế, để hoàn thành cuốn sách, tác giả còn phải mua tài liệu từ OpenLeads. Đây là lời chia sẻ: “Tôi ghi lời bạt này với mục đích tri ân những người đã cung cấp thông tin nhiều chiều để tôi có dịp tham khảo nhằm viết nên nội dung cuốn sách này. Tôi cũng xin cảm ơn quý độc giả đã trải lòng qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau để sống thêm một đời sống khác qua những câu chuyện rất thật được ghi chép lại.” Từ đó tác giả đặt vấn đề: “Gương mặt loài homo sapiens thế nào, đó là câu hỏi mà tác giả xin phép dành cho bạn. Những vấn đề ấy lôi cuốn tôi vào cuốn sách.

  1. THÁCH THỨC NỖ LỰC CỦA NGƯỜI ĐỌC.

 Với tôi, Gương mặt loài Homo Sapiens không dễ đọc. Bởi để đọc một cuốn sách, người đọc cần có một nền tảng tri thức về nội dung cuốn sách, nhưng tôi chưa chuẩn bị đủ kiến thức về lịch sử thế giới. Tôi hoàn toàn mù mờ về Châu Phi, về hoàn cảnh chính trị nước Congo, “từ khi cái gọi là Hội nghị Berlin 1885 có hiệu lực, người ta xem Công Gô chỉ là vật sở hữu của ông vua Bỉ Léopold II. Từ năm 1908 cho tới tận ngày nay, Công Gô chỉ được xem là một phần đất của Bỉ.”(tr.34). Cho nên khi tác giả dẫn tôi vào một không gian rất rộng của Châu Phi, và châu Âu, trải dài từ đầu thế kỷ XX đến thế chiến II, và chiến tranh Việt Nam, tôi như bước vào một thế giới mới lạ, vừa đi vừa dò dẫm, và ngạc nhiên thú vị. Không thú vị sao được khi cùng với Po thâm nhập bộ tộc Sahanana, nơi hôn nhân không được phép tổ chức lễ cưới hỏi. Cha mẹ dựng lều cho con và đôi trai gái thành thân với nhau trong túp lều ấy. Bước chân lưu lạc của Po cũng dẫn người đọc đến Paris, đến Hà Lan, vào trại tù của Đức, đi biểu tình trên đường phố New York, và sang cả Việt Nam năm 1945 chứng kiến bao nhiêu người chết đói ở miền Trung và miền Bắc…

Nhưng tác phẩm thách đố năng lực cảm nhận của người đọc ở nghệ thuật kể truyện. Có hai câu truyện được kể cùng một lúc. Câu truyện ở thực tại, kể về người anh hùng Patrice Lumumba giành độc lập cho Congo và câu truyện về “sử gia” Po (người Congo) được ghi lại trong hồi ký của ông (truyện quá khứ) mà Blaise Sanchez đọc từ chương 4 đến chương 63 (360 trang). Cả hai câu truyện cùng hiện lên trước mắt người đọc ở thì hiện tại (kỹ thuật đồng hiện, xếp chồng) nhưng giữa hai câu truyện không có mấu chốt nào quan hệ với nhau, khiến người đọc luôn tự hỏi không biết tác giả đang kể truyện gì, ấy là chưa kể cả hai câu truyện lại bị lẫn vào những sự kiện của bối cảnh chính trị rộng lớn, phức tạp, khiến cho nhân vật chính bị tan loãng ra, như mất tích trước mắt người đọc. Chuyện của Po được kể trong 28 chương, xen kẽ vào truyện của Lummuba đang diễn ra trong thực tại. Mãi tới chương 69 (sau 390 trang), trong cuộc biểu tình ở New York, tình cờ Blaise Sanchez mới gặp Po Martin trong đời thực. Lúc ấy hai tuyến truyện mới nhập chung vào một dòng thời gian. Sự đan cài hai câu truyện này là một đặc sắc của bút pháp, giúp người đọc tiếp cận câu chuyện của quá khứ mà Po trải qua (thí dụ: thế chiến II) như trong thực tại, nhưng sẽ gây rối cho người đọc quen kiểu truyện được kể theo tuyến tính.

