15 KHUÔN MẶT VĂN TRẺ ĐỒNG NAI

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

15 KHUÔN MẶT VĂN TRẺ ĐỒNG NAI

Bùi Công Thuấn

LỜI MỞ

Bài viết này là sự nhận dạng bước đầu một “thế hệ” văn chương Đồng Nai xuất hiện đầu thế kỷ XXI, cũng là lời chào một thế hệ mới sẽ là trụ cột, là người kế tục sự nghiệp văn chương của các thế hệ đi trước ở Đồng Nai. Nhiều chục năm qua, lãnh đạo Hội VHNT Đồng Nai nặng lòng tìm kiếm những cây bút trẻ. Đến nay (2023) Hội đã kết nạp trên 10 hội viên trẻ và có trên 20 người là cộng tác viên thường xuyên ở lĩnh vực văn học [[1]].

Đó là các tác giả thế hệ 8x và 9x: Nguyễn Huyền Quy, Lê Vũ Anh Đào, Đào Nguyên Thảo, Phương Rong, Hoàng Thị Quỳnh Trang, Huỳnh Ngọc Tuyết Cương, Lê Phan Hiếu Anh, Tống Thanh Tâm, Hoàng Thu Thảo, Đàm Minh Khôi, Lã Hoài Mai, Hoàng Phương, Nguyễn Hải Yến, Trần Hoan, Trần Thị Hiếu, Văn Ánh Ngọc, Vân Nhi, Phạm Bá Khoa, Lý Thăng Long, Võ Anh Vũ, Hoàng Phước Nguyên, Phan Gia Hưng, Nguyễn Võ Mỹ Duyên, Vy Ngân, Trần Huynh Quỳnh, Lê Nguyễn Hà Ngọc, Ngô Gia Hân, Phan Nhật Anh, Minh Anh, Đặng Huệ Linh, Lưu Thiện Vương, Nguyễn Thị Thu Ngân,…[[2]]

                                                             ***

15 KHUÔN MẶT VĂN TRẺ ĐỒNG NAI

Tôi chọn đọc 15 tác giả đã công bố nhiều tác phẩm. Những cây bút có ít tác phẩm, tôi sẽ viết về họ trong một dịp khác. Quan sát văn trẻ, tôi thấy có người đã viết hàng chục năm nhưng công bố tác phẩm rất ít. Chẳng hạn, Đào Nguyên Thảo xuất hiện từ 2003-2004, nhưng đến nay (2023), số tác phẩm in trên VNĐN không nhiều. Thực ra việc sáng tác nhiều hay ít không khẳng định giá trị của một ngòi bút. Điều quan trọng là người viết có cá tính sáng tạo độc đáo hay không, có mục đích sáng tác tiến bộ hay làm văn chương chỉ để vui chơi; và có những đóng góp gì mới mẻ về tư tưởng và nghệ thuật cho sự phát triển của văn học?

Nếu một giọt nước biển chứa cả đại dương, một giọt sương mai chứa cả bầu trời, một lát cắt thân gỗ chứa đựng cả tuổi đời của cây, thì chỉ cần một bài thơ, một truyện ngắn cũng có thể định vị được một tài năng văn học.

Xin đọc: Hoàng Thị Quỳnh Trang, Hoàng Thu Thảo, Lã Hoàng Mai, Tống Thanh Tâm, Lê Vũ Anh Đào, Huỳnh Ngọc Tuyết Cương, Lê Phan Hiếu Anh, Nguyễn Huyền Quy,  Đào Nguyên Thảo, Nguyễn Hải yến, Lý Thăng Long, Ngô Gia Hân, Nguyễn Võ Mỹ Duyên, Trịnh Khánh Linh.Đàm Minh Khôi.

1.HOÀNG THỊ QUỲNH TRANG.

Hoàng Thị Quỳnh Trang sinh năm 1993,quê Hải Dương, sống ở Đồng Nai, là giáo viên dạy Văn.

Những truyện tôi đọc được của Quỳnh Trang là truyện viết cho thiếu nhi. Quỳnh Trang có kỹ thuật viết điêu luyện, có nghệ thuật kể truyện hấp dẫn, có khám phá và sáng tạo riêng ở những đề tài tác giả quan tâm. Ngòi bút Quỳnh Trang đã chạm đến những vấn đề xã hội nhưng chưa thâm nhập sâu để đặt những vấn đề lớn của xã hội Việt Nam đương đại. Có lẽ vì viết cho thiếu nhi nên Quỳnh Trang chọn lối viết nhẹ nhàng, cốt truyện đơn giản chăng?

Tôi nghĩ, hành trình văn chương của  Hoàng Thị Quỳnh Trang sẽ là một con đường nhiều hoa đẹp.

Xin đọc:

            1. Mẹ (Truyện thiếu nhi) kể chuyện Thương và Phúc, hai đưa trẻ học lớp 2. Cả hai đều mất mẹ nhưng chúng được cha và dì (mẹ kế) yêu thương.  Cốt truyện đơn giản. Mấu chốt của truyện là cái áo vá của Phúc và mái tóc để dài của Thương. Không có tình huống bộc lộ  tính cách nhân vật. Cái chết của người mẹ hai đứa trẻ này không được miêu tả. Chủ đề mờ nhạt. Tác giả không đặt được vấn đề xã hội nào. Ý ghĩa giáo dục rất nhẹ.

            2.Mùa đông đầu tiên (Truyện thiếu nhi) kể chuyện  Cún em hỏi Cún anhRét là gì”. Khi rét về Cún em ấm áp trong lòng anh và bếp lửa của bà chủ. Truyện có ý nghĩa giáo dục nhẹ nhàng. Kỹ thuật viết điêu luyện.

            3.Chuyện “Vịt con xấu xí” (in trong tuyển tập Chạy về phía mặt trời, tr.169) còn có tên Dây cà dây muống.

Nhân vật Tôi kể chuyện. Lần đầu tiên gặp chị lúc tôi 6 tuổi, vào học lớp 1. Chị ở với cha (không có mẹ). Tôi gọi cha chị là chú. Chị hơn tôi 2 tuổi nhưng chị không đi học. Hằng ngày chú chạy xe ba gác chở hàng ngoài chợ đầu mối, mẹ tôi theo phụ giúp chú, chị thì đi lượm ve chai, còn tôi đi học”. Từ khi mẹ và tôi về ở chung với chú (tôi không có cha), chị ghét mẹ tôi, ghét cả tôi nữa…

Cuối năm lớp 1, Tôi đem sách truyện mượn ở thư viện về đọc. Một lần chị giật lấy cuốn sách của Tôi. Chị mân mê cuốn sách, lật giở từng trang nhìn những hình vẽ minh họa.

Một buổi sáng, tỉnh dậy trong cơn sốt mê man, Tôi tìm điện thoại để gọi cho mẹ. Chiếc điện thoại đã không cánh mà bay. Có lẽ là chị lấy rồi. Tôi lần tới tiệm thuốc đầu đường để mua thuốc thì bị thằng Tùng chặn lại lấy tiền. Chị xuất hiện và đánh thằng Tùng. Lúc đó chú về tới. Chú vội vã nhảy xuống xe tách hai đứa ra. Đến tối chú bắt chị qua nhà thằng Tùng “vêu” xin lỗi. Và chị lại bị chú đánh. Đêm, chị nói Tôi kể cho chị nghe chuyện con vịt thành thiên nga.

Mấy hôm sau,bố về đón Tôi đi. Từ đó Tôi về ở với bố.

Sinh nhật lần thứ 24 của tôi, bố tặng tôi một cuốn truyện cổ Andersen. Tôi vội vã mở ra đọc ngấu nghiến. Khi đọc chuyện “Chú vịt xấu xí”, Tôi lại nhớ về chị. Dưới sân có tiếng chị ve chai. Tôi chạy xuống thì cổng nhà đã đóng. Có thể là chị. Cũng có thể chỉ là một người giống chị mà thôi.

***

Chuyện “Vịt con xấu xí” là tình cảnh, là số phận của hai đứa trẻ (Tôi và chị), trong hai gia đình đổ vỡ. Tác giả không có khám phá gì về tình cảnh xã hội của cha mẹ chúng, mà chỉ ghi nhận hiện tượng trẻ mồ côi, thế nên truyện không đặt được những vấn đề xã hội. Điều lắng đọng trong lòng người đọc là tình thương yêu tác giả dành cho con trẻ.

4. Dạy Mèo đọc sách (Truyện ngắn-Tặng bé Chuột của mẹ-tuyển tập tr 164)

Chị Chuột (một cô gái 6 tuổi) dạy cho em mèo Rơm đọc sách (mèo Rơm là một con mèo). Rơm không chịu đọc. Chị Chuột dùng cách nào Rơm vẫn không chịu học. Mẹ dạy chị Chuột phải kiên nhẫn. “Bí quyết dạy mèo đọc sách là bạn phải thích đọc sách!”.

***

Lúc mới đọc truyện, tôi ngỡ chị Chuột và mèo Rơm là hai con vật. Sau mới vỡ nhẽ Chị Chuột là cô gái 6 tuổi, còn Rơm là một con mèo. Cách viết của tác giả đã gây ngộ nhận. Xưa nay con mèo tinh ranh hơn con chuột, nhân vật Mèo có thể dạy cho nhân vật Chuột. Tác giả lại hư cấu ngược lại. Truyện chỉ có ý nghĩa đơn giản. Ngòi bút của tác giả chưa đạt tới việc kiến tạo một tác phẩm có ý nghĩa tư tưởng của ngụ ngôn dân gian.

***

2.HOÀNG THU THẢO

Hoàng Thu Thảo sinh năm 2002, là sinh viên trường Đại học KHXH & NV Tp HCM

            Hoàng Thu Thảo quan tâm đến những vấn đề xã hội. Truyện của cây bút trẻ này gây được ấn tượng với người đọc ngay lần đầu tiếp cận. Viết về những vấn đề hiện thực, nhưng trang văn của Hoàng Thu Thảo còn thiếu bề dày hiện thực. Nhân vật không được khắc họa trong một bối cảnh xã hội cụ thể, không có mối quan hệ nhân sinh chi phối số phận nhân vật, vì thế truyện không đặt được những vấn đề xã hội đáng quan tâm. Thành ra, dù tác giả kể một truyện hiện thực nhưng truyện đọng lại là những cảm xúc lãng mạn. Nói cho đúng, truyện của Hoàng Thu Thảo mới chỉ là cái nhìn và cảm xúc lãng mạn của tác giả về một vài sự việc mà tác giả đã tiếp cận.

            Dù vậy, con đường văn chương của cây bút trẻ này có thể mở ra rất rộng.

            Xin đọc:

1.Góc đời sứt mẻ (Truyện ngắn).

Cô bé” học cấp 3 (tác giả gọi nhân vật là “cô bé”, cuối truyện mới biết tên cô là Minh). Xe bị bể lốp, cô phải nhờ một ông già kỳ lạ mặc áo vest ở góc đường sửa giúp. Nhưng cô không mang theo tiền. Cô hẹn ngày mai sẽ trả ông. Khi cô bé đi khỏi, ông như phiêu về một thế giới quen thuộc, trở về với những gương mặt thân yêu…Bất giác ông gọi: – Bà nó ơi, bữa nay tôi gặp lại bé con của tụi mình rồi. Con gái mình đúng là xinh đáo để, giống bà hồi trẻ lắm đó!

 Từ đó cô bé quen thân với ông và thường gặp nói chuyện với ông. Ông cho biết bà nhà ông đã mất và con gái cũng bỏ đi lâu rồi. Sau khi chị và bà ra đi, ông đã về hưu, nhưng vẫn lóc cóc ngồi vá xe nơi góc đường từ sáng mờ cho đến tối muộn”. Cô thấy thương ông, một người cô đơn.

Cô bé về nhà kể chuyện ông già vá xe cho mẹ nghe, người mẹ nghĩ: ”trong đầu tôi lại thấy thấp thoáng cái bóng cũ kĩ, như sờn bạc trong nắng gió với mái đầu pha bụi của người đàn ông ấy…”

Cô bé học sinh cấp ba giờ là sinh viên khoa Báo chí, học ở Sài Gòn. Tết cô mới về. Cô đến thăm ông. Ông ngồi bất động trên chiếc ghế mây, mắt đăm đăm về phía bàn thờ. Trên bàn thờ có hai bức di ảnh của hai người phụ nữ.

 Ông kể cho cô nghe về cái chết của con gái ông. “Chị ấy…mất ngay cái đêm trước hôn lễ chưa đầy một tuần. Tối ấy, chị đi làm về nhưng xe bị hỏng giữa đường, phải dắt bộ về nhà. Đường vắng, bọn côn đồ say rượu… đã hãm hại đời chị. Bố mẹ chồng chị biết tin, họ huỷ hôn. Chị trở nên điên loạn, suốt ngày cứ ngồi khóc rồi lại cười ngớ ngẩn. Rồi vào một đêm mưa xối xả, chị đã lìa bỏ cõi đời bằng một nhát dao đầy cay đắng…”

Minh về kể lại cho mẹ nghe.

Người mẹ cảm thương: “Tôi nghe hơi thở mình nghẹn đắng. Cuộc đời một con người sao lắm đắng cay đến thế! Và đau thương như khiến con người ta hoá thành một kẻ điên, luôn chìm trong miền hoang hoải của hoài niệm. Tỉnh trong mơ hồ…

Con bé kể với tôi, ông đã cười nhìn nó:

– Con gái của cha, con về đấy phải không?…”

***

Tôi tóm tắt ngắn gọn truyện như vậy để thấy cấu trúc truyện gây khó cho người đọc. Mối quan hệ ông già và cô gái đã rõ, nhưng mối quan hệ giữa mẹ cô gái và ông già thì hoàn toàn không có đầu mối. Tại sao người mẹ khi nghe con kể về ông già vá xe lại “thấy thấp thoáng cái bóng cũ kĩ, với mái đầu pha bụi của người đàn ông ấy…”, và lần thứ hai, nghe con kể về thảm cảnh của ông già, người mẹ lại cảm nhận: “Tôi nghe hơi thở mình nghẹn đắng…”.(lưu ý, nhân vật người mẹ xưng Tôi ở ngôi trần thuật).Người mẹ này có quan hệ gì với ông già hay chỉ là người ngoại cuộc, nghe con kể một chuyện thương tâm thì đau xót thay?

Nếu tác giả tập trung kể về thân phận ông già và tai họa đẩy con gái ông đến cái chết, truyện sẽ hiện lên như một bi kịch.

Nhân vật là yếu tố trung tâm của tác phẩm thực hiện chủ đề. Trong truyện này, nhân vật cô bé Minh và người mẹ là thừa. Tác giả có thể trực tiếp kể chuyện ông già và cô gái.

Truyện có tới 3 người trần thuật, vì thế người đọc không thể nhận ra ai là nhân vật chính.: Tác giả kể chuyện cô bé Minh. Minh kể lại chuyện ông già cho mẹ. Và người mẹ nghe xong lại kể cho bạn đọc! Câu chuyện nào trong 3 câu chuyện là chính? Nói như thế để thấy Hoàng Thu Thảo còn rất lúng túng khi cấu trúc truyện.

Tôi ngờ rằng Hoàng Thu Thảo muốn viết một bi kịch, nhưng về kiến tạo tác phẩm, tác giả còn thiếu những kỹ năng cần thiết để đạt được mục đích sáng tác.

Cũng có thể tác giả kể truyện cô bé Minh là chính. Và cô bé ấy chính là tác giả. Câu chuyện của cô bé Minh là một “kỷ niệm” thời cấp 3. Bây giờ tác giả đã là sinh viên Đại học.

 Câu chuyện ông già kể về cái chết bi thảm của con gái chỉ là do tác giả thêm vào để tạo sự thương cảm. Sự việc diễn ra với cô gái này là phi hiện thực.

Xin đọc lại. Tác giả viết: “- Mẹ ơi, ông bảo con gái ông, chị ấy…mất ngay cái đêm trước hôn lễ chưa đầy một tuần”. “Tối ấy, chị đi làm về” và bị bọn côn đồ say rượu hại chị…Đêm…vào cái đêm mưa xối xả đó, chị đã lìa bỏ cõi đời bằng một nhát dao đầy cay đắng…”. Người đọc không thể hiểu được con gái ông già chết vào đêm nào? “Đêm trước hôn lễ một tuần” hay đêm chị đi làm về. Vậy đêm mưa xối xả là đêm nào? Xin chú ý đến các đại từ phiếm chỉ “ấy”, “đó” thay thế cho danh từ “đêm” đứng trước.

Nếu còn một tuần nữa là hôn lễ thì chị có nhiều việc phải chuẩn bị và sống gần gũi với anh. Chị đi đâu thì anh chồng sắp cưới cũng sẽ đi theo, không dễ gì để chị bị tai nạn được. Và bản thân chị, cũng có thể tự nhận định được mức độ nguy hiểm khi một mình đi làm về tối để báo cho anh chồng hoặc báo cho gia đình biết mà đón chị về. Và nếu tai nạn có xảy ra thực khiến chị bị trầm cảm, thì gia đình cũng sẽ có biện pháp giúp đỡ chị. Không thể: “Ông bà cũng chỉ biết nhìn con mà quặn thắt”.

Như vậy, không chỉ 3 nhân vật trần thuật gây khó cho người đọc mà chính cách viết văn, cách kể, cách diễn đạt thời gian, cách dùng các đại từ phiếm chỉ, sự vi phạm những nguyên tắc của Chủ nghĩa Hiện thực của Huỳnh Thanh Thảo làm rối truyện và gây khó cho người đọc thêm nữa.

2.Chốn về (truyện ngắn)

            Chốn về là tâm trạng của cô sinh viên (nhân vật xưng Tôi, cũng là nhân vật “nó”) sống xa nhà. Trời Sài gòn mưa nặng hạt. Tôi định về nhà nhưng mẹ bảo mưa đừng về, sợ nguy hiểm đường xa. “Lại một tuần nữa tôi vẫn chưa về được nhà…Nghĩ mà buồn và nhớ”.

Tôi nhớ những chuyện từ lúc còn là đứa bé 6 tuổi được bố đón lên ở trên trung đoàn với bố để học tiểu học. Nhưng bố hay đi công tác và gửi nó sang nhà các bác, các chú đồng nghiệp. Nó có một đứa bạn tện Giang. Giang không còn mẹ. Hai đứa chơi chung với nhau suốt 5 năm. Rồi Giang chuyển ra ngoài vì cha của Giang có vợ mới. Thời gian trôi, giờ nó đã trở thành một cô sinh viên sống xa nhà.

Một tiếng sấm làm Tôi choàng tình. Nơi mái hiên nhà trọ có bóng dáng hai con người, một lớn một nhỏ. Tôi đem áo mưa cho họ. Có tiếng chuông điện thoại báo tin bố mẹ sẽ lên thăm, tôi không cần phải về.

***

Mở đầu truyện là  sự việc đang diễn ra ở hiện tại, rồi nhân vật chính nhớ lại những sự việc trong quá khứ. Truyện được kết thúc ở hiện tại. Đó là  một kiểu cấu trúc truyện rất cũ. Cả truyện này chỉ là một tâm trạng nhớ của cô sinh viên sống xa nhà. Không có chủ đề. Hoàng Thu Thảo phô diễn một kiểu “văn làm dáng”. Lời bình ngoại đề kiểu Tùy bút lấn át ngôn ngữ truyện.

Xin đọc một câu: “Việc phải sống xa bố mẹ cũng dần trở thành một thói quen của nó…Nó chững chạc hơn hẳn so với những đứa bạn cùng lớp. Và, cũng nhạy cảm hơn vì trong lòng nó luôn có một khoảng nhớ, một khoảng trống trải cô đơn. Không tủi thân sao được khi mà một đứa trẻ mới chập chững lớn như nó đã phải sống xa mẹ, rồi cả bố, một mình đối mặt với nhiều thứ, rất nhiều khó khăn, trong cả học tập lẫn cuộc sống. Nhưng nó không nản, cũng không than trách điều gì, vì nó hiểu và xót xa cho những tiếng thở dài của bố mẹ khi nhìn nhau…”

Câu văn này là dòng chảy tâm trạng của nhân vật “Nó”, hay là lời bình ngoại đề của tác giả về hoàn cảnh của nhân vật “Nó”? Cứ theo dòng tâm trạng náy thì đó là suy nghĩ cảm xúc của một cô gái đã trưởng thành, biết thương nhớ, biết cô đơn,  không phải là suy nghĩ của một đứa trẻ “mới chập chững lớn”, còn hồn nhiên. Bởi vì, Nó quen sống xa cha mẹ, Nó quen đối mặt với rất nhiều thứ khó khăn. Nếu những dòng văn trên là viết về một đứa trẻ đã chững chạc thì những nỗi tủi thân của trẻ con là thừa, ngược lại nếu viết về một đứa trẻ “mới chập chững lớn” thì cái sự chững chạc, quen tự lập là không phù hợp. Cách viết như thế tôi gọi là cách viết “làm dáng” ngôn ngữ, một kiểu văn chương “sáo rỗng”.

 Trong truyện, tác giả không ghi nhận điều gì về cuộc sống của bố mẹ Tôi. Vì sao Tôi phải sống xa mẹ. Cứ theo mạch truyện thì Tôi xa nhà từ khi là đứa bé 6 tuổi cho đến khi là sinh viên. Quãng thời gian dài ấy, Tôi ở đâu, ai nuôi tôi, tôi sống thế nào? Chả nhẽ Tôi chỉ có một đứa bạn nhỏ tên Giang?

Tác giả không miêu tả nhân vật sống trong thời gian, không gian và các mối quan hệ của đời thực. Tôi chỉ là một nhân vật tâm trạng, lơ lửng, không bám víu vào hoàn cảnh và thời đại của mình. Thành ra, truyện không chuyển tải được bất cứ ý nghĩa xã hội nào, ngoài tâm trạng lãng mạn, cô đơn của Tôi.

Có lẽ đó cũng chính là tâm trạng của chính tác giả khi xa nhà ?

3.Gió- Linh hồn Phú Hội (tản văn)

Nội dung chỉ kể lại việc chụp ảnh của An và nhân vật Em trong một đoàn tham quan. Kiểu ngôn ngữ lãng mạn. Tác giả không ghi nhận được vấn đề gì của hiện thực.

4. Mùa nấm mối (viết ngắn)

Tôi kể chuyện chị Duyên. Mẹ bảo chị tội nghiệp. Sinh ra đã không được khôn lanh như người ta. Chị không học chữ được, không biết mặt đồng tiền, không biết chơi ô ăn quan, chơi u, chơi chuyền hay ca hát như bọn trẻ. Chị nói ngọng ngịu, cụt lủn, khó hiểu. Nhưng chị có tài tìm nấm mối. Cả nhà bác tôi cũng chỉ có mỗi chị là biết hái nấm. Khi chị 25 tuổi, gia đình bàn chuyện gả chồng cho chị nhưng chị không chịu. Rồi, 4 tháng sau chị lại quyết định lấy chồng, tự nguyện, vui vẻ. Chẳng ai hiểu vì sao.

Hai năm xa, tôi về thăm lại mảnh đất rẫy bạc màu tuổi thơ. Chị đang ôm thằng nhỏ đứng dưới chiếc lán nhỏ ngoài cổng. Nó đã lên hai, có đôi mắt giống hệt như chị. Chị vừa nhìn con vừa chỉ tay về phái rẫy ra chiều khoan khoái lắm…Mưa và nắng. Tôi nghe thấy mùi nấm mối.

***

Đây là một truyện ngắn kể lại cuộc đời của Chị Duyên, một nhân vật có vài đặc điểm bất thường, nhưng rồi cũng có cuộc sống bình thường, hạnh phúc.

Tôi không rõ tác giả đặt chủ đề cho truyện là gì? Hay muốn trình bày triết lý dân gian “Thánh nhân đãi kẻ khù khờ”? Chị Duyên “khù khờ” nhưng trời cho tài hái nấm mối, và dù “khù khờ”, vẫn lấy được chồng, có con trai và sống hạnh phúc.

Truyện được nhân vật Tôi kể lại. Nhân vật này chỉ là ngôi trần thuật đơn thuần, không có vai trò thể hiện chủ đề. Tác giả có thể trực tiếp kể chuyện chị Duyên mà không cần đến nhân vật Tôi. Hoàng Thu Thảo vẫn sử dụng kiểu văn “làm dáng” chữ nghĩa. Tôi nghĩ, viết về một nhân vật chân chất như chị Duyên, cũng cần một lối văn chân chất. Truyện thiếu bối cảnh xã hội nên không chuyển tại được vấn đề gì của cuộc sống. Nói cách khác, truyện chỉ là một kiểu viết lãng mạn của Cái Tôi (tác giả).

***

3. LÃ HOÀI MAI

(tên thật là Lã Thị Hồng Thuấn, là GV tại Long Khánh)

            Lã Hoài Mai có cách kể chuyện hấp dẫn, có ý thức trau chuốt ngôn ngữ văn chương. Cấu trúc truyện khéo léo. Biết khai thác những chi tiết sinh hoạt hàng ngày để hình thành một lối viết riêng. Văn chương Lã Hoài Mai có khi chạm được đến một vấn đề nào đó của hiện thực nhưng khuynh hướng tư tưởng chưa rõ, có khi nghiêng về kiểu truyện giải trí, hoặc truyện chưa toát được ảnh hưởng cùa Ký.

1.Chúng ta, những con đường. (Truyện ngắn –Cho tôi và An)

Tôi và chị là bạn. Ra trường, tôi ở lại Sài gòn, còn chị, sau 5 năm lận đận, chị trở thành “giáo viên ở một vùng quê khá buồn”. Tôi và chị dần dần rời xa nhau. Chị từ chối những lời mời của tôi. Hôm nay có giờ Triết, thầy Bùi Văn Nam Sơn nói về “Tồn tại và thời gian” của Martin Heidegger. Tôi rủ chị đi dự nhưng chị không dự được. Chị xin link để vào xem. Nhưng đến giờ Triết, tôi không thấy chị như đã hẹn. “tôi lại thấy tiếng rơi vỡ từ trong lòng mình”. Tôi định nhắn tin hỏi chị trên facebook nhưng lại thôi.

***

Kể truyện Chúng ta, những con đường,có lẽ tác giả định nói: dù là bạn thân thiết, nhưng khi vào đời, mỗi người một số phận, mỗi người một con đường riêng. Hoàn cảnh sẽ tách chúng ta rời nhau. Vì thế, rất cần sự thấu hiểu và cảm thông.

Chỉ tiếc là nhân vật Tôi chưa tìm hiểu rõ hoàn cảnh của chị và vì sao chị lại từ chối sự kết nối với Tôi?

Truyện có chất ký. Tác giả nêu cụ thể tên thầy Bùi Văn Nam Sơn, một triết gia, dịch giả nổi tiếng và có uy tín ở Việt Nam. Cấu trúc truyện mạch lạc. Mạch văn tự nhiên.

2.Cú lừa của Họa Mi. Truyện ngắn.

Chị nhớ lại những kỷ niệm với Họa Mi. Chị sắp có chuyến đi phượt bằng xe máy dịp sinh nhật mới. Chị định chọn mua đôi giày. Họa Mi nhắn tin: nó đi coi bói, “thầy phán năm nay chị không nên mua đồ thổ xúc, tức là đồ tiếp xúc nhiều với đất”. Nghe lời Họa Mi, chị không mua giày nữa. Thầy phán vậy, lỡ mua có gì trục trặc là tiêu. Hôm nay chị nhận được quà sinh nhật của Họa Mi tặng. Đó là hai đôi giày. Hóa ra lời thầy bói là trò lừa của Họa Mi. Chị đã lỡ đặt vé xe đò, lỡ mất chuyến vi vu bằng xe máy. Nhưng “Chị quằn quại với nỗi “hạnh phúc” bất ngờ”.

***

Lã Hoài Mai kể chuyện có duyên. Mạch văn tự nhiên như một chuyện đời thường. Tác giả không đặt ra vấn đề xã hội nào. Có lẽ đó là kỷ niệm của một tình bạn. Câu chữ trau chuốt. Cấu trúc rất khéo: kết hợp giữa hiện tại (Họa Mi tặng quà) và những hồi tưởng kỷ niệm của chị với Họa Mi.

3. Ở quán café những người không ngủ. tt.55

Buổi sáng, thức dậy, tôi thường phóng xe ra đi, có khi hết ngày mới về.

Má tôi hay phàn nàn và cha tôi thì hằn học, vì thế tôi ra ở riêng và thường đi xa thành phố, đi miền tây, Tây nguyên, Vũng Tàu. Trước mỗi chuyến đi, tối thứ Sáu, tôi ghé qua quán café Những người không ngủ. Quán nằm kế bên công viên và Nhà thờ Đức Bà, đẹp và sang chảnh. Tôi gọi duy nhất món trà đào, rồi đọc sách, chơi điện thoại đến khuya, có khi ngủ gục tới sáng

Lần này vào quán, tôi thấy một cậu trai lạ ngồi ở góc đối xứng với tôi. Cậu ta làm quen nhưng tôi từ chối. Tôi nói: “Tôi không có thói quen trò chuyện với người lạ”.

Và mỗi tối thứ Sáu, lúc 8 giờ, chúng tôi gặp lại nhau. Mỗi người có việc riêng. Tôi thường ngủ trước, và gục đầu lúc thì lên vai, lúc thì lên đùi cậu ấy. Nhưng đến sáng thì cậu ta luôn rời đi trước khi tôi tỉnh dậy. Tôi thường trách cậu ấy và nghĩ có khi nào tôi gặp ma, một con ma xinh trai?

Tôi rủ cậu ta đi chơi chung, nhưng tôi không biết đi đâu. Cậu ta rủ tôi về quê cậu.

Con Wave đưa chúng tôi xa thành phố. Đàn chó con đón chúng tôi bằng những tiếng sủa “nhách nhách”. Nhà cậu ta giống một căn chòi gỗ lọt thỏm giữa một vườn thanh long. Mẹ cậu đang hái hoa thanh long ở ngoài vườn. Cậu ta đặt balo lên ghế rồi nhóm hai lò, bắc cơm và nướng khô. Mùi cá muối mặn mòi làm tôi nhớ tuổi thơ gian khổ. Tôi ra ngồi bên bếp lò, cậu ta đẩy quạt cho tôi. Khói trắng cuộn lên cay xè mắt. Chiều đó tôi theo cậu ra rẫy bứt hoa thanh long. Tôi ăn tối với gia đình cậu, ngủ lại một đêm. Tối đó hai đứa ngồi ngó sao trời. Tôi nghe cậu kể về người cha. Cha cậu là bộ đội từ bắc vào nam chiến đấu. Sau chiến tranh, ông giải ngũ và ở lại. Cưới mẹ cậu được 1 năm thì ông về quê và không trở lại. “Chiến tranh mà”. Ai cũng có thể nói vậy.

Tôi trở về Sài gòn sống cuộc sống thường nhật. Tôi trở lại quán café nhiều lần nhưng cậu trai ấy không có ở đó. Gần hai tháng trời tìm kiếm cậu, tôi gần như gục ngã. Tôi tìm về căn chòi dưới cội me già của hai mẹ con cậu, nhưng không ai biết họ.

Sau ba tháng tôi trở về thăm nhà, cha tôi vẫn hằn học như trước. Tôi không bận tâm. Chiều tối, má khoe có người cho cha mấy ký khô. Má lấy bếp điện ra nướng. Tôi bất giác quẹt mồ hôi, nhớ lúc quạt lò nướng khô dưới cội me già ở nhà cậu.

***

Có lẽ tác giả muốn kể một truyện ma hiện đại, bởi cậu trai xinh ấy hiện hữu là rất thật và biến mất không để lại dấu tích cũng rất thật. Tác giả không lý giải, và không trao cho người đọc cái chìa khóa để mở cửa những bí mật của câu chuyện. Vậy kể chuyện này, tác giả muốn nói gì với người đọc? Để cảnh giác mọi người về con ma Ở quán café những người không ngủ chăng? Hay giới thiệu một mẫu người đặc biệt của thời đại? Hay nói về quan hệ giữa người với người hôm nay, quan hệ của những người không có mặt, không lưu lại bất cứ sự lưu luyến nào?

Cũng có thể tác giả chỉ kể một câu truyện giải trí như người ta thường kể chuyện ma trong đời sống hàng ngày? Vâng, là một truyện giải trí. Các nhân vật không phải là ngưởi yêu nhau, không có sự ngậm ngùi về những thảm họa sau chiến tranh, càng không có những khát vọng vươn lên của người trẻ. Họ cũng không có quan hệ đối tác làm ăn, không một chút tình nghĩa để ràng buộc nhau. Họ gặp nhau bất chợt, rồi đi chơi, và hết! Người trẻ hôm nay là vậy chăng?

Tác giả miêu tả rất tỉ mỉ những chi tiết thật cuộc sống của mình, chỉ để làm nền cho sự hư cấu về nhân vật gặp “ở quán café những người không ngủ”, và dự đóan: có thể là “một con ma xinh trai”.

Nếu tác giả khéo tay đẩy câu truyện về phía hiện thực thì truyện có thể đạt tới một ý nghĩa xã hội nào đó. Bởi vì khi Tôi thăm nhà cậu, mẹ cậu có một vườn thanh long mênh mông, nhà có đàn chó con ra đón, có bếp lửa nướng khô, có bữa cơm tối với gia đình cậu, có buổi tối ngó sao nghe cậu kể chuyện về người cha. Những chi tiết hiện thực ấy có thể dệt nên một số phận bi kịch của mẹ con cậu, cũng như bi kịch của tôi bị mẹ khó chịu phàn nàn, bị cha hằn học phải ra ở riêng và đi phượt. Nói chung là bi kịch bế tắc của người trẻ hôm nay.

 Nhưng tác giả chỉ dừng lại ở kiểu truyện giải trí, kiểu truyện ma hiện đại, kích thích tâm lý hiếu kỳ của người đọc. Tôi ngờ rằng tác giả chỉ có mục đích ghi lại một phần cuộc sống thực của chính mình?

4.Những người quê cũ (truyện ngắn-tt tr.64)

Mai “muốn viết bài về bánh tráng”, cô tìm gặp Ngo để tìm tài liệu nhưng đã muộn. Ngo nói: “Trời, phải Mai tới đây tuần trước là đươc thấy cái lò lần cuối rồi. Bữa hổm mới đập”. Bây giờ không ai tráng bánh bằng lò xây nữa. Lò điện gọn nhỏ và tiện dụng hơn.

Đó là cái lò làm bánh tráng của má Ngo. Má Ngo theo nghề bánh tráng từ thời con gái. Má tráng bánh, ba làm rẫy. Tuổi thơ của Ngo quanh quẩn từ lò bánh ra rẫy, từ rẫy về lò. Mai và Ngo là bạn học hồi nhỏ, cùng lớn lên ở Chợ Lầu, Bình Thuận. Mai viết nhiều về cánh đồng, dòng sông, bờ bãi, ngôi nhà cũ và ký ức về Chợ Lầu. 

Cuộc gặp với Ngo cho Mai được một ít tư liệu, tiếc là không có hình ảnh. Nhưng cả Tuấn (nhân vật xưng Tôi, ngôi kể) và Mai cũng không trả lời được nghề bánh tráng bắt đầu từ lúc nào? Ai là người nghĩ ra chiếc lò tráng đầu tiên?

***

Truyện ngắn này thực ra chỉ là một bài ký về việc Mai tìm tư liệu để viết về nghề bánh tráng ở Chợ Lầu, Bình Thuận. Mai đi tìm tư liệu và đã không trả lời được vấn đề chính mà cô muốn tìm hiểu: nghề bánh tráng bắt đầu từ lúc nào? Ai là người nghĩ ra chiếc lò tráng đầu tiên? Thay vào đó, tác giả kể lể nhiều chi tiết lặt vặt, nằm ngoài cốt truyện để làm đầy trang văn. Chẳng hạn, chuyện ăn sáng với bánh tráng, chuyện Mai cắt tóc quá tay bị Tôi cười; chuyện đọc văn của Mai, Tôi (Tuấn) nhớ về bờ sông bên nhà và những chiều lùa bò lội nước qua rẫy…

Cốt truyện rất đơn giản. Thừa nhân vật Tôi (cuối truyện mới được biết nhân vật xưng Tôi tên là Tuấn-ngôi kể). Phần đầu tác giả kể chuyện, phần sau nhân vật Tôi kể. Đó là sự lúng túng của tác giả khi chọn ngôi trần thuật. Ngo là nhân vật chính để Mai tìm hiểu nghề làm bánh tráng, nhưng Ngo cũng không biết gì. Má Ngo cũng chưa chắc biết. May ra những người thời bà ngoại còn nhớ được chút ít mà kể. Nhưng Mai lại không gặp được họ. Thành ra bài viết của Mai chưa hoàn thiện và truyện ngắn này cũng chưa thành một truyện ngắn. Tác giả định nói về nghề viết của Mai hay về nghề làm bánh tráng của má Ngo? Chủ đề rất mờ nhạt.

***

4.TỐNG THANH TÂM

            Trang điện tử của Hội VHNT Đồng Nai giới thiệu: Tống Thanh Tâm (bút danh khác: Lưu Châu), hội viên Ban Văn Học, Hội VNNT Đồng Nai; sinh năm 2000, hiện là sinh viên năm cuối trường Đại học Kinh tế Tài chính Tp. Hồ Chí Minh.

            Đọc 4 truyện ngắn của Tống Thanh Tâm, tôi mừng vì gặp được chất chuyên nghiệp trong trang văn của người viết văn trẻ này.

Tống Thanh Tâm có cách kiến tạo tác phẩm khá biến hóa. Có truyện miêu tả sự vận động tâm lý nhân vật kiểu truyện của Nam Cao. Có truyện viết rất hiện đại, nhẹ nhàng, trẻ trung và thường có cấu trúc đơn giản, dễ đọc. Văn giàu chất thẩm mỹ. Giọng trần thuật nữ tính chi phối cách nhìn, cách lý giải và cả sự thể hiện cảm xúc.

Tống Thanh Tâm đối mặt với những vấn đề thường nhật của xã hội hôm nay và đề xuất một cách nhìn nhân ái. Tuy vậy, tác giả mới dừng lại ở việc miêu tả hiện tượng mà chưa phân tích sâu sắc bản chất của vấn đề. Có chăng là gửi gắm một chút suy nghiệm. Vì thế truyện của Tống Thanh Tâm là truyện lãng mạn. Tôi thích cách nhìn đa diện của Tống Thanh Tâm khi quan sát một hiện tượng. Chẳng hạn:

Cùng một sự việc Lan chửa hoang (truyện Nụ cười), ông Tấn, cha của Lan, nhất mực không chấp nhận. Trái lại, Lâm, anh thanh niên nhà kế bên, lại cảm thông và tự nguyện nhận làm cha đứa con của Lan. Vì Lâm cũng là đứa trẻ bị bỏ rơi và vì anh yêu Lan.

Sự thực là, ngày nay các cô con dâu không còn thực hiện trách nhiệm với cha mẹ chồng (truyện Nghịch thời). Ông ngọai của nhân vật Tôi thì thất vọng. Ông than thở: “5 thằng con trai không bằng 1 thằng”. Ông có 5 người con trai, tức là có 5 cô con dâu, nhưng không đứa con nào đỡ đần ông trông nom bà. Mẹ Tôi bị mặc cảm, con gái là “bát nước hắt đi”.  Và Tôi, sau khi tìm hiểu hoàn cảnh từng cậu mợ bên ngoại, Tôi nghĩ khác.

Trong truyện Đánh đổi, Ly là cô gái chấp nhận thân phận tiểu tam. Cô biết là mình sai, nhưng vẫn đánh đổi cuộc sống, tự do với sự xa hoa lộng lẫy. Còn nhân vật Tôi (một cô sinh viên) thì cho rằng, chuyện của người ta (chuyện của Ly), “mình không ở trong hòan cảnh của người ta thì mình cũng không có quyền gì phán xét cả”. Trái lại, bạn của Tôi là Ngọc, lại tỏ ra đồng cảm với Ly. Vì “Ngọc là người từng chịu nhiều tổn thương. Cha của cô ấy giống với người đàn ông kia”.

            Điều thú vị là Tống Thanh Tâm viết rất thuyết phục về những cái nhìn trái chiều như vậy. Sự thuyết phục ấy xuất phát từ tấm lòng yêu thương tác giả dành cho nhân vật. Nhất là những con người trong những hoàn cảnh ngặt nghèo. Vì thế truyện của Tống Thanh Tâm  có sức lưu giữ người đọc.

            Xin đọc các truyện của Tống Thanh Tâm:

(lưu ý rằng, phần tóm tắt của tôi không giữ được “chất văn” của Tống Thanh Tâm, cũng đồng nghĩa không giúp người đọc tiếp cận những giá trị thẩm mỹ của văn chương Tống Thanh Tâm. Người xưa nói “Tam sao thất bản” là vậy. Lý luận văn học hiện đại cũng khẳng định không thể tóm tắt một bài thơ, một tác phẩm văn xuôi, vì đó là một thế giới nghệ thuật).

            1.Nụ cười. (truyện ngắn)

            Hắn (tên Lâm) trở về nhà. Bây giờ hắn đã khỏe mạnh và có tiền. Hắn hy vọng ông già (người cha) sẽ tha tội cho hắn, tội bỏ nhà đi từ khi học hết lớp 10, rồi bị rủ rê sa vào hút chích. Hắn hỏi thăm cô gái hàng xóm (Lan) về cha mình, cô ta không trả lời mà có ý ghét hắn ra mặt. Ông Tấn, cha cô gái, cho biết ông già hắn đã chết vì tai biến mạch máu não. Niềm hy vọng nhỏ bé của hắn hoàn toàn lụi tắt.

Trở về nhà sinh sống, hắn xoay sở buôn bán. Ngoài bánh mì, hắn còn bán thêm trà sữa. Một lần bán hàng, hắn thấy Lan – con ông Tấn, khoác tay cùng đi với anh chàng trí thức, hắn có chút bất ngờ.

Một hôm ông Tấn phải về quê vài ngày. Ông nhờ hắn xem chừng nhà và để ý Lan dùm. Đến đêm thứ hai, Lan đi suốt đêm không về. Đến 7h sáng hôm sau, hắn mới thấy Lan mở cửa nhà. Hắn vội chạy sang. Lan òa khóc, má phải của Lan bị bầm một mảng, khóe môi còn vết máu, người run bần bật. Ngày hôm ấy, hắn nghỉ làm, ở nhà chăm sóc Lan. Lan như người mất hồn nhưng tỏ ra không thù địch với hắn nữa. Hắn gọi báo tin cho ông Tấn.

Ba tháng sau, Lan có thai, ông Tấn bắt phải bỏ. Hắn khuyên ông Tấn. Hắn nói, hắn là đứa trẻ không cha mẹ. Người ta bỏ hắn ngoài bãi, rồi cha hắn nhặt được, mang về nuôi. Hắn dè dặt nói với ông Tấn, nếu Lan không chê, hắn tình nguyện làm cha đứa bé. Một khoảng lặng vang dài, ngay cả tiếng nức nở của Lan ở trong nhà cũng im bặt. Còn hắn, hắn nghe rõ từng nhịp đập của tim mình.

Sau khi đề xuất với ông Tấn một ý tưởng bất ngờ, về đến nhà, hắn vẫn lâng lâng trong người. Hắn thương Lan bằng một mặc cảm không dám nói. Và hắn biết, đứa trẻ ấy đáng được ra đời, được yêu và thực sự được trưởng thành trong một gia đình thực thụ. Hắn mơ màng nghĩ, rồi sa vào cơn mơ. Ở đấy, vào một buổi sớm mai, hắn thấy, Lan đang tựa cửa, tay vuốt ve bụng, âu yếm nhìn hắn, nụ cười rất đỗi dịu dàng.

***

Nụ cười có cái kết đẹp của tình người và tình yêu. Lâm là đứa trẻ bị bỏ rơi nên anh đồng cảm được với đưa con bị bỏ rơi trong bụng Lan. Nhưng tình yêu của Lâm dành cho Lan  thì rất chông chênh. Lâm trở về nhà trong một thời gian ngắn, lại không tiếp cận được với Lan, thì sao có thể nảy sinh tình yêu trong Lâm, và tình yêu ấy đủ mạnh để anh tự nguyện nhận đứa con hoang của Lan. Hơn nữa đó chỉ là một tình yêu đơn phương.

Giải pháp của Lâm (cũng là của tác giả) dù có tốt, song chỉ lả giải pháp tình huống chữa cháy. Không có gì bảo đảm cho hạnh phúc lâu dài của gia đình Lâm. Bởi vì trong lòng Lan vẫn còn đó những kỷ niệm tình yêu cũ. Và vết thương tình phụ vẫn chảy máu hàng ngày khi Lan nhìn đứa con mình sinh ra. Những điều ấy chỉ ra rằng Nụ cười chỉ là một truyện lãng mạn của người viết trẻ.