 Do sử dụng hai tuyến truyện trong một không gian rộng và thời gian dài nên có quá nhiều nhân vật xuất hiện. Họ thuộc đủ mọi thành phần, từ vua quan đến thứ dân, thuộc nhiều quốc tịch: người châu Phi, người Đức, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Mỹ, Liên xô. Có những nhân vật đã nổi tiếng như Hitler, tổng thống Eisenhower, Anne Frank, Bob Dylan (người mới đạt giải Nobel văn chương 2016)… nhưng cũng có nhiều tên lạ không dễ nhớ, nhất là khi những nhân vật này chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc. Tôi đã căng mắt tìm nhân vật Billy Smith, trưởng trạm CIA phụ trách Congo. Y xuất hiện ở đầu truyện, sau đó mất tích hẳn. Đến chương 44, Billy mới xuất hiện lại, rồi lại mất tích và đến trang 373 mới được nhắc tên. Tôi tự hỏi, chẳng lẽ tác giả quên mất nhân vật này? Phải đến chương 69, sau 390 trang truyện, tác giả mới tiết lộ Blaise chính là Billy Smith. Tôi chưa bao giờ bị thử thách sự kiên nhẫn đến như vậy. Nhưng có thể hiểu, Billy là điệp viên CIA, y cần giấu mặt, và tác giả cũng không được để lộ tung tích nhân vật khi chưa cần thiết. Sự gặp gỡ giữa một cựu điệp viên CIA với Po Martin có ý nghĩa tư tưởng. Chính tư tưởng chống chiến tranh, yêu hòa bình của Po đã cảm hóa y. Tư tưởng này cũng là tư tưởng soi chiếu vào những sự kiện lịch sử trong suốt tác phẩm. Blaise đã phải công nhận Po là nhà tư tưởng lớn của châu Phi (tr. 392).

 2.NHỮNG BÀI HỌC CỦA LỊCH SỬ

 Lịch sử hay tiểu thuyết lịch sử, cung cấp cho người đọc những sự thật của quá khứ, làm lộ ra những góc khuất một thời, nhưng điều quan trọng hơn là gợi ra ý nghĩa của lịch sử, và những bài học của quá khứ. Gương mặt loài Homo Sapiens là chân dung của nhân lọai “văn minh”. Qua cái nhìn của Po, nhân loại văn minh là giống loài còn dã man hơn giống loài chưa văn minh, vì chúng tàn ác, chúng giết hại đồng loại. Po đã chứng kiến cảnh lính Đức truy bức người Do Thái, chứng kiến cảnh người Congo bị thực dân Bỉ đối xử tàn bạo, chứng kiến người tốt như Lumuba bị lật đổ và bị giết chết, và khi còn là sinh viên tình nguyện qua Việt Nam cứu trợ, Po chứng kiến tận mắt những người đói và cảnh chết đói do Phát xít Nhật gây ra. Khóa luận của ông viết về nạn đói năm 1945 do thực dân phát xít gây ra ở Việt Nam.

Cảm nghĩ chung của Po là: « tôi vẫn không thôi bị ám ảnh bởi những xung đột dữ dội của những người nọ người kia mà tôi đã gặp trong ngày. Tôi thật chán nản với cuộc sống của loài người. Hóa ra, mọi diễn biến trong tâm tư của loài homo sapiens thật ra chẳng có chút bình an nào cả.» Cụ Kahn, một hiền triết đã ước ao:”- Ôi, tuyệt! Tuyệt quá! Dường như nếu vứt bỏ đi cái mà chúng ta đang trịnh trọng gọi là nền văn minh, có khi con người còn được sống hồn nhiên hơn và do đó sẽ hạnh phúc hơn rất nhiều đấy!”(tr.150). Tác giả cũng thổ lộ mục đích viết văn của mình:Tôi hoàn toàn không có tham vọng vẽ nên chân dung loài người. Tôi chỉ mong thông qua các câu chuyện, chúng ta lần lượt nhận ra gương mặt của loài homo sapiens, lúc hung ác, xảo quyệt như quỷ sứ, lúc điêu ngoa, tráo trở như chồn cáo, lúc ngây ngô, khờ khệch như nai” (tr.413).

Cần phải nói cụ thể, “loài homo sapiens, lúc hung ác, xảo quyệt như quỷ sứ…” ấy chính là chủ nghĩa thực dân, Phát xít. Bọn thực dân, dù là Pháp, Ý, Anh hay Bỉ; Phát xít Đức hay Nhật, ở đâu chúng cũng đối xử tàn bạo với người dân các nước nhược tiểu. Trái lại loài Homo Sapiens ở các bộ tộc, chẳng hạn bộ tộc của Po, bộ tộc được gọi là Blasensenla, có nghĩa là bộ tộc cười và nhảy.”. “Vì từ già tới trẻ, tất cả hễ gặp nhau là nhoẻn miệng cười... Nhảy múa là một điều rất thích thú. Nhảy múa làm cho mọi người thêm xinh đẹp(tr.40); Po khẳng định:Tôi nghĩ, cuộc sống và tính cách của những người trong bộ tộc tôi đúng là tốt đẹp.”(tr.46)