2. Tỉnh giấc (Truyện ngắn)

Tỉnh dậy trong một căn phòng trắng tinh, Phương thấy mệt mỏi đến rời rạc cả chân

tay. Cô đã qua một đêm say với một người đàn ông. Cô nói với người đàn ông một cách nhẹ bẫng nhưng dứt khoát: “Mọi chuyện dừng lại ở đây”. Người đàn ông ấy là Vũ, người yêu của một cô bạn, nhưng hai người đã chấm dứt quan hệ.

Ở trong xóm lao động xô bồ, Phương lớn lên với một quãng đời cơ cực. 16 tuổi, cô

trốn nhà đi biệt. Thân con gái sống lay lắt nay chốn này mai chốn khác. 10 năm trời, nỗ lực và nỗ lực, cô mới chen vào được cái ghế kế toán viên. Phương nghĩ, 5 năm nữa, trong công ty này cô sẽ có chút vị thế, rồi lại thêm 3 năm nữa ắt sẽ là một vị trí cao hơn nhiều hiện tại.

Sếp tổng mới về nhậm chức. Hắn là một cáo già đáng gờm. Người phụ nữ nào vào tầm mắt hắn, một là phục tùng hai là ra đi. Đôi người nhận ra Phương bị hắn nhắm trúng. Hắn nói với Phương, hãy thực tế một chút, cô sẽ có tất cả những điều đó ngay bây giờ nếu biết điều. Phương đau khổ, nhưng phải chấp nhận vì chẳng còn đường nào khác.

            Đêm còn dài, cô quấn váy áo lên người và tìm đến nơi có bia rượu để giải phóng những cơn uất nghẹn. Gặp Vũ, Phương đã chủ động, “Chuyện đã xảy ra thì đương nhiên là nó sẽ tiếp diễn đúng như thế”. Khi tỉnh dậy, cô nói Vũ dừng lại. Cô sợ rằng mình sẽ tiếp tục, tiếp tục xem Vũ như một chiếc bè cứu sinh.  Hút hết điếu thuốc, Phương nói với Vũ: “Về thôi”.

Về đến nhà, biết hôm nay là thứ hai nhưng Phương vẫn thả mình trên giường và ngủ một giấc, cho đến khi điện thoại vang lên. Cô biết ai gọi. Cô trả lời “Một tiếng nữa, em sẽ có mặt ở công ty”, rồi lấy giấy bút từ ngăn kéo tủ ra, viết một cái đơn xin nghỉ việc, vốn ngay từ đầu chỉ cần vậy thôi.

***

Kết truyện, Phương xin thôi việc, đó là một cái tát vào mặt Sếp tổng. Phương giữ được mình trước mặt mọi người. Nhưng ở hiện tại, Phương lại gục ngã do chính sự yếu đuối của mình. Phương đã tự buông thả qua đêm với Vũ. Dù Phương có bảo Vũ “về thôi” đêm nay, nhưng chắc chắn cô sẽ lại tìm Vũ như “một chiếc bè cứu sinh” những đêm sau đó. Nỗi cô đơn và sự yếu đuối sẽ nhấn chìm Phương. Đúng như Phương tự thú nhận: chẳng còn đường nào khác. Phương không bán mình vào tay Sếp tổng để đổi lấy quyền lợi thì cũng tự đánh mất mình do sự buông thả. Phải chăng người trẻ hôm nay thiếu một lý tưởng sống để có sức mạnh vươn lên? Tác giả định đưa Phương về đâu? Bởi nếu trong đời thực, cô nhân viên trẻ nào cũng như Phương thì cuộc sống này sẽ đi về đâu? Tỉnh giấc vì thế chỉ là một truyện lãng mạn.

Tỉnh thức có cốt truyện đơn giản, chưa đủ tầm vóc là một truyện tư tưởng. Mở đầu và kết truyện (ở hiện tại), Phương tỉnh giấc và bảo Vũ “về thôi”. Giữa truyện là hồi tưởng của Phương về quá khứ của mình. Phần hồi tưởng quá khứ là phần chính khiến cho cấu trúc truyện bị lệch. Người đọc muốn biết tâm hồn Phương ở hiện tại thế nào và cô sẽ làm gì trong tương lai để thoát khỏi sự bế tắc khi cô bỏ việc. Trước đó, cô mất 10 năm mới chen được chân nhân viên kế toán và cần 8 năm nữa mới có thể ngoi lên. Liệu Phương có đủ kiên nhẫn bắt đầu lại 18 năm nữa để thực hiện ước vọng của mình?

            3.Nghịch thời (truyện ngắn)

            Tôi (nhân vật tên Thanh) về thăm ngoại. Nhà ngoại ở đối diện bờ đê, ngay sau ấy là sông Lam (không biết có phải sông Lam từ Lào chảy qua Nghệ An đổ ra biển Đông?). Tôi rạng rỡ. Ông kinh ngạc về tôi. Bà gầy yếu và không nhận ra tôi. Một năm tròn rồi ôngmột mình chăm sóc bà từ miếng ăn đến giấc ngủ. Bà là người vợ hiền, chưa bao giờ làm trái ý ông, chỉ trừ việc giải thoát mẹ tôi khỏi người chồng đầu tiên. Người ấy bị thọt, lại rượu chè cờ bạc và vũ phu. Mẹ tôi bị đánh dã man phải bỏ nhà đi, bà ngoại cho ít tiền và bảo mẹ tôi bỏ quê mà đi, càng xa càng tốt. Thế là mẹ tôi bỏ đi từ đấy. Ông ngoại nghiêm khắc với bà nhưng về già ông lại chăm sóc bà.

            Trong những ngày về thăm quê, tôi chỉ lẩn quẩn ngoài bờ đê và trong nhà ngoại. Tôi hỏi ông những điều lặt vặt. Ông có vẻ chiều chuộng tôi, khác hẳn với trước kia, ông không ưng gì tôi, mà ông thương mấy anh bên cậu tôi. Đêm về ông thường hay nói về đời người: “5 thằng lại không bằng 1 thằng mà”. Hóa ra ông có 5 cô con dâu nhưng chẳng cô nào đỡ đần ông chăm sóc bà. Tôi đâm ra tò mò đến ngứa dạ ngứa gan về các cậu bên ngoại.

            Hôm sau, tôi cùng mẹ đi thăm các cậu, các anh bên ngoại. Đúng là không một cô con dâu nào của ông muốn chăm mẹ chồng, vì thế ông cũng không muốn phiền và Tôi cũng thôi không nói gì.

            Đến ngày đi, tôi vẫn rạng rỡ, ôm ông bà. Mẹ tôi không nỡ rời ông bà. Lúc an vị trên xe, mẹ khóc vì nghĩ rằng ông vẫn xem mẹ là “bát nước hắt đi”. Tôi thì không nghĩ thế. Ông không muốn mẹ phải bỏ thành thị mà về thực hiện cái trách nhiệm mà theo ông là của 5 nhà kia.

***

            Nghịch thời có cốt truyện đơn giản. Nội dung chỉ là chuyến về thăm ngoại của Tôi, ở chơi vài ngày rồi trở về. Tôi chứng kiến sự việc ông ngoại chăm bà từ miếng cơm giấc ngủ. Tác giả muốn đánh đổ cái định kiến trọng nam khinh nữ vẫn còn trong đầu của các ông bố bà mẹ già. Ngày nay, có con trai, dù là 5 người như ông ngoại Tôi, cũng không nhờ cậy được ai lúc cha mẹ về già. Trong khi mẹ Tôi, dù thương ông bà đứt ruột, vẫn bị coi là “bát nước hắt đi”. Còn Tôi (Thanh), Tôi không nghĩ như mẹ và ông ngoại.

            Đọc truyện này, tôi không rõ tác giả sẽ giải quyết vấn đề thế nào? Khi không nhờ cậy được 5 con trai (và 5 con dâu) và gạt con gái đi, ông ngoại sẽ sống ra sao? Chẳng lẽ ông cam chịu cô độc và chỉ biết than thở: “5 thằng lại không bằng 1 thằng mà”! Cách kết lửng này buộc người đọc phải tìm một giải pháp cho nhân vật, và đó cũng là dư âm của một câu chuyện lãng mạn.

Tống Thanh Tâm đã đặt một vấn đề đáng quan tâm của xã hội Việt Nam hôm nay. Chỉ tiếc, tác giả đã không giải quyết được vấn đề của hiện thực. (Nói cho đúng, nhà văn là người đặt vấn đề, còn giải quyết vấn đề là trách nhiệm của xã hội). Cô dâu ngày nay không còn ý thức “làm dâu”. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã lạc hậu. Cha mẹ già tưởng rằng có con trai thì được nhờ. Thực tế, có đến 10 con trai cũng chưa chắc nhờ được đứa nào, vì chúng còn lo cho vợ con. Bây giờ con cái đề cao sự tự lập, đời ai nấy tự lo, không cần biết bố mẹ về già sống thế nào. Đó là bi kịch tuyệt vọng của nhiều gia đình khi văn hóa truyền thống Việt bị lật đổ bởi lối sống thực dụng chủ nghĩa phương Tây!

            4.Đánh đổi (truyện ngắn).

            Ở dãy nhà trọ này, tôi và Ngọc (sinh viên) thường thức khuya đến 2-3 giờ sáng. Ở phòng đối diện, chị Ly cũng giờ này mới về. Ly là một phụ nữ đẹp, là đối tượng các cuộc “họp bàn tròn” của mấy bà cô trong khu này. Tôi và Ngọc tự hỏi, Ly làm gì mà lắm tiền thế không biết.

Có tiếng gõ cửa? Ai lại gõ cửa giờ này?- là Ly. Bà ta ăn mặc đúng là “hồ ly”: Chiếc đầm đỏ dài chạm gót, một tà váy xẻ cao đến tận bắp đùi, bờ vai trần đẹp như tạc, tay nhấc điều thuốc xuống thả nhẹ một làn khói. Ly trả lại chúng tôi hai gói mì mượn hôm qua và tặng lại món gà nướng. Tôi chưa kịp từ chối thì Ngọc đã ra cửa nhận ngay. Tôi và Ngọc tranh cãi về việc Ngọc nhận thịt gà của Ly, bởi tôi nghĩ, “chẳng ai cho không cái gì bao giờ, biết đâu ngày nào chúng tôi phải giúp chị ta việc gì đó để trả lại gà nướng mà chị cho chúng tôi hôm nay”.

            Chuyện ấy đến nhanh thôi. Bọn người lạ mặt xuất hiện. Chúng mặc đồ đen, mặt bịt, kín cổ xăm trổ đeo xích bạc. Cả xóm cảnh giác. Tầm 1 giờ sáng hôm qua, Ly tiễn một ông khách. Mấy gã bịt mặt xuất hiện đập phá nhà chị. Khi dân phòng đến thì đã muộn. Tôi thu dọn nhà còn Ngọc giúp chị ta. Đêm ấy Ly ở lại phòng chúng tôi và kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời chị.

            Người đàn ông đêm qua là tình đầu của chị nhưng anh ta đã có vợ, một người giàu có. Anh ta chu cấp cho chị và hẹn hò với chị hàng tháng ở căn biệt thự ngoại ô. Do hoàn cảnh khó khăn, cha bệnh, mẹ mất, em còn đi học, chị đã sống dựa vào ông ta. Và rồi không gì qua mặt được các bà vợ. Chị biết mình sai. Chị đã đánh đổi cuộc sống, tự do của mình lẫy sự xa hoa lộng lẫy. Chị nhấn mạnh hoàn cảnh của mình để tìm sự đồng cảm. “Tôi nghĩ mình không ở trong hòan cảnh của người ta thì mình cũng không có quyền gì phán xét cả”. “Ngọc là người từng chịu nhiếu tổn thương. Cha của cô ấy giống với người đàn ông kia. Cho nên kh Ngọc lo lắng cho chị ta, còn cho phép chị ta ngủ tại phòng chúng tôi đêm qua.Tôi đã muốn cạn hết lời”.

            “Thôi dù sao cũng là chuyện của người ta. Tôi và Ngọc cứ yên ổn tiếp tục cuộc sống sinh viên của mình thôi”.

***

            Đánh đổi có cốt truyện đơn giản. Do mất ngủ, hai cô sinh viên chứng kiến chị Ly ở phòng trọ đối diện bị bọn xã hội đen đập phá (đánh ghen). Chị ta mong được thông cảm. Nhân vật Tôi cho rằng, đó là chuyện của người ta, mình không có quyền gì phán xét cả, cứ yên ổn tiếp tục cuộc sống sinh viên của mình thôi.

            Tống Thanh Tâm có cách viết sống động và thông minh. Tác giả tập trung miêu tả hiện tượng (tiểu tam), và để nhân vật tự trình bày quan điểm của mình. Tác giả không đào sâu lý giải bản chất của vấn đề. Truyện phản ánh một thực tại: thân phận “tiểu tam” trong xã hội hôm nay khi các giá trị đạo đức không đã sụp đổ. Con người hôm nay chấp nhận đánh đổi tất cả, ngay cả hai người yêu nhau cũng lợi dụng nhau. Người ngoài cuộc không cần quan tâm chuyện riêng của họ .

            Kể chuyện của Ly và phân tích thái độ của hai cô sinh viên chứng kiến sự việc Ly bị đánh ghen, Tống Thanh Tâm sẽ giải quyết vấn đề thế nào? Phải chăng Ly sẽ tiếp tục làm “tiểu tam”? Phải chăng, mọi người cũng giống như hai cô sinh viên trong truyện, không cần quan tâm đến người khác.

Rõ ràng là, tinh thần cộng đồng và đạo đức xã hội truyền thống đã hoàn toàn sụp đổ trước lối sống vật chất và văn hóa phương Tây (chủ nghĩa hưởng thụ và chủ nghĩa cá nhân vị kỷ) mà người trẻ hôm nay đã nhiễm phải. Vấn đề được Tống Thanh Tâm đặt ra buộc người đọc phải suy gẫm.

***

5.LÊ VŨ ANH ĐÀO

            Lê Vũ Anh Đào sinh năm 1987, hiện là Biên kịch tự do.

            Là một cây bút văn xuôi chuyên nghiệp, bước đầu, Lê Vũ Anh Đào đã chạm được vào những vấn đề của hiện thực. Trang văn có khả năng đánh động suy nghĩ của người đọc. Tuy vậy, đôi chỗ trong xây dựng cốt truyện hoặc miêu tả hiện thực, Lê Vũ Anh Đào còn vi phạm những nguyên tắc của Chủ nghĩa Hiện thực.

            Xin đọc:

1.Yêu thương ngày cũ (truyện ngắn).

            Hiên nhận được thiệp cưới của Phan gửi từ Pleiku, báo tin sắp lấy vợ. Tim Hiên bỗng nhói đau. Ba năm rồi, Hiên nhớ về Phan với những cái nhoi nhói nơi ngực trái, với những cơn đau đến ngạt thở nhưng không có những giọt nước mắt. Vậy mà hôm nay Hiên khóc trong đau đớn, khóc thật to. Rồi Hiên thiếp đi trong nước mắt.

Ngày hôm ấy đi làm ở công ty, Hiên lặng lẽ một mình. Buổi trưa ở phòng ăn, Khoa lặng lẽ ngồi ăn cùng cô. Khoa là đàn anh học trên Hiên một khóa ở trường đại học. Hiên và anh giờ làm khác công ty nhưng lại chung một tòa nhà. Hiên hay ăn cơm trưa và đi cà phê cùng anh. Buổi tối Khoa lại đến thăm và hỏi han. Khoa ở lại cho đến khi Hiên ngủ say rồi mới về.

Hiên xuống sân bay Pleiku vào buổi chiều thứ sáu. Cô đón xe qua Kontum tìm về Mái ấm Vinh Sơn gần nhà thờ gỗ Kon R’Bang. Tuổi thơ của Hiên và Phan ở đây. Hiên và Phan là hai đứa trẻ mồ côi, gặp nhau khi Hiên vừa học xong lớp một, gắn với nhau như hình với bóng. Lên cấp 3, Hiên và Phan chuyển qua Pleiku học. Hiên thi vào chuyên Văn còn Phan vào chuyên Anh. Lớp hai đứa vẫn dính lấy nhau. Học xong cấp ba, Hiên học Báo chí dưới Sài Gòn, Phan học Cao đẳng Sư phạm, anh muốn trở về mái ấm dạy cho các em. Hiện anh đang dạy ở làng trẻ SOS ở Pleiku, vợ sắp cưới của anh cũng dạy ở đó. 3 năm rồi Hiên mới trở lại nơi này.

Phan đón mọi người sang Pleiku dự đám cưới của anh. Buối tối, Phan rủ Hiên đi uống cà phê, nhưng Hiên muốn đi bar. Hiên đã uống nhiều lắm, càng uống càng thấy buồn. Hiên muốn nổi loạn. Phan chở Hiên ra công viên thành phố, Hiên ngồi ngoan ngoãn bên cạnh anh. Hiên thổ lộc tình cảm nhưng Phan nói, trong thâm tâm anh từ khi gặp Hiên, anh chỉ coi Hiên là em gái. Hiên thút thít sau lưng Phan suốt đoạn đường về. Phan đưa Hiên về tận phòng ngủ trong mái ấm …

Tiếng chim hót, tiếng cười nói râm ran đã đánh thức Hiên. Cô ra phụ mọi người đưa đồ đạc lên xe. Phan mỉm cười chào Hiên như chẳng có trận khóc lóc tỏ tình tối qua. Khoa xuất hiện làm Hiên kinh ngạc. Mọi người đi trước, bỏ lại Hiên với Khoa.

Hiên cùng Khoa dự lễ cưới trong nhà thờ gỗ. Hiên cầu nguyện cho Phan và gia đình anh mãi hạnh phúc. Nghe những lời thề nguyện hai người dành cho nhau, lòng cô chợt thấy ấm áp lạ thường. Như tìm một sự đồng cảm, cô nhích lại gần Khoa, đưa tay ra nhẹ nhàng nắm lấy tay anh, anh ngập ngừng rồi xiết chặt bàn tay, giữ tay cô ấm áp trong tay mình.

***

Yêu thương ngày cũlà chuyện tình đơn phương của Hiên. Sự bùng nổ của tâm hồn Hiên trong đêm bên Phan là có thể hiểu được. Cô vào bar, uống nhiều rượu, muốn nổi loạn và tự bộc lộ tình yêu với Phan. Bởi ba năm xa cách Phan, Hiên đã kìm nén những tình cảm ấy. Và nếu đi quá đà, Hiên sẽ gặp bi kịch.

Nhưng tác giả đã kết thúc “có hậu” khi để Khoa “xiết chặt bàn tay, giữ tay cô ấm áp trong tay mình” lúc hai người dự lễ cưới của Phan trong nhà thờ gỗ. Điều này là kết quả một nền giáo dục từ các sơ (Soeur) mà Hiên và Phan đã tiếp nhận khi là trẻ mồ côi trong mái ấm. Phan có lý tưởng. Anh chọn học Sư phạm đễ trở về dạy các em.

Phan và Hiên còn là những người có đức tin. Phan nói với Hiên, “hãy mở lòng ra đón nhận tình cảm của người khác, hãy bỏ đi những tự ti, mặc cảm thì sẽ có người yêu thương cô thật lòng thôi”. Và Hiên đã được Khoa đón nhận. Tôi cho rằng đó là một tư tưởng tích cực của Lê Vũ Anh Đào trong truyện tình này.

2. Một chuyện không cười nổi

Vợ chồng anh (tác giả chỉ dùng đại từ phiếm chỉ “anh” để gọi nhân vật) cưới nhau được hơn một năm. Lúc mới cưới, nàng nói với anh cho nàng một năm tự do rồi tính đường con cái.

Một năm trôi qua. Công việc của anh vẫn ì ạch với mức lương lúc ban đầu. Nàng thì ngày càng trẻ đẹp và thành công. Những chuyến công tác dài ngày trong nước, quốc tế cứ cuốn lấy nàng. Anh muốn có con. Nàng thở dài ngao ngán: Kinh tế chưa ổn định, không nên có con!

Để vui nhà vui cửa, nàng mang về nhà một con chó, loại chó xù, lông trắng. Nàng gọi nó là Sam và chăm sóc nó như con. Ngày trước, mỗi lần nàng đi công tác, ngày nào nhớ thì nàng gọi điện hỏi thăm anh. Bây giờ, nàng đi công tác, anh phải gửi nó đến khách sạn chăm sóc cho chó, phải cập nhật thường xuyên tin tức của nó cho nàng. Anh thấy mình bị cho ra rìa thật sự.

Anh thắc mắc, tại sao vợ anh có thể yêu thương, chăm sóc một con chó nhỏ chu đáo, mà không chịu chăm sóc một đứa con do chính nàng sinh ra. Nàng bảo, có con phải mang nặng đẻ đau, rồi phải ẵm ngửa, bú mớm cả năm trời? Biết bao nhiêu thứ phải lo. Mà phải lo đến suốt đời.

Dạo gần đây, nàng đi công tác nhiều hơn và ít quan tâm đến nó. Anh mừng vì nghĩ nàng sẽ dồn tình cảm của nàng cho anh. Con chó hình như cũng cảm nhận được sự bớt quan tâm của nàng nên khó chịu.

Nàng càng ngày càng đi làm về muộn, đôi khi còn cáu gắt và than mệt mỏi vì công việc. Sáng hôm đó, anh đang ngon giấc thì có tiếng con chó sủa liên hồi. Con chó bị xích và cứ nhìn ra cổng mà sủa. Anh mới mở xích cổ cho nó. Nó lao thẳng vào nhà, lên cầu thang, vào phòng ngủ và xộc thẳng đến tủ quần áo của vợ chồng anh. Anh mở toang hai cánh cửa tủ ra. Mấy bộ váy hàng hiệu và cái vali của nàng không còn trong tủ.

Anh tìm thấy tờ giất nhỏ nàng để lại: “Anh à, em không thể ở bên anh nữa. Em đã có thai nhưng không phải là con của anh. Em đã yêu người đàn ông khác và người này mới thật sự cho em cảm thấy an toàn, được che chở, được dựa dẫm. Anh đừng đi tìm em, em sẽ gửi hồ sơ ly hôn sớm cho anh. Anh chăm sóc Sam giùm em, em đang có thai nên không thể mang nó theo được. Xin lỗi anh!”

Vậy là anh bị vợ bỏ. Một thằng đàn ông không thể lo cho vợ ngay cả cảm giác được an toàn, che chở. Một thằng đàn ông muốn có con nhưng vợ lại có con với người khác. Con chó còn nhận ra được sự phản bội của nàng mà anh lại không hiểu. Anh quàng tay ôm lấy con chó, khóc nấc lên. Còn nó kêu những tiếng ư ư yếu ớt trong cổ họng.

***

Đọc truyện này, tôi ngậm ngùi mà không biết nên chia sẻ điều gì? Trách nàng ư? Hay trách anh như tác giả đã lý giải. Anh bị vợ bỏ vì không thể lo cho vợ, không thể đem đến cho nàng sự an toàn, được che chở.

Tôi thầm nghĩ, nếu tất cả những người đàn ông Việt Nam không đáp ứng nhu cầu sống “sang chảnh” cho vợ đều bị vợ bỏ, thì xã hội Việt Nam sẽ thế nào nhỉ. Và khi gia đình đổ vỡ, sẽ gây ra bao thảm cảnh khác. Tôi có cảm giác rằng tác giả chỉ trình bày một hiện tượng riêng lẻ chứ không phản ánh một xu hướng sống thực dụng (trend) của thời đại.

Đúng là khi Việt Nam mở cửa hội nhập toàn cầu hóa, thì Chủ nghĩa Thực dụng, Chủ nghĩa Cá nhân vị kỷ, Chủ nghĩa hưởng thụ tràn vào. Nó có gây ra những hậu quả đau lòng. Nhưng người Việt Nam, trong bản chất, vẫn có ý thức giữ gìn nề nếp đạo đức, thuần phong mỹ tục của cha ông. Vợ chồng đồng cam cộng khổ, yêu quý con cái và nỗ lực làm việc để xây dựng một gia đình hạnh phúc.

Hình tượng nhân vật Anh (người chồng) bị tác giả dồn vào ngõ cụt và chịu bó tay, đành ôm con chó của vợ mà khóc.

Sao tác giả lại đặt anh ta bên cạnh con chó và kết luận anh ta không bằng con chó? Con chó còn nhận ra vợ anh phản bội, còn anh thì không! Điều đó có quá đáng không? Thực tế người đàn ông này không đến nỗi thụ động và “khờ” như thế. Anh ta có tội tình gì? Anh vẫn đi làm, chỉ là lương không cao. Anh ta cũng tôn trọng công việc nhiếu quan hệ của vợ, sở thích nuôi chó của vợ. Anh ta mong có đứa con, mong một gia đình hạnh phúc. Chẳng lẽ những khát vọng đó là sai. Việc chị vợ có thai với người khác chẳng lẽ là lỗi của anh? Chẳng lẽ chị ta đúng cả về đạo đức và luật pháp? Và nhan đề của truyện hình như lại làm tổn thương đến lòng nhân ái. Chẳng lẽ chúng ta lại cười trên sự đau khổ của anh chàng bị vợ bỏ hay sao? (như thể cười anh chồng khờ trong truyện “Làm theo vợ dặn”?)

Lê Vũ Anh Đào đã vi phạm những nguyên tắc của Chủ nghĩa Hiện thực khi để ngòi bút đi quá đà như thế.

3.Vụ án hai con gà.

            Minh và Nhiên đi học về thì Hùng, em trai Nhiên, báo tin Minh và Nhiên sẽ không được đi học chung nữa.  Hai gia đình tuyệt giao vì hai bà mẹ cãi nhau chuyện mất gà.

            Minh và Nhiên là đôi bạn từ cấp 1 qua cấp 2 phổ thông và cấp 3 chuyên Văn. Hàng ngày Minh chở Nhiên đi học. Đến nay cả hai sắp thi Đại học. Hai nhà thân thiết với nhau, hai mẹ như chị em ruột thịt. Minh và Nhiên cũng gần gũi bên nhau. Bạn bè trong lớp, trong xóm cặp đôi.

            Buổi tối, Nhiên chờ tin nhắn của Minh. Minh nói nhà Minh có mất con gà. Nhiên cũng nói với Minh nhà Nhiên cũng mất gà. Hai nhà ở sát nhau, phía trước có rào, phía sau thì thông nhau, gà thả chung vườn. Minh và Nhiên không biết phải giải quyết thế nào.

            Hôm sau, khi hai mẹ đi chợ, Minh và Nhiên đi tìm gà. Cả hai tìm khắp vườn nhưng không thấy. Hai bạn ngồi bên nhau thất vọng. Rồi Hùng báo tin tìm thấy gà. Hai đứa chạy đến. Bên trong chỗ mấy cành muồng gẫy gập xuống đất, hai con gà mái đang nằm cạnh nhau trong một cái ổ lá. Hùng vạch một cánh gà lên, phía dưới là những quả trứng to tròn.

            Khi hai bà đi chợ về thì thấy mọi người tập trung ở sân nhà Nhiên. Hùng và Minh từ sau nhà ra, hai anh em bưng một cái thúng đặt hai con gà mái đang nằm cạnh nhau ấp chung gần ba chục quả trứng. Một vài câu nói vui, mọi người cùng cười, xóa đi không khí gượng gạo của hai bà mẹ. Lúc này hai bà mẹ cầm tay nhau nói lời xin lỗi. Hai con gà mái được chia trứng về nhà để ấp. Minh và Nhiên vui mừng. Tối nay hai bà mẹ lại họp nhau chuẩn bị lo tết như mọi năm. Tiếng nhạc ờ nhà Nhiên và nhà Hùng vang lên. Xuân ơi, xuân đã về.

            ***

            Truyện này dành cho lứa tuổi học trò. Nhưng tôi không rõ tác giả hướng đến đối tượng cụ thể nào. Nếu là học sinh cấp 3 thì lứa tuổi này tâm lý đã “người lớn”, truyện “trẻ con” này sẽ không hấp dẫn. Nhưng nếu truyện dành cho trẻ cấp 1, cấp 2 thì những chi tiết “nhạy cảm” của tuổi lớn có thể gây ảnh hưởng.

Đôi chỗ tôi băn khoăn về tình chân thực của sự việc. Hai bà mẹ thân nhau như ruột thịt thì không thể vì con gà mà mất tình nghĩa xóm giềng. Gà mái đẻ trứng hàng ngày, các mẹ biết ngay, không chờ đến khi có 30 trứng, gà ấp mà không biết. Hơn nữa, vườn cà phê không thể rộng qúa sức tìm kiếm của hai bà mẹ. Cho nên việc mất gà và tìm thấy gà chỉ là cái cớ để tác giả nêu bài học về sự hòa thuận và sự cẩn trọng của người lớn. Làm cha mẹ không được để ảnh hưởng đến trẻ.

Có lẽ chú ý đến ý nghĩa giáo dục mà tác giả bỏ qua những yêu cầu của ngòi bút hiện thực chăng?

6. HUỲNH NGỌC TUYẾT CƯƠNG,

Huỳnh Ngọc Tuyết Cương sinh năm 1993, hiệ là giáo viên ở Nhơn Trạch.

Tôi đã đọc được một ít bài thơ của Huỳnh Ngọc Tuyết Cương, các bài: Trong ánh mắt sông, Đi chợ cuối năm, Về với cuối năm. Tâm sự với đường hoa, Xuân rụng, Mưa xuân, Ngủ lại nhà quê, Thăm bà, Mẹ tôi, Tìm, Ký ức, Đợi, Điền dã. Tôi cũng đã đọc những nhận xét về thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương của tác giả trẻ Huyền Quy (Đồng Nai), của nhà văn Hoàng Ngọc Điệp (PCT Hội VHNT Đồng Nai), bài nhận xét về văn trẻ của TS Đỗ Anh Vũ trên báo Văn nghệ (số 25+26/ 2022) nhân Hội nghị Những Người Viết Văn Trẻ toàn quốc lần thứ 10 tại Đà Nẵng (18&19/6.2022). Có thể nói, với những gì đã viết, Huỳnh Ngọc Tuyết Cương là một tác giả trẻ Đồng Nai đã ghi được dấu ấn trên văn đàn.

TS Đỗ Anh Vũ nhận xét [[3]]: “Tuyết Cương thường dồn nén những hình ảnh độc đáo,

những ý thơ lạ vào phần cuối mỗi tác phẩm để tạo dư âm:

Tưởng đi nghiêng ngả núi rừng

Ngờ đâu mẹ đứng sau lưng đỡ mình

      (Tâm sự với đường hoa)”.

Huyền Quy nhận xét: “Nhìn chung, ngôn ngữ trong thơ Tuyết Cương có những sự chuyển mình đầy kỳ ảo, như sự biến thiên không ngừng của nghệ thuật trong dòng chảy thời gian. Tác phẩm anh viết, hầu như không tuân theo một quy luật hay xu hướng cụ thể nào. Tự thân những bài thơ đã mang trong mình sứ mệnh cao cả: đi tìm giá trị của chân – thiện – mỹ, thể hiện cái tinh tế, nhạy cảm, mong manh từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ và những trăn trở ưu tư của một người làm thơ với con người và cuộc đời.”

Có lẽ, Huyền Quy đã đọc thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương như tiếp cận thơ của một  “thiên tài” “đầy kỳ ảo” “với sứ mệnh cao cả”. Điều ấy dễ gây cho người trẻ những ảo tưởng. Lưu ý rằng, Huỳnh Ngọc Tuyết Cương mới chỉ viết được một số bài, trong đó, bài Điền dã (đăng trên Thanh Niên 22/10/2017) có khả năng đứng được.

Nhà thơ Đàm Chu Văn[[4]], bằng trải nghiệm của mình, ghi nhận: “Với Huỳnh Ngọc Tuyết Cương sự tìm tòi còn tiếp tục nhưng đáng mừng đã có những thành quả bước đầu!”. Quả thực không dễ dàng một cây bút trẻ mới xuất hiện lại có thể được công chúng văn học kỳ vọng.

Đọc thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương, tôi ghi nhận vài đặc điểm nổi trội.

1.Mỗi bài thơ đều có những tứ thơ lạ dù đề tài và nội dung quen thuộc. Huỳnh Ngọc Tuyết Cương có nỗ lực tìm cách thể hiện mới.

Ngoài hiên mưa tí tách

Ngỡ mẹ về đêm đông

Tay rót buồn ra cốc

Lại uống vào trong lòng…

            (Nhớ)

2.Thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương là thơ tự tình có chút suy tư. Nghệ thuật thơ nằm trong thi pháp thơ truyền thống: Kết hợp kiểu ngôn ngữ biểu cảm của Ca dao với cấu trúc trữ tình của thơ Lãng mạn (1930-1945). Cái Tôi trữ tình là trung tâm, nội dung thơ là dòng chảy tâm trạng. Huỳnh Ngọc Tuyết Cương không có những cách tân của Thơ Trẻ đầu thế kỷ XXI (như Văn Cầm Hải, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Nguyễn Thúy Hằng, Ly Hoàng Ly…).

Đây là một bài tiêu biểu:

Ngủ lại quê nhà

Một đêm ngủ lại nhà quê

Tiếng con dế khóc ngoài đê gọi chào.

Cuộn thân cho võng buộc vào

Bây giờ ai buộc yếm đào cho em.

Cây hời hợt bảo tôi đem

Một hai lá nhớ ủ nem tình trường.

Gió vờn tóc, chảy mềm sương

Sương lan lạnh tím vết thương hình hài.

Tôi giờ chìm hết đêm nay

Chết đi mới biết còn ai thương mình.

Nhân vật trữ tình Tôi cô đơn hoang lạnh trong đêm. Tôi nằm cuộn mình trong võng, nói chuyện với con dế kêu ngoài đê, nói chuyện với cây, với gió, với sương. Tôi nhớ và trăn trở nỗi buồn tình yêu (như Tôi độc thoại trong bài Tương tư của Nguyễn Bính), và một chút thương thân (ai thương mình). Bài thơ mang đặc điểm tư duy của thơ trữ tình lãng mạn. Cái Tôi chiếm cả không gian thơ. Tôi đang lắng nghe tâm trạng mình, đối thoại với chính mình và thiên nhiên. Không gian ấy không có bóng dáng đời sống xã hội, không có những mối quan hệ của con người trong cuộc đời thực. Ngôn ngữ thơ là sự kết hợp lời thơ mộc mạc ca dao với hình ảnh ẩn dụ tượng trưng của thơ Lãng Mạn (hai câu kết hoàn toàn là ẩn dụ), chất liệu thơ có kết nối liên văn bản với ý tứ của ca dao (võng, yếm đào).

Bài thơ Điền dã hội tụ nhiều đặc điểm “thi pháp” thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương.

1.Về đồng một sớm sương gầy

Ai trong hư ảo cuốc trầy ban mai

Lá như đôi mắt người say

Nửa rơi về đất, nửa bay về trời.

Xa trông chợt thoáng rạng ngời
Ai đang ngồi đốt những lời của đêm.
Bỏ lòng lạc giữa đường êm
Vững tâm vì đá… đã mềm vì tay.

2. Tôi về một sớm tháng hai
Hương xuân còn níu mong vai thêm đầy.
Người thì lội giữa bùn lầy
Khom lưng nhặt mảnh trăng gầy tối qua.
Người thì tay bí, tay hoa
Gánh lên phố thị đổi ba đồng tình.
Người thì hồn gửi công trình
Viết vào ngói mới bóng đình cây đa.
Cụ thì ngồi kể phong ba
Nhà quê còn ấm tách trà từ tâm!

3. Tôi về lỡ nhịp trăng rằm
Tháng tư mắc võng ve nằm hát rong.
Nhà cao điểm bức tranh đồng
Hương cơm ủ bởi tấm lòng mưa sa.
Đường giờ nhựa ấm câu ca
Gió rong chơi vẫn thiết tha cánh diều.
Qua sông ai bỏ câu Kiều
Trong tôi mãi vẹn một chiều sao Hôm.
Trở về lục lại rạ rơm
Câu thơ chạm phải hương thơm cá đồng.

Hiện thực đồng quê được ghi nhận qua tâm trạng của Tôi, và đọng lại “trong Tôi” những nghĩ suy khá mới mẻ. Tác giả về đồng vào một sớm sương tháng hai. Từ xa đã trông thấy ai đó đang ngồi đốt lửa tâm sự (đốt những lời của đêm). Hương xuân còn đâu đây (Hương xuân còn níu). Cảnh quê hiện ra khá sinh động: Người thì lội giữa bùn lầy, người khom lưng nhặt. Người thì tay bí, tay hoa/ gánh lên phố thị đổi ba đồng. Người đang làm công trình. Có cụ ngồi kể phong ba bên tách trà từ tâm.

Cảnh quê giờ đã thay đổi nhiều, đã no ấm (Hương cơm ủ), hoan ca (Đường giờ nhựa ấm câu ca), thảnh thơi (Gió rong chơi vẫn thiết tha cánh diều). Nhà cao, đường nhựa, không còn trăng rằm (Tôi về lỡ nhịp), không còn tiếng ve, không còn ai nhớ câu Kiều. Riêng tác giả vẫn lưu giữ thời nghèo khó (lục lại rạ rơm) và ấp ủ chất men quê (hương thơm cá đồng).

Tất cả hiện thực ấy thay vì được miêu tả bằng ngôn ngữ biểu cảm của ca dao, lại được kết hợp với ngôn ngữ ẩn dụ tượng trưng của thơ Lãng mạn, tạo nên sự mới lạ đột ngột:

Xa trông chợt thoáng rạng ngời

Ai đang ngồi đốt những lời của đêm

Trong tứ thơ này, “Xa trông chợt thoáng rạng ngời/ Ai đang ngồi đốt” là ngôn ngữ biểu cảm của ca dao, nhưng ý nghĩa của câu thơ được chuyển rất nhanh sang ngôn ngữ ẩn dụ: “đốt những lời của đêm”, nhờ thế tứ thơ có thêm nhiều tầng nghĩa.

Hoặc:

Người thì tay bí, tay hoa

Gánh lên phố thị đổi ba đồng tình.

Bài thơ kết bằng một hình ảnh ẩn dụ, gói ghém được tình quê sâu nặng, có sức khơi gợi trong lòng người đọc những âm vang của sự cộng hưởng tình quê:

Trở về lục lại rạ rơm
Câu thơ chạm phải hương thơm cá đồng.

3.Thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương ấp ủ một tình quê dân dã. Sâu đậm là tình yêu thương xót xa với bà, với mẹ cha (Thăm bà, Mẹ tôi, Tâm sự với đường hoa). Quê hương là hồn thơ bao trùm không gian thời gian, thấp thoáng nhưng cô đặc, bàng bạc nhưng cụ thể  (Ngủ lại quê nhà, Tìm đâu, ); Dù viết đề tài nào, nhân vật trữ tình luôn trăn trở đời nghèo (Xuân rụng), ngậm ngùi nỗi đời dại khôn (Tìm), và trầm trầm một nỗi buồn xa nhà (Con giờ trên đất khách/ Xin đời được chút danh/ Đêm nay buồn tỉnh giấc/ Thèm tiếng mẹ dỗ dành-Nhớ).

Những tình cảm gia đình, quê hương như thế được thể hiện bằng nghệ thuật thơ truyền thống, khiến cho người đọc có thể thâm nhập vào thơ và đồng cảm ngay với tác giả. Vẫn là Lục bát đậm chất dân gian. Chất liệu thơ là một miền quê nghèo, hiu hắt, một không gian có hương vị xa xưa: “dòng sông vẫn chậm rãi”, “Con đò ai chầm chậm”, “Chợ vắng chân người”, “Tiếng rao gầy guộc”, “Tìm đâu khói bếp cơm khê chấm cà”, “Tiếng con dế khóc ngoài đê”; “bóng đình cây đa”, “rong chơi cánh diều”, “mắc võng nằm hát”, “hương thơm cá đồng”.  “Bó rau chiều mưa Mẹ gánh về”; “Ngoài thềm rụng chiếc hoa son”,“bên bếp lửa ai ngồi”; Mẹ tôi: gánh sức ra đồng, ngày đêm cơ hàn, mồ hôi thấm, tay nứt chỉ rã rời, chay sần, đời âm u, phong ba, bao nhiêu là nước mắtGiọng thơ là giọng trữ tình hướng nội gần gũi, giọng của chủ thể (Cái Tôi) tự tình chiếm lĩnh toàn bộ bài thơ. Giọng thơ này dễ gặp gỡ với điệu tâm hồn lãng mạn của người đọc.

4.Ngoài những mới lạ về sử dụng ngôn ngữ, thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương có

 mùi vị rất cũ. Tình yêu quê hương, tình gia đình đã là nguồn cảm hứng thơ Việt từ rất xa xưa. Thí dụ bài Đồng chí (1948) của Chính Hữu, Nhà tôi (1949) của Yên Thao. Tác giả vẫn khai thác chất liệu một miền quê nghèo khó, chân lấm tay bùn, nhặt nhạnh lấy vài ba đồng…Không có gì mới cả trong tư tưởng và thi pháp.

Người thì lội giữa bùn lầy
Khom lưng nhặt mảnh trăng gầy tối qua.
Người thì tay bí, tay hoa
Gánh lên phố thị đổi ba đồng tình.
                        (Điền dã)

“Than nghèo” cũng là một chủ đề quen thuộc trong thơ ca truyền thống.

            Về với cuối năm

            Trở về quê…với cuối năm

            Mang theo khó nhọc thăng trầm trên vai

            Nói gì đây chỉ trắng tay?

            Cuộc đời úp ngửa rủi may đã từng

            Môi khô nếm một vị mừng

            Lòng quen mất mát nên lừng khừng vui

            Nói sao để bớt ngậm ngùi?

            Khi theo cơm áo về vùi áo cơm

            Vẫn còn nguyên vẹn cái ôm

            Mùa xuân ở dưới cọng rơm, đâm chồi!

            May mà tứ thơ kết bài còn một chút hy vọng, như thể “bĩ cực, thái lai”.

            5.Tôi muốn tìm trong thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương hình tượng một người bà, một người mẹ mang vẻ đẹp và sức mạnh Việt Nam như Mẹ Suốt (thơ Tố Hữu), người bà bán trứng ở ga Lèn (Đò Lèn -thơ Nguyễn Duy), nhưng không có. Tôi cũng muốn tìm những vỉa tầng văn hóa quê hương trong thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương, nhưng không có- những vỉa tầng phong phú lịch sử, địa lý, văn hóa Việt làm nên những trang thơ bất hủ của Nguyễn Khoa Điềm (phần V: Đất Nước-trường ca Mặt đường khát vọng). Tôi cũng muốn tìm cái không gian của một miền quê đầy mật ngọt tâm hồn làm nên thơ Nguyễn Bính ngày xưa (Mưa xuân II; Tết của mẹ tôi, Thư gửi thày mẹ, Hết bướm vàng…), nhưng Huỳnh Ngọc Tuyết Cương chưa quan tâm. Và thử tìm một bài thơ giàu suy tưởng như thơ Chế Lan Viên, Nguyễn Đình thi ngày trước, Huỳnh Ngọc Tuyết Cương cũng chưa thử bút. So sánh thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương với thơ của những nhà thơ tài danh đi trước là một so sánh khập khiễng và không công bằng. Nhưng dẫu thế nào, người làm thơ đi sau phải vượt qua người đi trước bằng những khám phá sáng tạo mới mẻ, thì mới có cơ may ngồi vào chiếu thơ của làng thơ Việt.  Con đường thơ của Huỳnh Ngọc Tuyết Cương còn rất dài ở phía trước, và nhận xét của nhà thơ Đàm Chu Văn là đáng suy gẫm: “Với Huỳnh Ngọc Tuyết Cương sự tìm tòi còn tiếp tục nhưng đáng mừng đã có những thành quả bước đầu!”.

            Vâng “đáng mừng”, vì Văn nghệ Đồng Nai đã xuất hiện một khuôn mặt thơ trẻ, người sẽ nhận lấy trách nhiệm kế tục sự nghiệp của các thế hệ đi trước (Lê Thanh Xuân, Lê Đăng Kháng, Đàm Chu Văn, Đỗ Minh Dương, Nguyễn Đức Phước, Trần Ngọc Tuấn…), “đáng mừng” vì thơ Đồng Nai đã có những nhân tố mới về nghệ thuật. Và chúng ta có quyền hy vọng.

***

7.LÊ PHAN HIẾU ANH

Lê Phan Hiếu Anh sinh năm 1999, đang học Thạc sĩ tại Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh, là hội viên Hội VHNT Đồng Nai.

Tôi đã đọc 40 bài thơ của Lê Phan Hiếu Anh đăng trên Thiven.net.

               (https://www.thivien.net/L%C3%AA-Phan-Hi%E1%BA%BFu-Anh/author–n16aGXVq7-dtrrOjuRf2g),

40 bài thơ đủ để nhận dạng một khuôn mặt thơ trẻ Đồng Nai.

            1.Thơ Lê Phan Hiếu Anh có hai mảng để tài chính: thơ tình yêu và thơ trải nghiệm thế sự. Nhân vật trữ tình Tôi là chủ thể của cả hai đề tài này. Tôi nghĩ suy và bày tỏ cảm xúc. Cái Tôi ấy cũng chính là tác giả được ghi dấu bằng những hoàn cảnh riêng.

Xin đọc
Ngốc nghếch ơi

.    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .

Ngốc nghếch ơi, tôi yêu nàng tha thiết
Muốn một lần nhìn thẳng vòm mắt sâu
Nhưng tôi nào dám, chẳng biết vì đâu
Tôi yêu nàng, mà lời không dám ngỏ.

Tôi yêu nàng, ấp ủ từng hơi thở
Giọng nhẹ nhàng bẽn lẽn trọ vào tim
Để thế giới còn lại là lặng im
Chắc vì vậy, nên hồn tôi cô độc.

Tôi yêu nàng khi gặp nàng ngồi khóc
Một mình bên hàng liễu rũ buồn theo
Tôi chợt muốn làm vạt gió trong veo
Hôn lên má, khe khẽ gạt nước mắt.

Ngốc nghếch ơi, tôi thấy lòng quạnh thắt
Khi trông nàng cười đùa với người ta
Ôi nhìn kìa, suối tóc huyền thướt tha
Sẽ đẹp hơn nếu được tôi kề cạnh.
.    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .    .
“Ngốc nghếch ơi!” là một bài thơ tình yêu. Nhân vật Tôi trải lòng mình. Tôi biết nàng

 “chẳng bao giờ yêu tôi”. Nhưng Tôi lại yêu nàng tha thiết. Tôi không dám nhìn thẳng vào mắt nàng, không dám ngỏ lời. Nàng ngồi khóc/ Một mình bên hàng liễu rũ buồn, tôi muốn Hôn lên má, khe khẽ gạt nước mắt cho nàng. Trông nàng cười đùa với người ta, tôi thấy lòng quặn thắt. Hôm nàng bệnh, tay gầy hanh hao, tôi thấy lòng canh cánh. Nàng ho mà lồng ngực tôi cay xé. Nàng chẳng bao giờ để ý mà tôi cứ yêu nàng tha thiết, Ngốc nghếch ơi!

Bài thơ là dòng chảy tâm trạng qua những hồi ức tình yêu. Nhân vật Tôi phơi bày những cảm xúc đã trải qua (lòng không dám, lòng quặn thắt, lòng canh cánh, ngực cay xé) và nhận ra mình ngốc nghếch như trẻ con.

            Miêu tả dòng chảy tâm trạng của Cái Tôi là đặc trưng của thơ trữ tình Lãng mạn. Gọi là Lãng mạn vì nội dung thơ không đặt trên bối cảnh xã hội, Tôi không có quan hệ xã hội với mọi người, Tôi không đặt những vấn đề nhân sinh. Chỉ có Tôi đối thoại với Tôi và sống trong tâm trạng của chính mình.

Thơ tình yêu của Lê Phan Hiếu Anh diễn tả nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau của Cái Tôi. Đó là một cuộc tình đơn phương. Có khi là những kỷ niệm ấm áp (Sapa của chúng ta), nhưng đa phần là nhớ (Mưa viễn xứ), là tình buồn như “Tiễn bước người sang ngang” (Giao thừa); có khi hờn trách (Dốc xưa), và tự trách mình (Ngốc nghếch ơi), có khi cay đắng (Đơn phương), tận đáy tâm hồn là nỗi ngậm ngùi đau đớn (Mục ruỗng)…

Tôi thương em chân chất
Ngỡ ngọt như đường mật
đắng đến tận cùng.
            (Đơn phương)

Bốn mươi ngày anh mục nát chơ vơ
Như xác nhớ rỉa đời trong mộ huyệt
Ngày vừa tắt, hay tình anh vừa chết
Trong tim em còn đọng mảnh khăn tang?

                        (Bốn mươi ngày)

Kết thúc một cuộc tình đơn phương
Những câu thơ cũng trống rỗng linh hồn
Ta chạm vào xác thịt
Rờn rợn vết mực thời gian mục ruỗng

.    .     .    .   .   .    .    .    .    .    .    .    .    .

Ta nhìn đời bằng cái nhìn sâu hoắm
Thấy nụ cười lẩn khuất lặng thầm đau
Thấy lời nói giảo hoạt từ chân chất
Thấy bắt tay như bấu rách mặt người
Thấy cái ôm dìu nhau vào xa lạ
Nụ hôn hờ hững buốt ngày ấm áp.
.    .     .    .   .   .    .    .    .    .    .    .    .    .

Đầu ta chạm nắp quan tài

                   (Mục ruỗng)

Kết thúc một cuộc tình đơn phương mà người thơ thấy đầu mình chạm nóc quan

 tài (nghĩa là người thơ đã chết, quan tài đóng nắp), thì người đọc có thể hiểu Tôi đau khổ và tuyệt vọng thề nào. Trong mắt nhìn của Tôi, tất cả những cử chỉ tình thân (nụ cười, lới nói, cái bắt tay, cái ôm, nụ hôn) đều trở nên xa lạ hờ hững đau đớn.

            Đó là thơ tình của Lê Phan Hiếu Anh. Và nếu chỉ có vậy, Lê Phan Hiếu Anh không thể tự khẳng định tài năng mình. Bởi vì, thơ tình ấy rất cũ. Bạn đọc Việt Nam đã đọc thơ tình Lãng mạn (1930-1945) của Xuân Diệu, Nguyễn Bính…; đã đọc thơ tình kháng chiến của Quang Dũng (Đôi mắt người Sơn Tây…), Vũ Cao (Núi đôi), Giang Nam (Quê hương), Xuân Quỳnh (Sóng…). Ở miền Nam trước 1975, thơ tình Nguyên Sa, Phạm Thiên Thư, Du Tử Lê, Nguyễn Tất Nhiên đã làm say mê nhiều thế hệ. Tình ca Phạm Duy, Trịnh Công Sơn (Ca từ của Trịnh Công Sơn là thơ)…đến nay vẫn có sức thu hút người trẻ (Các quán café nhạc Trịnh ở Hà Nội, Đà Lạt vẫn rất đông khách nghe nhạc lịch lãm). Đó là những đỉnh thi sơn bất hủ về thơ tình yêu, người làm thơ đi sau phải khác họ, phải mới hơn họ và vượt qua họ về tư tưởng và nghệ thuật thì may ra…

2.Thơ Lê Phan Hiếu Anh là tiếng nói của Cái Tôi hôm nay. Đó là Cái Tôi cô đơn (Từ một quán café, Độc ẩm), Cái Tôi buồn triền miên, ngán ngẩm cuộc đời (Ngổn ngang, Nhật ký sống chậm), Cái Tôi trăn trở (Con rối) đau vật vã với những vấp ngã, Cái Tôi tự quan sát mình và sống vô cảm (Tạ lỗi với những nàng thơ, Xe buýt sớm chủ nhật, Nghe nói chiều nay mưa; Tang lễ).

Chiều rơi
lặng lẽ niềm riêng
Ngàn thông rũ lá vào đêm thở dài…

                        (Dốc xưa)

Chân đi chưa hết một ngày
Vấp giọt đắng đời ngã trầy thanh xuân

                        (Đi xa)

Về đồng cỏ tâm hồn tôi thao thức,
Những men đau vật vã nhàu mơ thực
Tôi ngà ngà ngã hẫng vào ngực xưa

                        (Hương tàn)

Chiều thu Sài Gòn trơ trọi
Khô róc tay kẻ ăn mày
Chén đất sao thật thà quá:
Lạch cạch toàn điều chua cay!

            (Ngổn ngang)

Xin đọc

Xe buýt sớm chủ nhật

Sớm Chủ Nhật lặng thầm trên chuyến buýt
Không bon chen, hối hả như thường ngày
Những trẻ trai ngả lưng còng ghế thẳng
Lật mặt báo
Miệng nhấp dòng chua ngoa

Sớm Chủ Nhật
Ai thổi nhoè khói thuốc
Khoả nhập nhùng hun hút bảng nội quy
Chiếc điện thoại lầm lì trong tay bấm
Vỡ hồi chuông đợi ngón mòn hồi âm

Sớm Chủ Nhật
Đánh rơi dài tiếng thở
Trả một tuần dồn ứ chuyện phù du
Người lên xuống nằng nặng rơi nhịp bước
Cửa tự động niêm phong qua bến chờ?

Sớm Chủ Nhật
Người quay quắt theo guồng bánh
Từng cây số đếm màu mắt xanh, mờ
Cú phanh gấp làm giật mình trí thức
Những kẻ câm ngơ ngác độc-thoại-nhau…

Bài thơ ghi nhận khung cảnh trên một chuyến xe buýt sớm chủ nhật: Những trẻ trai ngả lưng còng ghế thẳng. Lật mặt báo. Ai thổi nhoè khói thuốc. Người bấm điện thoại mòn ngón tay. Có tiếng thở dài. Người lên xuống nhịp bước nặng nề. Cửa tự động niêm phong. Cú phanh gấp làm giật mình. Những kẻ câm ngơ ngác độc-thoại-nhau…

Đó là một bức tranh xã hội thu nhỏ. Và chỉ có vậy, không có bất cứ một hiện tượng nào đáng quan tâm, trong khi hiện thực Việt Nam hôm nay có bao điều thơ cần lên tiếng…

Hiện thực trên xe buýt bày ra có vẻ khách quan, nhưng thực ra chỉ là ảo ảnh qua nhận thức chủ quan của Cái Tôi. Tâm trạng Tôi che khuất bản chất của hiện thực. Tôi thấy những trai trẻ lưng còng ngả mình trên ghế đọc báo sau một tuần dồn ứ công việc (thực ra lưng họ thẳng không phải lưng còng như Tôi thấy). Người bấm điện thoại thì “lầm lì”. Nhìn thấy một người “lầm lì” chỉ là cảm nhận chủ quan. Ai đó thổi khói thuốc làm nhòe cả bảng nội quy trên xe. Kẻ vô ý thức ấy lại không được ai nhắc nhở? Nhìn những người lên xuống xe, Tôi cảm nhận bước chân họ nặng nề rơi, cánh cửa xe tự động đóng lại (máy móc). Động từ “rơi” được lặp lại, nhất mạnh tình trạng mất kiểm soát, con người không còn chủ động. Xe cứ chạy qua từng cây số. Những người còn lại trên xe, trong mắt nhìn của Tôi, họ là những kẻ câm. Thực ra là họ im lặng, họ tự trọng và tôn trọng người khác xung quanh, không phải họ câm.

Nhân vật Tôi nhìn thấy, một thế giới vô cảm, ở đó không có quan hệ tình thân nào giữa người với người. Tất cả là những kẻ câm, mất ý thức về thực tại, vận hành như robot (chỉ khi xe phanh gấp mới họ mới giật mình ngơ ngác).

Quả là nhân vật Tôi đã nhìn hiện thực ở một góc nhìn rất hẹp, cái nhìn của Cái Tôi tự kỷ. Nếu cái nhìn ấy trở thành ý thức sáng tạo của tác giả, thì làm sao văn học có thể đạt đựơc “giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng con người” như nghị quyết 23/BCT yêu cầu.

 May mà Cái Tôi trong thơ Lê Phan Hiếu Anh còn tiềm ẩn một chút trăn trở xã hội (Tổ quốc từ giấc mơ đứa trẻ, Vấn đáp cho thời của tôi), còn lắng đọng một chút tình quê (Về quê, Sapa của chúng ta). Những bài thơ ở mảng thơ này có ánh lên những cảm nghĩ riêng, khá mới mẻ. Đó là niềm hy vọng của thơ.

Hãy nhìn tổ quốc bằng giấc mơ của đứa trẻ, sẽ thấy đẹp hơn.

…Những ánh mắt đồng bào nhìn nhau
Ngân ngấn lệ đoàn viên ngày Giải Phóng Miền Nam ruột thịt
Người kéo cờ hoa, nhẹ buông thép súng
Vĩ tuyến mười bảy đón mừng biển chân qua.

Tôi bừng dậy, chạm khoảng chiều trắng buốt ngàn anh linh run rủi
Ở ngoài kia, từng nhịp cầu hối hả dệt thêm xanh trang ngày
Hôm nay về, không là “anh”, chẳng là “tôi”,
Mà chỉ còn “chúng ta” cùng Dân tộc – Tổ quốc.

Và đứa trẻ vô ý nép mình trong góc tối
Xin đừng mải ghim trong lòng hờn dỗi, chua ngoa
Vì không là “anh”, chẳng là “tôi”,
Mà chỉ có chúng ta – lòng yêu nước ngàn năm tự giải phóng cho mình
!

                         (Tổ quốc từ giấc mơ đứa trẻ)

– Ba ơi, cờ đỏ sắc son
Dang tay ôm những người con Lạc Hồng
Bắc – Nam sum họp một lòng
Sau chia cách, vẫn là đồng bào ta.

            (Đối ẩm với thiên thu)
Tôi tạm xa những bán mua
Về quê tắm lại cơn mưa thiếu thời
Đẫm trong câu hát ru hời
Vị xoài mẹ sắc ngọt môi đến giờ.

Tôi về thăm lại giấc mơ
Bâng khuâng viết vội câu thơ nghĩa tình
Gói lại sau những đăng trình
Nụ cười nhẹ chớm giữa bình minh lên.

                              (Về quê)

Tôi nghĩ, nếu Lê Phan Hiếu Anh thóat ra khỏi Cái Tôi tự kỷ, đặt thơ của mình vào

dòng chảy mãnh liệt của lịch sử của dân tộc, chia sẻ những nỗi niềm của mọi phận người trong thời toàn cầu hóa và khắc họa cho được vóc dáng con người Việt Nam đương đại (nhưng thơ kháng chiến đã tạc được tượng đài Dáng đứng Việt Nam), thì thơ Lê Phan Hiếu Anh sẽ vượt lên trước so với những người làm thơ thuộc thế hệ của anh.

8.NGUYỄN HUYỀN QUY

            Nguyễn Huyền Quy (có khi bút danh chỉ là Huyền Quy) sinh năm 1986, hiện là ủy viên Ban Chấp hành Hội VHNT Đồng Nai.

            Cách đây đã lâu, khi đọc hai bài thơ Hồn quêEm xưa, tôi rất thích giọng thơ và kiểu tư duy nghệ thuật của Huyền Quy. Tôi nghĩ, cây bút trẻ này giàu nội lực và sẽ đi xa. Nhưng khi viết chuyên luận này, tôi tìm mãi chỉ thấy chùm thơ (7 bài) của Huyền Quy đăng trên vanvn.net (Chùm thơ này cũng được giới thiệu trên trang web của Hội VHNT Đồng Nai): Hồn quê, em xưa, Sang mùa, Bây giờ Daklua, Chàng kỵ sĩ lên 3, Quà sinh nhật con, Ru con, Tóc ngắn, Như em đợi anh.Con thuyền của mẹ, và truyện ngắn Cô Huệ. Tôi lục tìm tạp chí Văn nghệ Đồng Nai những năm gần đây (2019, 2020, 2021, 2022), Huyền Quy cũng chỉ có bấy nhiêu bài, kể cả trong tuyển tập Chạy về phía mặt trời (Tuyển tập sáng tác VHNT trẻ Đồng Nai 2021) cũng chỉ có hai bài đăng lại. Tôi ngạc nhiên về sự ít ỏi tác phẩm của Huyền Quy. Cây bút này bận chuyện gia đình, chuyện chồng con mà ít viết chăng? Hay việc sáng tác văn chương chỉ là một chút vui của người trẻ?

Huyền Quy nói với con:

Chẳng phải nhà thơ

càng không phải là cây viết có nghề cứ đặt bút xuống là để lại cho đời những bài ca bất hủ

Mẹ chỉ là một trong ngàn vạn những người phụ nữ

Như nữ sĩ Xuân Quỳnh từ xưa từng tự hào nói với một nửa thế giới còn lại đang vững vàng, mạnh mẽ ngoài kia

“Một người đàn bà bình thường không tên tuổi

Quen với việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày

Mẹ sinh chị, rồi sinh con từ khi dồi dào sức trẻ

Bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu tin yêu từ mẹ

Truyền cả cho các con…”

            (Quà sinh nhật con)

Như vậy thì đã rõ, Huyền Quy dành hết yêu thương, niềm tin và hy vọng cho con. Văn

chương không phải là mối quan tâm của Huyền Quy (?). Có lẽ nhà văn Hoàng Ngọc Điệp nói đúng về thực trạng của các tác giả trẻ Đồng Nai: “Văn học ở đâu muốn xung phong, phát triển, kế tục thì đều dựa vào người viết trẻ. Thời gian qua, Đồng Nai đã và đang bổ sung lực lượng sáng tác này. Tuy nhiên, với nhiều lý do vừa chủ quan vừa khách quan, người trẻ ít quan tâm đến đời sống văn học”. Đó là điều đáng tiếc. Văn chương đòi hỏi tâm huyết, văn chương là chuyện gan ruột. Nếu người viết không dấn thân cho văn chương thì không thể gặt hái được quả ngọt.

            Dù sao Huyền Quy cũng đã hiện diện với tư cách là một tác giả trẻ Đồng Nai, vậy thơ Huyền Quy khẳng định điều gì với tư cách này?

            1.Thơ Huyền Quy

            Mười (10) bài thơ của Huyền Quy tập trung vào hai đề tài: Tình yêu thương chồng con và tình quê.

Những bài Chàng kỵ sĩ lên 3, Quà sinh nhật con, Ru con, Con thuyền của mẹ, Tóc ngắn, Như em đợi anh là tiếng nói rất riêng tư của Huyền Quy với con và với chồng. Những bài thơ này có giọng đằm thắm, chân tình, giọng nói nhẹ nhàng chia sẻ, có suy nghĩ chín chắn sâu sắc. Tiếng thơ thể hiện một tình yêu nồng nàn, một tình yêu chiếm lĩnh tất cả tâm hồn và sự sống của người thơ, và tâm hồn ấy tràn đầy hạnh phúc.

Dù vậy, đó là những chuyện riêng tư của cá nhân, những chuyện ấy chỉ dành cho cá nhân người trong cuộc. Bạn đọc thơ nếu có đọc, cũng chỉ là để hiểu một hồn thơ, để nhận diện một giọng điệu, tìm kiếm điều mới mẻ về nghệ thuật của một tài năng. Bởi những chuyện Huyền Quy nói với con, với chồng, bất cứ người phụ nữ nào đã trải qua, cũng nói với con như thế, cũng chia sẻ với chồng như thế; thành ra, nội dung thơ của Huyền Quy không có gì mới (nếu không nói là rất cũ).

Sáng tạo nghệ thuật là làm ra cái thẩm mỹ mới. Không làm ra cái mới thì đó không phải là sáng tạo. Những câu thơ nói về tình mẫu tử như thế này đã thành truyện thống trong suy nghĩ của mọi thời.

Tình mẫu tử xưa và nay

Mỗi thời đại một cách bày tỏ khác

Nhưng vẫn thiêng liêng, dào dạt

Tự bao đời!

            (Ru con)

Dù đề tài về chồng con là những thổ lộ “tâm huyết”, nhưng thơ Huyền Quy viết cho

 con cũng có bài rất gượng ép, không thơ.

Xin đọc:

Con thuyền của mẹ

                         (Cho con Duệ Trí)

Chiếc xe mẹ tựa con thuyền

Con như ngọn gió tựa miền tương lai

Đi từ lớp một, lớp hai

Thuyền xe mẹ chở ngày ngày hằng mong

Một vùng ấm áp sau lưng

Cho con ánh sáng dặm đường lớn khôn

Mai ngày ra với nước non

Nhẹ tênh thuyền mẹ khuất chìm trời mây

            Về gieo vần, bài thơ này có 4 cặp lục bát nhưng có đến 3 cặp sai về vần luật. Đây là những vần không chuẩn: câu 3&4: hai/ ngày. Câu 4&5: mong/ lưng. Câu 5&6: lưng/ đường. Câu 7&8: non/ chìm. Nhưng chỗ sai vần luật như thế làm hỏng thanh nhạc, làm mất đi sự mượt mà duyên dáng của Lục bát. Điều này là cố ý của tác giả vì không tìm được vần hay vì một lý do nào khác? Tôi không nghĩ tác giả làm thơ Lục bát theo quán tính mà bỏ qua thi luật?

Về dùng từ, từ “xe mẹ; thuyền xe mẹ”nghĩa không rõ.” “xe mẹ”có nghĩa là chiếc xe của mẹ, hay mẹ là chiếc xe chở con? Câu thơ: “Chiếc xe mẹ tựa con thuyền” đọc theo nhịp 2/2/2 của Lục bát là: Chiếc xe /mẹ tựa/ con thuyền” sẽ không có nghĩa. Không thể đọc “Chiếc xe mẹ”, bởi sai nhậc luật, và nghĩa của cụm từ này sẽ gợi ra xe mẹ, xe con (tức là xe lớn xe nhỏ, như thuyền mẹthuyền con).

Về tu từ, so sánh: “Con như ngọn gió” là một so sánh không đồng bộ với so sánh ở câu trước: xe của mẹ tựa con thuyền. “xe mẹ”chở conkhông thể chuyển thành “chở gió”?

Từ “tựa” ở câu thứ hai là lặp từ, nhưng lại không ổn về nghĩa:

Con như ngọn gió tựa miền tương lai

 Ở câu thứ nhất, “tựa” có nghĩa là giống như. Ở câu thứ hai, nếu “tựa” cũng có nghĩa là giống như, thì sẽ lặp nghĩa của từ “như” đứng trước”: “Con như ngọn gió tựa miền tương lai”. Vậy chữ “tựa” thứ hai này nghĩa là gì? Chắc chắn không phải là “giống như” mà là “tựa vào, dựa vào, nương tựa”? Nếu vậy, câu thơ có nghĩa “con…nhương tựa miền tương lai” sẽ trở nên vô nghĩa.

            Cách diễn đạt của câu thơ sau đây không thuyết phục:

Một vùng ấm áp sau lưng

Cho con ánh sáng dặm đường lớn khôn

            “Vùng ấm áp sau lưng” là vùng lưng mẹ hay đó là con (con tựa vào làm ấm lưng mẹ)? Vậy cái gì “cho con ánh sáng”? Con ngồi sau lưng mẹ, tấm lưng mẹ che khuất tầm mắt con, lưng mẹ không thể cho con ánh sáng. Nếu “một vùng ấm áp sau lưng” là con, thì con không thể tự cho mình ánh sáng! Câu thơ có vẻ phô trương vì dùng những từ “đao to búa lớn”: “một vùng, dặm trường, ánh sáng”. Nhưng ý nghĩa câu thơ lại trở nên sáo rỗng bởi chính tác giả đã không xác định nghĩa thật của câu thơ.

Với tư cách người đọc, tôi hiều câu thơ như thế này: Con ngồi sau lưng mẹ, được mẹ che chở nên con ấm áp, tình thương yêu của mẹ rộng lớn bao bọc lấy con như một vùng miền bao la. Mẹ chở con đi, mẹ chính là ánh sáng soi dặm đường tương lai con lớn khôn. Bởi mẹ đã trải nghiệm đường đời, đã hiểu những gập ghềnh khúc khuỷu đèo dốc, con ngồi sau mẹ sẽ an lành.

Về tứ thơi, câu thơ kết là một hình ảnh ẩn dụ:

Mai ngày ra với nước non

Nhẹ tênh thuyền mẹ khuất chìm trời mây

Tôi hiểu nghĩa câu thơ thế này: mai ngày, khi con đã trưởng thành ra ngoài đời thì “thuyền mẹ nhẹ tênh”(mẹ nhẹ trách nhiệm nuôi dạy con) và bay vút cao (mẹ hạnh phúc vô vàn như bay bổng trên chín tầng mây. Cụm từ “khuất chìm trong mây trời” cũng có thể hiểu theo nghĩa khác. “Khuất chìm” là mất, là chết, là qua đời, là về trời. Nếu vậy, câu thơ sẽ có nghĩa: mai ngày khi con ra đời hòa mình với nước non, thì mẹ cũng nhắm mắt nhẹ nhàng (vì hoàn thành trách nhiệm nuôi dạy con).

Nếu đọc lướt câu thơ, người đọc có thể chấp nhận ý nghĩa như trên. Song ở câu thơ kết, tác giả chỉ dùng từ “thuyền mẹ” mà không dùng từ “thuyền xe mẹ”. Xin lưu ý, trong cả bài thơ, “thuyền” chỉ là ý so sánh, là ảo, không phải là một con thuyền vật chất.  “Xe” của mẹ chở con hàng ngày mới là thực, mới làm nên nội dung bài thơ. “Thuyền” có thể chìm, còn xe thì không thể “chìm”. Cho nên tứ thơ: “thuyền mẹ khuất chìm trời mây” không logic về nghĩa. Tôi ngờ rằng Nguyễn Huyền Quy muốn vay mượn tứ thơ của Lý Bạch (701-762) khi nhà thơ này tiễn Mạnh Hạo Nhiên. Lý Bạch đứng đó nhìn con thuyền của Mạnh Hạo Nhiên mãi tận trời xanh: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”(Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng-Lý Bạch).

 Như vậy, cả bài thơ là sự gượng ép về ý, tứ, vần luật, dùng từ và tu từ. Lời thơ không diễn được ý, hình thức nghệ thuật không tải được nội dung. Có lẽ tác giả chưa dụng công cho thơ Lục bát chăng? Hay chỉ làm thơ phong trào theo quán tính?

***

Những bài thơ quê hương của Huyền Quy có khí sắc hơn và có khả năng neo đậu

 trong lòng người đọc hơn.

            Xin đọc

            Hồn quê

                        Trông lên bóng xế chiều hôm

                        Vẳng nghe như tiếng ao chuôm vọng về

                        Giật mình chợt tỉnh giấc mê

                        Thênh thang đi giữa đường quê ngày nào

            `           Thuở còn đi bắt cào cào

                        Tiếng cười giòn giã lẫn vào rạ rơm

                        Đường cày đất mới còn thơm

                        Cay nồng sống mũi đậm hương quê mùa

                        Ngày xưa nhớ mấy cho vừa

                        Vui cùng thóc lúa ngọn cờ bông lau

                        Bây giờ chú cuội về đâu

                        Trông lên chỉ thấy đỉnh đầu nhà cao

            Một bài lục bát dễ thương. Nội dung (thông tin) không có gì đặc biệt. Tác giả chỉ ghi lại những kỷ niệm tuổi thơ và một chút nuối tiếc về ngày xưa. Đó là những ngày còn thơ đi bắt cào cào ngoài đồng, cảm nhận được mùi đất đồng mới cày và niềm vui ngày mùa thóc lúa. Bây giờ không còn thấy chú Cuội ngồi gốc cây đa những đêm trăng sáng, bởi nhà lầu cao đã che khuất.

            Với nội dung đơn sơ như vậy thì bài thơ hấp dẫn người đọc ở những yếu tố kiến tạo nào của tác phẩm?

            Thơ hay là ở hồn thơ. Thơ mà vô hồn thì không thành thơ. Bài thơ hiện ra một hồn thơ trẻ trung, trong veo, đầy ắp niềm vui thênh thang, mở rộng cả không gian và thời gian.

Nhân vật trữ tình luôn “trông lên”: “Trông lên bóng xế chiều hôm”; “Trông lên chỉ thấy đỉnh đầu nhà cao”. Người trẻ thường “trông lên” với nhiều ước vọng và không ít mơ mộng, nhưng nhà thơ thì “trông lên” để khám phá Cái Đẹp. Khi nói về sự vận động của buổi chiều-hoàng hôn, người ta thường viết “hoàng hôn xuống” (chiều xuống). Bà huyện Thanh Quan: “Bước tới Đèo Ngang bóng xế”(Qua Đèo Ngang);  Huy Cận: “Nắng xuống trời lên sâu chót vót.” (Tràng giang). Chuyển động ngược chiều “lên/ xuống” trong câu thơ: “Trông lên/ bóng xế chiều hôm”gây ấn tượng ngay lập tức khi người đọc tiếp cận bài thơ. Và câu thơ cuối, bây giờ không có trăng, không có chú Cuội, nhưng bầu trời (thơ) vẫn rất sáng bởi từ “trông lên”hướng tâm hồn người đọc lên bầu trời đầy trăng sao.

            Trong cái không gian rộng mở ấy, hồn thơ đầy ắp niềm vui: Niềm vui của những thanh âm quen thuộc (tiếng ao chuôm vọng về). Thực ra, đó là tiếng ếch nhái từ bờ ao, vũng nước kêu ran khi trời nhá nhem tối, thứ âm thanh “đặc sản” của đồng quê, một loại nhạc đồng quê có sức ám ảnh. Niềm vui của những “tiếng cười giòn giã” trên đồng. Đồng quê của Huyền Quy là một đồng quê vui, không phải là một đồng quê lam lũ như thể “Cày đồng đang buổi ban trưa/ Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”. Cái đồng quê ấy gần lắm, nồng ấm lắm, vì mùi hương của đường cày đất mới làm “cay nồng sống mũi”. Cảm nhận tình quê bằng mùi đất đường cày thơm là một cảm nhận hết sức mới mẻ.

Và đặc biệt là niềm vui thóc lúa: “Ngày xưa nhớ mấy cho vừa/ Vui cùng thóc lúa ngọn cờ bông lau”. Chỉ những ai ở thôn quê, khi mùa về, gặt hái và gánh lúa về, đập lúa, phơi thóc, rê thóc cho sạch, phơi thóc vàng trong nắng tươi, chân đi đảo lúa cho mau khô, mới có thể cảm hết niềm hạnh phúc no ấm trong câu thơ: “Vui cùng thóc lúa ngọn cờ bông lau”.

Người lớn có niều vui no ấm, trẻ con có niềm vui trẻ con. “ngọn cờ bông lau” gợi ra trò chơi trẻ con tụ tập đánh trận cờ lau. Truyền thuyết kể rằng, lúc còn nhỏ, Đinh Bộ Lĩnh (vua nhà Đinh) cùng với bọn trẻ chăn trâu thường dùng cờ lau tập trận. Ngày nay ở cố đô Hoa Lư, Ninh Bình, có lễ hội Trường Yên. Trong lễ hội có trò chơi tập trận cờ lau để tưởng nhớ vua Đinh ngày xưa. Như vậy câu thơ: “Vui cùng thóc lúa ngọn cờ bông lau”là niềm vui của cả người lớn và trẻ con, niềm vui của hiện tại (được mùa) và niềm vui của một lịch sử hào hùng.

Nhưng ở quê, còn bao nhiêu niềm vui trong những đêm trăng sáng: Trẻ con có những câu chuyện về chú Cuội ngồi gốc cây đa, những trò chơi đếm sao: “Một ông sao sáng/ hai ông sáng sao”, trò chơi “năm/ mười”…được nghe các cụ già kể chuyện. Trong đêm trăng sáng, người dân quê vẫn có thể làm việc và trẻ con vui chơi. Bây giờ ở thành phố, nhà lầu cao che khuất trăng, không còn thấy được chú Cuội huyền thoại ngày xưa nữa. Bày tỏ niềm nhớ tiếc chú Cuội cũng là gợi ra trong lòng người đọc những nét đẹp hồn nhiên miền quê, Cái Đẹp của văn hóa của dân tộc.

Bài thơ thể hiện sự gắn bó sâu nặng của Huyền Quy với quê hương mình. Hồn thơ vui, trong trẻo, trẻ trung, “nhìn lên” của nhân vật trữ tình cộng hưởng làm thức dậy bao cảm xúc về quê hương trong lòng người đọc. Xin lưu ý, tuy là thơ trữ tình nhưng tuyệt nhiên không hề xuất hiện nhân vật xưng Tôi trong bài thơ. Nhân vật ấy đã hòa vào thời gian, không gian, sinh hoạt, lịch sử và văn hóa của quê hương mình. Thơ trở thành tiếng nói chung của con người quê hương, không còn là tiếng nói của Cái Tôi hướng nội như thơ của nhiều cây bút trẻ khác.

            Đọc bài thơ Hồn Quê để thấy Huyền Quy là một người trẻ làm thơ có những tố chất rất đẹp có thể viết những bài thơ hay. Rất tiếc Huyền Quy đã không phát huy và làm giàu có thêm vốn liếng tài năng của mình. Thay vì hướng ra cộng đồng, hướng ra không gian rộng lớn của dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa, Huyền Quy lại trở về gia đình nhỏ của mình, trò chuyện với chồng, với con hết sức riêng tư, vì thế thơ Huyền Quy đã bị cắt lìa với nguồn nuôi dưỡng vĩnh cửu là quê hương, dân tộc, lịch sử, văn hóa…

            Văn chương là sự lên tiếng nói bằng những mã nghệ thuật. Trước hết, đó là tiếng nói của Cái Tôi của người trong cuộc. Nếu Cái Tôi này mang phẩm chất công dân, đặt những vấn đề của cộng đồng, thì Cái Tôi ấy trở thành Cái Ta chung. Sự thật là, văn chương chỉ tồn tại được khi nhà văn lên tiếng nói thay cho mọi người trên nền tư tưởng yêu nước, chủ nghĩa nhân văn và những truyền thống văn hóa dân tộc. Bình Ngô Đại Cáo (Nguyễn Trãi) là bản hùng ca của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống quân Minh xâm lược. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu) là khúc ca bi tráng ca về tấm lòng yêu nước chống Pháp của các nghĩa quân Cần Giuộc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật) là lời hoan ca của người lính chống Mỹ: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:/ Chỉ cần trong xe có một trái tim.”…Văn chương là như vậy. Nhà văn hướng về thực tại rộng lớn ngoài kia và lên tiếng nói thay cho mọi người về những vấn đề tồn sinh của dân tộc và nhân loại, những vấn đề mà “dân đen, con đỏ” không thể lên tiếng. Nếu văn chương chỉ là tiếng nói của Tôi, về gia đình nhỏ bé của Tôi, như Chế Lan Viên đã tự bạch: ”Lũ chúng tôi ngủ trong giường chiếu hẹp/ Giấc mơ con đè nát cuộc đời con/ Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp/…một mái nhà yên rủ bóng xuống…”, thì văn chương ấy có ích gì cho ai?

***

2.Kịch ngắn: Cũng là hạnh phúc (VNĐN năm thứ 43, tháng 5/2022) 

Nghệ sĩ nhiếp ảnh Tuấn Hùng báo cho người yêu là Thư việc anh tham gia chống dịch. Thư quyết liệt ngăn cản nhưng không được.

Bố Thư là ông Thái cũng ngăn cản Thư gắn bó với Hùng Ông nói: “thấy khó khăn nguy hiểm là xông vào như con thiêu thân không cần biết sống chết thế nào. Người ta lo chạy cho xa, tìm chỗ an toàn mà trú ẩn còn chưa ăn ai, lại đâm đầu vào chảo lửa. Con thấy nó có bình thường không đã nào”. Nhưng Thư lại bênh vực Hùng.

Ông Thái nằm viện mấy tuần. Lúc ra viện, còn đang ở cổng bệnh viện, ông Thái nói với Thư đã tìm cho cô một người chống tốt, người đã chăm sóc ông suốt thời gian nằm viện. Lúc ấy Hùng đến, Thư giới thiệu Hùng với bố. Ông Thái nhận ra Hùng chính là người đã chăm sóc ông và là người ông quyết định chọn cho Thư. Ông vui mừng và an tâm có được rể quý.

***

Đây là kịch phong trào, cổ vũ tinh thần chống dịch Coivid. Lồng ghép chuyện tình yêu vào việc chống dịch Covid để tạo một kịch bản có mâu thuẫn kịch, phát triển mâu thuẫn và gỡ nút kịch là một thành công của Huyền Quy.

Tuy vậy, việc gỡ nút kịch (tức là hóa giải mâu thuẫn) chưa thật logic. Tình huống ông Thái vồ vập chuyện gả chồng cho Thư ngay khi còn đang ở cổng bệnh viện là tình huống không thuyết phục, khiến Thư phải gạt đi: “Thôi thôi bố ơi! Mình cứ về nhà đi đã! Kén chồng cho con mà bố chọn nhanh như mua bó rau ngoài chợ ấy!”. Việc ông Thái không nhận ra Hùng cũng là “giả”. Tuấn Hùng là người “có đến nhà một vài lần”. Nhưng suốt mấy tuần nằm viện, ông Thái được Hùng chăm sóc, vậy mà ông lại không nhận ra Hùng? Còn Thái, chắc chắn anh biết ông Thái, nhưng sao anh không liên lạc với Thư. Cũng vậy, khi cha nằm viện dài ngày sao Thư không báo cho Hùng biết? Chính tác giả đã bỏ qua những mối quan hệ hiện thực ấy khiến cho việc cởi nút kịch ở cảnh IV trở nên giả tạo. Bởi vì có sự bẽ bàng giữa các nhân vật. Bẽ bàng vì Thư không biết Hùng đã chăm sóc bố mình ở bệnh viện. Ông Thái bẽ bàng vì người yêu của con gái ông, người mà ông phản đối, lại là người chăm sóc ông mà ông không biết. Tình huống kết thúc vở kịch ngỡ là đẹp, nhưng lại biến ông Thái thành một ông già ngớ ngẩn của thế kỷ XXI.

Hành động kịch trong kịch bản Cũng là hạnh phúc còn hạn chế. Kịch bản chỉ có lời thoại, không có hành động. Nếu trên sân khấu, nhân vật chỉ nói, mà không có hành động, thì đó là một vở kịch chết. Tuấn Hùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhưng anh không có hành động chụp ảnh nào trong bệnh viện về đội ngũ y bác sĩ chống dịch. Trái lại, Hùng lại chăm sóc ông Thái suốt mấy tuần. Tác giả kịch bản cũng không dựng cảnh Hùng chăm sóc ông Thái, thành ra những gì mà ông Thái nói tốt về Hùng, khán giả không được nhìn thấy hành động cụ thể của Hùng trên sân khấu. Nội dung kịch trở nên “rỗng”.

Kịch bảnCũng là hạnh phúc” có ngôn ngữ nặng về tuyên truyền chống dịch, dễ tạo ra sự phản cảm. Người xem biết ngay đây là tiểu phầm phong trào, làm nhiệm vụ tuyên truyền, không phải là một cảnh đời thực được nghệ thuất hóa đáng biểu dương.

Xin lưu ý rằng, lời thoại trong kịch bản phải thực hiện nhiều chức năng: chức năng kể chuyện (kịch không có nhân vật trần thuật), chức năng tạo bối cảnh, thời gian, không gian (kịch không có tả cảnh thiên nhiên, tả bối cảnh xã hội); chức năng khắc họa tính cách nhân vật (kịch không có miêu tả ngoại hình, nội tâm nhân vật, tất cả thông qua lời thoại mà khán giả biết anh ta là người thế nào); chức năng tạo phong cách tác phẩm (Hài kịch hay bi kịch, chính kịch hay kịch lich sử…). Ngôn ngữ kịch trong Cũng là hạnh phúc chưa thực hiện được đầy đủ những chức năng này. Thành ra, người đọc kịch bản không thể hình dung ra hình dáng, trang phục, gia cảnh, nhân thân, môi trường xã hội của các nhân vật là thế nào.

Tôi nghĩ kịch bản này cần được chăm chút hơn về phần nghệ thuật, đặc biệt là cấu trúc kịch bản, tình huống, hành động kịch và lời thoại.

***

  3.Truyện ngắn Cô Huệ (tuyển tập Chạy về phía mặt trời. tr.150).

Ở xóm Đào, nhà tôi và nhà cô Huệ ở sát cạnh nhau. Vợ chồng cô Huệ, chú Long không có con. Hai nhà thường có những chuyện xích mích. Chú Long thường để rác chảy dồn xuống nhà tôi hoặc chú Long nhổ bật gốc dậu cúc tần bố tôi trồng làm ranh giữa hai nhà. Xóm Đào nhà nào cũng có vườn cây ăn quả, nhà cô Huệ hay bị bọn nhóc hái trộm. Nghi tôi là thủ phạm, chú Long nhiều lần rình cả đêm. Không bắt được gì, chú quay sang nhà tôi chửi đổng.

Rồi một hôm bếp nhà cô Huệ bị cháy, bố tôi chạy sang cứu giúp. Kể từ đó hai nhà trở nên thân thiết như anh em một nhà.

Tôi lớn lên trong tình yêu thương của hai gia đình. Thiếu điểm vào ĐHSP 1 Hà Nội, Tôi vào Nam học nguyện vọng 2. Cô Huệ tặng Tôi chiếc đồng hồ làm kỷ niệm. Suốt mấy năm đi học xe, mỗi lần Tôi về nhà, cô lại dấm dúi cho Tôi ít tiền. Tôi học năm cuối thì mẹ Tôi đột ngột qua đời vì cảm mạo. Ra trường, Tôi ở lại miền Nam xin việc. Mẹ Tôi mất ít lâu thì chú Long ung thư gan qua đời. Tôi về cùng cô Huệ lo đám tang cho chú. Sau đam tang, mọi người khuyên bố con Tôi đón cô Huệ về ở chung. Bố chỉ im lặng. Cô Huệ cũng nhất mực từ chối. Cô không sang ở cùng chúng Tôi nhưng ngày ngày vẫn sang cơm nước, dọn dẹp cho bố Tôi rồi lại về. Tôi cảm thấy yên tâm phó thác việc trông nom bố Tôi cho cô.

Ngày Tôi lấy chồng, không còn mẹ nhưng Tôi có bố và cô Huệ dắt tay lên bục hôn lễ. Vài năm sau vợ chồng Tôi mua được căn nhà cấp 4 nho nhỏ. Đôi ba năm Tôi lại về quê ăn tết thăm nội ngoại. Chúng Tôi hạnh phúc khi thấy nhà cửa bố Tôi ngăn nắp gọn gàng như khi mẹ còn sống. Bọn trẻ được “bà ngoại” Huệ yêu thương chiều chuộng. Trên bàn thờ tổ tiên, di ảnh mẹ Tôi nhìn chúng Tôi cười âu yếm mãn nguyện.

           ***

Truyện ngắn Cô Huệ, nói cho đúng, là một bài ký. Tác giả thuật lại theo thứ tự thời gian những sự việc, con người liên quan đến nhân vật Tôi, ngoài cha mẹ, còn có cô Huệ, người ở bênh cạnh nhà Tôi.

Gọi là Ký vì tác giả không đặt được vấn đề gì (chủ đề), không xây dựng được hình tượng nhân vật. Cô Huệ chỉ được Tôi nhìn qua dáng vẻ, hành động bên ngoài mà không được khám phá thế giới bên trong. Người đọc không biết cô suy nghĩ, nhận thức, có tình cảm gì biểu hiện qua những hành động, đặc biệt là việc tự nguyện chăm sóc cha Tôi. Nhân vật này cũng không có số phận. Giả như, nếu tác giả muốn nói “số phận” cô là vô sinh, không có con, sinh ra để phục vụ đàn ông (chồng và cha của nhân vật Tôi), thì tác giả cũng phải lý giải do đâu có “số phận” như vậy, và làm thế nào để vượt qua số phận ấy?

Nếu tác giả muốn ca ngợi Cô Huệ, thì “truyện” chỉ là sự biểu dương “người tốt việc tốt”: Cô Huệ cho Tôi đồng hồ khi Tôi vào Nam học Đại học, dấm dúi cho Tôi ít tiền mỗi lần Tôi về thăm nhà, và thay Tôi chăm sóc bố Tôi một cách tự nguyện suốt thời gian Tôi đi học và lấy chồng ở lại miền Nam. Đó là tình làng nghĩa xóm của người ở quê.

            Nhân vật Tôi là người kể chuyện, người chứng kiến sự việc và tham gia vào truyện như một nhân vật chính. Nhân vật này một người hoàn toàn xa lạ với văn hóa truyền thống ở miền quê.