 Gương mặt loài Homo Sapiens ghi nhận những bài học này. Chủ nghĩa thực dân, Phát xít đã gây bao tội ác với nhân loại. Căn nguyên tư tưởng Phát xít của Hi1tler là tư tưởng về siêu nhân của Nieszche: Gã tuyên bố Thiên Chúa đã chết. Gã say sưa ca tụng các ông chủ bằng các thuộc tính như: Cao cả, trong sáng, lành mạnh. Gã quy kết quần chúng nhân dân mang tính bầy đàn, đê hèn, đầy thù hận. Rồi gã tha hồ ca ngợi bản năng. Gã ra sức khuyến dụ các ông chủ hãy tự giải thoát ra khỏi những rào cản về mặt đạo đức, thản nhiên bước sang tình trạng dã man. Gã tán dương cả hành vi áp bức, bóc lột. (chương 21). Một số nhà tâm lý học cho rằng Niezsche đã  “sáng tác” trong trạng thái bệnh hoạn cả về thể chất lẫn tinh thần. Nhân loại cần phải cảnh giác với những thứ tư tưởng “bệnh hoạn” như kiểu tư tưởng Niezsche.

Gương mặt loài Homo Sapiens đề cao tưởng nhân ái của Kahn và Po. Tác giả dành hai chương: chương 64 (Hoa tư tưởng tỏa hương) và chương 72 (Hoa tư tưởng nở rộ) để nói về ảnh hưởng tư tưởng Po đối với kẻ thù. Cả Blaise và Larry Devlin là những điệp viên CIA tại Congo được giao nhiệm vụ giết Lumuba, nhưng họ từ chối nhiệm vụ, vì tư tưởng nhân đạo của Po Martin trong tập hồi ký kia đã ảnh hưởng tới họ rất sâu sắc.(tr.365), dù “gã có mật danh A9 kia thông báo cho Blaise biết là nếu anh không hành động theo lệnh cấp trên, anh sẽ bị sa thải, đồng thời phải hoàn trả 50% chi phí do dự án Sanchez bị phá sản. Ngoài ra, nếu rò rỉ thông tin ra bên ngoài, anh sẽ bị trừng trị.”(tr. 365). Chương 72, tác giả miêu tả một hình ảnh rất đẹp của tư tưởng nhân ái. Không còn là những dòng hồi ký của Po, mà chính là Po hiện diện trong đời thực. Blaise bất ngờ gặp Po ở New York. Họ nhận ra nhau. Cả Hai gia đình Po Martin và Billy Smith kết thân. Bảy người đã biến thành một ban nhạc đường phố. Tình cờ họ gặp Robert Zimmerman (sau này là Bob Dylan), và Woody Guthrie. Chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi tư tưởng của Po Martin, Woody bắt đầu sáng tác những ca khúc nói lên khát vọng yêu chuộng hòa bình, chán ghét chiến tranh, ngợi ca lòng nhân ái và lối sống chẳng đua chen. Robert những giai điệu hùng tráng, phản ánh một cuộc sống chung hòa hợp, không phân biệt màu da, sống hết mình vì tình bạn, tình yêu và hòa hợp với thiên nhiên. Ban nhạc của Billy Smith trở thành ban nhạc hippy. Phong trào hippy chẳng mấy chốc đã lan nhanh ra nhiều thành phố khác.

Để làm rõ hơn tư tưởng nhân ái của Po, tác giả còn dành riêng chương 73 (Lão Tử tái thế), so sánh Po với Lão tử. Chắc chắn đây là một chương hoàn toàn hư cấu thể hiện gián tiếp quan điểm của tác giả trước hiện thực. Có một người cốt cách như tiên xuất hiện ở Hà Nam Đó là một vị sử gia nước ngoài đang sống ẩn dật tại hạt Lộc Ấp, bạn với tỉnh trưởng. Tin đồn Lão Tử tái thế là do cánh nhà báo. Họ tìm đến phỏng vấn vị tỉnh trưởng rồi trực tiếp gặp vị khách tiên ấy hỏi về phép trị nước. Những câu trả lời của vị khác tiên này không khác Lão Tử. Đó là cách ăn ở thuận theo trời đất, làm bạn với cỏ cây hoa lá và phong cảnh hữu tình. Ta không thích đua chen nơi phường hoa đô hội. Coi đời chẳng qua chỉ là một giấc mơ. Phép trị dân là không trị (vô vi): “Kẻ thật thà vui lòng đứng đằng sau dân thì dân mới đưa lên trước. Kẻ tranh đoạt quyền lợi của dân thì dân coi như giặc.”; “Các vị ký giả bỗng dưng khựng lại. Họ thấy sao vị này giống hệt như ngài Lão Tử thuở xa xưa được mô tả trong các pho sách kinh điển vậy không biết nữa! Từ cốt cách, đến dung mạo, đến cả tư tưởng nữa…”. Tôi nghĩ rằng tư tưởng nhân ái, hồn nhiên của Po có  một phần phù hợp với thực tại hơn là tư tưởng “Vô vi” của Lão Tử. Trong đời loạn thì không thể “vô vi trị” được.