Tôi chỉ nhận và thụ hưởng mọi thành quả của người khác mà không làm gì để thực hiện trách nhiệm đạo lý của mình. Thí dụ, Cô Huệ cho Tôi quà và cho tiền mỗi khi tôi về thăm nhà, nhưng Tôi lại không có quà miền Nam cho cô! (văn hóa Việt ngầm quy định người đi xa về phải có quà cho người thân để bộc lộ tình cảm với người ở nhà). Việc chăm sóc cha mẹ là bổn phận và trách nhiệm của con cái. Tôi được cha mẹ lo cho vào Nam ăn học, tốt nghiệp, rồi lập gia đình, có nhà, có con và ở lại trong Nam, còn việc chăm sóc người cha cô độc ở quê lại giao khoán cho cô Huệ, một người hàng xóm bên cạnh. Không rõ nhân vật Tôi (người con này) ý thức thế nào về đạo lý làm con mà bỏ mặc người cha như vậy? Từ trước đến sau, Tôi chỉ lo cho Tôi, cho hạnh phúc của cá nhân Tôi, ngoài ra, không bận tâm đến ai, kể cả cha mẹ. Đúng là một “điển hình” cho người trẻ thời toàn cầu hóa, sống thực dụng với Chủ nghĩa cá nhân vị kỷ.

Đây là tậm trạng Tôi khi về thăm nhà, lúc đã có chồng con: “Tôi lại ngập chìm trong cảm giác sung sướng, hạnh phúc của ngày thơ bé, khi thấy nhà cửa ngăn nắp gọn gàng như khi mẹ còn sống…Không khí đoàn tụ ấm cúng hạnh phúc vô cùng. Bàn thờ tổ tiên của nhà tôi luôn được chăm sóc kỹ, trong bức di ảnh, mẹ âu yếm nhìn chúng tôi nở nụ cười mãn nguyện”. Người đọc không tìm thấy một chút tình cảm biết ơn nào của Tôi đối với cô Huệ. Không có giờ phút nào Tôi ngồi bên cô Huệ để tâm tình, chia sẻ và cám ơn cô. Ai sắp xếp thu dọn nhà cửa của cha Tôi ngăn nắp? Ai chăm sóc kỹ bàn thờ tổ tiên của gia đình Tôi? Chẳng lẽ cô Huệ là Ôsin? Và sau này, có lẽ khi người cha chết, Tôi cũng sẽ lại giao khoán việc lo hậu sự của cha cho cô Huệ. Thử hỏi, đạo lý truyền thống của người Việt mà con cái phải thực hiện, Tôi để ở đâu?

Nói như thế để thấy rằng Huyền Quy còn cần nhiều thời gian để kiến tạo một truyện ngắn giàu phẩm chất nghệ thuật có giá trị “bảo vệ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc”như yêu cầu của Đảng (Nghị quyết 23 BCT).

Đọc thơ, truyện và kịch bản của Nguyễn Huyền Quy, người đọc có thể nhận ra tác giả này có nhiều tài năng, song ý thức sáng tạo chưa thật rõ nét: “văn nghệ sĩ bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân dân, bảo vệ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc…”; hướng đến mục tiêu: “xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, hay sáng tác văn học chỉ là để thể hiện những tình cảm cá nhân đối với gia đình của mình?

Để viết được một tác phẩm có cốt cách văn chương, Nguyễn Huyền Quy mới chỉ bước những bước khởi đầu của một hành trình còn rất dài ở phía trước.

4.Chân dung văn nghệ sĩ Đồng Nai

Tôi đã đọc được một ít bài bạn viết về chân dung văn nghệ sĩ Đồng Nai [[5]] của Huyền Quy. Thật thú vị! Bởi sự công phu trong cách viết, thú vị về văn phong giàu chất tùy bút, và thú vị hơn ở tầm tri thức về các bộ môn nghệ thuật (âm nhạc, văn chương, nhiếp ảnh, biên kịch…) mà tác giả sở hữu để viết bài. Không phải cây bút trẻ nào cũng có được những năng lực như thế trên trang văn.

            Bài viết tâm huyết về nhạc sĩ Cao Hồng Sơn khá chuyên sâu về Âm nhạc. Bài viết về Vũ Thiên Vũ là một tùy bút mượt mà cảm xúc. Bài viết về Hoàng Tiến Điểm có cái nhìn sâu sắc về giá trị tác phẩm của ông. Bài viết về nhạc sĩ Đoàn Quang Trung lại tìm đến cội nguốn âm nhạc của ông là hát Chầu Văn của ông nội và cây đàn Nhị của cha anh. Bài viết về nhà văn Dương Đức Khánh có tìm hiểu sâu sắc về cuộc đời trôi dạt của tác giả.

            Nội dung thông tin trong bài viết về các văn nghệ sĩ là khá phong phú, khả tín và giúp ích cho việc hiểu tác giả. Ngoài việc thông tin, Huyền Quy còn khẳng định các tài năng nghệ thuật của tỉnh nhà. Ngôn ngữ của Huyền Quy khá trau chuốt, mềm mại, chứa đựng tình cảm quý mến, trân trọng, hiểu biết và tôn vinh. Người đọc vừa thú vị với cái hay cái lạ và giá trị khả tín của bài viết, vừa yêu mến một tài năng trẻ. Kiểu bài chân dung văn nghệ sĩ của Huyền đã trở thành một “giá trị” riêng trong gia tài văn chương của Huyền Quy. Nếu được tập hợp để in thành sách, thì đó là một đóng góp đáng quý của Huyền Quy cho Văn nghệ Đồng Nai. Bởi ở Đồng Nai, viết chân dung văn nghệ sĩ chỉ có một mình nhà thơ Trần Ngọc Tuấn.

9. ĐÀO NGUYÊN THẢO 

Đào Nguyên Thảo sinh năm 1987, xuất hiện từ những năm 2003-2004 trong tập san Dưới mái trường, là hội viênHội VHNT Đồng Nai lúc 18 tuổi. Khi tôi đọc hai tác phẩm của Đào Nguyên Thảo: bài thơ Em trả cho đời sự dịu dàng thẳm sâu (VNĐN số 53 tháng 3 & 4/ 2010, tr.73) và truyện ngắn Hoàng hôn muộn (VNĐN số 58, tháng 1 & 2/ 2011, tr.67), tôi thầm nghĩ tác giả trẻ này có khả năng đi xa trên con đường văn chương.

Nhưng từ đó đến nay (20 năm từ khi xuất hiện), khi tôi viết chuyên luận này, tôi chỉ tìm được thêm vài bài thơ của Đào Nguyên Thảo trên Văn nghệ Đồng Nai. Cũng không có trang web nào đăng bài của tác giả này. Điều này làm tôi đắn đo khi chọn viết về một tác giả trẻ và suy nghĩ về hành trình văn chương của người viết trẻ. Tại sao trong 20 năm, Đào Nguyên Thảo lại viết ít vậy? Phải chăng văn chương không phải là con đường Thảo chọn lựa? Thành ra, suy nghĩ ban đầu của tôi về con đường văn chương của Đào Nguyên Thảo đã không diễn ra trong hiện thực.

Xin đọc.

Hoàng hôn muộn-truyện ngắn

(Nguồn: VNĐN số 58, tháng 1&2/ 2011, tr.67)

Sau kỳ thi cuối khóa, Nguyên được ba mẹ cho một chuyến đi xa. Ba muốn Nguyên đi Thái Lan và mẹ muốn Nguyên đi một vòng đất nước. Nhưng Nguyên quyết định đi Đà lạt. Vì Đà Lạt vô cùng lạ lẫm đối với cô. Suốt 4 năm học Đại học, cô chìm vào thế giới của riêng mình: âm nhạc cổ điển và tiểu thuyết và Nguyên chưa trải qua một mối tình sinh viên nào.

Linh đón Nguyên ở sân bay. Linh là bạn thân ngày xưa. Lên Đại học, Nguyên học ở Sài gòn còn Linh lên Đà Lạt. Linh nói, tối nay sẽ làm lễ “ra mắt” bạn trai của Linh với Nguyên. Nguyên nghĩ, Có lẽ là Huy, người học trên Linh 2 khóa mà Linh thường tâm sự.

Thời tiết Đà Lạt thật tuyệt. Nguyên đi dạo phố và dừng chân ở đồi thông. Một thanh niên đến nhờ Nguyên ngồi làm mẫu cho anh vẽ tranh. Nguyên đồng ý cho anh ta 50 phút. Khi tiếng chuông đồng hồ trên tháp cổ điểm 7 tiếng, Nguyên hốt hoảng chạy về khách sạn vì trễ hẹn với Linh. Cô đã ngồi làm mẫu gần 2 giờ.

Buổi lễ “ra mắt” tối hôm ấy, anh chàng Huy của Linh lại đúng là anh thanh niên họa sĩ Nguyên gặp buổi chiều. Nhưng cả hai làm như không quen biết nhau. Ba người nói chuyện vui vẻ. Linh nói với Nguyên, cô có việc phải đi Nha Trang vài hôm để chuẩn bị cho một dự án mới. Cô nhờ Huy thay cô đưa Nguyên đi chơi vài nơi ở Đalạt. Huy nhận lời. “Chỉ có gió biết rằng, đêm ấy, cả Nguyên và Huy đều không sao ngủ được…đồi thông xanh vẫn cứ rì rào”.

Biết Nguyên sắp về Sài gòn, mấy lần Huy gọi điện cho Nguyên nhưng không được. Chiều nay tan sở, anh lại ra đồi thông. Nguyên đang ở đó. Hai người ôm hôn nhau thắm thiết. Họ biết, họ đã yêu nhau từ phút đầu tiên gặp mặt. Nhưng họ cũng biết họ gặp nhau đã quá muộn. Nguyên ôm mặt khóc. Trở về Sài gòn, đêm đêm Nguyên khóc bên cửa sổ. Tâm hồn cô đã ở lại nơi đồi thông xanh ấy.

Ba năm sau Nguyên trở lại Đà Lạt, nhưng không tìm Linh. Sau một năm ngày Nguyên trở về Sài gòn, Linh và Huy chia tay. Nghĩ mình là kẻ phá vỡ hạnh phúc của bạn, Nguyên giận Huy. Cô cố quên Huy. Linh theo chồng đi định cư ở nước ngoài.

Lần này lên Đà Lạt, Nguyên hướng dẫn một đoàn khách nước ngoài tham quan. Sau khi đi một vài nơi, một vị khách đề nghị đi xem phòng triển lãm tranh. Họ vào phòng tranh “Ráng chiều”. Ở đây Nguyên gặp bức tranh quen kỳ lạ. Bức tranh vẽ cô gái ngồi giữa đồi thông khi chiều buông. Nguyên chợt giật mình nhận ra điệu buồn man mác của Symphony No 7 cứ vang lên da diết. Một bàn tay ấm áp đặt lên vai Nguyên. Là Huy. Huy nói: Anh vẫn tin có một ngày em trở lại nơi này. Vì em biết cả anh và rừng thộng xanh đều nhớ em nhiều lắm.

***

Hoàng hôn muộn là một chuyện tình lãng mạn nên không đặt ra vấn đề xã hội nào. Truyện để lại vài cảm xúc bâng khuâng. Tác giả đã sắp xếp tốt nhất cho Nguyên để không vi phạm đạo đức, hoặc làm tổn thương tình cảm giữa Nguyên và Linh. Nguyên gặp lại Huy, hai người kết nối lại tình yêu. Lần này lương tâm họ thanh thản, bởi Linh đã có gia đình và đi xa.

Đây là một kiểu truyện tình “có hậu”, không phải kiểu truyện “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở” thời văn chương Lãng mạn 1930-1945. Đào Nguyên Thảo có kỹ thuật viết điêu luyên.

***

Mẹ sẽ trở về (truyện ngắn)

(Nguồn: VNĐN số 19 – tháng 5 & 6 năm 2017)

      Mẹ trở về hai tuần sau đám tang của ba. Ngày mẹ trở về, Tôi không khóc. Con Nhi và mẹ vào nhà trước, Tôi xách hành lý vào sau. Tóc mẹ mười phần đã bạc màu hết bảy, tám phần.

Từ khi ba trở bệnh nặng, Dì Lan đã nói với chúng tôi rằng, mẹ sẽ về sống với hai anh em tôi sau khi ba mất. Bị mất vì bị giày vò trong bệnh tật và tuyệt vọng. Tôi không biết mình vui mừng hay đau khổ. Đó là nỗi khổ tâm giằng xé Tôi khi ấy. Nhưng từ nay Tôi không còn phải nghe những lời ca thán, nhiếc móc của ba. …

Từ khi mẹ về,  chúng tôi phải “ép mình” vào kỷ luật mà mẹ đặt ra. Chẳng hạn, dù mẹ không nói, chúng tôi đều tự biết không được ăn tối ở ngoài và đi chơi về muộn quá hai lần mỗi tuần…

Cuộc sống của anh em tôi thay đổi. Đồng nghiệp khen Tôi đi làm đúng giờ. Người yêu Tôi không còn ca thán vì tôi lười cạo râu. Con Nhi dạo này hồng hào, trắng trẻo, béo lên rõ rệt. Bầu không khí gia đình bình yên đến kỳ lạ. Mẹ lặng lẽ làm những gì cần thiết và căn dặn vừa đủ. Mẹ dặn gì chúng tôi làm theo đó, không thắc mắc, không tranh luận. Có hôm 12 giờ đêm, mẹ vẫn còn làm việc. Mẹ bảo Tôi dẫn người yêu đến nhà chơi.

 Buổi tối thứ Bảy, Tôi gọi người yêu sang thăm mẹ. Gia đình Tôi rộn tiếng nói cười trong bữa cơm tối. Người yêu Tôi vui vẻ, hoạt ngôn và rất tinh ý. Mẹ bảo:- Bạn gái con xinh quá, lại ngoan và dễ gần. Con chọn khéo lắm, sau này chắc con bé sẽ là người vợ tốt. Tôi nói: –Tốt hay không, chắc phải để đến lúc con phá sản mới biết được mẹ ạ. Ngay lúc ấy, Chiếc cốc trên tay mẹ rơi xuống, vỡ tan. Mẹ không nói gì, lẳng lặng cúi xuống thu dọn những mảnh vỡ. Tôi bỏ vào phòng, tự nguyền rủa mình. Tôi đã nói gì vậy? Cái gì đã xui khiến tôi thốt ra câu nói ấy?

  Sáng hôm sau, Tôi dậy muộn. Con Nhi nói: –Mẹ đi đâu đó rồi. Lồng ngực Tôi đau buốt. Có lẽ nào, mẹ lại một lần nữa bỏ Tôi mà đi không? Suốt ngày hôm ấy chúng tôi tìm kiếm mẹ. Đến Bảy giờ kém mười lăm tối. Mẹ mới về. Mẹ nói: – Đêm qua cô Thủy bạn mẹ bị tai nạn phải cấp cứu, mẹ phải qua đó gấp, quên không nhắn lại cho hai đứa. Con Nhi nhào tới ôm chặt lấy mẹ, khóc nức nở. Tôi đứng chôn chân ở đó, hai giọt nước vừa trào ra nóng hổi từ trong khóe mắt.

Sau này, dì Lan kể: ngày ấy mẹ bỏ đi vì không thể nào chịu nhục được. Ba kinh doanh thua lỗ. Ông đâm ra rượu chè và đánh chửi mẹ mỗi khi anh em tôi đi học. Mẹ lăn lưng ra làm thêm đủ việc để phụ ba. Ngày cuối tuần, mẹ tranh thủ giúp việc nhà cho người bạn học cũ, ba nói mẹ kiếm cớ cặp bồ với người ta. Mẹ nhẫn nhịn chịu đựng ngày qua ngày, cho đến khi ba nói con Nhi không phải là con ba. Mẹ quyết định ra đi. Năm con Nhi chuẩn bị vào đại học, mẹ bị khối u trong dạ dày phải ra Tây Bắc chữa trị bằng thuốc lá của người dân tộc. Suốt mấy năm liền, mẹ bắt dì phải giữ bí mật, không được nói với anh em tôi.

Con Nhi nghe Dì Lan kể, nó khóc mãi. Còn Tôi, ngày mẹ “biến mất”, Tôi đã nhận ra: Tôi chỉ cần có mẹ mà thôi.

***

Mẹ sẽ trở về là một truyện cảm động về tình mẫu tử của con và về một người vợ, một người mẹ đầy nghị lực, có lòng tự trọng. Nhân vật Tôi vừa kể vừa tự phân tích tâm lý tạo nên sự hấp dẫn. Tác giả khéo tay đan cài chuyện quá khứ và chuyện hiện tại tạo một mạch truyện chặt chẽ, đủ sức thuyết phục người đọc về vẻ đẹp của nhân vật “mẹ Tôi”. Nghệ thuật viết truyện chắc tay.

Dầu vậy, đây là một truyện hư cấu lãng mạn. Nội dung truyện không đặt ra vấn đề gì đối với hiện thực. Người đọc không rõ bối cảnh xã hội và nhân thân của các nhân vật. Sự việc xảy ra ở đâu, thời gian nào? Nhân vật Tôi bao nhiêu tuổi, đang làm việc ở công ty nào. Khi những bất ổn gia đình xảy ra thì Tôi và Nhi đã phản ứng thế nào? Tại sao khi người chồng đã nghi ngờ, mà người vợ lại không ngưng giúp việc ở nhà người bạn? Tại sao người vợ không có hành động nào chứng minh Nhi là con của chồng mà bỏ đi và dẫn Nhi đi theo? Khi dắt Nhi theo, người mẹ đã làm gì để Nhi ăn học Đại học, trong khi người vợ không đủ tiền chạy thuốc tây phải lên Tây Bắc dùng thuốc lá của người dân tộc? Chờ chồng chết hai tuần rồi người vợ mới trở về, phải chăng người vợ hoàn toàn đoạn tình đoạn nghĩa, mà lẽ ra, “nghĩa tử là nghĩa tận” người vợ nên về lo hậu sự cho chồng? Tại sao tác giả không giải nỗi oan cho người vợ trước khi người chồng chết…

Nói những điều như thế chỉ là để chỉ ra Mẹ sẽ trở về là một truyện lãng mạn. Tác giả đã bỏ qua những yêu cầu của bút pháp hiện thực mà tập trung miêu tả tâm trạng của nhân vật Tôi. Chẳng hạn: “lúc này, khi mẹ đã thực sự hiện hữu ở ngay trước mặt, tôi lại thấy lòng mình như tảng băng nằm im lìm trên mặt hồ giữa mùa đông lạnh giá”. Khi nghe Nhi báo mẹ đi đâu đó, “Một cơn đau buốt khẽ nhói lên trong lồng ngực tôi”. Đọc tin nhắn của Nhi: “Em gọi cho mẹ mà máy không liên lạc được. Làm sao giờ anh?” Tim tôi nghẹn lại”.

Miêu tả tâm trạng nhân vật là đặc trưng của văn chương trữ tình. Chọn lựa bút pháp Hiện thực hay Lãng mạn là quyền của tác giả. Và tất nhiên, đọc một truyện Lãng mạn, người đọc không thể đòi hỏi những giá trị hiện thực. Tôi nói, Nội dung truyện không đặt ra vấn đề gì đối với hiện thực là vì vậy.

Mẹ sẽ trở về để lại nỗi niềm bâng khuâng về tình mẫu tử trong thời đại hôm nay khi gia đình tan rã.

***

Thơ Đào Nguyên Thảo.

Tôi đã đọc các bài thơ: Em trả cho đời sự dịu dàng thẳm sâu, Chúng ta rồi sẽ ổn thôi, Thơ yêu xưa, Lạc, Trò chuyện với thanh xuân; Em, và muộn sầu giấu kín, Đến cuối con đường của Đào Nguyên Thảo.Vì đọc quá ít tác phẩm, tôi không hy vọng có thể nhận dạng được khuôn mặt văn chương của tác giả trẻ này.

            Thơ Đào Nguyên Thảochất chứamột nỗi buồn sâu thẳm về một tình yêu không còn nữa. Nỗi buồn thương ấy trộn với những suy tư về sự vô thường của cuộc đời, tạo nên tâm trạng ảm đạm, hoang vu trước thực tại. Nhưng người thơ chấp nhận thực tại không hy vọng.

Thơ Đào Nguyên Thảo nằm trong thi pháp Thơ Lãng mạn 1930-1945. Không có bóng dáng cuộc sống hiện thực. Nhân vật trữ tình là chủ thể bài thơ (cũng là tác giả). Những bài thơ tự do có sắc thái riêng. Nỗi buồn làm cho tâm tưởng chìm đắm. Nhưng người thơ ý thức sâu sắc về nỗi buồn của mình. Thơ là lời tự tình, là lời độc thoại, đối thoại với anh, vừa tự an ủi mình về những đớn đau, vừa cố thoát ra khỏi trạng thái bi thương. Người thơ ôm lấy trái tim cô đơn và “Em biết trải lòng mình vào đêm/ những sớm ngày cô quạnh

Em khẽ liếc nhìn tôi ngúng nguẩy

            Rồi quay lưng, bỏ lại nơi này

           …Giá như em sẽ cùng tôi ở lại      

            Giữa sân trường bé dại tuổi hai mươi

            Cho trong hơn màu nắng cuối chân trời

            Cho yêu dấu không rời xa mười bảy.

                        (Thuở yêu xưa)

            Mưa lạc mùa…ta lạc nhau sao em?

            Hiên nhà cũ nhìn mây trời ảm đạm

            …Ta vẫn xa chẳng bao giờ đến được

            Sẻ lạc hiên nhà hay em đi qua tôi

            Thôi ngồi lại bên đời nhặt mưa nắng đầy vơi

            Gói ghém cơn đau bằng xa vời kỷ niệm…

                        (Lạc)

            Tôi chỉ xin một giọt tình bé mọn

            Xóa một lần trọn vẹn nỗi cô đơn

            …Là có lúc, dẫu buồn nhưng không khóc

            Và tự nhủ lòng: “Cuộc đời này, tất cả chúng ta rồi cũng sẽ ổn thôi!”.

                        (chúng ta rồi sẽ ổn thôi)

            Em trả cho đời kiệt cùng nước mắt

            Để tinh khôi về lại sớm mai này

            …Em sẽ trả cho đời những kỷ niệm về anh

            Dù ít ỏi, nhỏ nhoi, dù vô thường, bé bỏng

            Em sẽ ước cho tim mình rất rộng

            Để yêu thương còn đọng mãi trong lòng

                        (Em trả cho đời sự dịu dàng thẳm sâu)

            Và đây là bài thơ tiêu biểu cho giọng thơ tự tình, kiểu tư duy tự lắng nghe-tự nhận thức, cá tính sáng tạo (thơ tình buồn một mình) của Đào Nguyên Thảo:

Em, và muộn sầu giấu kín
Khi cơn mưa sắp trút xuống ngoài kia
Khe khẽ lắng nghe
Những thanh âm xạc xào của lá
Em, đừng khóc nhé
Hãy để cho mưa cuốn hết những muộn phiền
 
Em, và ánh mắt rất hiền
Chỉ dành để nhìn một người duy nhất
để dành cho chính em
Khi nắng chiều sắp tắt
Một mình trên phố xá đông vui
Chợt thấy hoang mang như chưa từng hơn hai mươi năm sống ở trên đời
Và mặt nạ huênh hoang gỡ bỏ
Thôi giỏi giang, bất cần hay ghê gớm
Em lặng thấy mình bé nhỏ biết bao nhiêu
 
Em, và tình yêu
Chưa bao giờ dám tin rằng có thật
Hạnh phúc người khác đánh rơi
Và em nhặt
Ấp ủ trong hình hài ủ dột thơ ngây
Ru mình trong những cơn say
Vẫn không biết, sẽ khi nào tỉnh giấc?
 
Em, và những điều đã mất
Không cuống cuồng tìm lại để yêu thương
em nhận ra giữa cuộc sống vô thường
Phải đánh mất
Để rồi có được
Nên em sẽ đi ngược chiều gió thổi
Đi ngược chiều gió thổi để yêu anh.
 
Phải, chính em
Cô bé con với muộn sầu giấu kín

            (Em và muộn sầu giầu kín)

            (Nguồn: VNĐN số 34– tháng 11 & 12 năm 2019)

            Có thể nhận thấy, Đào Nguyên Thảo có khuynh hướng viết truyện và thơ tình yêu lãng mạn. Và chất liệu làm nên tác phẩm có lẽ là chính những trải nghiệm của tác giả. Đào Nguyên Thảo có những bài thơ mang hơi thở của nghệ thuật hiện đại. Chẳng hạn bài Em và muộn sầu giầu kín. Cái Tôi tự khẳng định mạnh mẽ:

“Nên em sẽ đi ngược chiều gió thổi
Đi ngược chiều gió thổi để yêu anh.
 
Phải, chính em
Cô bé con với muộn sầu giấu kín”

Cái Tôi có ý thức rất sâu sắc về mình: em biết trải lòng mình, em biết giữ mình, em biết thật khó để tìm thấy một người có thể nắm chặt tay và cùng nhau đi đến hết con đường phía trước, em biết sẽ đau nếu không còn anh bên cạnh,..

Em biết em chỉ là một cô gái bình thường

Với những lo toan giận hờn bé nhỏ

Nhưng em sẽ luôn giữ trái tim mình mở ngỏ

Để đón mọi nhọc nhằn, đau khổ vì anh

            (Đến cuối con đường)

            Nguồn: VNĐN số 67. Tháng 7,8 năm 2012

            Nếu Đào Nguyên Thảo chú tâm vào sáng tác, tác giả này sẽ gặt hái được nhiều thành công. Bởi tôi đã thấy thấp thoáng một cốt cách văn chương đẹp.

10.NGUYỄN HẢI YẾN

            Trong “viết ngắn” “Chạy về phía mặt trời”, nhân vật Tôi nhìn thấy một em bé 4 tuổi đang sợ hãi. Em bé nhờ Tôi dẫn về nhà vì phía trước có con chó to. Tôi giúp em. Khi đã vượt qua chỗ con chó, em vụt chạy về nhà mình, không nhìn lại. Chiều xuống, mặt trời rực rỡ ngay nóc nhà em. Cô bé chạy về phía mặt trời.

            Bài viết tập trung miêu tả cảm giác và suy nghĩ của Tôi về em bé và về Tôi khi giúp em bé vượt qua chỗ một con chó to. Kiểu “văn chương làm dáng”, chữ đẹp nhưng rỗng.

11.LÝ THĂNG LONG

Lý Thăng Long sinh năm 2000, là Hội viên Hội VHNT Đồng Nai, hiện là sinh

viên năm cuối ĐHSP Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh.

            Xin đọc:

Cái tết no nê của thằng Tý (truyện ngắn)

Tí Sún (tên của Quốc Anh) về quê ăn tết. Nó được ông nội “dạy dỗ” nghiêm khắc. Đặc biệt là lúc cả nhà ăn tiệc ngày mùng 2 tết. Mọi người lo nhậu, nó chỉ lo ăn. Nó bị ông nội (Cụ Phán) thúc hạ sườn trái Hai nhát bằng đôi dép gỗ mít sồi và đuổi cổ. Nó cảm thấy nhục nhã ê chề, buông đũa, ôm bát đứng phắt dậy. Từ đó nó tìm cách lánh mặt ông nó. Lúc về Nam đi học, Nó bâng quơ nhìn ra chân trời xa vợi nhớ về thái độ và hành vi xa lánh ông mình “Con sai rồi… Con có lỗi với nội… nội ơi!”. Lý Thăng Long dùng ngôn ngữ “chợ” nên tác phẩm thiếu tính văn chương. Cách kể liên hệ nhiều ngõ ngách, nhiều nhân vật tạp, khiến cho truyện trở nên hết sức rắc rối. Nếu truyện dành cho tiếu nhi thì trẻ con không đọc nổi. Còn nếu viết cho người lớn, tác giả không đặt được vấn đề xã hội nào.

            Con đường hôm qua (truyện ngắn)

            Nguyễn Hoàng Vân là cậu học trò cao to ở lớp 7/4. Học lực xếp thứ hai từ dưới lên nhưng Vân giỏi ở cái khoản đấm đá. Vân có cảm tình với Đào Thanh Phương, cùng lớp. Nó muốn có một cái hẹn đúng nghĩa với nhỏ Phương. Để tăng “sĩ khí”, nó rủ thêm thằng “Khánh tăm tre” bạn cùng xóm đi gặp Phương. Khánh hơn nó 2 tuổi. Trong quán trà sữa, Vân câm như hến. Nhỏ Phương và Khánh nói chuyện “huyên thuyên bát quái như hai nòng pháo dội vào đôi lỗ nhĩ liên tù tì không ngớt” của Vân. Những ngày sau, thằng Khánh hẹn được nhỏ Phương đi uống trà sữa dễ như ăn bánh. Vân bị thằng Khánh hẫng tay trên. Nó đem lòng oán thù thằng Khánh suốt đời. Rồi xảy ra một cuộc ẩu đả giữa hai thằng để giành người yêu. Bên đường đột nhiên có một đôi nam nữ dừng lại. Nghe tiếng đưa con gái nói, hai thằng nhận ra là tiếng nói của Phương. Hóa ra Phương đang tay trong tay với một thằng “mất dạy” khác. Khánh hỏi Vân: “Tất cả đàn bà con gái đều như vậy sao Vân cu?” Vân nói: “ít nhất là mẹ tao không như thế”. Vân xin lỗi. Hai đứa vẫn giữ tình bạn với nhau.

                        ***

            Tôi không rõ tác giả viết truyện này hướng về đối tượng độc giả nào? Và nhằm đạt mục đích gì? Nếu là đối tượng học sinh cấp 2, thì truyện là một gương xấu. Mới là học sinh lớp 7 mà Vân và Khánh đã biết tán gái, biết hẹn đi trà sữa rồi đánh nhau giành gái. Mới lớp 7 mà Phương đã cặp với hết thằng “mất dạy” này với thằng “mất dạy” khác? Còn nếu là đối tượng người lớn, sẽ chẳng ai học bài học tình ái, quan hệ lừa lọc như thề này của bọn nhóc.

Cho nên, mục đích viết (mục đích phát ngôn) chi phối giá trị mọi mối quan hệ giao tiếp (tác giả-tác phẩm-người đọc).

            Em là mùa hạ trong tôi (truyện ngắn)

            Nhân vật Tôi (An) kể lại “chuyện tình” của mình với Ái Vy, “nhỏ ngồi bên cạnh Tôi” trong lớp. Ái Vy có nước da trắng ngần, mái tóc nhuộm vàng tự nhiên như “Kim mao sư vương”. Nhỏ không có cha. Nhà chỉ có hai mẹ con. Nhà nhỏ Vy nằm trong một con hẻm nhỏ, nhà kiểu Pháp. Trước nhà có trồng  một cây hoa bằng lăng. Có thể Vy từ một trường chuyên chuyển về. Trong lớp, nhỏ thành lập một “băng đảng” riêng dành để áp đảo lũ con trai mỗi khi bọn chúng tôi chọc ghẹo. Nhỏ chưa từng để ý đến tôi. Có lần Tôi xin Vy một cơ hội. Vy nói: –không thích bạn trai cùng tuổi.

Nhỏ có một tình yêu nhưng dường như tình yêu ấy bị đặt sai chỗ và sai cả người. Hôm ấy, lúc 20:35, bên bờ sông, ánh trăng lấp loáng. Ái Vy bị một gã tên Anh Tuấn bắt phải đền tội và đòi Vy phải trả lại tất cả. “Hắn tát Ái Vy ngã lăn xuống nền cỏ. Hắn toan xé hết nửa tấm áo trắng mỏng trước ngực Vy”. Tôi xông vào, cho hắn một cú đá vào sườn. Hắn văng ra xa mấy mét. Tôi lấy áo khoác mình đắp cho Vy. Nhưng hắn to khỏe như một con trâu đất, xông đến và mặc sức đấm đá Tôi. Tôi ngất đi, tỉnh lại mấy lần trên cơ thể Vy bất động.

Tôi được thằng Hóa đem về nhà nó cứu chữa. Hóa kể, mẹ Vy dẫn Vy đến chia tay lớp. Chiếc xe Lexus RX 300 đã mang Vy đi. Đã hơn 10 năm kể từ ngày ấy, Tôi đã trở thành một họa sĩ trẻ lừng danh. Các tác phẩm đoạt giải của Tôi đều nghiêng về một người con gái với loài hoa màu tím. Thằng Hóa nói: lúc này Vy làm quản lý cho The Garlik Restaurant-Đề Thám. Tôi hỏi :-Vy nào nhỉ. Nó bảo: –Mày say rồi…Thôi, rót đi.

***

Chuyện tình của An là một chuyện tình không đầu không đuôi. Bởi Vy chưa bao giờ để ý đến An. An mới chỉ theo đuổi Vy mà chưa có biểu hiện nào về tình yêu. Khi Hóa nói Vy đang làm quản lý cho The Garlik Restaurant thì An hỏi Vy nào nhỉ. Vy không tồn tại trong An như một người yêu theo mãi đến suốt đời.

Môtip truyện của Lý Thăng Long là kể một chuyện tình tay ba, tay tư, có thêm chút bạo lực. Tác giả bỏ qua tất cả các yếu tố hiện thực của câu truyện. Người đọc không rõ Ái Vy là người như thế nào, một cô gái con nhà lành hay một gái chơi để bị Anh Tuấn bắt đền tội và đòi lại tất cả? Lúc An bị đánh bất tỉnh và Vy cũng bất tỉnh thì Hóa đưa An vể, còn số phận của Vy thế nào thì không rõ. Sau khi mẹ Ái Vy dẫn cô đến chia tay lớp thì chiếc xe Lexus RX 300  đưa Ái Vy đi đâu cũng không biết. Chỉ đến cuối truyện, sau 10 năm, Hóa mới cho biết Vy làm ở The Garlik.

Cách kể truyện, cách dẫn truyện của Lý Thăng Long hết sức rắc rối. Lời văn ít chất văn chương. Tôi tự hỏi, kể loại truyện tình này, Lý Thăng Long đem đến cho người đọc những giá trị gì về nội dung, tư tưởng và nghệ thuật?

***

Đọc 3 truyện ngắn của Lý Thăng Long, tôi nghĩ, nếu anh không thay đổi đề tài, nội dung, cách viết, mà chỉ cà kê với những truyện tình nửa học trò, nửa xã hội đen, không nội dung, không chủ đề, thì dù anh có viết bao nhiêu “tác phẩm” cũng không đem đến cho người đọc giá trị gì.

12.NGÔ GIA HÂN

              Tiệm sách cũ (Truyện ngắn). Hoài hay đến tiệm sách cũ của chị Xuyến để đọc và mua sách. Một lần Hoài thấy một cuốn sách cũ có lời của bà tặng cho cháu. Hoài tự hỏi sao cuốn sách tặng này lại ở đây. Hoài mua cuốn sách và gửi lại cho người được tặng qua đường bưu điện. Vì ít khách, chị Xuyến không còn bán sách cũ. Căn nhà cũ kỹ còn đó nhưng không còn sách. Hoài và Hưng là bạn thân, Hoài phát hiện ra cuốn sách mà Hoài đã gửi cho người nhận trong học bàn củ Hưng. Hưng nói đúng là cuốn sách bà ngoại tặng hưng bị thật lạc, nhưng có ai đó đã gửi lại cho Hưng. Hứa hứa sẽ hậu tạ người gửi tặng lại. Mỗi khi nhớ lại tiệm sách cũ, Hoài thấy lòng bình yên.

            Có lẽ truyện chỉ là một kỷ niệm tình cờ của tác giả thời Phổ thông. Văn chương còn thơm mùi học trò. Nhân vật Hoài và Hưng cùng học trường chuyên. Tác giả cũng học trường chuyên Lương Thế Vinh.

13.NGUYỄN VÕ MỸ DUYÊN

            Xin đọc:

1.Nhành hoa ngũ sắc (Truyện ngắn):

Hè năm ngoái, Tôi về thăm ngoại và cậu mơ. Tôi gặp nhỏ ở chỗ cái miếu hoang lúc cả hai cùng trú mưa. Khi về nhà mới biết nhỏ là con của mợ. Cậu mợ gọi nhỏ là Nhỏ. Nhỏ người ốm nhom, gầy còm, rám nắng, tóc ngắn giống con trai. Nhỏ là thủ lãnh của bọn nhóc trong xóm, thường “chiến đấu” với bọn “địch” là lũ nhóc xóm bên. Đi chơi với Nhỏ có nhiều điều thú vị. Hôm ấy Tôi chứng kiến màn “đấu sình”(ném bùn đất) nảy lửa của lũ trẻ hai xóm. Cả hai nhóm ném những cục sình vào nhau. Sau cuộc chiến bọn trẻ xuống suối tắm cho sạch sình bám vào người. Tôi thấy trên vách đá có một nhánh hoa lạ chìa ra. Nhỏ Cúc nói đó là hoa ngũ sắc. Tôi bảo Nhỏ lấy nhánh hoa ấy cho Tôi. Nhỏ không nói gì, Tôi giận Nhỏ bỏ về. Tới chiều, rồi tối, không thấy Nhỏ về. Tôi đến chỗ miếu hoang tìm, không có Nhỏ. Cả nhà cũng đi tìm. Ba, cậu mợ và chú Tư tìm thấy Nhỏ bên bờ suối. “Nhỏ nằm lịm trong đêm mưa, khuôn mặt trắng bệch, tay chân trầy trụa rướm máu và trong tay còn nắm chặt một nhành hoa ngũ sắc”. Hai năm rồi, Tôi lại về quê thăm ngoại và cậu mợ. Tôi thắp một nén nhang cho Nhỏ mà lòng đau khôn tả.

***

            Truyện kể những trò chơi trẻ con, có hư cấu một chút cái chết của Nhỏ. Tôi gọi là hư cấu vì một đứa trẻ lanh lợi như Nhỏ sẽ có cách lấy được nhánh hoa ngũ sắc, không dễ gì lại dại dột leo vách đá để rớt xuống suối chết. Với lại, quan hệ của Tôi và Nhỏ là quan hệ ruột thịt  chỉ mới bắt đầu, không phải là tình yêu để Nhỏ có thể “hy sinh” cho người yêu như thế. Một truyện lãng mạn (trẻ con) không đặt ra bất cứ vấn đề xã hội nào.

***

            2. Mảnh hồn làng (viết ngắn) kể chuyện Nó (Linh Lan) và ông nội sống ở quê được bố đón lên thành phố. Ông nội có di nguyện khi ông chết thì cha Nó đưa ông về quê. Nhưng rồi khi ông qua đời, mộ ông lại nằm trong nghĩa trang thành phố. Nó và thằng Mạnh, cứ điều độ, mỗi buổi trưa hè hai đứa đèo nhau qua khu nghĩa trang trồng cây nơi mộ ông nội, rồi lại đèo nhau về nhà. Một lần má Nó đi tìm và bắt được Nó trong nghĩa trang. Má Nó nhổ hết cây Nó đã trồng rồi lôi nó về, tát Nó một bạt tai. Nó bỏ đi. Buổi chiều, ba má Nó nhờ thằng Mạnh dẫn đi tìm. Gặp ba má, Nó nói hết mọi điều: Ba không thực hiện di nguyện của ông, má không thương ông. Ba má nó xin lỗi. Nó bảo ba má xin lỗi ông. Nó lại đem đặt trên mộ ông nội nhiều chậu cây xanh. Nó nói với nội: “con tin rồi sẽ có một ngày nội sẽ lại nghe hương cây cỏ phả vào làn gió thị thành, tưới mát cả khu nghĩa trang này…Nội tin con, nội nghe

            Truyện chạm được vào một vài vấn đề của hiện thực: Người già thích sống ở quê. Trong giáo dục trẻ, cha mẹ phải tôn trọng lới hứa và làm gương trước mặt con trẻ.

Tuy đặt những vấn đề hiện thực, ngòi bút Nguyễn Võ Mỹ Duy vẫn viết một truyện lãng mạn. Tác giả không miêu tả bối cảnh gia đình, xã hội của câu chuyện. Người đọc không rõ Nó và Mạnh là những đứa trẻ mấy tuổi mà vừa rất ngây thơ lại rất khôn ngoan? Ngây thơ đem cây trồng trong nghĩa trang, và khôn ngoan bắt lỗi cha mẹ tội bất hiếu với ông nội. Lãng mạn hơn khi Nó mơ ước một ngày nào đó cây xanh sẽ rợp bóng che mát phần mộ của ông nội và mọi người trong nghĩa trang. Thành ra, thay vì hướng vào việc giáo dục trẻ thì ngược lại, tác giả để trẻ giáo dục người lớn!

14.TRỊNH KHÁNH LINH

            Xin đọc:

            1.Cha và con (truyện ngắn)

               Trà từng là một cô gái đáng yêu, lớn lên giữa vùng đồng ruộng bình lặng. Tên Trà là do người mẹ đặt, bà mong con giống hoa trà, trong trắng, ngào ngạt hương. Ông Đại, cha của Trà thường đối xử lạnh nhạt với Trà, vì Trà là con gái. Ông cho rằng, con gái thì chẳng bao giờ làm nổi chuyện lớn. Năm Trà 18 tuổi, bà Đào (mẹ Trà ) mất. Trà khóc 3 ngày. Ông Đại trở nên nát rượu và hay mắng Trà. Trà bỏ đi.

    Ông Đại bỏ rượu và đi tìm con. Ông lên thành phố, nhưng tìm đâu bây giờ?

Ông đi một tuần rồi về. Cứ tầm 5 tháng một bận, ông lại đi tìm con một tuần, suốt 4 năm trời như vậy.

    Rồi Trà về. Đầu nó cạo nham nhở, quần áo ngắn cũn cỡn, tả tơi. Đến đầu xóm,

nó gục xuống. Ông Đại xốc vai con đưa về nhà. Nghe đâu con Trà lên thành phố bị lừa vào chốn bùn nhơ, sau bị vợ một ông khách đánh ghen, may trốn được trở về.

    Cha con lại hòa thuận, Con Trà lại hiền thục như xưa. Càng lớn Trà càng giống

mẹ. Đôi mắt Trà lúc nào cũng ôm sầu muộn.

            ***

                Truyện kể mạch lạc. Nhân vật có cá tính và được miêu tả trong cộng đồng xã hội. Câu văn chuẩn mực và chặt chẽ về nghĩa. Giọng văn giàu tình người. Truyện để lại suy nghĩ sâu sắc về thái độ của cha mẹ với con cái và bài học cho người trẻ nông nổi.

            2.Hoàng hôn vắng một người (truyện ngắn)

            Linh là một cô gái hoài cổ. Mỗi lần nhìn vào đồ vật cổ, Linh lại nhớ những kỷ niệm.

            Học xong cấp ba, Linh về thành phố kiếm sống. Tôi cũng về thành phố học Đại học. Linh kể, tình cờ Linh xin được việc làm ở quán cà phê Mơ, một quán có phong cách cổ kính. Chiểu thứ Sáu nào tôi cũng có mặt ở Mơ với một ly ca cao nóng và vài quyển sách. Tôi nghĩ kịch bản sẽ đúng hơn nếu bên tôi là ly cà phê đen đá. Tôi sẽ trở thành người đàn ông chững chạc nhâm nhi vị đắng nơi đầu lưỡi, mắt nhìn xa xăm, ra vẻ suy nghĩ về tương lai và cuộc đời….Thật ra tôi cũng muốn lắm chứ. Tính ra thì Tôi và Linh cũng đã “duyên” ngót nghét 5 năm nhưng em không nhì ra tâm tư rối rắm của Tôi.

Linh là một cô gái sôi nổi, nhưng những khoảnh khắc yên lặng, Linh trở về với vẻ đẹp dịu dàng của một tâm hồn 19 ôm đầy hoài niệm. Với vai trò là “Thằng bạn thân chí cốt” của Linh, Tôi đã thành công trong việc tự làm hại chính con tim mình. Giá như ngày đó tôi đủ dũng cảm để thật lòng với em, có lẽ mọi chuyện đã khác.

Linh đã ra đi vì tai nạn xe. Chiều thứ Sáu, em đi lấy hàng cho quán. Trời mưa tầm tã, xe em tông thẳng vào xe tải ngược chiều. Sau khi em đi, Tôi mới biết mắt em có vấn đề. Tôi nghĩ Tôi sẽ thay em sống tiếp một cuộc đời. Giá như tôi từng nói ra lời tỏ tình chính thức với em, có khi em đã không bỏ tôi mà đi như thế. “Này những kẻ đơn phương ngoài kia, nếu có thể hãy để lòng mình một lần được trải. Biết đâu được, phía sau câu nói chân thành đơn giản ấy lại là một con đường có hai người cùng nắm tay nhau bước đi”.

*** 

Một truyện tình đồng tính nữ (lesbian) được kể rất tinh tế, trong sáng và đầy mối thương cảm. Trịnh Thị Khánh Linh có năng lực phân tích tâm lý sâu sắc. Đúng là văn chương có thể chữa lành những vết thương tâm trong đáy tim.

            3.Những cánh diều cô đơn (truyện ngắn)

            Lan khi nhìn những cánh diều trên bầu trời, tâm trạng trống rỗng với những hồi ức. Trước kia nhà nó khá giả. Cha đi làm trên tỉnh, má ở nhà trông coi việc bếp núc. Mỗi lần cha về thăm nhà đều cho nó quà. Hàng năm, cứ đến mùa diều, cha nó lại làm cho nó con diều mới đẹp hơn năm trước, và dẫn nó ra cánh đồng rộng mênh mông thả diều. Nó thả diều giỏi nhất xóm.