Tình trạng chính trị của Congo sau khi được Bỉ trao trả độc lộc đã nhanh chóng trở nên hỗn loạn (chương 66). Những ý tưởng có phần ảo tưởng của Lumuba chính là nguyên nhân dẫn đến cái chết thảm khốc của ông. Po đã cảnh báo Lumimba: “Giữa lúc hai con hổ Mỹ và Liên Xô đang gầm gừ, thiết nghĩ, chỉ cần một chút sơ suất, Công Gô sẽ lọt vào tầm ngắm của bên này hoặc bên kia. Đó là thân phận của các nước nhược tiểu.”(tr.399). Người thân tín của ông là Mobutu lại là kẻ phản bội, bán đứng Congo cho CIA Mỹ chỉ với 5000 USD (tr.372). Chương viết về sự khuynh đảo của CIA với đất nước Congo (chương 65 & 66)  trong sự tranh giành ảnh hưởng giữa Mỹ và Liên xô mà Liên Hiệp Quốc cũng đành bó tay là một chương có nhiều ý nghĩa lịch sử. Với tình hình như thế, liệu tư tưởng “vô vi” của Lão Tử có giải quyết được vấn đề không? Chính Po cũng bất lực, ông chỉ viết cho Lunuba những lời cảnh báo, sau đó rời khỏi Congo.

Bài học lịch sử là: giành độc lập đã khó, giữ độc lập còn khó hơn. Khi ngoại bang can thiệp vào nội tình đất nước, chúng sẽ gây ra bất ổn, sau đó lật đổ để nắm quyền cai trị. Điều này có thể thấy rõ ở miền Nam trước 1975

  1. LỊCH SỬ VÀ TIỂU THUYẾT

 Tiểu thuyết là hư cấu. Và ngay cả những sách viết về lịch sử, cũng chỉ là văn bản, không phải lịch sử thật. Điều ấy có nghĩa là, lịch sử chỉ được “phản ánh” một phần tùy theo nhãn quan, lập trường chính trị và mục đích diễn ngôn của tác giả. Mọi phản ánh chỉ là hình bóng của hiện thực đã bị xô lệch đi ít nhiều. Nhưng cầu lưu ý rằng lịch sử trong tiểu thuyết là hư cấu, khác với sách viết về lịch sử dựa trên tư liệu, có thể kiểm chứng được trong đời thực (tiêu chí khoa học). Nói vậy để bạn đọc khi đọc tiểu thuyết lịch sử, hãy cứ thưởng thức những giá trị tư tưởng, nghệ thuật của tiểu thuyết, đừng so sánh tiểu thuyết với sách lịch sử. Tất nhiên nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử phải tôn trọng sự thật lịch sử, thậm chí viết về sự kiện lịch sử cũng phải chính xác như một văn bản khoa học.

Điều này bạn đọc có thể tin tưởng ở cách viết thận trọng, khoa học của tác giả Trần Như Luận. Tôi đã thử đối chiếu một số sự kiện, ngày tháng, nhân vật trong tác phẩm với sách lịch sử, và hoàn toàn yên tâm về tính chân thực của ngòi bút. Sự sáng tạo của nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử là ở việc xây dựng nhân vật, kiến tạo cốt truyện, tình huống, lấp những khoảng trống mà lịch sữ thật còn bị che khuất, và điều quan trọng là tác giả soi rọi điều gì vào lịch sử, tìm ra bài học gì từ lịch sử, và xây dựng tác phẩm trên nền tảng tư tưởng gì?