Thế rồi một chiều kia, gia đình nó tan vỡ. Cha nó bỏ mẹ con nó mà đi không trở lại. Mẹ nó trở thành bà điên. Sau khi bà ngoại đổ bệnh qua đời, nó phải bỏ học đi làm nuôi thân và nuôi mẹ. Người ta thôi bàn tán về gia đình nó và thương cho một đứa trẻ đã bị sóng cuộc đời thúc ép phải trưởng thành quá sớm.

Lan đưa mắt nhìn lên trên. Bầu trời giờ đây chỉ còn những cánh diều vô định, ngả nghiêng không định hướng. Những cánh diều cô đơn.

***

Truyện ghi lại một hiện tượng xã hội: khi gia đình tan vỡ thì những đứa con sẽ lâm vào thảm cảnh. Chúng bị  thất học, phải lam lũ kiếm sống và hằn trong tim một vết thương không thể hàn gắn.

Tác giả không lý giải tại sao cha của Lan bỗng nhiên bắt mẹ Lan ký đơn ly dị và bỏ đi không một lời. Và Lan hoàn toàn sống cô độc không thân thích. Làng xóm chỉ dị nghị mà không ai giúp đỡ Lan.

Và người đọc biết chia sẻ với Lan điều gì? Câu văn kết truyện cũng chỉ là một lời cảm thông và bất lực trước tương lai của Lan: “Lan đưa mắt nhìn lên trên. Bầu trời giờ đây chỉ còn những cánh diều vô định, ngả nghiêng không định hướng. Những cánh diều cô đơn”.

15.ĐÀM MINH KHÔI

Đàm Minh Khôi sinh năm 1997, đang công tác tại Bảo tàng tỉnh Đồng Nai.

Cây viết này xuất hiện với những bài viết có chất ký, chủ yếu là ghi chép những gì nhìn thấy, chưa có yếu tố sáng tạo.

Xin đọc:

Biên Hòa trong tôi là một Tùy bút (Tạp chí VN ĐN số 49 – tháng​ 3/2022) ghi được vài kỷ niệm của tác giả lúc nhỏ sống ở Biên Hòa. Bài viết chưa chạm đến Biên Hòa ở chiều sâu lịch sử, văn hóa, và những vận động của thời kỳ công nghiệp hóa hôm nay. Hình như tác giả chưa học được gì về nghệ thuật viết Tùy bút của Nguyễn Tuân, của Anh Đức, nghệ thuật viết Ký của Hoàng Ngọc Điệp. Thế nên, trang văn rất nhạt.

Tản mạn về chuyến đi Tây Bắc (ghi chép) ghi nhận đôi điều dưới cái nhìn của một khách tham quan du lịch bình thường: Sapa, Thủy điện Hòa Bình, cây đào Tô Hiệu, khu di tích trung đoàn 52 Tây Tiến, những đứa trẻ ở Sapa và Mộc Châu… Tác giả không có những khám phá riêng, những nghĩ suy riêng để làm nên giá trị độc đáo cho bài viết.

Một ngày mới (truyện ngắn) kể lại việc nhân vật Nó theo chân Đăng đi phục vụ trong một sự kiện của hãng V. Truyện kể theo thứ tự thời gian, thứ tự công việc, không có cốt truyện, không có tình huống, không có chủ đề. Nói cho đúng “truyện” chỉ là một bài ký đơn giản, thiếu hẳn những yếu tố làm nên một tác phẩm truyện (cấu trúc truyện, khắc họa nhân vật, kiến tạo thế giới nghệ thuật, chủ đề). “Truyện” chỉ là một bản ghi chép đời thường.

            Tôi nghĩ, Đàm Minh Khôi còn trong ảnh hưởng của văn chương học trò. Vì thế tác giả cần học tập những bậc thầy về nghệ thuật viết Ký, viết truyện ngắn như Nguyễn Tuân, Nam Cao, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Minh Châu, Anh Đức, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp… Con đường văn chương còn dài và còn cần nhiều mồ hôi và tâm huyết.

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHUNG

1. Đã xuất hiện một thế hệ mới nhiều hy vọng

            Điểm qua 15 khuôn mặt Văn trẻ Đồng Nai, tôiđã thấy bóng dáng những nhà văn chuyên nghiệp. Và tôi hy vọng họ sẽ là đội ngũ kế tục được những thế hệ nhà văn Đồng Nai đi trước. Con đường sáng tạo của họ còn dài, và sẽ không tránh khỏi rơi rụng.

            Nhiều người trong số họ đã bước ra khỏi Cái Tôi để quan tâm đến cuộc sống chung quanh, ghi chép những câu chuyện của cộng đồng, khám phá nhân vật hôm nay, đốt nóng cảm hứng từ hiện thực mình quan sát và trải nghiệm; hoặc trăn trở về những vấn đề nhân sinh và lên tiếng nói trách nhiệm của người nghệ sĩ.

Đấy là hướng đi rộng mở và đúng với yêu cầu “bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân dân,…”. Tôi quan sát thầy điều này, sở dĩ nhà văn Khôi Vũ đã in được hơn 70 tác phẩm, bởi ông biết lăn vào đời sống, biết khai thác vốn sống, vốn trải nghiệm và những suy tư của mình trước hiện thực. Nếu người viết chỉ bó mình trong Cái Tôi chật hẹp, quanh quẩn với nỗi buồn của riêng Tôi, không vươn tới hiện thực đất nước mênh mông ngoài kia, thì sẽ không viết được gì. Và nếu có viết thì người đọc cũng sẽ không quan tâm, bởi khi đọc tác phẩm, người đọc tìm kiếm những gì họ cần có cho tâm hồn họ, họ sẽ bỏ qua những vấn đề của Cái Tôi, một Cái Tôi vốn đã quá cũ kỹ, Cái Tôi thống trị trong văn học Lãng mạn 1930-1945.

Hoàng Quỳnh Trang quan tâm đến vần đề giáo dục trẻ tình gia đình, tình anh em, tình bạn..Hoàng Thu Thảo viết về những “góc đời sứt mẻ”, những thân phận hẩm hiu. Tống Thanh Tâm có cái nhìn sâu sắc và nhân hậu hơn về tình yêu, về hoang thai, về thực tại con cái không chăm sóc cha mẹ già và sự tha hóa đạo đức của con người hôm nay khi người ta đánh đổi tất cả để lấy sự xa hoa. Truyện của Lê Vũ Anh Đào hướng về những vấn đề tư tưởng khi khám phá hiện thực. Trong một xã hội thực dụng, con người không bằng con chó. Để vượt qua bi kịch, người trẻ cần mở lòng ra biết đón nhận yêu thương của mọi người. Lã Hoàng Mai viết những truyện giải trí giàu tính giáo dục. Trịnh Khánh Linh viết rất sâu sắc và đầy yêu thương về tình yêu của người đồng tính, về thảm cảnh của những đứa trẻ trong một gia đình tan vỡ. Đào Nguyên Thảo có những truyện, những bài thơ tình yêu đầy cảm động. Nguyễn Huyền Quy vừa làm thơ, vừa viết truyện, vừa viết kịch bản. Ở mỗi thể loại, người viết trẻ này đều ẩn chứa nhiều tiềm năng.

Nội dung, tư tưởng và những vấn đề tác giả đặt ra trong tác phẩm sẽ làm nên giá trị của một ngòi bút, song nghệ thuật thể hiện sáng tạo mới làm nên khuôn mặt văn chương của một tác giả, mới định vị tác giả trên dòng chảy văn học đương đại.

Thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương gây được ấn tượng, bởi vì, bài thơ nào của anh cũng có tứ thơ mới lạ. Thơ Đào Nguyên Thảo quyến rũ ở giọng thơ tự tình nhẹ nhàng nhưng hàm chứa tư tưởng, bản lĩnh và trí tuệ mạnh mẽ của một  con người con gái dám đối mặt với mọi giông bão cuộc đời. Trịnh Khánh Linh có ngòi bút phân tích tâm lý rất tinh tế và sâu sắc, văn giàu chất thẩm mỹ, thể hiện một tình cảm yêu thương con người rất chân thực. Tống Thanh Tâm có cách nhìn đa diện về một vấn đề. Và tác giả này viết rất thuyết phục dù đó là những vấn đề gai góc. Truyện thiếu nhi của Hoàng Quỳnh Trang giàu tính giáo dục nhưng nhẹ nhàng và hấp dẫn. Lã Hoàng Mai trong truyện Ở quán café những người không ngủ đã viết rất sinh động về người trẻ hôm nay và có thể nói với người trẻ nhiều điều khi người đọc soi chiếu sự tương phản giữa nhân vật Tôi và cậu trai lạ (đọc bằng Giải Cấu trúc-cặp đối lập nhị phân)

2.Văn trẻ-Văn của Cái Tôi

Điều này thể hiện rõ khi tác giả viết về chính mình, khi kể những câu chuyện mà mình là nhân vật (không phải nhân vật xưng Tôi do tác giả nhập thân vào một nhân vật khác trong truyện để trở thành ngôi trần thuật).

Thực ra viết về chính mình, về Tôi, không có gì đáng trách, nếu Cái Tôi ấy mang được những đặc điểm của con người thời đại, khi Cái Tôi ấy trở thành Cái Ta chung. Thơ Lãng mạn  1930-1945 là tiếng nói của Cái Tôi cá nhân tiểu tư sản. Thơ kháng chiến chống Pháp là thơ của Cái Ta nhân dân kháng chiến. Tiểu thuyết Sông Luộc ở phương Nam là một tự truyện của nhà văn Khôi Vũ, song chất liệu đời tư của tác giả đã được tiểu thuyết hóa, nhờ đó mang được những đặc điểm của người trí thức trẻ Sài gòn trước 1975.

Thơ của Lê Phan Hiếu Anh là tiếng nói của Cái Tôi hôm nay: cô đơn, buồn, trăn trở. Nguyễn Hải Yến trong bài viết ngắn Chạy về phía mặt trời chỉ là ghi lại những cảm xúc, suy nghĩ của tác giả khi giúp đưa một cháu bé 4 tuổi đi qua chỗ có con chó to. Bài viết không đề cập đến bất cứ vần đề xã hội nào. Thơ Nguyễn Huyền Quy là những lời tâm tình của người vợ trẻ nói với chồng, của người mẹ trẻ nói với con về tình yêu thương của mình. Ngoài gia đình ra, người thơ trẻ này không quan tâm đến dòng chảy lịch sử ngoài kia. Đàm Minh Khôi chưa vượt qua văn chương học trò. Ngô Gia Hân, Nguyễn Võ Mỹ Duyên cũng kể những chuyện thời học trò. Lý Thăng Long lại kể chuyện tình học trò đầy bạo lực và thực dụng chủ nghĩa.

            Đảng yêu cầu văn nghệ sĩ:“bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân dân,…”. Nếu người viết chỉ quanh quẩn chuyện của Tôi thì chắc chắn sẽ đi vào ngõ cụt, và văn chương ấy có ích gì cho ai!

Tôi không tìm thấy tiếng nói của người viết trẻ Đồng Nai về những vấn đề nóng của hôm nay như: vấn đề biển Đông, Hoàng sa, Trường sa. Không có tác phẩm nào của người trẻ lên tiếng về sự xâm lăng văn hóa, sự suy đồi về đạo đức, những vấn đề của giáo dục từ nhà trẻ mẫu giáo đến Đại học; những vấn đề y tế trong đại dịch Covid, tình trạng công nhân thất nghiệp, tình trạng xuất khẩu lao động, nạn buôn bán người, nạn kinh doanh xác thịt phụ nữ, tình trạng lừa gạt trong mọi ngõ ngách xã hội. Nhận xét này của Nghị quyết 23/BCT có thể đúng với một vài tác giả trẻ Đồng Nai: “Có biểu hiện xa lánh những vấn đề lớn lao của đất nước, chạy theo các đề tài nhỏ nhặt, tầm thường…”.

Tôi ngỡ ngàng khi đọc Chạy về phía mặt trời của Nguyễn Hải Yến.Nhân vật Tôi giúp em bé 4 tuổi đi qua chỗ có con chó to. Em bé sợ chó. Tôi không hiểu tác giả đặt vấn đề xã hội gì trong bài viết ấy? Tôi xót xa hơn khi đọc Con đường hôm qua; Em là mùa hạ trong tôi của Lý Thăng Long. Tác giả say sưa kể chuyện tình học trò với những cảnh đấm đá và những thủ đoạn lừa tình, dù nhân vật học trò mới chỉ là học sinh lớp 7…Chuyện hai nhà hàng xóm mất gà, sinh ra xích mích nghe đã cũ lắm rồi, nhưng Lê Vũ Anh Đào viết lại (Vụ án hai con gà), không rõ để giải quyết vấn đề xã hội nào? Tôi nghĩ vấn đề tranh chấp đất, cướp đất của dân mới là vấn đề nóng của xã hội Việt Nam mấy thập kỷ qua. Huyền Quy viết về chiếc xe chở con đi học hàng ngày (Con thuyền của mẹ), không lẽ đó là một vấn đề thế sự cần quan tâm?

3.Thử đề xuất một vài vấn đề.

            Trừ một số ít tác giả có cách viết điêu luyện, hấp dẫn, còn nhiều tác giả rất lúng túng trong kiến tạo tác phẩm như cấu trúc truyện, khắc họa nhân vật, chọn lựa bút pháp và xây dựng một phong cách riêng.

            Tôi nghĩ, các tác giả trẻ cần trang bị cho mình tri thức Lý luận văn học về bản chất và sứ mệnh văn chương, về mối quan hệ nhà văn-tác phẩm-người đọccuộc đời. Cần xây dựng cho mình một ý thức sáng tạo tiến bộ; sử dụng đa dạng bút pháp và đặc biệt chú ý đến vẻ đẹp văn chương. Nếu đọc Văn học là gì của J.P.Sartre (đề cập những vấn đề Viết là gì? Viết để làm gì? Viết cho ai?), người viết trẻ sẽ nghĩ khác, viết khác[[6]]. Và nếu họ đọc kỹ các Nghị quyết của Đảng về văn học nghệ thuật, nhất là Nghị Quyết 23/ BCT, thì người viết trẻ sẽ thấy rõ trách nhiệm công dân trong sáng tác của mình hơn.

            Vốn sống của các tác giả rất mỏng. Trang văn của họ thiếu những tầng vỉa văn hóa giàu có của cha ông, thiếu hẳn  sự am tường lịch sử văn học dân tộc, vì thế tác phẩm của họ không tìm được chỗ đứng trong dòng chảy văn chương dân tộc đương đại.

Chẳng hạn, về thơ tình yêu lãng mạn, những Xuân Diệu, Nguyễn Bính, TTKH,… đã thống trị văn đàn thời 1930-1945. Bây giờ vẫn có tác giả trẻ Đồng Nai viết những bài thơ tình loại thơ 7, 8 chữ với nhạc điệu, ngôn ngữ, nỗi buồn sự cô đơn của Cái Tôi như thời Xuân Diệu, thì thơ ấy tuy mới viết, song đã cũ lắm rồi. Bởi thơ Việt đã có những nỗ lực cách tân mạnh mẽ sau 1945. Từ năm 1946, Trần Dần đã đòi “chôn Thơ Mới”, và từ năm 1956, nhóm Sáng tạo ở Sài Gòn với Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên đã chủ trương làm thơ tự do, thoát ly hoàn toàn thơ tiền chiến. Độc giả miến Bắc đọc thơ tình Hoàng Cầm. Độc giả miền Nam đọc thơ tình Nguyên Sa, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, Lý Thụy Ý. Và thế hệ Thơ Trẻ đầu thế kỷ XXI cũng đã để lại dấu ấn trong việc cách tân Thơ Việt (Văn Cầm Hải, Ly Hoàng Ly, Vy Thùy Linh, nhóm Ngựa Trời…). Tôi ngờ rằng có những tác giả chưa từng đọc thơ tình Việt Nam nên mới lặp lại người đi trước (?).

Về nghệ thuật kiến tạo tác phẩm, hình như khi viết Tùy bút, tản văn, các tác giả chưa đọc tùy bút Nguyễn Tuân, tùy bút Anh Đức, chưa đọc Ký của Hoàng Ngọc Điệp. Viết truyện ngắn, các tác giả chưa học được nghệ thuật cấu trúc truyện theo sự vận động tâm lý nhân vật của Nam Cao (truyện Chí Phèo), cách giữ bí mật cốt truyện của Nguyễn Quang Sáng (truyện Chiếc lược ngà), cách xây dựng truyện bằng nhiều tình huống liên tiếp của Nguyễn Minh Châu (Chiếc thuyền ngoài xa), kể theo phong cách Kinh thánh và chuyện cổ điển của Nguyễn Huy Thiệp (Phẩm Tiết, Vàng Lửa, Kiếm sắc), và chưa tác giả nào có những thử nghiệm các bút pháp đương đại như Chủ nghĩa Siêu thực, Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, Chủ nghĩa Hậu Hiện đại, kiểu văn chương tư tưởng (như F. Kafka, J.P.Sartre, A.Camus…)

Để giúp người viết trẻ Đồng Nai vượt lên, Hội VHNT cẩn có nhiều trại sáng tác để bồi dưỡng cho họ và tạo điều kiện cọ sát tác phẩm (những cuộc trao đổi, giới thiệu tác giả, tác phẩm) để họ tự định vị ngòi bút của mình.

THAY LỜI BẠT

            Dù các tác giả trẻ Đồng Nai mới chỉ bắt đầu hành trình văn học của mình, song đã xuất hiện những cốt cách và tài năng. Vấn đề là Hội VHNT Đồng Nai cần hết sức chăm lo cho họ. Được vậy, chúng ta có quyền hy vọng những mùa vàng văn học Đồng Nai trong thời gian không xa.

Tháng 3/ 2023

***


[1] Trần Thu Hằng-Nhân Hội nghị Viết văn trẻ lần thứ X: Sức trẻ trong sáng tác văn học ở Đồng Nai

http://baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202206/nhan-hoi-nghi-viet-van-tre-lan-thu-x-suc-tre-trong-sang-tac-van-hoc-o-dong-nai-3120426/index.htm

[2] Tổng hợp từ bài viết của các tác giả: Hoàng Ngọc Điệp, Đàm Chu Văn, Hạnh Vân, Thy Vân.

[3] https://www.qdnd.vn/van-hoa/van-hoc-nghe-thuat/sac-mau-da-dang-van-hoc-tre-duong-dai-697449)

[4] http://www.baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202209/tho-tre-dong-nai-nhung-tin-hieu-vui-qua-mot-trai-sang-tac-3136352/

[5] Xin đọc Chân dung văn nghệ sĩ-Nguyễn Huyền Quy:

Nhạc sĩ Cao Hồng Sơn mang chữ “Văn” trên hành trình an nhiên hái tuổi

Nhạc sĩ Đoàn Quang Trung: Những giải thưởng nô nức tìm về:

http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201910/nhac-si-doan-quang-trung-nhung-giai-thuong-no-nuc-tim-ve-2968427/

          Vũ Thiên Vũ và cuộc chơi sắc màu:

            http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201909/nguyen-dinh-quoc-van-chang-luc-si-trong-lang-nhiep-anh-dong-nai-2964203/

          Nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Mạnh Hà: Đi tìm nét đẹp cuộc sống đời thường

           Dương Đức Khánh và con đường đến với những giải thưởng văn chương.

           http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=1629&CatId=87

Nhà biên kịch Hoàng Tiến Điểm-Người mang niềm vui đến với mọi người.

 http://hvhnt.dongnai.gov.vn/pages/newsdetail.aspx?NewsId=2482&CatId=87

[6] What is Literature? by Jean-Paul Sartre

 

ĐÀN ỐNG TRE- Khôi Vũ

LỜI CỦA THÁC *HAY LỜI CỦA NGƯỜI ĐỒNG NAI

đọc Đàn Ống Tre Bên Kia Sông của Khôi Vũ, Nxb Đồng Nai 2013

Bùi Công Thuấn

khoivu_25028628111

Nhà văn Khôi Vũ

  1. Dòng sông Đồng Nai vẫn chảy

Đàn Ống Tre Bên Kia Sông là một tập truyện ngắn có sức hấp dẫn riêng. Với tập truyện này, nhà văn Khôi Vũ đã nói được đôi điều về quê hương Đồng Nai và để lại ấn tượng sâu sắc nơi bạn đọc. Cả tập chỉ có 8 truyện ngắn, 150 trang viết khổ nhỏ, nhưng tôi đã mất khá nhiều thời gian để đọc, bởi tôi không thể đọc nhanh được. Câu chữ cứ níu tôi lại. Khôi Vũ viết rất giản dị, nhưng câu chuyện lại có sức vang những điều được chia sẻ.

Đọc văn Khôi Vũ, tôi luôn tìm cái bí mật thi pháp đã tạo nên cái hay trong văn của anh. Tập truyện còn chứa đựng những mảng hiện thực mà tôi chưa hề biết, điều ấy làm tôi thán phục công sức anh lặn lội tìm tư liệu. Điều quan trọng là anh có khả năng hóa thân thành nhân vật, nói tiếng nói của nhân vật, từ đó lên tiếng về những vấn đề của cuộc sống. Viết về đất nước, con người Đồng Nai, chắc chắn ngòi bút của anh phải hết sức thận trọng. Nếu anh hư cấu một chi tiết nào đó không đúng, thì người Đồng Nai sẽ không còn tin anh. Tôi chúc mừng anh đã có một tập truyện khá đặc sắc. Đàn Ống Tre Bên Kia Sông là cuốn sách thứ 41 của anh được in. Anh đã có thể tự hào về một sự nghiệp văn chương của mình. Trên dòng chảy của văn chương Đồng Nai, tôi đã nhìn thấy Khôi Vũ kế tục được con đường sáng tạo của những nhà văn lớp trước như Huỳnh Văn Nghệ, Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn. Sức viết của anh thật đáng  nể.

  1. Khôi Vũ khám phá được gì về con người Đồng Nai?

Trong tập truyện này, Khôi Vũ tiếp cận với nhiều kiểu người ở miền Đồng Nai. Nhưng hình ảnh được tô đậm và tạo ấn tượng sâu sắc về con người Đồng Nai là những người “đồng chí”, cán bộ hưu trí, những người đã chiến đấu và hy sinh trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Khôi Vũ không tụng ca kỳ tích của họ mà khẳng định sức mạnh cách mạng của họ qua cuộc đối mặt với kẻ thù. Họ bám trụ, gan dạ, dũng cảm và nghĩa tình. Bảy Năng (Quán xe thồ) ở sát nách địch, đối mặt với kẻ thù suốt 21 năm . Sau cùng địch phải thú nhận chịu thua Cách mạng, bởi “Cách mạng còn giỏi hơn” chúng. Câu chuyện của Bảy Năng vừa có bi vừa có hài nhưng cái âm vang chung là chất hùng ca của một dân tộc chiến thắng. Hình ảnh “Chú Tư” (Ba của nhân vật Tôi – truyện Lời Của Thác) trong ngày dẫn quân về giải phóng Biên Hòa cũng có vui có hài, và chất anh hùng ca. Ông đi làm Cách mạng từ 1945, lúc 15 tuổi. Ba chục năm sau trở về, Biên Hòa thay đổi nhiều quá khiến ông không còn nhận ra. Khi về tới trung tâm Biên Hòa, nhìn lá cở giải phóng, ông mừng phát khóc. Ở đoạn kể này, Khôi Vũ đem đến cho người đọc cái thú vị được nhìn thấy Biên Hòa ngày xưa qua sự nhận diện của một người con Biên Hòa đi kháng chiến xa nhà. Câu chuyện thật cảm động.

Con người Đồng Nai trong xây dựng kinh tế những năm đầu giải phóng cũng được Khôi Vũ quan tâm. Đó là ông Năm Đán (Cây Buông Già), người bám trụ sản xuất, ông Tiến sĩ trồng sả, ông già Hưởng (Thầy Thuốc Búi Tó) trồng cây thuốc và bốc thuốc cho dân, người biết nhiều chuyện cổ tích, phong tục, người bảo vệ văn hóa cộng đồng. Những ngày đầu sản xuất rất khó khăn, nhưng họ kiên định con đường phủ xanh đồi trọc khu đồi Ông Thức bằng nhiều loại cây. Thành công có mà thất bại cũng có. Chủ tịch xã Tiên Phong là Sơn, đã thất bại trong việc trồng mít. Họ trăn trở nhiều khi Đồng Nai chuyển sang đời sống công nghiệp, xây thủy điện Trị An. Cái đáng quý là họ sống thẳng thắn, trọng nghĩa tình. Nói và làm đi đôi với nhau. Chuyển được cách làm cách nghĩ của họ rất khó (Cây Buông Già). Họ đối mặt với cái xấu bằng cơn giận dữ của thần Dớt (Thầy Thuốc Búi Tó)

Khôi Vũ cũng khám phá và khẳng định thế hệ thanh niên kế thừa lớp cha anh. Họ có thất bại, nhưng vẫn giữ được truyền thống kiên định, trung thực và vươn lên. Thế hệ này học được nhiều điều từ cha anh, nhưng họ phải đương đầu với những thách thức mới, và những thất bại. Đất Sóng là một truyện hay về mảng nhân vật và đề tài này. Chủ tịch xã Sơn có cha bị giặc giết. Ngay sau Giải phóng, Sơn được bầu làm Bí Thư Chi Đoàn xã Tiên Phong, rồi bầu vào Hội Đồng Nhân Dân, rồi chủ tịch xã. “Anh nghĩ đã đến lúc mình thực hiện dần những ước mơ đẹp nhất về công cuộc xây dựng thôn xã quê hương bằng trái tim nhiệt tình và đôi tay thanh niên rắn khỏe”(tr.75). Thế nhưng anh đã thất bại trong kế hoạch trồng mít, thất bại cả trong chuyện tình cảm với Bạch Lan. Sau cùng Sơn gặp lại Bạch Lan trong một hoàn cảnh bi kịch. Cô vượt biên bị bắt, rồi bị bỏ rơi, nuôi con một mình. Bản thân Sơn cũng gặp nhiều nỗi đau. Có cả Tuấn, anh Bạch Lan, đi học tập cải tạo về, quyết xây dựng lại cuộc đời. Họ nói với nhau về chim  B’rling. Khôi Vũ viết về họ “Chim B’rling là chim gì? Với Sơn, Tuấn và Bạch lan đang là hai con chim B’rling bay lên giữa thảo nguyễn đầy gió”(tr.94). Đó là một kết truyện đẹp lãng mạn, nhưng cũng là cái nhìn lạc quan về người trẻ với tấm lòng nâng niu trân trọng của nhà văn

  1. Những con người “dưới đáy”* xã hội hiện lên trong trang văn Khôi Vũ thế nào?

Tôi tạm gọi những nhân vật sống trong đời thường, bị số phận xô đẩy trôi dạt, lâm vào hoàn cảnh cùng cực là những người “dưới đáy”. Thực ra trong tập truyện còn có những nhân vật thuộc tầng lớp trí thức nữa, nhưng Khôi Vũ miêu tả hấp dẫn hơn những người lao động bình dân. Những người “dưới đáy” đó là Hổ Trâu Điên (Quán Xe Thồ) dẫn đoàn xe thồ. Hổ từng là lính Ngụy trong đơn vị Trâu Điên. Là Tuấn (Đất Sóng), chuẩn úy lính Sài Gòn, đi học tập cải tạo về. Bạch Lan, em Tuấn, một cô gái xinh đẹp, một cô giáo giỏi, vượt biên bị bắt giam, bị bỏ rơi với một đứa con trai. Hai Trước (Qua Bờ Bắc), bị vợ bỏ, chạy xe ôm nuôi con, và những Điểu Muôn, Điểu Minh, già làng Điểu Lý người dân tộc. Nhân vật trí thức có anh sinh viên Dược tên Cẩm, cô Hiền, Việt kiều, đạo diễn về thăm quê, và nhà văn “chú Hai” của Đồng Nai (Tôi đoán là nhà văn Lý Văn Sâm).

Những nhân vật này giúp người đọc nhận ra nhà văn Khôi Vũ là nhà văn của người lao động bình dân trong xã hội. Anh tiếp xúc nhiều, khắc tạc được chân dung và số phận của họ. Anh cảm thông với họ và lên tiếng nói cho họ. Cũng cần lưu ý rằng Khôi Vũ đã khám phá ra chính Cách Mạng đã tạo điều kiện cho họ trở về, hội nhập và thăng tiến. Rõ nhất là Hổ Trâu Điên. Hổ được cán bộ hưu trí Bảy Năng hướng dẫn làm ăn. Bảy Năng có cái nhìn tiến bộ về con người. Ông nghĩ “Hổ Trâu điên không phải là người xấu, nếu hướng anh ta đi trúng đường thì hay lắm.” (tr.61). Ông thường động viên Hổ. Chuẩn úy Tuấn sau khi học tập cải tạo 3 năm về, anh quyết chí làm lại cuộc đời. Anh được chủ tịch xã Sơn hỗ trợ với nhiều thiện cảm. Hai Trước chạy xe ôm, anh cảnh giác cao độ bọn cướp xe. Trước là lính Sài Gòn, người khách đi xe ôm là Sinh, lính Trường Sơn. Hai kẻ đã từng đối địch nhau giờ ngồi chung xe, trên đường rừng ban đêm. Vì lòng đầy nghi ngờ, Trước đã làm khó Sinh. Nhưng chính người lính Trường Sơn đã giúp Trước nhận ra lầm lỗi của mình, khiến cho Trước ân hận mãi. Dù đã về xa, Trước cũng muốn quay lại xin lỗi Sinh.

  1. Những giá trị của trang văn Khôi Vũ

Tôi tin rằng, ở tập truyện này Khôi Vũ đã dồn bút lực, tâm huyết và thử thách của mình để viết những trang văn giàu chất hiện thực về đất nước con người Đồng Nai. Tôi nhận ra anh sử dụng một vốn sống khá rộng, sử dụng tri thức văn hóa, tri thức lao động sản xuất, tri thức về địa lý Đồng Nai với tầm hiểu biết sâu rộng đáng tin cây (tuy đây là truyện, không phải khảo cứu khoa học). Anh không khai thác đậm nét những truyền thuyết như Lý Văn Sâm, không miểu tả sử thi cuộc kháng chiến của nhân dân Đồng Nai như Hoàng Văn Bổn, song Khôi Vũ sáng tạo được những nhân vật có bóng dáng sử thi riêng như Bảy Năng, Chú Tư (Ba tôi –Lời Của Thác). Khôi Vũ có những đoạn văn khám phá cảnh sắc Đồng Nai đặc sắc (Tr. 98). Ở đặc điểm nghệ thuật này, văn phong của Lý Văn Sâm lãng mạn hơn, còn ngòi bút của Khôi Vũ hiện thực hơn.

Tập truyện phản ánh hiện thực những ngày đầu mới giải phóng, và những vấn đề đời sống được miêu tả trong tác phẩm đến nay đã bị hiện thực vượt qua. Tuy nhiên, những câu truyện Khôi Vũ kể vẫn hay, và nhiều vấn đề vẫn có sức lay động, thức tỉnh người đọc khi đối diện với thực tại. Bởi ngoài câu truyện được kể, Khôi Vũ còn tìm ra ý nghĩa triết lý của nó. Chẳng hạn, sự vấp ngã của Sơn, Tuấn, Bạch Lan (Đất Sóng), Khôi Vũ đã nói đến bài học ở đời. Cu Tèo, con của Bạch Lan chạy bị vấp té, Tuấn  nói: “Thôi, nín đi, nín đi cu Tèo. Mày muốn lớn lên thì còn phải vấp ngã nhiều lần nữa đấy, cháu ạ”(tr 93). Câu nói của Tuấn làm Sơn xúc động và suy nghĩ. Triết lý này làm tôi nhớ đến truyện Một Con Người Ra Đời của M.Gorky. Anh sinh viên đỡ đẻ cho chị phụ nữ, rồi đem cháu bé xuống biển tắm cho nó. Nước biển tấp vào người cháu bé làm nó khóc ré lên. Anh sinh viên bảo, chú mày hãy tự khẳng định cho mạnh vào, kẻo đồng loại sẽ vặn cổ chú mày.

Truyện Lời Của Thác đặc biệt để lại ấn tượng về sự tự vấn, lòng tự trọng, về sự chân thực trong đạo đức, nhân cách làm người. Nhân vật Tôi – thằng nhỏ – có một lý lịch tốt nhờ cha là cán bộ Cách Mạng. Vì thế Tôi vào làm trong đội máy ủi, rồi xin sang làm ở khu công nghiệp Biên Hòa. Giám đốc là đàn em ba Tôi, nhờ thế Tôi được ưu tiên sắp xếp công việc, kể cả việc thay thế trưởng phòng kỹ thuật. Tôi che dấu sự thiếu năng lực, Tôi là một “tài năng giả”. Tôi nhận rõ nhược điểm của mình và sống dằn vặt, trăn trở khôn nguôi. Điều phải đến đã đến như một tất yếu. Bản thiết kế máy X5 của Tôi thất bại ngay khi chạy thử. Tôi buộc phải trở về đúng với năng lực thực của mình. Tiếng nói trong thâm tâm hành hạ Tôi mãi:” Tôi đã sống giả. Tôi không còn là tôi nữa. Tôi đánh mất chính cả lòng dũng cảm kkhông thốt được một câu thực lòng với ba tôi. Tôi chỉ nói dối”(tr 106). Điều đáng quý là nhân vật Tôi đã thức tỉnh và sống thực với chính khả năng cuả mình, không dựa vào uy tín Cách Mạng của cha mà thăng quan tiến chức. Trong cuộc sống nay không biết có còn được một người trung thực, biết tự trọng, biết giữ gìn nhân cách như Tôi không? Ngòi bút Khôi Vũ trong truyện này mổ xẻ những giằn vặt tâm hồn của Tôi thật nặng tình nặng nghĩa, nhờ đó bảo vệ được nhân vật lý tưởng của mình, nhân vật kế thừa những phẩm chất cách mạng của cha anh.

 Sự hấp dẫn của ngòi bút Khôi Vũ

Tôi đã suy nghĩ khá lâu về sự hấp dẫn của ngòi bút Khôi Vũ khi theo dõi con đường sáng tác của anh qua nhiều tác phẩm. Và tôi vẫn chưa trả lời được với những chứng lý đủ sức thuyết phục chính mình.

Cái “bí mật” của thi pháp Khôi vũ là câu chuyên được kể rất tự nhiên, cách kể gọn, tốc độ phát triển truyện nhanh, giọng văn điềm tĩnh sáng suốt. Nhưng những yếu tố này chưa là đặc trưng ngòi bút Khôi Vũ. Điều tôi quan sát thấy là, Khôi Vũ nhìn ra vấn đề trong những truyện đời thường, chuyện của anh xe ôm, anh xe thồ; chuyện của cô gái vượt biên bị bắt, bị phụ tình; chuyện của người con cán bộ; chuyện trồng sả, trồng mít; chuyện ông già chặt lá buông bám trụ, chuyện lụt năm Thìn, chuyện bọn buôn lậu tránh kiểm soát, chuyện Điểu Muôn cứu người mà bị nạn. Vâng, nếu không có một chủ đề, tư tưởng tốt thì truyện không thể đứng được. Lời Của Thác là một truyện đặc sắc về tư tưởng, mặc dù cốt truyện không có nhiều biến cố.

Khôi Vũ khá vững tay khi miêu tả những cuộc “đụng độ” giữa người với người, hoặc vì khác chế độ, hoặc vì khác hoàn cảnh, hoặc vì khác cá tính. Chẳng hạn cuộc “đấu tranh” giữa Hổ Trâu Điên, lính Ngụy với cán bộ Cách Mạng hưu trí Bảy Năng, đối mặt giữa Bạch Lan và chủ tịch xã Sơn, sự nổi giận như thần Dớt của ông già Hưởng với Cẩm, của Tôi với chính Tôi trong những giằn vặt nội tâm khi đối mặt với hiện thực. Miêu tả thành công những cuộc đối mặt này, không chỉ là tài năng dựng truyện, tạo sự hấp dẫn, mà còn là bản lĩnh một nhà văn trong việc xử lý những vấn đề gai góc của hiện thực. Nếu ngòi bút Khôi Vũ nghiêng bên này hoặc ngả bên kia, tức khắc sẽ là hữu khuynh hay tả khuynh, thiếu sức thuyết phục. Ở đây, sự trung thực của ngòi bút Khôi Vũ vừa là một đặc điểm thi pháp, vừa là phẩm chất và bản lĩnh đáng quý của nhà văn

Khôi Vũ có cách cấu trúc truyện khéo léo và kín đáo, kết thúc truyện với tình huống bất ngờ, nhờ đó bật ra chủ đề cùng và khơi gợi được nhiều cảm xúc thẩm mỹ. Kết truyện Lời Của Thác, Đất Sóng đem lại bao nhiêu suy tư, bao nhiêu cảm xúc cho người đọc. Lời của nhân vật má Tôi mở ra một thế giới nghệ thuật đầy cảm động. Cũng vậy, cuộc gặp gỡ giữa Sơn và Bạch Lan ở cuối truyện Đất Sóng là sự sắp xếp của tác giả, để tạo nên một chủ đề sâu sắc và nhân hậu. Sơn có đầy ưu thế về lý lịch và điều kiện nhưng Sơn vẫn thất bại. Bạch Lan là một cô gái có cá tính mạnh mẽ, cũng thất bại. Tuấn là con người chiến bại, sớm nhận ra con đường tự làm lại cuộc đời của  mình. Ba con người trong những hoàn cảnh đối nghịch đã gặp nhau. Họ ngộ ra chân lý này, không phải có ưu thế quyền lực xã hội thì làm gì cũng thành công, điều giúp họ sống được, vươn lên được là tình người. Sơn đã không nhìn Tuấn và Lan với con mắt của người chiến thắng với những người chiến bại. “Sơn lại nhìn ra một hình ảnh khác. Trên vùng đất đồi này, đất lượn sóng, đất làm khó con người, cuối cùng rồi vẫn phải mặc chiếc áo màu xanh ấm áp, từ giã những ngày trần trụi, tự mãn, lầm lạc. Những mảnh đời cũng đã trăn trở như cuộc đời vùng đất cuối cùng đã hiểu mình hơn”(Đất Sóng-tr 94).

Trong tập truyện ngắn này, Khôi Vũ sử dụng thành công kỹ thuật viết tiểu thuyết để dàn dựng một truyện ngắn. Câu truyện đang diễn ra trong hiện tại, hiện thực trùng trùng lớp lớp. Anh cũng sử dụng kỹ thuật hồi tưởng khéo léo. Nếu xâu chung truyện của các nhân vật lại, có thể tập truyện ngắn trở thành một tiểu thuyết viết theo kỹ thuật mới. Đó là câu chuyện về số phận nhiều nhân vật ở cùng đồi Ông Thức từ 1945 đến sau giải phóng. Hiện thực đan xen vào nhau, yếu tố thời gian được làm nhòa để chỉ còn lại vấn đề con người, vấn đề làm sao để vượt lên trên số phận trong những tình cảnh nghiệt ngã. Chất nhân hậu thẫm đẫm trong từng chi tiết của ngòi bút Khôi Vũ (chẳng hạn, tiếng ru của cô gái Bắc – Bạch Lan- làm xốn xang lòng Sơn, hoặc chi tiến ba Tôi lặng im trước lỗi lầm của Tôi).

Tôi tin rằng, đọc tập truyện ngắn Đàn Ống Tre Bên Kia Sông, bạn đọc sẽ yêu quý hơn vùng đất “gian lao mà anh dũng” , và nhận ra Khôi Vũ là nhà văn có dáng nét riêng bên cạnh những nhà văn lớn khác của Đồng Nai. Tác phẩm của anh thực sự góp phần làm giàu thêm nét đẹp của một vùng văn hóa có truyền thống lâu đời.

Tháng 12. 2012

_________________________

(*) Lời của Thác là tên một truyện ngắn trong tập Đàn Ống Tre Bên Kia Sông

(*) Dưới đáy là chữ của M. Gorky

45 NĂM VĂN HỌC ĐỒNG NAI-TỔNG QUAN

Bạn có thể đọc các bài viết chính của Bùi Công Thuấn theo link:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

TỔNG QUAN 45 NĂM PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC ĐỒNG NAI

Bùi Công Thuấn

***

BỐI CẢNH LỊCH SỬ-XÃ HỘI

            Ngày30/4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ hoàn tòan thắng lợi. Đất nước bước vào kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất; hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và phát triển. Không khí chiến thắng bao trùm thời đại. Các nhà văn từ chiến trường bước ra đầy ắp vốn sống, với bao nhiêu là dự định sáng tác. Văn học tiếp tục dòng “Văn học cách mạng và kháng chiến” (1945-1975).

          Những năm trước “đổi mới” (1975-1985), đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng do nhiều nguyên nhân trong nước và do tình hình chính trị thế giới: hậu quả của 30 năm chiến tranh, của nền kinh tế bao cấp; cùng lúc, phải đối mặt với chiến tranh xâm lược từ biên giới phía bắc và phía tây nam… Tính hình ấy đã làm phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực xã hội. Văn học đã bắt đầu lên tiếng trước những hiện tượng tha hóa đạo đức, lối sống trong cộng đồng (thí dụ: Hoàng Văn Bổn viết tiểu thuyết Tình đời đen bạc (1988), tập truyện ngắn Người điên kể chuyện người điên (1992).

            Khi Đảng thực hiện sự nghiệp “đổi mới” (từ 1986 trở đi), lịch sử Việt Nam chuyển sang một thời kỳ mới: phát triển “kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa” và hội nhập toàn cầu hóa; tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, “xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” (Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh). Nhờ vậy, đất nước bước vào thời kỳ phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Tinh thần chung của thời đại là hòa hợp hòa giải dân tộcViệt Nam làm bạn với thế giới. Đến nay Việt Nam đã có một vị thế vững chắc trên trường quốc tế và hội nhập thành công ở nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị.

Tuy vậy, khi thực hiện công nghiệp hóa, hội nhập toàn cầu, đời sống xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi. Đặc biệt là tình trạng xâm lăng văn hóa diễn ra ở nhiều lĩnh vực (thí dụ: sự lai căng của các ca khúc nhạc trẻ, phim ảnh nào cũng có cảnh “giường chiếu”; lối sống thực dụng trở thành xu thế đời sống thị trường, văn chương thị trường đã có lúc gây lo ngại vì tràn ngập sex, truyện ngôn tình…)

Trong đời sống văn học nghệ thuật, từ cuối thế kỷ XX, có sự du nhập của nhiều lý thuyết văn học vào Việt Nam. Chẳng hạn, một bộ phận người viết trẻ sử dụng những thủ pháp Hậu Hiện đại. Người ta định “giải thiêng” những giá trị văn hóa dân tộc, lật đổ những “đại tự sự”, những tín niệm của một thời lịch sử (tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, hoặc trong “thơ Trẻ” đầu thế kỷ XXI…).

Sự ra đời của Nghị quyết Hội nghị lần thứ V- Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VIII) “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đập đà bản sắc dân tộc” (ngày 16. 7. 1998), và nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới đã mở ra một thời kỳ phát triển mới cho văn học nghệ thuật Việt Nam.

Văn học Đồng Nai cũng phát triển trong bối cảnh chung của lịch sử xã hội Việt Nam 45 năm qua.

NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC

          1.Nhân tố thứ nhất là sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Đồng Nai. Ngày 31-7-1979, UBND tỉnh Đồng Nai ra quyết định công nhận Hội VHNT tỉnh Đồng Nai. Từ đây, văn nghệ sĩ trên địa bàn Đồng Nai được quy tụ lại, cùng hoạt động trong một tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong các kỳ Đại hội Hội VHNT Đồng Nai, các cuộc gặp gỡ văn nghệ sĩ đầu năm mới, lãnh đạo tỉnh Đồng Nai luôn đến dự và có ý kiến chỉ đạo tại:

            “Hội Văn học nghệ thuật Đồng Nai được thành lập từ năm 1979, trải qua 4 nhiệm kỳ đại hội, văn nghệ sĩ tỉnh nhà đã chung tay gánh vác sứ mệnh người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, luôn đồng hành cùng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh nhà trong quá trình xây dựng và phát triển. Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đồng Nai luôn coi trọng vai trò, vị trí của văn học nghệ thuật và đánh giá cao những đóng góp của anh chị em văn nghệ sĩ trong sự nghiệp xây dựng và phát triển tỉnh nhà; xác định văn học nghệ thuật là lĩnh vực đặc biệt tinh tế của văn hóa, là một trong những động lực to lớn, trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội, nhiều năm qua, Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đồng Nai đã kịp thời cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước bằng các chương trình, kế hoạch cụ thể, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Hội Văn học nghệ thuật tỉnh nhà ngày càng phát triển, nhất là trong hoạt động sáng tác của văn nghệ sĩ. Tuy còn có những cách đánh giá khác nhau về cùng một vấn đề nhưng Đảng bộ và chính quyền tỉnh Đồng Nai luôn tôn trọng, đảm bảo quyền tự do sáng tạo, phát huy tính độc lập, khuyến khích mọi nguồn lực sáng tạo của anh chị em văn nghệ sĩ tỉnh nhà”[[1]]

Các báo cáo tổng kết nhiệm kỳ, Chủ tịch Hội VHNT Đồng Nai luôn đặt việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh làm tiêu chuẩn hàng đầu: “Trong nhiệm kỳ qua, Hội đã thành lập Đảng đoàn gồm các đảng viên là ủy viên Ban Chấp hành. Thông qua Ban Thường trực và Ban Chấp hành, Đảng đoàn đã kịp thời triển khai các Nghị quyết của Đảng và Chỉ đạo của Tỉnh ủy về các mặt hoạt động thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Hội [[2]].

Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của UBND Tỉnh Đồng Nai là yếu tố quyết định sự thành công của hoạt động của Văn học nghệ thuật tỉnh Đồng Nai. Đó là việc tổ chức đội ngũ, việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, việc tổ chức các hoạt động phong trào, về khen thưởng (Giải Trịnh Hoài Đức và giải thường hàng năm của Hội VHNT Đồng Nai).

Trong Hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 13/4/2023 do Ban Thường vụ trung ương (Ban TVTU) tổ chức, Phó bí thư thường trực Tỉnh ủy Đồng Nai đã nhận định: Hoạt động VHNT ngày càng bám sát nhiệm vụ chính trị của địa phương, bám sát thực tiễn đời sống xã hội. Nhiều tác phẩm VHNT đã tập trung phản ánh về đời sống nông nghiệp, nông thôn và nông dân, gắn với miêu tả cuộc sống mới, con người mới…

Ông cho biết: tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai, tuyên truyền sâu sắc đến cán bộ, đảng viên, hội viên và quần chúng nhân dân về quan điểm, đường lối văn hóa nêu trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (nhiệm kỳ 2020-2025). Thực hiện có hiệu quả các nội dung về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái thù địch trong tình hình mới; gắn nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo phát triển VHNT với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh [[3]].

            2.Nhân tố thứ hai là đường lối văn học nghệ thuật của Đảng. Đề Cương văn hóa Việt Nam (1943) và Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam (1948) là những cương lĩnh về văn hóa văn nghệ của Đảng trong giai đoạn kháng chiến (1945-1975). Khi đất nước hòa bình và hội nhập toàn cầu hóa, các Nghị quyết Trung ương 5 (16/7/1998) và Nghị quyết 23/ BCT khóa X (16/6/2008) đã mở ra con đường phát triển rất rộng cho văn học:

Mục tiêu: “xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và khuyến khích sáng tạo: “Trên nền tảng mỹ học mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh, khuyến khích văn nghệ sĩ bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân dân, bảo vệ, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại; lên án, phê phán không khoan nhượng những tiêu cực, xấu xa đang cản trở sự phát triển của đất nước và con người Việt Nam”. Quan điểm chỉ đạo là: “Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ” (Nghị quyết 23/BCT đd).

Thời gian qua đã khẳng định các Nghị quyết của Đảng đã đáp ứng được khát vọng sáng tạo của văn nghệ sĩ, và mở ra một thời đại văn học mới sau văn học kháng chiến (1945-1975): “Văn chương hội nhập toàn cầu hóa”.

            3.Nhân tố thư ba là sự giao lưu văn hóa toàn cầu giúp đổi mới nghệ thuật văn chương. Các lý thuyết văn học, các trào lưu tư tưởng, các khuynh hướng, làn sóng văn hóa (trend) phương tây tràn vào đời sống văn hóa nghệ thuật Việt, được văn nghệ sĩ Việt thử nghiệm, tạo ra một bộ mặt mới. Ở phần ý thức sáng tạo, đã có những đòi hỏi viết khác với Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Trên các diễn đàn, nhiều tranh luận về Hậu Hiện đại. Thơ bây giờ không chỉ đọc mà khán giả có thể xem trình diễn thơ. Có một nỗ lực cách tân thơ Việt mạnh mẽ đầu thế kỷ XXI. Truyện Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư (2005), Bóng đè (tập truyện ngắn) của Đỗ Hoàng Diệu (2005) đã tạo nên một cuộc tranh luận rất ồn ào đương thời.

Trong cuộc hội nhập, văn chương Việt Nam đã có lúc lệch lạc [[4]]. Tuy nhiên Văn học Đồng Nai vẫn giữ được phẩm chất chính trị của nền văn học cách mạng.

            4.Nhân tố thứ tư là vai trò tích cực của Hội Văn học nghệ thuật Đồng Nai.

Đây là đánh giá của Tỉnh ủy Đồng Nai:

“Điểm nổi bật trong nhiệm kỳ qua là hầu hết anh chị em văn nghệ sĩ luôn tỏ rõ sự vững vàng về quan điểm chính trị, đúng đắn về phương pháp sáng tác theo các xu hướng nghệ thuật tiến bộ, không bị ảnh hưởng tiêu cực bởi mặt trái của cơ chế thị trường cũng như sự xâm nhập của các trào lưu văn hoá xa lạ, ngoại lai. Trên chặng đường sáng tác phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ tỉnh, văn học nghệ thuật tỉnh nhà trong nhiệm kỳ qua đã sinh thành nhiều tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, khắc hoạ sinh động đời sống kinh tế, xã hội cùng truyền thống văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc về vùng đất và con người Biên Hòa – Đồng Nai trong quá trình hình thành, phát triển và hội nhập. Với con số 1.400 tác phẩm văn học, sân khấu, âm nhạc, nhiếp ảnh, mỹ thuật… được công bố, trong đó nhiều tác phẩm xuất sắc được tặng thưởng các giải văn học nghệ thuật ở địa phương, Trung ương và quốc tế…”[[5]].

Công tác tổ chức của Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai (hạt nhân là Ban Chấp hành các nhiệm kỳ), cùng với, nỗ lực sáng tạo của mỗi nhà văn đã tạo nên diện mạo nhiều góc cạnh, nhiều màu sắc thẩm mỹ của văn học Đồng Nai.

Chi Hội Nhà văn Đồng Nai là một đội ngũ hùng hậu về tài năng, gồm các nhà văn: Bùi Quang Tú (1948-2023), Khôi Vũ (Nguyễn Thái Hải), Nguyễn Một (Dạ Thảo Linh), Nguyễn Trí, Trần Thu Hằng, Hoàng Ngọc Điệp, Pham Thanh Quang, Lê Đăng Kháng, Dương Đức Khánh, Đào Sỹ Quang; các nhà thơ Lê Thanh Xuân, Đàm Chu Văn, Trần Ngọc Tuấn, Đỗ Minh Dương, Nguyễn Đức Phước, Minh HạBùi Công Thuấn (Lý luận phê bình). Nhiều nhà văn trong Chị Hội Nhà văn Đồng Nai đã đạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam.

5. Hiện thực công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hoá và hội nhập toàn cầu hóa là hiện thực mới xuất hiện,  “văn nghệ sĩ bám sát thực tiễn của đất nước, gắn bó với cuộc sống của nhân dân”, làm phát sinh một nền văn học mới.

                                                      ***

45 NĂM PHÁT TRIỂN CỦA VĂN HỌC ĐỒNG NAI

Một vài lưu ý.

1. Khi xem xét “sự phát triển” của văn học Đồng Nai, tôi tìm kiếm những yếu tố nghệ thuật, tư tưởng mới mà giai đọạn trước đó chưa có. Một nền văn học không xuất hiện “Cái Mới” thì đó là sự trì trệ, bởi vì Nghệ thuật là sự sáng tạo (tức là làm ra Cái Mới). Cho nên “đổi mới” ngòi bút (tư tưởngthi pháp) luôn là đòi hỏi cấp thiết đối với cả nền văn học và đối với từng nhà văn. Chẳng hạn, thơ Lục bát hôm nay, có gì mới hơn Lục bát truyền thống?

2.Khi xem xét sự phát triển của văn học Đồng Nai, tôi đặt trên hệ quy chiếu, một trục là đường lối văn nghệ của Đảng, để xét xem văn học phục vụ nhiệm vụ chính trị thế nào; một trục là sự vận động nội tại của văn học Đồng Nai trong 45 năm qua. Từ đó xác định giá trị đóng góp của văn học Đồng Nai vào sự phát triển của văn học Việt Nam đương đại.

3. Chuyên luận này không phải là “lịch sử văn học Đồng Nai” nên các sự kiện văn học không được trình bày theo lịch sử biên niên. Tôi tập trung quan sát, ghi nhận “sự phát triển” của văn học Đồng Nai ở một vài phương diện chính như: sự phát triển đội ngũ, những thành tựu về sáng tác, sự đổi mới nghệ thuậtsự đa dạng về phong cách.

Quan tâm đến những vấn đề tổng quát, tôi không thể viết từng chương riêng về mỗi nhà văn; và vì lý do tư liệu, những đánh giá của tôi chưa thể bao quát đầy đủ về một tác giả, một thể loại hay một giai đoạn văn học.

Lẽ ra cần viết một chương về các giai đoạn: giai đoạn chuyển tiếp (1975-1985); giai đọạn “đổi mới” (1986-2000), giai đoạn hội nhập (đầu thế kỷ XXI đến nay), và một chương về 3 dòng văn học: Văn học Cách mạng và kháng chiến, Văn học nhân văn-dân chủ Văn chương thị trường. Nhưng ở Đồng Nai, 3 dòng văn học trên giao thoa nhau, việc viết riêng từng dòng văn học sẽ  có sự chồng chéo. Thí dụ những tác phẩm văn học Nhân văn-dân chủ của Nguyễn Một, Nguyễn Trí, Khôi Vũ cũng  có khuynh hướng Văn chương thị trường.

Trong thực tế, ở Đồng Nai, dòng Văn học Cách mạng và kháng chiến là chủ đạo. Còn lại, chỉ một vài tác giả tham gia được với Văn chương thị trường (Khôi Vũ, Nguyễn Một, Nguyễn Trí). Một vài tác phẩm viết với tinh thần Nhân văn-dân chủ chỉ xuất hiện ở giai đoạn “đổi mới”.

              NGƯỢC DÒNG

            Trước khi nói về sự phát triển của 45 năm văn học Đồng Nai sau 1975, ta hãy ngược dòng về những cội nguồn, bởi văn học phát triển trong sự kế thừa những đặc điểm tư tưởng-nghệ thuật của giai đoạn trước, thế hệ sau đi tiếp con đường của thế hệ trước, những kiểu tư duy nghệ thuật xuất hiện sau bao giờ cũng mang trong nó những nguồn mạch có trước.

            Văn học Đồng Nai trong dòng chảy lịch sử trước 1975 có thể kể đến Gia Định Tam Gia (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tĩnh), Huỳnh Văn Nghệ, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Tất Nhiên. Tôi không đặt Huỳnh Tịnh Của và Nguyễn Trọng Quản vào văn học Đồng Nai bởi vì,[[6]] Huỳnh Tịnh Của (1830-1919) quê ở làng Phước Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa, ông học tại  Penang (Malaysia) và làm việc tại Sài gòn; còn Nguyễn Trọng Quản (1865-1911) sinh tại Bà Rịa, cũng làm việc tại Sài Gòn.

1.Năm 1822, Trịnh Hoài Đức khắc in tập Gia Định tam gia thi. Tập thơ là thơ in chung của “Gia Định tam gia” [[7]] gồm: Cấn Trai thi tập (327 bài)của Trịnh Hoài Đức (1765-1825), Hoa Nguyên thi thảo (77 bài) của Lê Quang Định (1759-1813) và Thập Anh thi tập (187 bài) của Ngô Nhân Tĩnh (1761-1813). Gia Định tam gia thi nằm trong dòng văn chương Hán Nôm Nam bộ đầu thế kỷ XIX [[8]], thời kỳ đầu nhà Nguyễn. Cùng thời là Nguyễn Du (1766-1820), Nguyễn Công Trứ (1778-1859)…Sau đó là Phan Thanh Giản (1796 – 1867), Huỳnh Mẫn Đạt (1807 – 1883), Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872), Nguyễn Hữu Huân (1816-1875), Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), Nguyễn Thông (1827-1884), Phan Văn Trị (1830-1910), Tôn Thọ Tường (1825-1877)…

Thơ của Gia Định tam gia nằm trong xu hướng của văn học giai đọan này: đó là sự thể hiện lý tưởng “trung quân ái quốc”, lòng tự hào dân tộc (thơ đi sứ) và tình yêu quê hương, gắn bó với nhân dân và tâm tình thế sự. Đặc biệt là thơ của Trịnh Hoài Đức. Ông có thơ đi sứ (1802) và thơ làm khi ông làm Điền Tuấn trông coi việc khai khẩn đất đai ở Gia Định (1789) [[9]]. Xin đọc các bài: Gia Định kim thành (Thành vàng Gia Định), Hoa phong cổ lũy (Lũy cổ Hoa Phong), Lộc động tiểu ca (Tiếng hát ông tiều ở Hố Nai), Quất xã táo ti (Làng quất ươm tơ), Tân Triều đãi độ (Đợi đò bến Tân Triều) Thương loạn, Loạn hậu cửu nhật đăng Mai Khâu

LỘC ĐỘNG TIỀU CA

(Gia Định tam thập cảnh-Trịnh Hoài Đức)

Phong phi tiều phát bạch bà bà,
Lộc động sơn trung suất tính ca.
Dã điệu thanh tòng khảm thụ chấn,
Thôn xoang vận dữ lưu tuyền hoà.
Vân phi hữu ý liên cửu,
Hạc thị tri âm quyến luyến đa.
Nhật mộ quy lai lão phụ vấn,
Vi ngôn tằng kiến Tấn đồng đà.

 Dịch nghĩa

Tiếng hát ông tiều ở Hố Nai

Gió thổi tung mái tóc trắng phau phau của ông tiều,
Hát hồn nhiên trong núi ở Hố Nai.
Điệu quê tiếng theo nhịp chặt cây chấn động,
Vận hoà cùng tiếng suối chảy.
Mây không phải là hữu ý mà lưu liên mãi,
Hạc là tri âm quyến luyến nhiều.
Trời tối về nhà bà vợ hỏi,
Nói là từng thấy con lạc đà đồng đời Tấn.

Dịch thơ (Hoài Anh)

Gió đùa mái tóc trắng phau phau,
Tiều hát hồn nhiên trong núi sâu.
Điệu mộc tiếng theo cây đẵn gục,
Lời quê vần hoạ suối tuôn mau.
Mây không có ý lưu liên mãi,
Hạc ấy tri âm quyến luyến nhiều.
Chiều tối trở về bà lão hỏi,
Đà đồng đời Tấn dấu lần theo.
(Nguồn: Hoài Anh, Gia Định tam gia, NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2006. Tr.162)

2.Huỳnh Văn Nghệ (1914-1977) [[10]] sinh tại làng Tân Tịch, Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là Bình Dương). Lúc nhỏ, ông học bậc tiểu học tại làng Mỹ Lộc, quận Tân Uyên, được học bổng bậc trung học của Trường Petrus Ký. Tốt nghiệp bằng Thành Chung năm 1932, ông vào làm công chức tại Sở Hỏa xa Đông Dương (Sài Gòn). Năm 1937, ông được bí mật kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1942, bị Pháp truy bắt, ông đào thoát sang Thái Lan. Năm 1944, ông về nước, bắt liên lạc với Trần Văn Giàu (Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ) và được giao lập khu nghĩa quân Đất Cuốc tại quê hương Tân Uyên, Biên Hòa. Tháng 7/1945, ông tham gia Tổng khởi nghĩa, sau đó được giao nhiểu chức vụ quân sự. Ông đã chỉ huy nhiều trận đánh lớn tại miền Đông, đặc biệt với trận La Ngà ngày 1 tháng 3 năm 1948. Năm 1953, ông được cử ra Bắc học tập và tiếp tục công tác trong Quân đội với hàm Thượng tá, Năm 1965, ông trở về miền Nam công tác tại Trung ương Cục miền Nam.

Ông được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2010), Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (2007).

Tác phẩm:

– Thơ Đồng Nai (1949);

– Bên dòng sông xanh (thơ, 1988);

– Thơ Huỳnh Văn Nghệ (1998);

– Huỳnh Văn Nghệ tác giả tác phẩm (2008).

Huỳnh Văn Nghệ viết bài thơ Nhớ Bắc năm 1940 (có tư liệu nói ông làm năm 1946 tại chiến khu Đ) với những câu thơ hào sảng nặng tình non nước:

Ai về Bắc, ta đi với

Thăm lại non sông giống Lạc Hồng

Từ độ mang gươm đi mở cõi

Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.

Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn Hoàng

Mà ta con cháu mấy đời hoang

Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ

Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương!

Vẫn nghe tiếng hát trời quan họ

Xen nhịp từng câu vọng cổ buồn

Vẫn nhớ, vẫn thương mùa vải đỏ

Mỗi lần man mác hương sầu riêng…

Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên

Chinh Nam say bước quá xa miền,

Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm!

Muốn trở về quê, mơ cánh tiên.

Ai đi về Bắc xin thăm hỏi

Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa

Hoàn Kiếm hồn xưa Linh Quy hỡi

Bao giờ mang kiếm trả dân ta?

                                         (Ga Sài Gòn, 1940)

            3. Bình Nguyên Lộc (1914-1987)

                        (Tóm tắt tư liệu của Thụy Khuê [[11]])

      Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh tại làng Tân Uyên, tổng

 Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai); Năm 1935 ông vào làm công chức ở kho bạc Thủ Dầu Một. 1936, đổi về Sài Gòn làm kế toán viên ở Tổng Nha Ngân Khố. Tháng tám 1945, bỏ việc, tham gia kháng chiến. 1946, hồi cư về Lái Thiêu và 1949 rời Lái Thiêu về hẳn Sài Gòn viết văn làm báo. Năm 1985 định cư tại Hoa Kỳ.

Tác phẩm: Theo Nguyễn Ngu Í, Bình Nguyên Lộc đã viết khoảng 820

truyện ngắn (in 5 tập), 52 tiểu thuyết (in 11 quyển). Tiêu biểu là:

Thơ: Thơ tay tráiViệt sử trường ca và Thơ ba Mén (tiểu thuyết thơ).

Dân tộc học và ngôn ngữ học: Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt

Nam (1971), Lột trần Việt ngữ (1972)…

Truyện ngắn: Nhốt gió (1950), Ký thác (1960), Cuống rún chưa

 lìa (1969), Nụ cười nước mắt học trò (1967)…

Tạp bút: Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên

 Lộc (1966).

 Truyện dài: Đò dọc (1959), Gieo gió gặt bão (1960), Ái ân thâu ngắn cho dài

 tiếc thương (1963), Mối tình cuối cùng (1963), Bóng ai qua ngoài song cửa (1963), Bí mật của nàng (1963), Đừng hỏi tại sao (1965), Một nàng hai chàng (1967), Thầm lặng (1967), Trăm nhớ ngàn thương (1967), Uống lộn thuốc tiên (1967), Đèn Cần Giờ (1968), Diễm Phương (1968), Sau đêm bố ráp (1968), Khi Từ Thức về trần (1969), Nhìn xuân người khác (1969) Tỳ vết tâm linh (?), Lữ đoàn mông đen (2001)…

Thụy Khuê nhận xét: “Bình Nguyên Lộc tiếp nối truyền thống tiểu thuyết Tự

Lực Văn Đoàn. Ông chưa mở ra được một hướng đi mới cho tiểu thuyết như ông đã làm cho truyện ngắn: ảnh hưởng Khái Hưng, Nhất Linh bàng bạc trong cách phát triển kỹ thuật truyện dài. Cuốn Đò dọc (1959) được giải thưởng văn chương toàn quốc 1960 (của miền Nam), mang dấu ấn truyện tâm lý viết theo lối Bắc, khác hẳn lối viết của Hồ Biểu Chánh…”.

Đò dọc viết về gia đình ông bà Nam Thành và bốn người con gái. Ông đặt tên là Hương, Hồng, Hoa, Quá, Thơm. Suốt 10 năm ở Sài Gòn, “Nhà ông Nam Thành ở trong ngõ hẻm ba mươi căn đường Võ Tánh, ngang hông thành Ô-Ma”.Ông ở căn bìa hết và chuyên bán rương và va li da cho quân nhân Pháp. Trước kia ông là thầy giáo Hải, giáo làng, ở một xó hẻo lánh trong tỉnh Bặc Liêu. Hai vợ chồng trôi giạt lên Sàigòn với bốn đứa con gái, một gói áo quần cũ và hai bàn tay không. Gia đình ở đậu nhà người bà con, tại căn nhà bây giờ”. Năm 1954, khi người Pháp rút khỏi Việt Nam, ông dọn về làng Linh Chiểu nằm bên con đường Thiên Lý (tức quốc lộ 1A ngày nay, khoảng giữa Thủ Đức và Biên Hòa).  

Về truyện ngắn, “Tất cả những chủ đề lớn trong văn chương đều đã xuất hiện trong Nhốt giócon người và thiên nhiên, con người và đất nước, con người và cõi âm, di dân và sống còn, với một giọng văn quê mùa, khiêm tốn. Ông kể chuyện dềnh dang như những người ít học, nhưng không phải người nhiều chữ nào cũng có khả năng đọc và hiểu ông; ngược lại người bình dân chắc chắn thấm lối kể chuyện của ông, bởi Bình Nguyên Lộc là lương tâm của họ, ông nói tất cả những gì họ nghĩ mà không viết ra được”… 

…Rừng mắm như một ký thác của Bình Nguyên Lộc về chuyện mở nước, giữ đất, giữ bờ. Văn Bình Nguyên Lộc là văn kể chuyện, ông không viết văn như một người làm văn, mà ông kể chuyện như một bà già tràu có kho tàng ngôn ngữ và văn hóa bất tận về dân tộc”.

 4. Nguyễn Tất Nhiên (1952-1992) [[12]] tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh tại quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa, học tại trường Ngô Quyền Biên Hòa (1963-1970). Nguyễn Tất Nhiên làm thơ ngay khi còn trên ghế nhà trường. Thơ tình Nguyễn Tất Nhiên rất trẻ trung, hồn nhiên, mộc và lạ. Ông nổi tiếng khi được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc (các bài: “Thà như giọt mưa”, “Em hiền như ma sơ”, “Cô Bắc Kỳ nho nhỏ”,…)

Tác phẩm đã in:

Nàng thơ trong mắt (thơ, Biên Hòa, 1966, cùng với Đinh Thiên Phương)

Dấu mưa qua đất (thơ, Biên Hòa, 1968, cùng với bút đoàn Tiếng Tâm Tình)

– Thiên Tai (Thơ, 1970)

Thơ Nguyễn Tất Nhiên (thơ góp nhặt từ 1969-1980, Nxb Nam Á – Paris in lần

đầu tiên năm 1980)

Những năm tình lận đận (tập nhạc 1977-1984, Nxb Tiếng Hoài Nam, Hoa Kỳ

1984)

Chuông mơ (Thơ từ năm 1972-1987, Nxb Văn Nghệ – California, 1987)

-Tâm Dung (thơ, Người Việt 1989)

Xin đọc:

Cô Bắc kỳ nho nhỏ

Đôi mắt tròn, đen, như búp bê
Cô đã nhìn anh rất… Bắc Kỳ
Anh vái trời cho cô dễ dạy
Để anh đừng uổng mớ tình si

Anh vái trời cho cô thích mộng
Để anh ngồi kể chuyện nằm mơ
“Đêm qua có một chàng bươm bướm
Nguyện chết khô trên giấy học trò”

Anh chắc rằng cô sinh trong Nam
Cảnh tượng di cư chắc lạ lùng?
Khi nghe ai luyến thương Hà Nội
Chắc cô nghe bằng tim dửng dưng

Anh vái trời cho cô dửng dưng
Coi như Hà Nội – xứ hoang đường
Để anh còn dắt cô đi dạo
Còn rủ cô vào rạp cải lương

Anh vái trời cô thích cải lương
“Thích kẻ anh hùng diệt bạo tàn”
Mốt mai thê thảm quanh đời sống
Cô sẽ còn đôi chút lạc quan

Đôi mắt tròn, đen, như búp bê
Cô chớ nhìn thiên hạ lận lường
Mà hãy nhìn anh cây lắm chuyện
Nhưng còn con trẻ chuyện yêu đương

1973
(Nguồn: Thơ Nguyễn Tất Nhiên, NXB Nam Á, Paris 1982)

***

Dòng chảy lịch sử văn học ấy để lại gì cho sự phát triển văn học Đồng Nai sau 1975?

Trước hết là sự khác biệt:

1.Khác biệt về thời đại quyết định sự khác biệt về văn chương. Thời của Gia Định tam gia là thời của nhà Nguyễn lập quốc (đầu thế kỷ XIX). Sau đó lịch sử Việt Nam trải qua gần 100 năm chống Pháp (1858-1945), 30 năm đấu tranh chống Pháp, Mỹ đễ giữ nền độc lập (1945-1975), và sau 1975 là thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh, “đổi mới” (công nghiệp hóa, hiện đại hóa) và hội nhập (1975-2024)…

Cuộc đời và thơ văn của Gia Định tam gia gắn với thời các ông thời làm quan với Gia Long, Minh Mạng. Thí dụ. Năm 1789, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định cùng 10 người nữa lãnh chức Điền Tuấn, đi khuyên bảo nông dân làm ruộng ở các dinh Phiên Trấn, Trấn Biên, Vĩnh Trấn, Trấn Định; Trịnh Hoài Đức làm nhiều bài thơ về đời sống người dân: Điền gia thu vũ (Mưa thu với người làm ruộng), Giang thôn hiểu thị (Chợ buổi sáng thôn bên sông); Ngư tân ngư địch (Tiếng sáo chài ở bến Nghé), Chu thổ sừ vân (Đất đỏ bừa trong mây)[[13]].

2.Khác biệt về nội dung (câu chuyện được kể, những tâm tình tỏ lộ), nội dung của văn học 1975-2024 “phản ánh” sự nghiệp cách mạng và kháng chiến cùng với công cuộc đổi mới của Đảng; khác với nội dung viết về cuộc sống nông dân khắp Nam bộ, và những tâm tình khi đi sứ của Trịnh Hoài Đức. Thí dụ: bài Sứ hành thứ Quảng Đông thư hoài (Sứ bộ đến Quảng Đông, viết), Lữ thứ hoa triêu (Tiết hoa triêu nơi đất khách)[13 đd. tr 226, 248].

3. Khác về thi pháp (thể loại, kiểu tư duy nghệ thuật, chất liệu, kiểu ngôn ngữ, mục đích sáng tác). Gia Định tam gia thi nằm trong thi pháp thơ Đường; khác với thơ ca cách mạng của Huỳnh Văn Nghệ được viết bằng phương pháp Hiện thực Xã hội chủ nghĩa

Dòng lịch sử văn học ấy vẫn tiếp tục chảy trong văn học Đồng Nai đương đại:

1.Tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc, tuy có khác nhau về cách thể hiện) song là dòng chảy trong suốt lịch sử văn học Việt. Thơ Trịnh Hoài Đức viết về thắng cảnh Đồng Nai (chùm thơ 30 bài) với thơ của các nhà thơ Đồng Nai hôm nay chảy liền một mạch.

2.Sự gắn bó với nhân dân của nhà thơ nhà văn Đồng Nai làm nên giá trị những trang văn giàu vẻ đẹp nhân văn. Xin đọc Lộc đồng tiều ca, Tân Triều đãi độ của Trịnh Hoài Đức, đọc Chiến khu Đ chống bão, Mẹ buồn, Tình súng thơ Huỳnh Văn Nghệ làm trong kháng chiến.

3.Bút pháp hiện thực (tả thực, tức sự) là bút pháp chính của văn chương Đồng Nai từ trước tới nay. Nhà văn hướng về hiện thực để ghi nhận, phân tích, cảm xúc và bày tỏ thái độ, từ đó lên tiếng trước hiện thực (Thương loạn, Gia Định kim thành của Trịnh Hoài Đức). Xin đọc các tác phẩm của Hoàng Văn Bổn, Nguyễn Đức Thọ, Khôi Vũ, Nguyễn Một.

4. Nam bộ, Đồng Nai là vùng di dân cả trong quá khứ và hiện tại. Năm 1698 Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh khi lập phủ Gia Định gồm 2 huyện: huyện Phước Long dựng dinh Trấn Biên, huyện Tân Bình dựng dinh Phiên Trấn, ông đã đưa dân Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Quảng Đức tức Thừa Thiên – Huế ngày nay) vào Trấn Biên lập nghiệp, (Gia Định thành thông chí). Đến nay, Đồng Nai có 32 khu công nghiệp, thu hút hơn 600.000 công nhân từ các nơi đổ về….Thực tế di dân hiện diện trong văn chương Đồng Nai. Đò dọc là chuyện di dân của Bình Nguyên Lộc. Sông Luộc ở phương Nam của Khôi Vũ, truyện ngắn Lửa bên sông của Nguyễn Một cũng viết về di dân.

4. Đồng Nai là vùng “đa văn hóa”, nhưng là nơi vừa giữ gìn bản sắc riêng của vùng miền, vừa dung nạp sự khác biệt từ khắp mọi miền đất nước. Vì thế, tính cách Đồng Nai là tính cách rộng mở, hào sảng, bao dung và chấp nhận những khác biệt. Thế hệ di dân thứ nhất và thứ hai còn giữ được những nét văn hóa gốc (giọng nói, phong tục, lối sống…). Đến thế hệ thứ ba đã hòa nhập vào văn hóa Nam bộ (giọng nói, cách nghĩ, cách sinh hoạt và phong tục tập quán địa phương…).

Chẳng hạn, Tổ tiên Trịnh Hoài Đức quê ở Phúc Kiến (Trung Quốc). Cuối đời Minh đầu đời Thanh, ông nội ông là Trịnh Hội, di cư sang Việt Nam. Trịnh Hoài Đức sinh ở xã Thanh Hà, huyện Bình An, phủ Phước Long, trấn Biên Hòa. Ngô Nhân Tĩnh quê gốc ở Quảng Đông (Trung Quốc). Khi nhà Minh bị nhà Thanh đánh đổ, tiên tổ ông lánh sang Gia Định lập nghiệp, ông sinh ra ở đây. Cả Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tĩnh đều đã hội nhập văn hóa Nam bộ gần như trọn vẹn (thế hệ thứ ba).

Đặc điểm “đa văn hóa” ấy ảnh hưởng trên văn chương Đồng Nai. Văn của Bình Nguyên Lộc, Hoàng Văn Bổn, thơ Huỳnh Văn Nghệ giữ nguyên chất Nam bộ. Nhưng văn của Khôi Vũ (quê Thái Bình), Nguyễn Một (quê Quảng Nam), Hoàng Ngọc Điệp (quê Thanh Hóa)… có sự pha trộn Bắc -Nam cả trong cách thể hiện và ngôn ngữ.

                                                            ***

SỰ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ NHÀ VĂN ĐỒNG NAI

            Ngày 22/12/1979, Hội VHNT Đồng Nai được thành lập. Lúc ấy chỉ có trên 10 hội viên Ban Văn học, đến nay đã có 96 hội viên (2023). Có thể chia thành 4 thế hệ nhà văn, với những đặc điểm sáng tạo khác nhau.

Đặc điểm 1: Về xuất thân của nhà văn

Nhà văn Đồng Nai từ mọi miền đất nước tụ về và thuộc nhiều thành phần xã hội. Đặc điểm này lý giải được một đặc điểm khác là, văn học Đồng Nai phản ánh được một diện rộng của hiện thực đất nước và nói được tiếng nói của quảng đại công chúng.

Nhà văn từ bắc vào nam:

Đào Sỹ Quang, Lý Thăng Long (Thái Nguyên), Lã Hoài Mai (Hưng Yên), Phạm Thanh Quang (Hà Nội); các nhà văn Khôi Vũ, Đàm Chu Văn, Bùi Công Thuấn, Huyền Quy, Trâm Oanh (Thái Bình). Minh Hạ, Quỳnh Trang (Hải Dương); Lê Đăng Kháng, Trần Thu Hằng (Hà Nam); Lê Thanh Xuân, Đỗ Minh Dương, Hoàng Ngọc Điệp, Mai Hân Hạnh, Hoàng Văn Thống, Hoàng Thị Minh Hòa (Thanh Hóa); Nguyễn Duy Đồng (Nghệ An), Bùi Quang Tú, Minh Đức (Hà Tĩnh); Nguyễn Trí (Quảng Bình), Nguyễn Đức Phước, Hạc Nha (Quảng Trị); Dương Đức Khánh, Bùi Thị Kim Chi (Thừa Thiên-Huế); Nguyễn Một (Quảng Nam), Trần Ngọc Tuấn, Hoàng Đình Nguyễn (Quảng Ngãi); Huỳnh Ngọc Tuyết Cương (Đồng Nai), Lê Phan Hiếu Anh (Tp HCM),..

Nhà văn thuộc các thành phần công dân khác nhau:

Nhiều nhà văn từng là người lính kháng chiến chống Mỹ, đa số chiến đấu ở chiến trường miền đồng Nam bộ:

Nhà văn Lê Đăng Kháng, sinh năm 1947, chiến trường Đông Nam bộ (1966-1975).

Nhà thơ Đào Trọng Thử, sinh năm 1949, có 8 năm ở chiến trường Đông Nam bộ.

Đàm Chu Văn, sinh năm 1958, là bộ đội (1976-1983), từng ở chiến trường Campuchia 1980.                                                                                                          

Nhà văn Phạm Thanh Quang, sinh năm 1951, là sĩ quan pháo binh

Nhà thơ Hoàng Văn Thống: nhập ngũ từ 1972. Hai lần bị thương.

Nhà văn Nguyễn Quốc Hoàn: là một sĩ quan quân đội, thuộc binh chủng Đặc công.

Nhà thơ Minh Đức sinh năm 1970, Thạc sĩ. Tốt nghiệp Trường Sĩ quan Chính trị-Quân sự năm 1994; hiện là Thượng tá, Phó chủ nhiệm Chính trị Sư đoàn 5, Quân khu 7.

 Nhà văn Phạm Văn Đảng đang tại ngũ, công tác tại Văn Nghệ quân đội.

Nhiều nhà văn là nhà giáo: Bùi Quang Tú, Phan Nam Sinh, Tiêu Thanh Giang, Đào Sỹ Quang, Nguyễn Duy Đồng, Lã Hoài Mai, Trần Thị Hiếu (Giảng viên ĐH Đồng Nai), Hoàng Thị Quỳnh Trang…

Thuộc những ngành nghề xã hội khác:

Nhà văn Đỗ Anh Nhạ (1947), là lính chống Mỹ, là Bác sĩ giỏi, “Thầy thuốc nhân dân” (2003) .

Nhà thơ Lê Thanh Xuân (1948), Trưởng ban Văn nghệ Đài PT-TH Đồng Nai.

Nhà văn Khôi Vũ tốt nghiệp Dược sĩ, chuyển qua viết văn.

Nhà thơ Nguyễn Đức Phước (1967), Bác sĩ, công tác tại Trảng Bom.

Nhà văn Nguyễn Một (1964) hiện là Giám đốc Truyền thông Cty Trường Hải,

Nhà văn Hoàng Đình Nguyễn (1947), nguyên là PGĐ Xí nghiệp Mạch nha Đồng Nai.

Nhà văn Dương Thu Hường: Công nhân Cty Pouchen Việt Nam

Nhà văn Trâm Oanh: Phó Chánh Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai;

Nhà thơ Hoàng Minh Hòa: Kim Hạnh cho biết: Chị vốn là dân mỹ thuật, từng về làm thủ thư tại Thư viện Trường Tuyên huấn Trung ương III, sau đó đã đi nghĩa vụ quân sự tại chiến trường Campuchia. Sau khi ra quân, chị làm nghề tự do, chủ yếu là kinh doanh buôn bán bất động sản…[[14]]

Nhà văn Nguyễn Trí lăn qua đủ thứ nghề: Nghề nấu rượu, nghề nhảy tàu, nghề đồ tể, nghề đi tìm vàng, khai thác đá quí, trầm hương; nghề chặt củi, đốt than, xe ôm… và dạy Anh văn…[[15]]

Đặc điểm 2: Các thế hệ nhà văn Đồng Nai

Đến nay có thể nhận thấy 4 thế hệ nhà văn Đồng Nai

1. Thế hệ nhà văn kháng chiến.

            Các nhà văn thế hệ kháng chiến vừa chiến đấu, vừa sáng tác. Họ trực tiếp viết về cuộc kháng chiến với tư cách người trong cuộc, nên cảm nghĩ của họ cũng là cảm nghĩ của nhân dân, của dân tộc trong cuộc đấu tranh vệ quốc. Nhà văn thế hệ kháng chiến viết để phục vụ kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy:  “Phải đặt câu hỏi: Viết cho ai?- Viết cho đại đa số: Công – Nông – Binh- Viết để làm gì?- Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình. Để phục quần chúng”[[16]]. Trang văn là tim, óc xương máu của mình, của đồng bào. Quý giá vô cùng. Tâm hồn nhà văn gắn chặt với gia đình, quê hương, với đồng đội và sáng ngời lý tưởng. Nhà văn Hoàng Văn Bổn nói: “Với chúng tôi, mỗi trang bản thảo đều đổi bằng cái giá không biết thế nào mà tính được. Đắng cay lắm. Giờ đây, khi còn sống ngồi viết lại những dòng này, tôi càng thấm thiá rằng mỗi một dòng, một trang sách đối với chúng tôi (ít tài năng) chúng tôi phải trả bằng cả cuộc đời, bằng trăm nghìn thứ hy sinh trên đời này”[[17]].

Nhà văn Lý Văn Sâm (1921-2000) bị địch bắt giam nhiều lần (1946, 1949, 1955). Ông từng giữ chức Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật Bộ Văn hoá (Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam), Tổng thư ký đầu tiên của Hội Văn nghệ giải phóng miền Nam. Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, đại biểu Quốc hội khoá VI, Chủ tịch Hội Văn nghệ Đồng Nai. Giải thưởng Nhà nước về Văn học & Nghệ thuật đợt 2 năm 2007.

Nhà văn Hoàng Văn Bổn (1930-2006) tham gia cách mạng từ 1945. Năm 1951, ông gia nhập quân đội và hành quân từ Chiến khu Đ về Phân liên khu kháng chiến U Minh. Năm 1953, ông được bổ sung vào Tiểu đội trợ chiến cho Tiểu đoàn 307 đánh trận Xẻo Rô. Năm 1954 ông tập kết ra bắc. Sau giai đoạn công tác ở Lào, ông được rút về Xưởng phim Quân đội, và trực tiếp có mặt trên nhiều mặt trận nóng bỏng như một phóng viên chiến trường. Trong quân đội với tư cách là giáo viên văn hóa, cán bộ trung đội, đạo diễn, biên kịch, biên tập xưởng phim quân đội. Năm 1980 ông về quê và làm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai. Giải thưởng Hồ Chí Minh 2006.

Nhà văn Hoàng Kim Chung – Anh Hoàng (1929-2010), năm 1981, đang là Trung tá Quân đội công tác ở Tổng cục Chính trị, được nhà văn Lý Văn Sâm và nhà văn Hoàng Văn Bổn mời về làm Phó chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Nai, phụ trách phong trào.

Nhà văn Đại tá Lê Bá Ước (1931-2016): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Nhà thơ Hoàng Vĩnh Phú: Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch tỉnh, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Đồng Nai (thời gian 1976- 1985)

            Các nhà văn kỳ cựu của Hội VHNT Đồng Nai (theo thứ tự năm sinh):

Xuân Bảo (1935), Phan Huyển Tùng (1936), Tiêu Thanh Giang (1937), Hồng Phương (1937), Trần Thúc Hà (1937-2023), Trần Ngọc Vinh (1939), Trương Thanh Phận (1940), Phan Nam Sinh (1940), Phan Quang Hợp (1942),

2. Thế hệ nhà văn trưởng thành sau 1975.

            Nhiều người từ chiến trường bước ra: Lê Đăng Kháng, Đào Trọng Thử, Đàm Chu Văn, Phạm Thanh Quang…

Hành trang văn chương của họ là vốn sống chiến trường chống Mỹ. Họ mang tâm thế là những người con ưu tú của dân tộc. Họ trở về với niềm tự hào rạng rỡ của cuộc kháng chiến toàn thắng. Họ viết về chiến tranh cách mạng với tất cả trái tim và kỷ niệm máu thịt của mình.        Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới hội nhập toàn cầu hóa, họ trăn trở lúc giao mùa cũ và mới, và dĩ nhiên họ đứng về phía nghệ thuật truyền thống, bảo vệ cái đẹp truyền thống, nói tiếng nói truyền thống và cách mạng.

Những nhà văn trưởng thành sau 1975 gồm:

a. Những nhà văn kỳ cựu của Hội VHNT Đồng Nai. Họ đóng góp nhiều cho hoạt động của Hội. Có người đã mất, người đổi đi nơi khác:

Hải Ba, Nguyễn Đức Thọ, Hoàng Trung Thủy (công tác tại Sở Giáo dục Đồng Nai), Phạm Minh Hà, Thanh Dạ, Vũ Xuân Hương, Trương Nam Hương, Lương Định, Cao Xuân Sơn (hiện ở Tp HCM), Lương Tuấn, Bùi Ngọc Phúc, La Hồng Sơn, Trần Trung Phụng. Nhật Tú. Nguyễn Quang Vinh, Lê Tuấn Đạt, Lê Thiên Minh Khoa, Đào Thanh Chương, Nguyễn Đăng Hà, Nai Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Tạ Tiến, Vũ Đức Hậu, Thân Văn Kích, Lê Ngọc Lợi, Ngọc Thùy Giang, Nguyễn Tân Triều, Lê Liên, Nguyễn Quốc Hoàn, Kiều Văn Phẩm, Phan Quang Hợp, Phan Huyền Tùng, Hồng Phương, Trương Thanh Phận…

b.Những nhà văn chủ lực của văn chương Đồng Nai nhiều thập kỷ qua (theo năm sinh):

Trần Thúc Hà (1937-2023), Hoàng Đình Nguyễn (1947), Lê Thanh Xuân (1947), Lê Đăng Kháng (1947), Đỗ Minh Dương (1948), Bùi Quang Tú (1948-2023), Đào Trọng Thử (1949), Khôi Vũ (1950), Phạm Thanh Quang (1951), Minh Hạ (1953), Đào Sỹ Quang (1954), Nguyễn Đức Thọ (1955-2001), Nguyễn Trí (1956). Nguyễn Hoài Nhơn (1956), Ngọc Khánh (1956), Hoàng Ngọc Điệp (1957), Đàm Chu Văn (1958), Dương Đức khánh (1960), Thu Trân (1963-đã về Sài gòn), Trần Ngọc Tuấn (1964), Nguyễn Một (1964), Dương Thu Hường (1971), Trâm Oanh (1973), Trần Thu Hằng (1975), Phạm Văn Đảng (1976), Nguyễn Đức Phước (1976), Hạnh Vân (1980), …

3.Thế hệ nhà văn phong trào”.

Các tác giả kết nạp Hội VHNT Đồng Nai từ 2015 trở lại đây là “thế hệ nhà văn phong trào” (cách gọi nhận dạng). Họ tham gia tích cực phong trào của Hội như dự trại sáng tác, tham gia các cuộc thi văn học, sinh hoạt ở câu lạc bộ…. Có người là cán bộ về hưu “viết cho vui”, viết để chia sẻ bạn bè. Tác giả Nguyễn Duy Đồng thổ lộ: “Về hưu tôi muốn có một sân chơi để vui với tuổi già, tránh bệnh tật nên đã xin vào Hội…”[[18]]. Tác giả Hoàng Văn Thống nói rõ mục đích sáng tác của mình: “Ghi lại những cảm xúc và những kỷ niệm bằng thơ phục vụ bạn đọc và người yêu thơ”.