Hiểu như vậy sẽ thấy tất cả những gì tác giả viết về lịch sử chỉ là để làm nền cho nhân vật. Nếu bạn đọc muốn tìm hiểu lịch sử qua những miêu tả của tiểu thuyết thì chắc chắn sẽ thất vọng.  Gương mặt loài Homo Sapiens viết về thế chiến thứ II, về quân Đức, về trại giam của phát xít Đức đối với người Do Thái, có viết về quá trình giành độc lập của Congo và thời kỳ đen tối sau đó, về nạn đói về năm 1945 ở Việt Nam, về phong trào Hippy ở Mỹ những năm 1960, viết cả về những nhân vật lịch sử như Hitler, Lumuba, Mobutu… nhưng những dòng lịch sử ấy chỉ được “phản ánh” gián tiếp qua lời kể của người khác. Chẳng hạn: “Bỗng có tin cho hay Hitler bị ám sát hụt”; “Theo một nguồn tin đáng tin cậy thì người trực tiếp ra tay là một viên đại tá Đức, tên Von Stauffenberg”; Tháng 10 năm 1944, Đài BBC đưa tin con quỷ dữ Hitler đã bức tử Rommel”(tr.300); ”Nghe nói, sau khi suýt chết lần ấy, Hitler càng tỏ ra thận trọng.”(tr.302).“bản tin cuối ngày 30/4/1945, các hãng thông tấn chính thức thông báo Hitler đã chết”(tr.302”; Có tin cho hay trong vòng một tuần, ở hai thành phố đó đã có trên 40 cuộc đụng độ, gây thương tích cho hằng trăm người và vài người đã tử vong.(tr.319); “Có tin đồn rằng binh lính của ông Mobutu tham gia thảm sát thường dân”. (tr.352);Người ta đồn rằng anh Lumumba đã bị giết”. (tr.390)… Ngay cả Tội ác của Đức ở Hà Lan, cuộc chiến của Đức ở Liên Xô, Po cũng chỉ nghe kể hoặc theo dõi tin tức. Một tháng trời Po bị quân Đức bắt giam (chương 37), Po cũng không chứng kiến và miêu tả trực tiếp tội ác gì của Phát xít Đức đối với người do Thái. Có thể đây là một hạn chế trong xử lý tư liệu, cũng có thể là một dụng ý của tác giả. Dụng ý ấy là, tất cả là để làm nổi rõ tư tưởng về bộ mặt tàn ác của loài Homo Sapiens văn minh là bọn thực dân, Phát xít; tư tưởng chán ghét chiến tranh, tư tưởng về lòng nhân ái, về chung sống hòa bình; về tôn trọng sự khác biệt, tư tưởng về “vô vi trị”. Tôi nghĩ đây mới là cốt lõi giá trị của tiểu thuyết.

Tất nhiên bạn đọc có quyền hoài nghi về những “chân lý lịch sử” được miêu tả trong tác phẩm. Chẳng hạn. Việc Blaise gặp Po ở New York, rồi hai gia đình trở thành ban nhạc Hippy, từ đó tạo nên phong trào Hippy rộng khắp nước Mỹ và châu Âu, dẫn đến Hippy cổ vũ cho chiến tranh Việt Nam. Điều này tôi e rằng tác giả giao phó cho Po một vinh dự quá lớn ngoài khả năng của một nhân vật tiểu thuyết. Tác giả viết về phong trào Hippy chưa đầy đủ, bởi Hippy không chỉ có mặt tốt mà còn sự tha hóa (thanh niên Hippy sử dụng ma túy nhiều hơn, sống thác loạn hơn thế hệ trước), chính sự tha hóa của hippi làm sụp đổ phong trào này.

Một chút hoài nghi khác về cuốn hồi ký của Po. Khi Po gặp Blaise ở New York (tr. 393), Blaise kể rằng, anh chịu ảnh hưởng sâu sắc từ cuốn hồi ký đó. Po trố mắt ngạc nhiên hỏi, cuốn hồi ký nào? Blaise trả lời: Đấy là một văn bản hoàn hảo viết về cuộc phiêu du của ông đến rất nhiều nơi. Văn bản ấy viết bằng tiếng Blasensenla năm 1947, ông quên rồi sao?”. Sau phút ngạc nhiên thú vị, Po cho biết: “Tôi nhớ rõ vào năm đó, tôi đang cặm cụi gõ hồi ký bằng máy đánh chữ thì một trận cuồng phong ập đến. Sức gió mạnh tới mức cả tấm krakratta(*) mà tôi treo trên cây cùng toàn bộ những gì tôi để trên ấy đều bay tuốt. Người tôi ngã nhào xuống đất, đến khi bừng tỉnh thì mọi thứ mất trắng. Tôi cố tìm mãi mà không ra! “(tr.393).