Nhiều người có tài năng, ngòi bút vượt lên rất nhanh trên con đường văn chương. Nhà thơ Trần Thị Bảo Thư năm 2023 đạt giải của Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam. Nhà thơ Hoàng Văn Thống trong 12 năm (2011-2023) đã in 6 tập thơ với hơn 300 bài thơ đẹp. Tác giả Nguyễn Duy Đồng, tham gia Hội VHNT Đồng Nai từ 2015, trong một thời gian ngắn, đã in 01 tập thơ,  01 tập truyện ngắn, đạt 5 giải thưởng văn học trong các cuộc thi. Năm 2023 đạt giải của Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam với tập truyện Ma Chữ…

Tính chất chung của thế hệ nhà văn phong tràochưa chuyên nghiệp. Đa phần sáng tác theo “năng khiếu” tự nhiên và tự học hỏi, chưa hình thành con đường sáng tạo riêng. Việc xuất bản tác phẩm còn hạn chế.

Tiêu biểu là các tác giả:

Phạm Bình Minh (1939), Bùi Thị Kim Chi (1949), Mai Hân Hạnh (1950), Lê Hương Thơm (1951), Hoàng Minh Tranh (1952). Hoàng Văn Hóa (Thạch Hà-1953), Hoàng Văn Thống (1954), Nguyễn Duy Đồng (1955), Hoàng Văn Bảy (1955), Hoàng Thị Minh Hòa (1956), Bằng Lăng (1957), Trần Gia Minh (1957), Nguyễn Thị Lệ Hồng (1958), Trần Bảo Thư (1964), Hiền Nguyễn (1972), Nguyễn Dương Minh Tâm (1975), Phạm Hải Yến (1976)..

Tác giả tự do:

Nguyễn Quang Tấn (1949-Gia nhập Hội 2015), vốn là giáo viên, nhiều năm sống ở xã Thanh Sơn (huyện Định Quán). Theo nhà văn Nguyễn Trí, tác giả Nguyễn Quang Tấn cho biết: “Tôi làm thơ là bởi vì tôi biết làm thơ, cũng như tôi cuốc đất là bởi vì tôi biết cuốc đất, chẳng có quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách gì”.

Tác giả thuộc những lĩnh vực khác tham gia Hội: 

Tôn Hoàn, Mai Sông Bé (nhà báo), Nguyễn Th. Thu Giang (Ban Tuyên giáo), Trần Thị Hương Lan (Ban Tuyên giáo), Nguyễn Thị Phương Liễu (Báo Đồng Nai), Tô Thị Hợp (P.Công an nội bộ), Trần Nghi Dũng (1955-Huyện ủy Trảng Bom), Lê Thị Kim Hạnh (Sở Văn Hóa-hiện ở Slovakia, làm cho OTG)…

4.Thế hệ trẻ trưởng thành từ đầu thế kỷ XXI

Đó là các tác giả thế hệ 8x và 9x:

17 tác giả Hội viên: Lê Hồng Nhạn (Hạc Nha- 1981), Phan Danh Hiếu (1982), Ngô Hường (1982), Minh Anh (1983), Lê Thị Nguyệt Minh (1984), Trần Thị Hiếu (1985), Thái Minh Công (1985), Lưu Thiện Vương (1985), Nguyễn Huyền Quy (1986), Lê Vũ Anh Đào (1987), Đào Nguyên Thảo (1987), Lã Hoài Mai (1991-Lã Thị Hồng Thuấn), Hoàng Thị Quỳnh Trang (1993), Huỳnh Ngọc Tuyết Cương (1993), Đàm Minh Khôi (1997), Lê Phan Hiếu Anh (1999), Tống Thanh Tâm (2000), Hoàng Loan (1978), Lý Thăng Long (2000),…

18 tác giả cộng tác viêntạp chí Văn nghệ Đồng Nai có khả năng phát triển hội viên:

Văn Ánh Ngọc, Vân Nhi, Phạm Bá Khoa, Võ Anh Vũ, Hoàng Phước Nguyên, Phan Gia Hưng, Nguyễn Võ Mỹ Duyên, Vy Ngân, Trần Huynh Quỳnh, Lê Nguyễn Hà Ngọc, Ngô Gia Hân, Phan Nhật Anh, Đặng Huệ Linh, Nguyễn Thị Thu Ngân,…[[19]] Nguyễn Hải yến. Hoàng Thu Thảo, Hoàng Phương, Trần Hoan.

Văn trẻ Đồng Nai đã tượng hình một đội ngũ. Thời gian sẽ khẳng định tài năng và cốt cách văn chương. Hiện nay, chưa có nhiều những cá tính sáng tạo độc đáo giàu nội lực như “Văn Trẻ” đầu thế kỷ XXI. Việc in tác phẩm còn hạn chế. Tính chất của thế hệ này là sự bấp bênh trong việc chọn lựa con đường văn chương.

Huỳnh Ngọc Tuyết Cương nói về mục đích sáng tác văn chương: Tôi nghĩ mình đang đi trên đường và dừng chân vào quán văn để thưởng trà, viết đôi dòng về những gì mà mình nhìn thấy, cảm nhận được trên con đường cuộc đời. Phải nói thật, tôi phải tiếp tục đi về phía trước, có thể tôi sẽ không dừng chân ở quán văn nữa, hoặc có thể tôi sẽ đem theo văn chương trên hành trình cuộc đời.

(Xin đọc: Bùi Công Thuấn-Văn trẻ Đồng Nai)

Nhìn chung:

45 năm phát triển, Hội VHNT Đồng Nai đã quy tụ được một đội ngũ hùng hậu các nhà văn tài năng làm nên diện mạo của văn học Đồng Nai.

Thế hệ nhà văn kháng chiến (Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn) đã để lại một gia tài đồ sộ cả về tác phẩm và uy tín trên văn đàn; được vinh danh bằng Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ Chí Minh.

Thế hệ chủ lực sau 1975 là những nhà văn làm nên thành tựu văn học Đồng Nai trong 5 lần trao giai Trịnh Hoài Đức. Các nhà văn Khôi Vũ, Nguyễn Một, Nguyễn Trí cũng đều đạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, và là những nhà văn có uy tín trên văn đàn cả nước.

Trong những nhà văn kỳ cựu của Hội Văn học nghệ thuật Đồng Nai, còn nhiều tác giả tài năng, tâm huyết và viết rất chuyên nghiệp. Họ vẫn miệt mài sáng tác mấy chục năm qua và có những đóng góp giá trị vào  thành tựu chung: Hoàng Đình Nguyễn, Đào Trọng Thử, Nguyễn Hoài Nhơn…

Tuy vậy, việc xây dựng đội ngũ nhà văn vẫn là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của Hội VHNT Đồng Nai. Bởi vì, nhiều nhà văn chủ lực hôm nay đã ở vào độ tuổi “Cổ lai hy”, trong khi đội ngũ kế thừa chưa đủ độ chín về tài năng và uy tín trên văn đàn để gánh trách nhiệm phát triển văn học Đồng Nai. Nhưng tôi tin rằng, nói như Nguyễn Trãi: “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có”.                                                       

SỰ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC

            Tác phẩm văn học là yếu tố trung tâm của một nền văn học. Không có tác phẩm thì không có nền văn học. Một nền văn học lớn là nền văn học có nhiều tác phẩm lớn (văn học phương tây, Nga, Ấn độ, Trung Quốc). Trong nhiều thập kỷ qua, văn học Việt Nam đặt mục đích cho sự thành tựu các tác phẩm lớn.

Khi xem xét sự phát triển của văn học Đồng Nai, tôi quan tâm đến tác phẩm văn học. Đặc biệt là đến tầm vóc tư tưởng-nghệ thuật của các tác phẩm, phong cách nghệ thuật của tác giả và qua đó xác lập những đặc điểm diện mạo của văn học Đồng Nai.

1.TÁC PHẨM VĂN HỌC

            Số tác phẩm của văn học Đồng Nai 45 năm qua là một “gia tài” lớn, cho đến nay (2023) chưa có một thống kê đầy đủ. Để nhận thức được tầm vóc lớn của văn học Đồng Nai và nỗ lực sáng tạo vượt trội của mỗi nhà văn, thì việc xuất bản và phổ biến tác phẩm cần nhìn nhận từ nhiều góc độ:

            a. Giữa các kỳ đại hội (số liệu của Hội VHNT Đồng Nai)

            Nhiệm kỳ III (2001-2006), Ban văn học có 29 hội viên đã xuất bản trên 100 tác phẩm, bình quân 18 đầu sách 1 năm. Gồm 9 tiểu thuyết, 19 tập truyện ngắn, 15 tập truyện thiếu nhi, 44 tập thơ, 3 tập biên khảo-nghiên cứu-phê bình, 4 tuyển tập văn học.

            Nhiệm kỳ IV (2007-2013). Ban Văn học có 72 hội viên (có 8 hội viên HNV). Đã xuất bản 52 tác phẩm.

           Nhiệm kỳ V (2014-2018). Ban Văn học có 83 hội viên. Xuất bản 102 tác phẩm

            Tổng kết 15 năm thực hiện nghị quyết TW5 (1998-2012) đã xuất bản 157 tác phẩm.

            b. Quan sát những năm gần đây:

            Năm 2019 hội viên Ban Văn học đã xuất bản hơn 30 cuốn.[20]

Năm 2020 xuất bản 26 tác phẩm Văn học [[21]]

Năm 2021 Ban Văn học thực hiện 1 Tuyển tập. Hội viên xuất bản 12 tập truyện và thơ. Tạp chí Văn nghệ Đồng Nai đã đăng trên 200 tác phẩm, chùm tác phẩm[[22]]

Năm 2022 [[23]] Ban Văn học thực hiện 03 tuyển tập: Hướng về biển đảo quê hương, Hoa của đất (bút ký), Những chú mèo ngủ quên trong ổ trứng (truyện đồng thoại dành cho thiếu nhi). Các tác giả tự xuất bản: 14 tác phẩm.

c.Sách của nhà văn.

 Xin đơn cử một số tác giả tiêu biểu

Hoàng Văn Bổn: đã viết hơn 50 đầu sách và 25 kịch bản phim. Đặc biệt là những bộ sử

 thi đồ sộ: Miền đất ven sông (tiểu thuyết, 3 tập, 1984).– Khắc nghiệt (tiểu thuyết, 4 tập, 1990). Nước mắt giã biệt (tiểu thuyết, 4 tập, 1994).

            Lý văn Sâm: 20 tác phẩm và một số in chung.

            Hoàng Kim Chung: 5 tác phẩm (từ tiểu thuyết Thuở ban đầu 1983 đến “Dưới chân núi Minh Đạm”(1993).

            Khôi Vũ-Nguyễn Thái Hải: tính đến 2023 ông đã in được 74 tác phẩm (trong đó 43 tác phẩm viết cho thiếu nhi.    

            Nguyễn Một: 17 tác phẩm (với 2 bút danh Nguyễn Một và Dạ Thảo Linh).

Hoàng Đình Nguyễn: 14 tác phẩm (06 tập thơ và 08 tập Bút ký).

            Phạm Thanh Quang: 13 tác phẩm (6 tập truyện, 5 tập thơ, 2 kịch bản phim)

Nguyễn Trí: 13 tác phẩm (trong 10 năm, từ 2013 đến nay).

            Đàm Chu Văn: 11 tập thơ (từ 1985 đến nay).

            Hoàng Ngọc Điệp: 10 tác phẩm (từ 1995 đến 2022).

            Lê Đăng Kháng: 9 tác phẩm (thơ và truyện).

            Trần Ngọc Tuấn: 8 tập thơ (từ 1994 đến 2018).

            Hoàng Văn Thống: 6 tập thơ (từ 2011 đến 2023).

            Trâm Oanh: 5 tác phẩm (từ 2018 đến 2023).

Mai Hân Hạnh: vào Hội 2016. Đã in 02 tập thơ.

Bùi Thị Kim Chi vào Hội 2012, đã in 02 tập thơ.

Đào Sỹ Quang: Đã in 08 tác phẩm, có truyện ngắn và bút ký in trên các báo tạp chí Trung ương và địa phương như: Văn nghệ Quân đội, Công an, Tp.HCM, Thái Nguyên, Đồng Nai, Cao Bằng, Hà Giang, Bắc Kạn, Giáo dục & Thời đại chủ nhật, Sông Hương, Cửa Việt…Ông được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam tháng 12. 2023.

Một số nhà thơ đã hiện diện trên trang thivien.net và vnthuquan. và Bảo tàng văn học (là những thư viện điện tử lớn).

            d. Tác phẩm xuất bản trong một năm (năm 2018): 36 tác phẩm với các thể loại: Tập thơ, tập truyện ngắn, tiểu thuyết, Ký (Hồi ký, tự truyện), truyện thiếu nhi, Lý luận và phê bình văn học.

            1. Hội in 5 tuyển tập: Chiến khu D anh hùng, Khi đàn chim vổ cánh (văn trẻ), Đồng Nai hành trình ra biển lớn, Thiếu niên nhi đồng và dân tộc thiểu s, Mùa quả chín.

2. Hoàng Ngọc Điệp: Chuyện Bin mũi hếch, truyện thiếu nhi, 2 tập. và Cù lao yêu dấu.

            3. Hoàng Đình Nguyễn: Một thời mãi nhớ. Tự truyện

            4. Trâm Oanh: Chuyện Mếu và Máo. Truyện thiếu nhi.

            5. Nguyễn Thái Hải: Bầy nai tung tăng trên đồng cỏ, truyện thiếu nhi. Tí chuột mất tích (Thám tử học trò tập 1), Tiếng động đêm vườn bưởi (Thám tử học trò tập 2), Kẻ trộm ví trong trường (Thám tử học trò tập 3).

            6.Nguyễn Trí: Ăn bay, tiểu thuyết. Mạt cưa, mướp đắng, đường vàng.

            7.Dương Đức Khánh: Nghệ sĩ vườn, Người chợ Kệ, (tập truyện ngắn).

            8.Đào Sỹ Quang: Điều như không thể, tập truyện ngắn.

            9.Dương Thu Hường: Bông hồng đen, tập truyện ngắn.

            10.Bùi Quang Tú: Tách café và dòng ký ức.

            11.Bùi Công Thuấn: Nhà văn Đồng Nai, LLPB

            12. Xuân Bảo: Hành trình thiên lý, Ký sự.

            13.Mai Sông Bé: Một chút gọi là (Hồi ký) và Suy gẫm của người già (Tùy bút)

            14.Lê Thanh Xuân: Tặng và nhớ (tập thơ); Ngoài kia mây trắng (tập thơ)

            15.Trần Ngọc Tuấn: Chân thân (tập thơ).

            16.Đỗ Minh Dương: Vầng trăng đợi mùa (tập thơ).

            17.Nguyễn Đức Phước: Thơ Lục bát (tập thơ).

            18.Đào Trọng Thử: Những ngọn đèn dầu (tập thơ).

            19.Minh Hạ: Qua những miền quê (tập thơ).

            20.Lê Hương Thơm: Miền đất ở (tập thơ).

            21.Nguyễn Hoài Nhơn: Định vị thơ (tập thơ).

            22.Mai Hân Hạnh: Hương đất (tập thơ)

            23.Nguyễn Xuân Từng: Tiếng sóng quê hương (tập thơ).

            24.Phạm Thị Thanh Vân: Xanh (tập thơ).

            Trong một năm, in được 36 đầu sách đủ các thể loại, đó là một nỗ lực rất lớn của nhà văn và là thành tựu của văn học Đồng Nai.

e. Bài in trên Văn nghệ Đồng Nai và trang web Hội VHNT Đồng Nai

            Thí dụ: năm 2021 Tính sơ bộ có trên 200 tác phẩm, chùm tác phẩmđăng trên Tạp chí Văn nghệ Đồng Nai và Cổng thông tin điện tử (website của Hội); khoảng trên 100 tác phẩm, chùm tác phẩm in báo, tạp chí khác trong và ngoài tỉnh. Trong đó có nhiều tác giả của Ban Văn học đăng nhiều tác phẩm trên báo, tạp chí chuyên ngành như Hoàng Ngọc Điệp, Trần Thúc Hà, Đàm Chu Văn, Đỗ Minh Dương, Nguyễn Trí, Dương Đức Khánh,  Minh Hạ, Trâm Oanh, Lê Liên, Đào Sỹ Quang, Trần Thị Bảo Thư, Nguyễn Minh Đức, Trần Thu Hằng… [[24]]

            Năm 2022, Hơn 800 tác phẩm được đăng tải trên Tạp chí Văn nghệ Đồng Nai và hơn 100 tác phẩm được đăng tải tạp chí trung ương [[25]].

Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ IV (2007-2012) đã có 217 tác phẩm hội viên Ban Văn học được giới thiệu trên các báo và tạp chí trung ương, địa phương trong 5 năm qua.

Như vậy, thành tựu quan trọng của văn học Đồng Nai là số lượng tác phẩm văn học được xuất bản và quảng bá. Trong đó nhiều tác phẩm đạt giải thưởng ở nhiều cuộc thi. Những giải thưởng khẳng định tài năng là Giải Trịnh Hoài Đức, Giải thưởng Văn học nghệ thuật của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam [[26]] và giải thưởng của Hội Nhà văn. Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ IV của Ban chấp hành Hội VHNT Đồng Nai (2007-2012) ghi nhận: “Đã có 118 giải thưởng trong các cuộc thi văn học nghệ thuật Trung ương và địa phương được trao cho các tác giả hội viên Ban Văn học. Số đầu sách xuất bản trong nhiệm kỳ này là 52 cuốn. Đã có 217 tác phẩm hội viên Ban Văn học được giới thiệu trên các báo và tạp chí trung ương, địa phương trong 5 năm qua”.

2. SỰ PHÁT TRIỂN ĐỀ TÀI

            Việc chọn lựa đề tài, nội dung để thể hiện chủ đề, tư tưởng là bước đầu tiên quan trọng đối với người sáng tác văn học; sau đó mới là bút pháp, kiểu cấu trúc và cách kiến tạo tác phẩm.

            Nhà văn Dương Thu Hường là một công nhân, nhưng tác giả thú nhận rằng, viết về công nhân trong các công ty FDI hôm nay theo công thức “Ta nhất định thắng” (nghĩa là theo phương pháp Hiện thực xã hội chủ nghĩa) là rất khó, và tác giả không thể [[27]]. Cũng vậy, với các tác giả trẻ Đồng Nai, đề tài Cách mạng và kháng chiến là rất khó, bởi người trẻ không có vốn sống, chưa từng trải nghiệm chiến tranh vệ quốc. Những nhà văn 4x, 5x của thế kỷ trước, quen với văn chương bao cấp, không thể viết tác phẩm văn chương thị trường cho độc giả trẻ thời 4.0. Nếu viết về những đề tài thời sự, thì nhà văn không thể theo kịp báo chí. Và hơn thế, trong sự thống trị của truyền thông đa phương tiện và các mạng xã hội (Facebook, Telegram, Tiktok…), thì văn học viết (tác phẩm in bằng giấy) không thể cạnh tranh.

            Vì thế, đề tài, nội dung của văn học phản ánh sự chọn lựa, mối quan tâm và thái độ của nhà văn trước cuộc sống, cũng phản ánh cái nhìn, tư tưởng của nhà văn ở góc nhìn cá nhân. Chẳng hạn, văn học Việt Nam viết về nông dân, nông thôn thì sâu sắc hơn viết về công nghiệp và hội nhập toàn cầu hóa, vì đa phần nhà văn Việt Nam có gốc gác là nông dân..

  1. Đề tài quê hương, đất nước

Quê hương, đất nước là đề tài có tính bao trùm của văn học Đồng Nai, bởi tình

 yêu quê hương, đất nước, làng quê, tình đồng bào, tình gia đình là một đặc điểm có tính dân tộc của những con người sống “trên mảnh đất này”. Tiểu thuyết của cố nhà văn Hoàng Văn Bổn miêu tả cụ thể và sống động tình quê hương đất nước của người dân làng Bình Long trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Những truyện của nhà văn Lý Văn Sâm làm hiện lên một quê hương Đồng Nai rất đẹp cả trong hiện thực và trong văn hóa truyền thống. Nhà thơ, nhà văn nào ở Đồng Nai cũng có những trang viết da diết về quê hương mình (nơi sinh ra và lớn lên), và quê hương Đồng Nai (nơi cư trú làm việc).

            Xin đơn cử:

Từ 2011 đến 2020, tác giả Hoàng Văn Thống đã in 4 tập thơ, trong đó nhiều bài viết về quê hương Đồng Nai:

Trong tập Đất nước nở hoa, các bài: Đồng Nai ước mơ và hiện thực, Về Đồng Nai, Về Long Khánh, Long Thành Đổi mới, Thăm K4, Đêm xuân Vĩnh Cửu, Đồng Nai cất cánh, Trở lại Daklua.

Trong tập Thu cho em, các bài: Chiều Xuân Lộc, Về Cát Tiên, Đến Đồng Nai.

Trong tập Nhớ mãi, các bài: Về Chiến khu Đ, Chiến thắng La Ngà, Đại tá Lê Bá Ước, Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ, Chiều Tà Lài, Về Bình Sơn, Trị An, Nhớ thác Trị An, Trảng Bom, Tân Phú, Về Định Quán,  Xuân Lộc, 

Trong tập Về Đồng Nai, các bài: Đồng Nai quê tôi, Biên Hòa, Biên Hòa em yêu, Về thác Đá Hàn, Giang Điền quê em, Long Thành quê em, Nhơn Trạch chiều xuân

Nhìn vào những địa danh Hoàng Văn Thống đã đến, người đọc nhận ra bước chân nhà thơ đã đi hầu khắp mọi miền Đồng Nai, ngược về quá khứ, hướng về tương lai, gặp gỡ mọi miền, tình cảm thiết thân, cái nhìn trong sáng. Quê hương Đồng Nai hiện lên trên trang thơ thật tươi đẹp.

Các tác phẩm viết về quê hương, đất nước được tập trung tạiGiải Trịnh Hoài Đức và ở các trại sáng tác.

Thí dụ, các tác phẩm của Giải Trịnh Hoài Đức lần V:

Theo dòng chảy Đồng Nai (Khôi Vũ); Cù Lao yêu dấu (Hoàng Ngọc Điệp); Tiếng gọi (Trần Thu Hằng); Diều hâu (Nguyễn Trí); Lũ trẻ hẻm cây khế (Trâm Oanh); Xao thu (Đàm Chu Văn); Định vị…thơ (Nguyễn Hoài Nhơn); Lời ru dòng sông (Hoàng Đình Nguyễn); Âm điệu thời gian (Minh Hạ); Lau trắng phất phơ (Đỗ Minh Dương)

Các trại sáng tác:

Năm 2020, trại sáng tác chủ đề: “Đồng Nai trên đường hội nhập và phát triển”; Trại sáng tác: “Xây dựng nông thôn mới”; cuộc thi sáng tác chủ đề: “Đồng Nai 45 năm hội nhập và phát triển 1975-2020”.

Năm 2022, Hội đã tổ chức 04 trại sáng tác tại Quảng Ninh, Đà Nẵng, Đắc Lắc và Đà Lạt, Trại sáng tác Đà Nẵng với chủ đề: “Văn nghệ sĩ với người lính biển đảo và quê hương đất nước”. Trại Quảng Ninh: “Văn nghệ sĩ đồng hành cùng đất nước”…

Vì nhà văn Đồng Nai sinh ra trên khắp mọi miền đất nước, nên tình quê hương trong văn học Đồng Nai cũng hết sức phong phú. Hình ảnh làng quê, đời sống dân quê, những kỷ niệm thời con trẻ, những người thân yêu của tác giả nơi quê nhà đều được đưa vào tác phẩm.

 Gần đây nhất là tiểu thuyết Sông Luộc ở phương Nam của nhà văn Khôi Vũ, thể hiện một tình yêu sâu nặng với quê hương. Nhà văn Khôi Vũ thổ lộ: “… ghi chép lại cuộc đời của cha mẹ tôi từ khi vào Nam đến khi ông bà qua đời. Làm việc này tôi chỉ nghĩ đơn giản trước là giúp mình nhìn lại cuộc đời của cha mẹ, gồm cả cuộc đời mình trong đó mà ngẫm nghĩ ra những ý nghĩa của các sự việc buồn, vui, cay đắng cơ cực… hầu có một cái nhìn mới và lạc quan hơn về đời người; kế đến tôi cũng muốn cho thế hệ con cháu mình biết được để nhớ, để thương, để học được nhiều điều từ cuộc đời ông bà, cha mẹ chúng. Hơn nữa để biết được gốc gác dòng họ ở tận một vùng quê Bắc” (tr.404).

Tập truyện Cù lao yêu dấu và những bút ký của Hoàng Ngọc Điệp (Tri kỷ của rừng, Sóng gió hồ Trị An, Về xứ nhiều vua, Ấn tượng Nhơn Trạch, Tản mạn về một vùng đất, Dạo chơi trong vườn…) là hình ảnh một quê hương Đồng Nai đổi mới, trù phú.

Cũng vậy, có thể thấy bóng dáng làng quê, người quê, những sự việc của quê hương trong tập truyện Người chợ Kệ (Dương Đức Khánh). Chợ Kệ là tên người ta đặt cho một cái chợ ở làng Thanh, một ngôi làng ven sông Bồ, một phụ lưu của sông Hương.

Trong tập thơ Hai phía thời gian, Đàm Chu Vănnhìn quê hương, đất nước đâu cũng rạng rỡ, sinh sôi, đang từng ngày từng giờ vươn tới xa sau. Anh viết về cha, mẹ, về người thân mà tâm hồn như có cánh bay (Mẹ). Tập thơ Giấc rừng của Đàm Chu Văn cũng chất chứa những tình cảm quê hương sâu nặng (các bài Ký ức La Ngà, Chiều bên sông Đồng Nai, Long Bình 1966-1972, Cổ tích về Đá chồng)…

Tập thơ Đồng dao cho mình của Đỗ Minh Dương có nhiều bài thơ về quê hương, gia đình rất cảm động (Khuyết, Trên cát bỏng, Ngày giỗ mẹ, Quê xa, Hoài niệm…).

Thơ Lê Thanh Xuân là tiếng yêu thương của mọi miền đất nước. Xin đọc: Trăng sông Đà, Dọc sông Đà, Thuyền độc mộc, Trên cánh đồng Mường Thanh, Mường Thàng, Tiếng xa quay, Ngổ Luông, Thị xã miền rừng, Dốc Cun, Hoa Pi pôốc, Hoa gạo, Làng Hoàng Trù, Về thăm nhà Bác, Làng tôi, Đường làng, Khúc sông quê, Cánh đồng tuổi thơ, Cánh đồng mùa thu, Anh tôi, Cha tôi, Hoa ngâu, Lửa khói, Cây cau, Chiếc bình vôi, Khúc đầy, Trăng qua nhà…”[[28]].

Các tác giả trẻ hôm nay cũng viết về quê hương, gia đình. Xin đọc Huyền Quy (bài Hồn quê, Con thuyền của mẹ, Như em đợi anh…), Thơ Huỳnh Ngọc Tuyết Cương (Ngủ lại nhà quê, thăm bà, Mẹ tôi, Điền dã). (Tôi xin lỗi các nhà văn vì không thể giới thiệu được hết các tác phẩm viết về quê hương).

Có thể nhận thấy, những trang đẹp nhất của văn chương Đồng Nai là những trang viết về quê hương đất nước. Và chủ đề này sẽ còn được khám phá nhiều hơn nữa trong tương lai. Tuy vậy, Đồng Nai là một địa phương đa văn hóa, chất “tinh ròng” Đồng Nai thì chỉ đậm đặc trong trang văn của Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn, Khôi Vũ.

Nhà văn Bùi Quang Tú (1948-2023) bộc bạch: “Tôi sống ở đất Đồng Nai đã 45 năm, tận mắt chứng kiến sự đổi thay từng ngày của tỉnh nhà. Lần này đến với dòng sông anh hùng, dòng sông đổi mới và hội nhập Thị Vải mới vỡ lẽ ra. Lâu nay chỉ luẩn quẩn ở Biên Hòa bó hẹp tầm mắt, đi xa mới thấy Đồng Nai cũng chuyển mình mãnh liệt theo kịp bước phát triển của đất nước đấy chứ./ Và giờ đây khi viết những dòng này tôi như thấy hiển hiện dòng sông Thị Vải mang vẻ cao cả trong thời chiến, nay sôi nổi và đầy tự tin trong hội nhập, đổi mới. Trái tim tôi luôn cùng nhịp đập với dòng sông có cái tên mộc mạc này – Thị Vải” [[29]].

b. Đề tài Cách mạng và kháng chiến

Đây là đề tài xuyên suốt hành trình 45 năm của văn học Đồng Nai.

Tấn Hoài là tác giả tâm đắc với đề tài Cách mạng. Ông kể chuyện du kích ở Phú Vang thời kháng chiến chống Pháp trong Hơ Lia cọp núi (Tiểu thuyết-Nxb Đồng Nai-2014). Viên gạch lạ, Muối đỏ là những truyện hay và cảm động về những mất mát đau thương trong chiến đấu, ca ngợi những con người hy sinh âm thầm. Hoa Quý Lan (tiểu thuyết) miêu tả cuộc sống chiến đấu của  nhân dân trong  kháng chiến chống Pháp ở chiến khu Thừa Thiên Huế. Tuy gian khổ, hy sinh vì giặc càn, lụt lội, hạn hán, voi phá khoai,… nhưng vui và lạc quan.

Nhà văn Hoàng Văn Bổn viết về cuộc chiến đấu của thế hệ mình, của làng quê mình, và cuộc chiến đấu của cả nước chống Mỹ: Lũ chúng tôi (tiểu thuyết, 1981). Miền đất ven sông (tiểu thuyết, 3 tập, 1984). Bầu trời mặt đất (tiểu thuyết, 1981). Sóng bạc đầu (tiểu thuyết, 1982). Hiện thực cách mạng và kháng chiến được phản ánh với tầm vóc sử thi.

Nhà văn Anh Hoàng kể chuyện Hoàng Thị Nghị, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (Mặt trận thầm lặng)

Nhà văn Đại tá Lê Bá Ước (anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân) kể lại những gian khổ, hy sinh và những chiến công lẫy lừng của đặc công rừng Sác trong hồi ký Một thời rừng sác (2012) [[30]].

Khôi Vũ trong tập truyện Đàn ống tre bên kia sông [[31]] miêu tả ấn tượng và sâu sắc về con người Đồng Nai. Đó là những người “đồng chí”, cán bộ hưu trí, những người đã chiến đấu và hy sinh trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Khôi Vũ không tụng ca kỳ tích của họ mà khẳng định sức mạnh cách mạng của họ qua cuộc đối mặt với kẻ thù. Họ bám trụ, gan dạ, dũng cảm và nghĩa tình. Xin đọc Quán xe thồ, Lời của thác,…

            Nhân vật anh bộ đội thời bìnhtrong tập truyện ngắn Sương sớm của Lê Đăng Kháng dù trong hoàn cảnh nào cũng sống sâu nặng tình nghĩa, sống vươn lên. Họ trở thành chỗ dựa, thành niềm tin của mọi người xung quanh. Họ còn là những giá trị làm cho cuộc sống này trở nên tốt đẹp hơn, đáng yêu hơn. Truyện Gỗ xoan đào đề xuất sự hóa giải bi kịch trong chiến tranh. Truyện Mưa bụi nói về sự khốn khổ của bà Nhuần khi yêu nhầm một thanh niên thương binh giả. Lê Đăng Kháng còn có trường ca Khúc tráng ca của lửa. Mạch thơ khởi đi từ những ngày “cả làng nhanh chóng tản cư/ quân Pháp đã qua cầu Phủ Lý” đến ngày “chỉ có một Việt Nam chiến thắng/ phút giây hòa hợp từ đây”, người lính chiến trở về quê, sống đời sống thanh bình. Lê Đăng Kháng viết về chiến tranh để nói cái khát vọng hòa bình của dân tộc này, một dân tộc biết “thương người như thể thương thân”, bởi “người ta là hoa đất”. Từ góc nhìn này, Lê Đăng Kháng đã miêu tả những hy sinh thăng hoa trở thành ánh sáng chói lọi của lương tri và của lịch sử [[32]].

            Những nét điển hình của người lính thời mở cửa được khắc họa trong tập truyện Tình yêu thuở ấy (1993) của Phạm Thanh Quang [[33]]. Họ sáng lên tấm lòng, tính cách và lý tưởng của người lính, nhưng họ cũng bất lực trước cuộc sống đã chuyển sang một hướng khác, ở cái hướng cửa đã mở ra ấy, người lính không còn đảm đương cái vai trò trung tâm của lịch sử như thời kháng chiến nữa.

            Nhà văn Phạm Văn Đảng là người lính đang tại ngũ (2023). Anh kể những truyện khốc liệt của bộ đội Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế chống Polpot ở Cambuchia những năm 1978s (Một thời khói lửa, Một quyết định khó khăn, Phải sống), và những truyện “dân vận” với tình yêu lãng mạn, hấp dẫn của người lính thời bình (Hương ngọc lan, Hữu duyên thiên lý…)[[34]].

Tập thơ Giấc Rừng của Đàm Chu Văn có nhiều bài viết về người lính rất cảm động. Xin đọc: Viếng bạn ở nghĩa trang biên giới Tây Nam

Cả hai nhà thơ Đàm Chu Văn và Đỗ Minh Dương trong bài viết về thơ Đồng Nai đều nhận xét [[35]]:

“Thơ Đồng Nai giai đọan đầu (1975- 2000) nội dung thấm đượm tình yêu Tổ quốc, quê hương, ca ngợi cái Đẹp, sự dũng cảm, hy sinh vì nghĩa lớn, nhận thức sâu sắc ý thức, trách nhiệm công dân, tình cảm cao thượng, trong sáng, nhân ái, nhân văn” (Đàm Chu Văn).

“Thơ viết về đề tài chiến tranh Cách mạng luôn chiếm một tỷ lệ thích hợp; chỉ đọc qua tên các bài thơ như : Trầm khúc miền Đông, Hồi ức Mã Đà, Về thăm Chiến khu Đ, Mẹ và Chiến khu Đ, Đồng Nai tráng khúc, Những người mẹ miền Đông, Dưới chân tượng đài Long Khánh, Đền tưởng niệm rừng Sác, Họp mặt 30-4, Đêm nghe tiếng hát cựu nữ tù, Tìm mộ anh trong rừng chiến khu Đ, Hát cùng đồng đội, Địa đạo Chiến khu Đ, Kể chuyện Bác Hồ.v.v… cũng đủ để xác nhận rằng: Đây là mảng đề tài được hầu hết những người làm thơ đặc biệt quan tâm và tập trung sáng tác”; “Điểm hẹn và cũng nguồn cảm xúc sáng tác cho anh chị em văn nghệ sĩ đều xuất phát từ các địa danh và đề tài cách mạng như Chiến khu Đ, Chiến khu rừng Sác, các bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người lính Cụ Hồ, các Anh hùng lực lượng vũ trang, các thương binh, liệt sĩ và các sự kiện lịch sử đã từng diễn ra trên vùng đất Đồng Nai,…” (Đỗ Minh Dương).

Đề tài chiến tranh Cách mạng ở giai đoạn sau được viết với tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc. Xin đọc truyện Nắng chiều và truyện Hai anh em của Trần Thúc Hà. Nhà văn Dương Đức Khánh trong tập truyện Người chợ kệ, kể những câu chuyện ở một làng quê có “rất nhiều nhà có người tham gia cả hai bên”. Tác giả không miêu tả những sự tích anh hùng lừng lẫy, mà miêu tả cái đời thường của nhân dân trong chiến đấu, cũng không khai thác sự căm thù ta-địch, mà tô đậm tư tưởng “hòa hợp hòa giải” sau chiến tranh [[36]].

Nhà văn Trần Thu Hằng kể Chuyện tỉnh ở Hầm Hinh [[37]] như sau: Trong một chuyến đi công tác ở Việt Nam, Leroy (một nhà báo và nhiếp ảnh Pháp) gặp bà Mai Thùy Dobré, cô giáo cũ, nghe cô kể chuyện tình của mình với Pierre và sau đó với Ba Dương. Khi về Pháp, Leroy đích thân tìm hiểu về trại tỵ nạn Grand Arènas nơi bà Thùy Mai đến đó năm 1947, và đến gặp Pierre ở đảo Corse gặp Pierre để tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến bà Thùy Mai. Bối cảnh câu chuyện là một không gian rộng, từ mật khu Hầm Hinh dưới chân núi Chứa Chan, vùng Xuân Lộc, Sài gòn, những ngày trước và sau CM/8, mở rộng sang Lyon, Marseill, đảo Corse ở Pháp. Câu chuyện từ hiện tại (2005), lúc những người trồng rừng tìm thấy hài cốt Ba Dương quy tập về nghĩa trang liệt sĩ, ngược về năm 1943, lúc bà Thùy Mai 16 tuổi, là nữ sinh trường Gia Long Sài gòn, sau đó là những năm trước cách mạng tháng tám 1945. Truyện ca ngợi những chiến sĩ cách mạng trung kiên như Ba Dương, Hai Huệ, và những cán bộ Việt Minh, qua cái nhìn của kẻ thù thực dân Pháp mà đại diện là Pierre. 

Tác phẩm nằm ở ranh giới giữa các kiểu tác phẩm: văn chương cách mạng, kiểu truyện điều tra trinh thám, kiểu văn chương thị trường về cuộc tình tay năm. Ngòi bút Trần Thu Hằng mở một biên độ rất rộng về không gian và thời gian và sử dụng kết hợp nhiều kiểu bút pháp hiện đại, tạo nên sự mới mẻ so với cách kể truyền thống.

Có sự vận động về tư tưởng và nghệ thuật từ thế hệ nhà văn Hoàng Văn Bổn đến nhà văn Phạm Văn Đảng ở đề tài chiến tranh cách mạng và kháng chiến. Từ phản ánh hiện thực cách mạng hào hùng của dân tộc (Hoàng Văn Bổn) đến những vấn đề của người lính thời bình và cả những bi kịch chiến tranh (Lê Đăng Kháng, Phạm Thanh Quang). Từ phương pháp Hiện thực Xã hội chủ nghĩa chuyển sang sự tổng hợp nhiều kiểu bút pháp (Trần Thu Hằng), từ không gian một làng, một vùng miền (Người Chợ Kệ) mở rộng không gian và thời gian với những quan hệ chằng chịt phức tạp (Chuyện tình ở Hầm Hinh), và từ cách viết “ta nhất định thắng-địch nhất định thua” chuyển sang tư tưởng hòa hợp hòa giải dân tộc. Những vận động như thế làm phong phú văn học Đồng Nai.

  • Những đề tài “Nhân văn-Dân chủ

Tôi mượn chữ “Nhân văn-dân chủ” của Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị:

Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 23/BCT là: “ Văn học, nghệ thuật Việt Nam

 thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ. Phấn đấu sáng tác nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, có tác dụng to lớn xây dựng con người”…

Văn học Đồng Nai từ đổi mới trở đi (1986) dần dần trở về với đời thường của nhân dân, khám phá những phần “hiện thực không Cách mạng” đời sống hàng ngày, từ đó đặt vấn đề “xây dựng con người” trong thời công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là phần hiện thực mà Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội chủ nghĩa trước đó chưa quan tâm.

Viết về công nhân là rất khó:

Nhà văn Dương Thu Hường cho biết: “Về kỹ nghệ chúng ta chưa làm ra máy móc. Về con người, họ bảo làm sao, làm y như vậy là đạt chuẩn. Trong khi hàng hóa bảo mật, lộ bí mật công nghệ sẽ bị xử theo nội quy công ty. Không thể viết ký dùng hình ảnh, không thể tả sản phẩm vì điều đó cũng vi phạm bản quyền”; “Viết về công nhân, công nghiệp trong đầu tư trực tiếp nước ngoài theo mô -tip trên không ổn. Với tôi, không thể viết. Cuộc sống công nhân đã trả rất nhiều giá đắng chát, ngậm ngùi bên tiền lương, đôi khi được cho là đắt với loại lao động phổ thông. Nhưng đích cuối cùng của công nhân khi được hỏi chỉ là về quê, vì không sống nổi ở thành phố”[[38]]

Viết về những con người “dưới đáy” xã hội, Nhà văn Nguyễn Trí đã in Bãi vàng, Đá quý, Trầm hương, Đồ tể (2014), Bụi đời và thục nữ (2017); Ăn bay (2018…)

Nhà văn Khôi Vũ kể những chuyện thời sự, và từ đó ông nâng lên thành những suy gẫm thế sự. Ông đã 2 lần đạt giải của Hội Nhà văn (1990 & 2020). Và nhiều lần đạt giải Trịnh Hoài Đức. Xin đọc: Chuyện ở dãy phố năm căn (truyện vừa.1987), Tri thiên mệnh (tập truyện. 2001), Phía sau một khách sạn (tiểu thuyết. 2007), Vỡ dần trong mắt (tiểu thuyết. 2009), Bến đời mơ thực (tiểu thuyết. 2016), Sông Luộc ở phương Nam (tiểu thuyết. 2021)…

Viết về đề tài lịch sử, nhà văn Trần Thúc Hà (1937-2023) và nhà văn Trần Thu Hằng có những tác phẩm tâm huyết. Trần Thúc Hà có các tác phẩm: Trên dòng sông Phố (tiểu thuyết 2009) viết về Nguyện Hữu Cảnh. Tập truyện Đằng giang tự cổ viết về những nhân vật lịch sử giàu lòng yêu nước, thương dân, dù trong hoàn cảnh nào cũng giữ vững chí khí anh dũng, kiên trung, đề cao kế sách “lấy dân làm gốc”; sẵn sàng hy sinh thân mình, hay gác lại việc riêng, xả thân vì nghĩa lớn” [[39]]. Năm 2018, truyện ngắn Người cận vệ của vua Hàm Nghi của Trần Thúc Hà được chọn trong 10 truyện ngắn hay của báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam.

Nhà văn Trần Thu Hằng có tiểu thuyết Chuyện tình ở Hầm Hinh (đã giới thiệu ở trên) và tiểu thuyết Đàn đáy, “…lấy bối cảnh thời Lê – Trịnh, giai đoạn lịch sử đầy biến động của Việt Nam… Trần Thu Hằng treo lên đó “bức tranh” về một phường hát ca trù nổi danh khắp kinh kỳ, với hai nhân vật chính là anh kép đàn dòng dõi và cô đào hát lạc loài… Cuộc đời éo le của họ vừa là kết quả của nghiệp cầm ca đa đoan, vừa bởi chính bản thân họ đa mang cả chữ “tình” và chữ “tâm”, làm nên giá trị nhân văn của tác phẩm”[[40]].

Nhà văn Đồng Nai cũng viết về những hiện tượng suy thoái đạo đức trong buổi giao mùa từ Kinh tế bao cấp sang Kinh tế thị trường và hội nhập toàn cầu hóa. Các nhà văn đứng trên lập trường dân tộc, đạo đức truyền thống và các giá trị nhân văn để lên tiếng cảnh báo về cái xấu đang làm băng hoại những giá trị tốt đẹp của dân tộc. Đáng kể là các tác phẩm: Tình đời đen bạc (tiểu thuyết. 1988) và Người điên kể chuyện người điên (tập truyện ngắn. 1992) của Hoàng Văn Bổn; Ốc mượn hồn (1992), Hồi ức làng Che (1999) của Nguyễn Đức Thọ; Đất trời vần vũ (tiểu thuyết. 2009) và Ngược mặt trời (tiểu thuyết. 2012) của Nguyễn Một; Tập truyện Sự đời (2013) và Đối mặt (2019) của Đào Sỹ Quang; Tập truyện ngắn Quỷ sứ không nhiều chuyện (2013) của Trâm Oanh; Đòn gió (tiểu thuyết) của Dương Thu Hường viết về đời sống người công nhân trong công ty Buadinh. Họ bị đối xử tệ, lương thấp. Công nhân đình công thì bị đàn áp… Nhà văn nói lên khát vọng hạnh phúc của người công nhân. Các tập thơ Em bán sầu riêng, Trốn, Sợ của Đào Trọng Thử mang nặng nỗi đau đời theo phong cách thơ trào phúng của Trần Tế Xương…

3. SỰ PHÁT TRIỂN THỂ LOẠI VĂN HỌC.

            a. BÚT KÝ ĐỒNG NAI [[41]]

Nhà văn đi tham quan du lịch, đi trại sáng tác (theo các chủ đề chính trị) thì thường viết ký. Ở Đồng Nai, Hội Văn học Nghệ thuật đã tổ chức nhiều trại: sáng tác đề tài Nông nghiệp, Công nghiệp, Lực lượng vũ trang, Chiến khu Đ, Thiếu nhi và dân tộc thiểu số, Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Trại sáng tác trẻ, Văn nghệ sĩ đồng hành cùng đất nước…

Ký của Hoàng Ngọc Điệp, Trâm Oanh, Hoàng Đình Nguyễn, Bùi Thị Kim Chi có nét đẹp riêng. Nhà văn Khôi Vũ có các tập Ký: Nhớ Biên Hòa (2005), Theo dòng chảy Đồng Nai. (2016).