Chính tác giả cuốn hồi ký tìm không ra cuốn sách của mình, vậy cuốn hồi ký này đã lưu lạc thế nào và xuất hiện ở đâu? Không có câu trả lời thuyết phục. Chương mở đầu truyện miêu tả Billy loay hoay mãi mà không giải mã được một văn bản viết vằng một thứ chữ không thể hiểu, hắn báo cáo xin hoãn việc họp lại. Sau đó do quan hệ với Disanka, rồi Imani, rồi quen Marie em của Imani, một thần đồng ngôn ngữ, Blaise nhờ Marie dịch giúp ra tiếng Pháp. Việc phát hiện trở lại cuốn hồi ký của Po là do Disanka, sự thể là như thế này: “ Đột ngột nghe tin ông Kazadi, cha của Imani qua đời, Disanka thu xếp về nhà ngay (Diasanka và Imani là bạn)… » Sáng hôm sau, lúc Disanka sang tiễn chân mọi người thì một chuyện không ai mong đợi lại diễn ra »… có ba tên cướp bịt mặt đột nhập định bắt gã phụ tá của Blaise, nhưng chúng bị Blaise đánh bỏ chạy, để lại một khẩu súng săn còn mới tinh trên sân cỏ… “Disanka là người còn lại sau cùng vì Imani nhờ cô khóa cửa và trông nhà hộ. Bỗng cô phát hiện chính giữa phòng khách, ngay trên nền nhà là một chiếc cặp đen…Cặp khá nặng. Mở ra, cô thấy bên trong có nhiều tài liệu học tập, một chiếc lược ngà và đôi bông tai bằng vàng tây. Cô cũng lôi ra được một xấp tài liệu dày cộm. Đó là tài liệu được đánh máy chữ bằng một thứ tiếng gì rất lạ, kèm một bản dịch bằng tiếng Pháp.”(tr.39). Chiếc cặp đen trong chứa hồi ký Po ở nhà Imani là của ai? Của Marie chăng? Disanka đã đọc cuốn hồi ký này (từ chương 7 đến chương 14 mới trao cho Blaise.). Quả là không thể tìm ra manh mối. Do đâu, ngay từ đầu, Blaise có tập tài liệu (Hồi ký Po), rồi do đâu có chiếc cặp đen đựng tập tài liệu này ở giữa nhà Imani?

Cuộc đời của Po cũng được miêu tả không rõ ràng như chính hồi ký của Po. Po là người bộ tộc “cười và nhảy”. Khi Po 16 tuổi, một trận cháy rừng khủng khiếp đã xảy ra, Po đã chạy và lạc người thân. Po được đoàn khảo cổ người Pháp cứu và nhận André là bố. Po được dạy dỗ  nết ăn, lối ở,  và dạy tiếng Pháp, được trang bị kiến thức căn bản cần thiết”. Từ đó Po lưu lạc với đoàn khảo cổ, sau về Paris, sống an nhàn suốt mùa hè 1940. Khi Po đã 24 tuổi, “Bố cho rằng tôi đã có vốn liếng căn bản chương trình trung học phổ thông, lại có khả năng tự học”, (tr.146). Po đi thăm cụ Kahn. Sau đó được chú Deiter đưa sang ở với ông Kahn vào khoảng đầu tháng 11 năm 1940. Nhưng rồi cả bố André và cụ Kahn qua đời. Po đi Hà Lan với chú Deiter, sống ở Amsterdam tháng 2. 1941 để giúp chú Deiter coi nhà và đi học. Ở đây Po bị quân Đức bắt giam gần một tháng. Cũng ở đây Po gặp Anne và thầm yêu cô bé này. Lúc ấy Po 25 tuổi và Anne 13 tuổi. Mối tình câm lặng này kéo dài cho đến đầu tháng 8 năm 1944. Khi học đại học, Po ngưỡng mộ linh mục Casmir và trao đổi với vị linh mục này về cuốn tự truyện Mein Kampf của Hitler. Po cũng chứng kiến gia đình Anne Frank bị quân Đức bắt đi. Lý do gia đình Anne là người Do Thái. Po “quay quắt khổ sở. Tôi muốn gào lên. Tôi muốn bầu trời sụp đổ hẳn đi cho xong những chuỗi ngày oan nghiệt” Sau đó Po theo linh mục Casmir tình nguyện đi cứu trợ. Nhóm của Po sang Việt Nam. Khi trở, về Po làm khóa luận tốt nghiệp, đề tài về nạn đói 1945 ở Việt Nam. “bản tóm tắt luận văn của tôi lại được phát rành rành trên Đài BBC, tôi trở thành một cộng tác viên của đài từ dạo ấy”(tr.331). Tháng 7 năm 1947, Po mãn khóa. Po về thăm quê Emila, bộ tôc Sahana và thành thân với nàng, dù vẫn nhớ Anne và mong trở về với bộ tộc “cười và  nhảy” của mình (chương 63). Hồi ký Po chấm dứt ở đây. Tập hồi ký này sau bị Larry Devlin đốt (chương 65).

Nếu hồi ký Po chỉ có thế thì không thể gây ảnh hưởng tư tưởng sâu đậm và làm thay đổi cuộc đời của điệp viên CIA Billy và Larry Devlin được. Po được giới thiệu là nhà sử học, nhưng không rõ những thành tựu nghiên cứu sử học của Po là gì. Po được coi là nhà tư tưởng nhưng trong hồi ký Po không thể hiện tư tưởng gì ngoài việc chán ghét chiến tranh. Po viết: “Trời đất hỡi, tôi thật sự chán ghét chiến tranh! Tôi vô cùng chán ngán với thực trạng hằng chục triệu người trên trái đất không những không biết đùm bọc nhau nhằm vượt qua khó khăn trong cuộc sống mà lại ra sức giết hại nhau (tr.284).

Tôi đồng ý với nhận định này của tác giả về Po: “Có lẽ xuất thân từ một bộ tộc còn giữ nét nguyên sơ từ nếp ăn lối ở cho tới lề thói tư duy, nên ông có một cái nhìn thật trong suốt và tỉnh táo về loài người và cái mà chúng ta thường hay gọi là nền “văn minh”. Ông là một người được sinh ra để sống thuận theo trời đất. Bao rối rắm của cuộc đời dường như không đủ sức làm cho tâm hồn ông điên đảo”(tr. 413). Po cũng khẳng định điều này: “Điều lý thú là tôi luôn nhìn đời với vẻ hiếu kỳ. Tôi vẫn mỉm cười hồn nhiên dù đang phải đối mặt với hiểm nguy. Dường như chính những trải nghiệm sống ở bên Min và Pat tại khu rừng hoang dã của bộ tộc tôi đã hun đúc cho tôi những đức tính cừ khôi như thế.“(tr. 214).

Thực ra, Po được giáo dục theo văn minh phương Tây, sống với bố André người Pháp, đã có thờ gian sống tại Paris, chắc chắn nền giáo dục ấy có ảnh hưởng đến Po. Po đã đọc cuốn tự truyện Mein Kampf của Hitler, không thể không có ảnh hưởng tư tưởng dân tộc của Hítler. Có hai người Po yêu mến và cảm phục là Linh mục Casmir và Anne. Đời sống và tinh thần của họ để lại dấu ấn trong tâm hồn Po. Po học với Linh mục Casmir, rồi theo ngài đi làm thiện nguyện ở Việt Nam. Hành động và tư tưởng bác ái của vị linh mục này mà Po chứng kiến tương đồng với lòng nhân ái sẵn có trong Po (tr, 228). Với Anne, Po biết rõ đức tin của nàng: “Trong nhật ký của mình, Anne viết rằng kể từ khi biết Chúa Giê-su theo lời kể thân tình của tôi, nàng ngày đêm hay nghĩ tới Chúa. Trong những lúc gian nan, chính nhờ có Chúa trong lòng mà Anne cảm thấy tâm hồn mình thanh thản hơn.”(tr.335).

Tuy nhiên, Po là người vô thần. Po nói rõ điều này: “tôi quá thất vọng vì trong nhân thế, xem ra cái ác thường lấn lướt cái thiện. Những lúc thấy mình bất lực trước hoàn cảnh éo le, bé mọn trước không gian vô tận và thời gian vô cùng, tôi đã từng chắp tay cầu nguyện. Nhưng Chúa đã không kịp thời hiện ra để cứu rỗi những người lương thiện. Tôi chưa có cơ hội gặp Chúa bao giờ, trong thực tế lẫn trong mơ. Do vậy, niềm tin của tôi đối với Chúa chưa đủ mạnh. Nếu ai đó nói rằng có một guồng máy vô hình đang vận hành trong vũ trụ và chi phối cuộc sống của muôn loài thì tôi tạm thời tin. Nhưng nếu nói rằng cả vũ trụ và mọi sinh linh đều do một đấng toàn năng tạo dựng rồi tiếp tục định đoạt số phận thì tôi không đủ bằng chứng để tin.” (tr.347)

Thái độ vô thần của Po còn thể hiện cụ thể khi Po ở trong trại giam của Đức. Po nằm trên giường, đè lên nột cái ví da, trong có “một cuốn kinh Tân Ước và một chiếc thánh giá với hình ảnh Chúa Giê-su dang tay chịu tội.“của ai đó. Po không hề có cảm xúc tâm linh nào. Sau đó vì muốn cứu ông Müller trong trại giam của Đức, Po khuyên ông “ mang sợi dây chuyền có hình Chúa Giê-su vào người, đồng thời giữ lấy cuốn kinh Tân Ước mà tôi may mắn có được trong tay. Tôi cũng khuyên ông ráng học thuộc các bài kinh rất ngắn của người Công giáo như kinh Thương Xót, kinh Vinh Danh và kinh Lạy Cha phòng khi có ai chất vấn thì ông dễ trả lời./ Thế nhưng, ông Müller một mực lắc đầu. Tôi nhớ rõ đêm ấy ông đã lắc đầu như thế không biết bao nhiêu lần. Hình ảnh ông giả Müller lắc đầu từ chối đeo dây chuyền Thánh giá và giữ cuốn Tân ước cũng chính là thái độ của Po đối với tôn giáo.

Như vậy, có thể nhận thấy Po trong tập hồi ký không định hình tư tưởng gì ngoài sự “hồn nhiên“ và tính “hiếu kỳ“ bẩm sinh của bộ tộc và những phản ứng cảm tính tự nhiên không mang ý thức xã hội hay triết học cao rộng nào. Xin đơn cử, Po đã nhìn lén Anne tắm khỏa thân, và yêu say đắm Anne trong khi ở Hà Lan, bọn Đức chiếm đóng đang thực hiện một chính sách cai trị vô cùng hà khắc. Chúng ra sức bức hại người Do Thái: “Tính ra, trong số 140 nghìn người Do Thái tại Hà Lan, rốt cuộc chỉ có non 38 nghìn người sống sót. Số người Do Thái lần lượt bị giết bằng hơi ngạt trong các trại tập trung lên đến 102 nghìn người.”(tr.235). Thái độ sống “vô tâm” như thế của Po có ý nghĩa tư tưởng gì? Hay chỉ là cảm tính “hồn nhiên”. Tôi cũng không thấy Po có chút gì là nhà tư tưởng như Lão Tử.

Việc xây dựng nhân vật Po và nhân vật Lumumba trong tác phẩm chưa đạt được mục đích tư tưởng của tác giả. Cả hai nhân vật được xem như những nhân vật lý tưởng về chính trị và tư tưởng để thể hiện những quan niệm sống và quan niệm “trị dân” của tác giả. Đó là sống an nhiên, thanh khiết và cai trị dân bằng cách không cai trị (thuyết vô vi của Lão Tử). Lumuba thất bại và bị giết hại vì ngây thơ chính trị, còn Po thì phiêu bạt (sau theo Hippy), ngay cả ước muốn trở về bộ tộc của mình cũng không thực hiện được. Dù sao hai nhân vật này cũng thể hiện khát vọng của tác giả đối với xã hội Việt Nam đương đại. Khi xã hội ngày càng tôn thờ vật chất và trở nên vô cảm, khi cái ác ngày càng lộng hành, Nhà nước không bảo đảm được bình yên hạnh phúc cho dân …thì tác giả đề xuất một con đường. Đó là một thiện ý. Con đường ấy được Po nói rõ với phóng viên.

Po nói:

“- Kẻ thật thà vui lòng đứng đằng sau dân thì dân mới đưa lên trước. Kẻ tranh đoạt quyền lợi của dân thì dân coi như giặc.

– Thế thì, làm thế nào mới có thể khiến cho thiên hạ thái bình được ạ?

– Ngài ấy cần gì phải trị dân mà tự nhiên dân theo. Ấy là do cách ăn ở thuận theo trời đất. Ngài ấy và ta thật ra có làm gì đâu.”

Thiết nghĩ, nhà văn chỉ là người đặt vấn đề, là lương tâm của thời đại, soi sáng lương tri thời đại. Nhà văn không phải là người giải quyết vấn đề. Giải quyết vấn đề xã hội là trách nhiệm của nhà chính trị. Gương mặt loài Homo Sapiens đặt ra nhiều vấn đề để bạn đọc suy gẫm về thời đại của mình. Được như vậy chính là sự thành công của văn chương.

Tháng 11. 2017