Nhà thơĐàm Chu Văn có các bài viết: Còn lại với mai sau, Rừng xanh in bóng, Trở lại rừng Sác, Tết trên đất bạn.

Nhà văn Lê Đăng Kháng viết: Chuyến tàu năm ấy, Lời hẹn với rừng, Trong màn sương ban mai, Duyên hạnh ngộ.

Nhà văn Nguyễn Một đã xuất bản các tập bút ký: Quà của đất (2002), Giữa đời thường (2005), Dòng sông độ lượng (2008).

Nhà văn Phạm Văn Đảng có các bài viết: Dốc Mơ Farm, Mùa xuân chiến sĩ Trường Sa, Nặng tình đồng đội, Những chiến công như huyền thoại.

Nhà văn Trần Thu Hằng viết: Hưng Lộc-Dáng vóc, đường bay mới; Ba mươi năm-một chốn đất lành; Trăn trở với thác Mai; Vĩnh Cửu trên những cung đường mới; Buồn Tường Vy-Mối duyên thơ nhạc; Tạm biệt Phan Vĩnh; Họa sĩ Trần Quốc Tiến một cuộc đời say mê sáng tạo.

Nhà văn Đào Sỹ Quang viết: Đi tìm đôi bàn chân kỳ diệu; Người con trung hiếu; Người viết những ước mơ; Từ Biên Hòa nhớ Kinh Bắc; Về với địa đầu tổ quốc; Điểm sáng Xuân Định, tập bút ký Đất và người (2015).

Nhà văn Trâm Oanh viết: Đứa con của rừng, Ngọn núi và cánh đồng, Suối Mơ, Ven sông có xóm nhà sàn; Sân bay Long Thành và câu chuyện Suối Trầu; Đồng Nai hướng nhìn từ những nhịp cầu.

Nhà văn Dương Thu Hường viết: Tuyệt đỉnh Phôm Pênh (tập bút  ký. 2017, với bút danh Bích Trà); Vĩnh Cửu-Du lịch sinh thái vườn; Cù lao Phố trong tôi; Định nghĩa Changi).

Nhà thơ Nguyễn Hoài Nhơn có tập bút ký: Những đứa con của núi (2010).

Nhà thơ Nguyễn Thị Khánh (Ngọc Khánh) viết: Cuộc sống miền quê, Đẹp…từ trong ra ngoải, Khoảng trời mới, Một chuyến đi vui, Mùa hoa nở, Tết ở quê tôi.

Tác giả trẻ Huyền Quy viết Thầm lặng tỏa hương, về chống dịch Covid. (VNĐN số 47-48/ 2022)…

Ký là tấm lòng sâu nặng nghĩa tình của nhà văn Đồng Nai đối với quê hương mình.

(Xin đọc – 45 Năm văn học Đồng Nai-Thành tựu về Bút Ký)

                 45 năm qua, các tác giả Đồng Nai đã để lại những trang văn qúy giá về hiện thực đất nước. Truyện ngắn Đồng Nai đa dạng về đề tài, nội dung, nhưng nghệ thuật vẫn nằm trong thi pháp chung của Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Cảm thức anh hùng ca, tình yêu quê hương đất nước, tình cảm công dân là những nét đặc trưng.

                 Xin đọc Chuyện Ầy Đã Qua Rồi (1979) và Chuyện Người Thổi Sáo Ở Bến Xuân (1991) của Lý Văn Sâm, Muối đỏViên gạch lạ của Tấn Hoài, Hồi ức làng Che (1999) của Nguyễn Đức Thọ, Một thời rừng Sác của Đại tá AHLLVTND Lê Bá Ước, Sương sớm của Lê Đăng Kháng, Địa linh của Phạm Thanh Quang, Đàn ống tre bên kia sông của Khôi Vũ, Mẹ Nghiệp của Đào Sỹ Quang, Người Chợ Kệ của Dương Đức Khánh, Một thời khói lửa của Phạm Văn Đảng…

                 Trong tiến trình phát triển, truyện ngắn Đồng Nai có sự vận động về bút pháp: từ bút pháp Hiện thực Xã hội chủ nghĩa [[42]]: ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lý tưởng hóa nhân vật, văn học trực tiếp phục vụ nhiệm vụ chính trị; truyện ngắn Đồng Nai phát triển thêm những tác phẩm viết bằng bút pháp “Hiện thực Nhân văn-Dân chủ”. Và từ đầu thế kỷ XXI đã có những thể nghiệm cách tân cách viết truyện ngắn của Khôi Vũ, Nguyễn Một, Trần Thu Hằng.

                 Xin đọc: Người điên kể chuyện người điên của Hoàng Văn Bổn, Hồi ức làng Che của Nguyễn Đức Thọ, Tri thiên mệnh của Khôi Vũ, những truyện tình yêu lãng mạn giàu phẩm chất bi kịch của Nguyễn Một [[43]], các truyện ngắn kiểu truyện tư tưởng của Trần Thu Hằng [[44]]…

                 Tuy vậy, cũng có nhà văn lúng túng trong cách thể hiện phần “hiện thực không cách mạng”. Xin đọc Nhật ký Cô Cô của Dương Thu Hường (VNĐN số 34 – tháng 11 & 12 năm 2019), Lênh đênh qua cửa Thần Phù của Nguyễn Trí (VNĐN số Xuân Tân Sửu 2021)…

                 Những khuôn mặt truyện ngắn Đồng Nai tiêu biểu là Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn, Nguyễn Đức Thọ, Khôi Vũ, Lê Đăng Kháng, Phạm Thanh Quang, Nguyễn Một, Nguyễn Trí, Đào Sỹ Quang, Hoàng Ngọc Điệp, Trần Thu Hằng, Phạm Văn Đảng, tác giả phong trào Nguyễn Duy Đồng, và các tác giả trẻ như Lã Hoài Mai, Tống Thanh Tâm, Hoàng Thị Quỳnh Trang, Lý Thăng Long…

                 (Mời bạn đọc bài- 45 Năm Văn học Đồng Nai-Thành tựu về truyện ngắn)

            Ở Đồng Nai, số lượng nhà văn viết tiểu thuyết rất ít. Tiêu biểu là các nhà văn Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn, Nguyễn Đức Thọ, Lê Đăng Kháng, Phạm Thanh Quang, Khôi Vũ, Nguyễn Một, Nguyễn Trí, Trần Thúc Hà, Trần Thu Hằng…

            Điều này có thể lý giải. Tiểu thuyết là thể loại đòi hỏi người viết một năng lực rất cao về khả năng kiến tạo tác phẩm, hư cấu cốt truyện, bố trí nhân vật, xây dựng tình huống. Nhà văn phải huy động toàn bộ vốn sống, vốn tri thức và tâm huyết vào trang văn. Người viết tiểu thuyết phải biết nuôi dưỡng cảm xúc, phải biết phân thân trong nhiều nhân vật và phải điêu luyện trong kỹ năng miêu tả (tả người, tả cảnh, tả tâm lý, xây dựng tình huống…). Tất cả những yêu cầu ấy không phải người cầm bút nào cũng có được.

            Có thể nhận thấy tiểu thuyết Đồng Nai phát triển thành 3 dòng trong sự phát triển chung của văn chương Việt đương đại:

            Văn học Cách mạng và kháng chiến: Nhà văn Hoàng Văn Bổn có nhiều tiểu thuyết về đề tài này. Chẳng hạn Miền đất ven sông (3 tập.1984). Nguyễn Đức Thọ có Xứ sở tình yêu (1989). Trần Thu Hằng có Chuyện tình ở Hầm Hinh. Lê Đăng Kháng có Vầng trăng nơi thiên đường (1991)và Hoa cúc ổi (2006). Phạm Thanh Quang có Dòng xoáy cuộc đời (1989).

 Văn học Nhân văn-Dân Chủ tiêu biểu là tiểu thuyết Lời nguyền hai trăm năm (1989), Sông Luộc ở phương Nam (2020) của Khôi Vũ. Ba tiểu thuyết Đất trời vần Vũ (2009), Ngược mặt trời (2012), và Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (2023) của Nguyễn Một. Phạm Thanh Quang có tiểu thuyết Cỏ tình (2001).

Văn chương thị trường: Có thể nóiKhôi Vũ, Nguyễn Trí, Nguyễn Một là nhà văn thị trường bởi tác phẩm của các nhà văn này hướng đến đối tượng công chúng thị trường và các nhà văn có một lượng độc giả nhất định. Khôi vũ có Người có một thời, Giữa dòng đời, Phía sau một khách sạn, Đời (bộ truyện vừa 4 tập), Ảo (truyện vừa)…Nguyễn Trí với tiểu thuyết Ăn Bay, Bụi đời và thục nữ…Trần Thu Hằng có Người đàn bà lưu vong…

Trần Thúc Hà viết tiểu thuyết lịch sử Trên dòng sông Phố (2009) kể lại một giai đọạn cuộc đời Nguyễn Hữu Cảnh từ ngày đầu xuôi thuyền vào đất Cù lao phố đến khi qua đời. iểu thuyết này không thành công như mong đợi.

            Ghi nhận một vài đặc điểm của tiểu thuyết Đồng Nai:

            Tiểu thuyết Đồng Nai phát triển thành ba dòng trong xu thế chung của văn học hôm nay. Lấy bối cảnh Đồng Nai, khắc họa con người và cuộc sống Đồng Nai từ đó đặt ra nhiều vấn đề của lịch sử xã hội Đồng Nai, tiểu thuyết Đồng Nai đã tạo được một không gian nghệ thuật riêng, có thể định vị được trên dòng chảy chung của tiểu thuyết Việt đương đại.

Trong sự phát triển ấy, tiểu thuyết Đồng Nai đã đóng góp tích cực cho sự cách tân tiểu thuyết Việt Nam. Nhà văn Hoàng Văn Bổn với tiểu thuyết sử thi. Khôi Vũ nỗ lực cách tân lối viết tiểu thuyết từ Lời nguyền hai trăm năm đến Vỡ dần trong mắtSông Luộc ở phương Nam. Nguyễn Một thử nghiệm nhiều thủ pháp của Chủ nghĩa Hiện thực huyền ảo và Hậu hiện đại để viết “tiểu thuyết rời rạc”, Trấn Thúc Hà và Trần Thu Hằng viết tiểu thuyết lịch sử…

            (Xin đọc: 45 năm văn học Đồng Nai-Thành tựu về tiểu thuyết).

Lực lượng sáng tác thơ ở Đồng Nai khá đông đảo. Ngoại trừ các nhà thơ Hội viên

Hội Nhà văn Việt Nam có tính chuyên nghiệp và một số nhà thơ kỳ cựu, còn lại là các tác giả phong trào.

            Đó là các nhà thơ Lê Thanh Xuân, Lê Đăng Kháng, Đàm Chu Văn. Trần Ngọc Tuấn, Đỗ Minh Dương, Nguyễn Đức Phước, Minh Hạ. Các tác giả kỳ cựu: Đào Trọng Thử, Hoàng Đình Nguyễn, Nguyễn Hoài Nhơn, Hạnh Vân, Ngọc Khánh, Kiều Văn Phẩm, Lê Liên, Lê Ngọc Lợi, Tân Triều; Các tác giả thế hệ thứ 3: Bùi Kim Chi, Hoàng Thị Minh Hòa, Hoàng Văn Bảy, Hoàng Văn Thống, Lê Hương Thơm, Mai Hân Hạnh, Nguyễn Duy Đồng, Nguyễn Quang Tấn, Bằng Lăng, Nguyễn Thị Phương Liễu, Trần Bảo Thư; và các tác giả trẻ (thế hệ thứ tư) như: Huyền Quy, Lê Phan Hiếu Anh, Huỳnh Ngọc Tuyết Cương, Đào Nguyên Thảo, Trần Thị Hiếu…

            Thời kỳ đầu (sau giải phóng) thơ Đồng Nai vẫn nằm trong thi pháp của của thơ Hiện thực xã hội chủ nghĩa thời kháng chiến với các thể thơ truyền thống quen thuộc (thơ Lục bát, Tứ tuyệt, thơ 7 chữ, 8 chữ và thơ tự do). Những đề tài, tình cảm, chất liệu kháng chiến tiếp tục được khám phá thêm trong thời bình. Thí dụ: bài thơ Anh thương binh phơi thóc của Lê Đăng Kháng, Viếng bạn ở nghiã trang biên giới Tây Nam của Đàm Chu Văn.

Ở giai đọan sau (khi Việt Nam mở cửa hội nhập toàn cầu hóa), Thơ Đồng Nai trở những đề tài đời thường, khai thác những tình cảm của cá nhân trong các mối quan hệ đời thường, và hướng về hiện thực đa dạng của cuộc sống. Thí dụ: bài thơ Miền đất ven sông của Lê Thanh Xuân (trong tập Ngoài kia mây trắng); Bài Đêm ngắm sao trời và bài Bỗng dưng lại buồn của Đỗ Minh Dương(trong tập Đồng dao cho mình); Lời cha của Nguyễn Đức Phước, Chợ Biên Hòa của Minh Hạ…

Có sự khác biệt về phẩm chất tư tưởng-nghệ thuật thơ giữa các nhà thơ hội viên Hội

 Nhà văn Việt Nam và các tác giả phong trào. Các nhà thơ Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và các nhà thơ kỳ cựu ít nhiều đã định hình phong cách nghệ thuật, đã có những sáng tạo riêng, đã in những tập thơ được dư luận chú ý và có đóng góp vào sự phát triển thơ ca đương đại.

            Các nhà thơ Đồng Nai tiêu biểu là: Lê Thanh Xuân, Đàm Chu Văn, Đỗ Minh Dương, Lê Đăng Kháng, Trần Ngọc Tuấn, Đào Trọng Thử, Nguyễn Hoài Nhơn. Nguyễn Đức Phước, Quang Tấn, Hạnh Vân, Trần Thị Bảo Thư.

            (Xin đọc: 45 năm văn học Đồng Nai, thành tựu về thơ)

e. VĂN HỌC THIẾU NHI

Nhiều nhà văn Đồng Nai dành tâm huyết cho thiếu nhi. Mỗi nhà văn có sự khám phá sáng tạo riêng về nghệ thuật và gửi gắm những bài học giàu ý nghĩa nhân văn.

Nhà văn Nguyễn Thái Hải sử dụng đa dạng bút pháp. Ông có truyện đồng thoại, truyện hiện thực và có truyện “trinh thám” (Ba chàng thám tử.1992; Ai cướp chiếc Laptop-2012; Cha con ông Mắt Mèo. 2013; Khu vườn hạnh phúc. 2014; Thám tử học trò-3 tập. 2019…).

Nhà văn Trần Thu Hằng dẫn trẻ vào thế giới của viễn tưởng (Thần đồng và cuộc chiến bảo vệ thủy tháp-tiểu thuyết 2009), thế giới của cổ tích-lịch sử (Chàng thợ gốm, truyện dài).

 Nhà văn Hoàng Ngọc Điệp muốn giúp trẻ yêu thêm đất nước, con người Đồng Nai, một miền quê hương yêu dấu (Cù lao yêu dấu-truyện dài.2018; Ngày hè của chuột con-truyện dài. 2022)[[45]].

 Nhà văn Trâm Oanh kể những “Câu chuyện cuộc sống” khi xã hội chuyển sang nền kinh tế thị trường với bao điều xô bồ nhiễu nhương. Trong những gia đình ấy, khổ nhất là những đứa trẻ [[46]]. Tập truyện dài thiếu nhi “Chuyện Mếu và Máo” (2018) của chị được nhà văn Nguyễn Trí nhận xét: Ưu điểm nổi bật của Oanh là giọng văn tưng tửng, hóm hỉnh, trí tưởng tượng dồi dào, vì vậy có những đoạn ly kỳ như truyện trinh thám, làm người đọc hồi hộp. Đây chính là thế mạnh của Oanh khi viết cho thiếu nhi” [[47]].

Nhà văn Phạm Thanh Quang có các tác phẩm: Lạc giữa hành tinh (truyện dài. 2003), Nhóm lửa giúp bà (thơ. 2012), Cua kềnh vượt vũ môn (truyện dài. 2019 [[48]]).

Nhà văn Bùi Quang Tú có tập truyện Rùa vàng của bé Quỳnh.  

Nhà thơ Đàm Chu Văn Bài có bài thơ Thả diều bên dòng sông quê hương được chọn vào sách giáo khoa Tiếng Việt 3, bộ Chân trời sáng tạo (NXB Giáo dục Việt Nam, 2022).

(Xin đọc Truyện thiếu nhi Đồng Nai)

f. NGHIÊN CỨU, LÝ LUẬN & PHÊ BÌNH VĂN HỌC.

Văn học Đồng Nai có nhiều nhà văn nhà thơ tham gia viết phê bình văn học. Điều này tạo nên đặc điểm và giá trị riêng của phê bình văn học Đồng Nai.

Về kiểu loại bài viết, có những bài nhận định khái quát giai đoạn văn học, có bài bài giới thiệu tác giả hay tác phẩm và có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn học Đồng Nai, tuy chưa nhiều.

Các nhà thơ nhà văn viết phê bình văn học, kiểu bài “điểm sách, điểm tin” là: Trần Thúc Hà, Bùi Quang Tú, Trần Ngọc Tuấn, Đàm Chu Văn, Đỗ Minh Dương, Lê Đăng Kháng, Hoàng Ngọc Điệp, Trần Thu Hằng (bút danh: Mai Sơn, Gia Cát).

Viết lý luận phê bình chuyên nghiệp có nhà văn, nhà nghiên cứu Bùi Quang Huy và Bùi Công Thuấn. Bùi Quang Tú chuyên về viết “chân dung văn học”. Tác phẩm: Viên phấn và cây bút; Lời cám ơn Hà Nội. Bùi Quang Huy viết: Văn học Đồng Nai-Lịch sử và diện mạo, Huỳnh Văn Nghệ tác giả và tác phẩm.

Hai tác phẩm của tôi tập trung viết về văn học Đồng Nai là Hoa đỏ bên sôngNhà văn Đồng Nai

Nhìn chung, Nghiên cứu, lý luận & phê bình văn học ở Đồng Nai bao quát được tình hình sáng tác và sự phát triển của văn học Đồng Nai; đánh giá được những giá trị văn học và góp phần tích cực thúc đẩy sáng tác. Việc nghiên cứu văn học, nghiên cứu lịch sử văn học Đồng Nai còn hạn chế. Cho đến nay chưa có một công trình Lịch sử văn học Đồng Nai tương xứng với sự phát triển của văn học.

(Xin đọc bài: 45 năm văn học Đồng Nai, thành tựu về nghiên cứu, lý luận & phê bình văn học [[49]])

3. NHỮNG VẬN ĐỘNG PHÁT TRIỂN

            Nói đến sự phát triển là nói sự vận động nội tại của văn học. Ở mỗi giai đoạn lịch sử, văn học có những đặc điểm riêng cả về tư tưởng, nội dung, nghệ thuật và thi pháp. Văn học chỉ phát triển khi xuất hiện những yếu tố mới.

            a. Sự vận động sáng tạo giữa các thế hệ (đã trình bày ở trên), thế hệ sau có sự khác biệt về thi pháp với thế hệ trước. Chẳng hạn, thế hệ Hoàng Văn Bổn có những bộ tiểu thuyết sử thi đồ sộ mà thế hệ sau không có. Nhưng ở thế hệ Trần Thúc Hà, Trần Thu Hằng lại xuất hiện tiểu thuyết lịch sử. Cấu trúc truyện song song ngược chiều của Khôi Vũ trong Lời nguyền hai trăm năm là một cách tân tiểu thuyết đương đại mà trước đó chưa có. Tác phẩm của Nguyễn Một (Đất trời vần vũ, Ngược mặt trời) lại nghiêng về dòng văn học dân chủ và nhân văn. Và nếu đọc thơ và truyện viết về người lính hôm nay của Minh Đức (Xin đọc: Viết ở thao trường, Chuyện tình dưới đáy ba lô, Hoa nắng mặt trời, Cha trở lại sư đoàn…), và Phạm Văn Đảng ( Một thời khói lữa, Một quyết định khó khăn, Chuyên gia bất đắc dĩ, Hương ngọc lan…), người đọc sẽ thấy sự khác biệt rất rõ trong nội dung và cách viết so với thế hệ trước đó. 

             Những sáng tác phong trào của thế hệ thứ ba có tính vượt trội (Hoàng Văn Thống, Nguyễn Duy Đồng, Mai Hữu Hạnh, Bằng Lăng, Nguyễn Kim Chi, Hoàng Thị Minh Hòa, Trần Thị Bảo Thư, …

            Thế hệ trẻ 8x, 9x (thế hệ thứ tư) trưởng thành từ đầu thế kỷ XXI, nhiều người đã có những đường nét mới trong cách viết, khác với thế hệ trước. Đó là các tác giả: Huỳnh Ngọc uyết Cương, Lã Hoài Mai, Lê Vũ Anh Đào, Nguyễn Huyền Quy, Tống Thanh Tâm, Đào Nguyên Thảo, Trịnh Khánh Linh…[[50]]

            b. Sự vận động về nội dung: các đề tài truyền thống cũng xuất hiện những cách viềt mới.

            Đề tài chiến tranh cách mạng là đề tài xuyên suốt 45 năm của văn học Đồng Nai, nhưng có sự vận động nội tại. Thế hệ nhà văn Hoàng Văn Bổn miêu tả trực tiếp chiến tranh Cách Mạng với tư cách một nhà văn-chiến sĩ vừa cầm súng vừa cầm viết (Miền đất ven sông, Bầu trời mặt đất, Sóng bạc đầu, Hàm Rồng,…). Thế hệ thứ hai: Lê Đăng Kháng, Phạm Thanh Quang, Đàm Chu Văn, Đào Trọng Thử, Đỗ Minh Dương, Hoàng Văn Thống… (là người lính chống Mỹ trở về từ chiến trường) viết về chiến tranh cách mạng qua hồi ức, với những trải nghiệm của bản thân, và những kỷ niệm chiến trường. Các tác giả này đối mặt với những vấn đề đời thường của người lính trở về sau chiến tranh lúc đất nước trong giai đọan khủng hoảng (giai đoạn 1975-1990). Xin đọc Sương sớm (2011) của Lê Đăng Kháng. Và đến nhà văn bộ đội hiện nay (2023), không khí truyện và thơ của Minh Đức và Phạm Văn Đảng viết về người lính hôm nay trẻ trung hơn, vui tươi hơn, và không ít lãng mạn.

            Giai đoạn đất nước bị khủng hoảng, đời sống nhân dân khó khăn, xuất hiện những yếu tố tiêu cực trong quản lý và sự xuống cấp về đạo đức xã hội, đã xuất hiện những tác phẩm thuộc dòng Văn học dân chủ nhân văn. Nhà văn Đồng Nai đã lên tiếng mạnh mẽ trước cái xấu, bảo vệ cái đẹp truyền thống của dân tộc và Cách mạng. Đó là những tiếng nói tâm huyết.

Xin đọc: Tình đời đen bạc, Người điên kể chuyện người điên của Hoàng Văn Bổn, các tập thơ Em bán sầu riêng, Sợ, Trốn…của Đào Trọng Thử, Đất trời vần vũ của Nguyễn Một. Những tác phẩm này xuất hiện cùng thời với dòng Văn học nhân văn- dân chủ trong cả nước: xin đọc: Cù Lao Chàm (Nguyễn Mạnh Tuấn), Thời xa vắng (Lê Lựu), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Thiên Sứ (Phạm Thị Hoài), Ba người khác (Tô Hoài), Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Thời của thánh thần (Hoàng Minh Tường), Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn), Mối chúa (Tạ Duy Anh), Kiến, chuột và ruồi (Nguyễn Quang Lập)…

Tuy nhiên, Văn học có nội dung nhân văn và dân chủ ở Đồng Nai không gây được tiếng vang nào.

Tình yêu quê hương đất nước, có sự chuyển động từ chiến tranh sang thời bình. Các nhà văn Đồng Nai sinh ra ở mọi miền đất nước nên tình quê hương trong thơ văn cũng biểu hiện hết sức phong phú. Tác giả nào cũng ghi nặng tình quê trên trang văn của mình. Miền đất ven sông của Hoàng Văn Bổn và Nắng bên kia làng của Lý Văn Sâm là tình yêu quê hương, gia đình trong kháng chiến. Tập thơ Giấc rừng của nhà thơ Đàm Chu Văn (2014) là những tình cảm trong hòa bình…Gần đây nhất là tiểu thuyết Sông Luộc ở phương nam (2020) của Khôi Vũ. Tác giả kể lại câu chuyện của gia đình mình trong bối cảnh miền nam từ những năm 1955 đến sau 30/4/ 1975…Nội dung là những sinh hoạt đời thường. Cốt lõi cũa tác phẩm là tình gia đình và tình quê hương. Hơn 300 bài thơ của Hoàng Văn Thống [[51]] có rất nhiều bài thơ đẹp là tình yêu quê hương đất nước hôm nay.

Đề tài về nông thôn, về biển đảo, về chống Covid, về Công nhân là những đề tài của văn chương phong trào. Mặc dù Hội VHNT Đồng Nai mở nhiều trại sáng tác, nhiều cuộc thi, song có rất ít tác phẩm vượt khỏi tầm phong trào (văn học phục vụ trực tiếp nhiệm vu chính trị).

Văn học trẻ tuy đã có được một số khuôn mặt có những sắc nét riêng nhưng trang văn của họ chưa theo kịp các thế hệ đi trước [[52]]. Họ vẫn còn quanh quẩn trong Cái Tôi.

c. Sự vận động về nghệ thuật.

Nói đến sự phát triển của một nền văn học thì sự vận động nghệ thuật là yếu tố quyết định làm cho văn học vượt lên phía trước.

Ở Đồng Nai, nhà văn Khôi Vũ có nhiều cách tân trong nghệ thuật tiểu thuyết. Tiểu thuyết Lời nguyền hai trăm năm có cấu trúc song song ngược chiều. Từ Lời Nguyền Hai Trăm năm (1989), Vỡ dần trong mắt (2009) và Bến đời mơ thực (2016) là một hành trình tìm tòi, đổi mới cách viết tiểu thuyết của Khôi Vũ. Sông Luộc ở Phương Nam (2020)[[53]] là một bước đổi mới thi pháp nữa của Khôi Vũ. Đó là sự chọn lựa miêu tả hiện thực miền Nam (không cách mạng) trước và sau 1975. Không phải vô tình mà Hội Nhà văn trao giải cho Lời nguyền hai trăm nămSông Luộc ở phương Nam.

Nhà văn Nguyễn Một đã viết tiểu thuyết Ngược mặt trời mà anh gọi là “Tiểu thuyết rời rạc”[[54]], có người cho rằng tiểu thuyết này có thể đọc từng chương như những câu chuyện rời rạc (tức là không cần bảo đảm trật tự cấu trúc của tác phẩm như trong tiểu thuyết truyền thống). Đến tiểu thuyết Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (2023), Nguyễn Một lại khám phá hiện thực chiến tranh ở miền Nam (hiện thực không cách mạng) trước và sau 1975. Tác phẩm này đạt giải thưởng Hội Nha văn 2023).

Nhà văn Nguyễn Trí chọn lựa viết về thế giới những con người “dưới đáy”(Chữ của M. Gorky) bằng lối văn trần trụi.

Nhà văn Trần Thu Hằng cũng thành công với 2 tiểu thuyết lịch sử là Đàn ĐáyChuyện tình ở hầm Hinh (truyện lịch sử Cách mạng)[[55]]. Nhà văn Trần Thúc Hà có truyện ngắn lịch sử Người cận vệ của vua Hàm Nghi được chọn là truyện ngắn hay năm 2018 của báo Văn nghệ Hội Nhà văn.

Về thơ, tập thơ Xao thu [[56]] của nhà thơ Đàm Chu Văn là hành trình 15 năm tìm tòi sáng tạo và đổi mới về cách viết. Nhà thơ Nguyễn Đức Phước[[57]] đã làm thơ theo phong cách Thơ trẻ [[58]] đầu thế kỹ XXI. Riêng Trần Ngọc Tuấn kiên trì với thơ Thiền đương đại [[59]].

Như vậy, từ thế hệ đầu tiên (Thế hệ Hoàng Văn Bổn) đến thế hệ đổi mới (nhà văn Nguyễn Một, Trần Thu Hằng, Nguyễn Đức Phước, Dương Đức Khánh), và thế hệ cầm bút trẻ đầu thế kỷ XXI, văn học Đồng Nai đã có những bước phát triển thật khởi sắc. Tuy cùng một dòng chảy của văn học cả nước, nhưng Văn học Đồng Nai có những yếu tố nổi trội về đội ngũ (Văn, thơ, Lý luận phê bình); về tác phẩm, chẳng hạn các nhà văn Khôi Vũ, Nguyễn Một, Nguyễn Trí đều đạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. Trong sự phát triển, Văn học Đồng Nai kế thừa và gìn giữ được những truyền thống của dân tộc. Mỹ học Marx-Lenin và đường lối văn nghệ của Đảng giúp cho sáng tác của nhà văn đi đúng hướng. Đặc biệt là những đóng góp vào sự đổi mới tư tưởng và nghệ thuật của văn học Việt Nam đương đại. Có thể nói đó là 45 năm vàng son của văn học Đồng Nai.

PHẦN III: NHÌN VỀ TƯƠNG LAI

Nhìn về tương lai, văn học Đồng Nai đang trên đường phát triển.

            1. Nhiều tác giả của Hội VHNT Đồng Nai có khả năng kết nạp Hội Nhà văn Việt Nam như: Hoàng Đình Nguyễn, Trâm Oanh, Nguyễn Hoài Nhơn, Đào Trọng Thử, Hạnh Vân, Trần Thị Bảo Thư…. Các nhà văn này đã in nhiều tác phẩm và đã có uy tín trên văn đàn. Chẳng hạn, nhà văn Hoàng Đình Nguyễn là hội viên sáng lập Hội VHNT Đồng Nai. Ông đã theo cha tập kết ra Bắc từ lúc 9 tuổi, tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội năm 1971, tốt nghiệp ĐH Kinh tế Tp HCM năm 1989. Ông nguyên là kỹ sư hóa thực phẩm – nguyên Giám đốc Xí nghiệp Mạch nha Đồng Nai. Ông đã in 14 tác phẩm (06 tập thơ và 08 tập Bút ký).         

            2.Văn học Đồng Nai đã kế thừa và phát huy những truyền thống văn học dân tộc, đã có những nỗ lực đổi mới, ít nhiều có ý nghĩa mở đường cho văn học Việt Nam. Trong giai đoạn mới của đất nước, nhà văn Đồng Nai cần có những tìm tòi, khám phá, thể nghiệm mớiđể có những tác phẩm lớngóp phần “nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước nhà”

            3. Tiềm lực của Văn học Đồng Nai còn rất dồi dào và đang được bổ sung thêm những nhân tố mới. Thế hệ thứ hai gồm các nhà văn từ chiến trường bước ra (Đàm Chu Văn, Lê Đăng Kháng, Phạm Thanh Quang, Đỗ Minh Dương, Bùi Quang Tú…) vẫn còn sung sức. Những nhà văn thời đổi mới như Khôi Vũ, Nguyễn Một, Trần Thu Hằng, Trần Ngọc Tuấn, Phạm Văn Đảng đang vượt lên mạnh mẽ. Thế hệ nhà văn phong trào, có nhiều cây bút tài năng (Minh Đức, Trâm Oanh, Dương Thu Hường, Trần Thị Bảo Thư, Nguyễn Duy Đồng, Hoàng Văn Thống, Mai Hân Hạnh, …), có thể trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Thế hệ trẻ đầu thế kỷ XXI gồm hơn 30 tác giả, nhiều người có cốt cách văn chương, có thể đi đường dài sáng tạo.

Vấn đề là Hội cần có kế hoạch phát huy năng lực sáng tạo của đội ngũ tiềm năng này…và tôi tin văn học Đồng Nai đang mở ra một thời vàng son mới..

Đồng Nai 18/6/2023


[1] Phát biểu của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy tại Đại hội Hội VHNT tỉnh Đồng Nai lần thứ V (nhiệm kỳ 2013-2018)

https://baodongnai.com.vn/chinhtri/201402/phat-bieu-cua-dong-chi-bi-thu-tinh-uy-tai-dai-hoi-hoi-van-hoc-nghe-thuat-tinh-dong-nai-lan-thu-v-2293522/

[2] (Báo cáo tổng kết hoạt động nhiệm kỳ IV (2007 – 2012) & Phương hướng, nhiệm vụ công tác nhiệm kỳ V (2013 – 2018) của Hội VHNT tỉnh Đồng Nai)

[3] Hội nghị tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật

[4] Thí dụ: Nguyễn Minh Châu viết: “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” (báo Văn Nghệ, Hà Nội số 49&50 ngày 5/12/1987), Hoàng Nọc Hiến viết về “chủ nghĩa hiện thực phải đạo” trong bài “Về một đặc điểm của văn học của ta trong giai đoạn vừa qua” (báo Văn nghệ số 23 năm 1979), truyện ngắn Linh nghiệm của Trần Huy Quang (Văn Nghệ, Hà Nội, số 27 ngày 04/07/1992)…

[5] Phát biểu của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy tại Đại hội Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Đồng Nai lần thứ V

https://baodongnai.com.vn/chinhtri/201402/phat-bieu-cua-dong-chi-bi-thu-tinh-uy-tai-dai-hoi-hoi-van-hoc-nghe-thuat-tinh-dong-nai-lan-thu-v-2293522/

[6] Xem: Bùi Quang Huy-“Văn học Đồng Nai-Lịch sử và diện mạo (Nxb Đồng Nai, 2011), phần Văn học Đồng Nai từ 1861 đến 1930, giới thiệu Huỳnh Tịnh Của và Nguyễn Trọng Quản.

[7] Đọc thêm: Gia Định tam gia của Hoài Anh. Nxb Tổng hợp Đồng Nai 2006

[8] Lê Quang Trường-Gia Định tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam bộ-Luận văn Tiến sĩ. 2012

[9] Quốc sử quán triều NguyễnQuốc triều sử toát yếu, phần “Chính biên”, Nhà xuất bản Văn học, 2002, tr. 43

[10] Bùi Công Thuấn-“Lòng ta say chiến trận đã thành thơ” (Thơ Huỳnh Văn Nghệ). Nhà văn Đồng Nai. Nxb HNV 2018

[11] Thụy Khuê-Bình Nguyên Lộc-Đất nước con người

    http://thuykhue.free.fr/tk06/BNLoc.html

[12] Tuyển tập thơ Nguyễn Tất Nhiên

[13] Xem Hoài Anh-Gia Định tam gia. Nxb Đồng Nai 2006. Tr. 141, 143.160

[14] Kim Hạnh-Câu thơ duyên nghiệp

http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=1639&CatId=87

[15] Nông Hồng Diệu-Nguyễn Trí, tiểu sử gây sốt

https://tienphong.vn/nguyen-tri-tieu-su-gay-sung-sot-post669849.tpo

[16] Hồ Chí Minh-Cách viết (bài giảng tại lớp chỉnh Đảng trung ương ngày 17.8.1953). Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, tr.117

[17] Văn nghệ Đồng Nai số 8/ 1987

[18] Nguyễn Duy Đồng-Thư gửi Ban Chấp hành Hội VHNT ĐN ngày 08 tháng 11 năm 2017biện giải về truyện Chị ấy.

[19] Tổng hợp từ bài viết của các tác giả: Hoàng Ngọc Điệp, Đàm Chu Văn, Hạnh Vân, Thy Vân.

[20] Lyna-Thêm nhiều tác phẩm mới: http://baodongnai.com.vn/vanhoa/201911/them-nhieu-tac-pham-van-hoc-moi-2976223/

[21] Mai Sơn-Một năm sôi động và khởi sắc của văn học Đồng Nai

http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2422&CatId=87

[22] Mai Sơn-Văn học Đồng Nai-Dấu ấn năm 2021 http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2811&CatId=87

[23] Đông Giang-Một năm khởi sắc của văn học nghệ thuật Đồng Nai

http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=3272&CatId=79

[24] Mai Sơn-Văn học Đồng Nai-Những dấu ấn năm 2021

http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2811&CatId=87

[25] Ngô Hường-Hội VHNT Đồng Nai tổng kết hoạt động năm 2022, triển khai nhiệm vu năm 2023

http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=3057&CatId=79

[26] Giải thưởng của Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam trao cho Đồng Nai: Trong các thập niên qua, Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam đã trao nhiều giải thưởng, tặng thưởng văn học cho các tác giả Đồng Nai như: Hoàng Văn Bổn (Hồi ký Tuổi thơ ngọt ngào), Phạm Thanh Quang (Tập truyện ngắn Địa linh), Bùi Công Thuấn (tập phê bình văn học Những dòng sông vẫn chảy), Đào Sỹ Quang (tập truyện Sự đời), Đỗ Minh Dương (tập thơ Đồng dao cho mình), Bùi Quang Tú (tập ký Viên phấn và cây bút), Trần Thu Hằng (tiểu thuyết Chuyện tình ở Hầm Hinh), Hoàng Ngọc Điệp (truyện thiếu nhi Cù lao yêu dấu)…(Nguồn: Tùng Điển, Đôi điều về 45 năm văn học Đồng Nai 1975-2020. VNĐN số 38 – tháng 07 & 08 năm 2020)

[27] Dương Thu Hường-Công nhân viết văn và văn học viết về công nhân

http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2400&CatId=83

[28] Bùi Công Thuấn-Thơ Lê Thanh Xuân-Tạp chí Thơ số 4.2016

[29] Bùi Quang Tú-Bên dòng sông Thị Vảihttp://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=1868&CatId=76

[30] Bùi Công Thuấn-Một thời rừng sác của Lê Bá Ước:

    http://chuttinhtriam.blogspot.com/2014/08/mot-thoi-rung-sac-le-ba-uoc.html

[31] Bùi Công Thuấn: Đàn ống tre bên kia sông của Khôi Vũ:     https://buicongthuan.wordpress.com/?s=%C4%90%C3%A0n+%E1%BB%91ng+tre+b%C3%AAn+kia+s%C3%B4ng

[32] Bùi Công Thuấn-Khúc gieo trồng ban mai (Đọc Quả ngọt của Lê Đăng Kháng):

    http://buicongthuan.vn102.space/?title=th_le_ng_khang_qu_ng_t&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[33] Bùi Công Thuấn-“Phạm Thanh Quang-Một tấm lòng người lính”:

http://buicongthuan.vn102.space/?title=vh_n_ph_m_thanh_quang_m_t_t_m_long_ng_i_&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[34] Bùi Công Thuấn-Nhà văn Phạm Văn Đảng và người lính hôm nay: http://buicongthuan.vn102.space/?title=vh_n_ph_m_v_n_ng_va_ng_i_linh_hom_nay&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[35] Đỗ Minh Dương-Vài cảm nghĩ về thơ Đồng Nai với đề tài chiến tranh cách mạng từ sau 1975 đến nay

http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2398&CatId=83

Đàm Chu Văn-40 năm thơ Đồng Nai-Đôi nét về sự hình thành và phát triển

http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2393&CatId=83

[36] Bùi Công Thuấn: Người Chợ Kệ và Cá tình sáng tạo:

   http://hvhnt.dongnai.gov.vn/pages/newsdetail.aspx?NewsId=1914&CatId=83

[37] Bùi Công Thuấn-Chuyện tình ở Hầm Hinh của Trần Thu Hằng: https://buicongthuan.wordpress.com/2017/10/10/chuyen-tinh-o-ham-hinh/

[38] Dương Thu Hường- Công nhân viết văn và văn học viết về công nhân

http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2400&CatId=83

[39] Đỗ Minh Dương“Đằng giang tự cổ”, tập truyện ngắn lịch sử của nhà văn Trần Thúc Hà

    Tạp chí Văn nghệ Đồng Nai số 44. http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2620&CatId=83

[40] Giới thiệu tiểu thuyết Đàn đáy của Trần Thu Hằng.

https://vietbooks.info/threads/dan-day-nxb-hoi-nha-van-2020-tran-thu-hang-445-trang.107348/

[41] Đọc thêm: Bùi Công Thuấn-Thể loại Ký của văn học Đồng Nai (trong chuyên luận này)

[42] Trường Chinh-Về Văn hóa nghệ thuật-Tập 1-Nxb Văn học 1985. Tr.115 (Báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam.1948)

[43] Bùi Công Thuấn-Truyện ngắn Nguyễn Một

[44] Bùi Công Thuấn-Đặc sắc truyện ngắn Trần Thu Hằng

https://vanchuongthanhphohochiminh.vn/dac-sac-truyen-ngan-tran-thu-hang

[45] Bùi Công Thuấn-Ngày hè của chuột con: http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=3056&CatId=83

    Bùi Công Thuấn-Cù lao yêu dấu-http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=1927&CatId=83

[46] Câu chuyện cuộc sống-Tuổi Trẻ cuối tuần

[47] Nguyễn Trí-Cuộc chiến của Mếu và Máo. https://tin.rut.vn/565/331283/Cuoc-chien-cua-Meu-va-Mao.html

[48] Hoàng Ngọc Điệp-Cua Kềnh vượt vũ môn:

https://baodongnai.com.vn/vanhoa/201907/cua-kenh-vuot-vu-mon-2954755/

[49] Bùi Công Thuấn-Nghiên cứu, lý luận & Phê bình văn học ở Đồng Nai

[50] Bùi Công Thuấn-Văn trẻ Đồng Nai-Tạp chí Văn nghệ Đồng Nai số 64 (tháng 6/ 2023)

[51] Bùi Công Thuấn-Hoàng Văn Thống và thơ phong trào

http://buicongthuan.vn102.space/?title=vn_n_hoang_v_n_th_ng_va_th_phong_trao&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[52] Bùi Công Thuấn-Văn trẻ Đồng Nai, chuyên luận. VNĐN số 64 (tháng 6/ 2023)

[53] Bùi Công Thuấn-Sông Luộc ở phương Nam và những mã nghệ thuật:

[54] Bùi Công Thuấn-Nghĩ rời rạc về tiểu thuyết Ngược mặt trời của Nguyễn Một:

   http://buicongthuan.vn102.space/2013/12/27/nghau_rar_i_raonc_var_tiar_u_thuyaoft_ng

[55] Bùi Công Thuấn-Chuyện tình ở Hầm Hinh

[56] Bùi Công Thuấn-Bùi Công Thuấn-“Đàm Chu Văn và con đường đổi mới thơ ca”:

[57] Bùi Công Thuấn-Đêm khát của Nguyễn Đức Phước: https://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=8499

[58] Bùi Công Thuấn-Nhìn lại “Thơ Trẻ” đầu thế kỷ XXI:

   http://trannhuong.top/tin-tuc-54656/nhin-lai-%E2%80%9Ctho-tre%E2%80%9D-dau-the-ky-xxi.vhtm

[59] Bùi Công Thuấn đọc tập Suối reo của Trần Ngọc Tuấn: http://buicongthuan.vn102.space/2021/08/04/th_thi_n_tr_n_ng_c_tu_n_su_i_reo

   Bùi Công Thuấn-đọc tập thơ Chân Thân của Trần Ngọc Tuấn:   http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2728&CatId=83

Bùi Công Thuấn-Đọc tập thơ Hiện hữu của Trần Ngọc Tuấn: https://vanvn.vn/tho-thien-cua-tran-ngoc-tuan/

NGHIÊN CỨU, LÝ LUẬN & PHÊ BÌNH VĂN HỌC Ở ĐỒNG NAI

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

45 NĂM VĂN HỌC ĐỒNG NAI

Thành tựu về Nghiên cứu, Lý luận & phê bình văn học

Bùi Công Thuấn

***

Có một hiện tượng khá đặc biệt trong sinh hoạt văn học ở Đồng Nai là nhiều nhà văn, nhà thơ tham gia viết phê bình văn học.

PHÊ BÌNH VĂN HỌC CỦA CÁC NHÀ THƠ NHÀ VĂN

Từ góc nhìn và trải nghiệm của người sáng tác, các nhà thơ nhà văn viết phê bình văn học đem đến cho người đọc nhiều thông tin về quá trình sáng tác của một tác giả, giúp người đọc hiểu sâu sắc về tác phẩm. Cũng vậy, khi viết phê bình về tác phẩm của một tác giả đồng nghiệp, nhà văn có sự trân trọng và những khám phá riêng mà người ngoài cuộc có khi không nhận ra. Những bài phê bình như vậy vừa là sự chia sẻ, vừa lời tri âm tri kỷ với đồng nghiệp. Nó có sức nâng đỡ, động viên rất lớn việc sáng tác. Nó cũng giúp tác giả được phê bình nhận ra những mặt ưu điểm của mình, mặc dù chưa hẳn người viết phê bình đã hiểu đúng những gì tác giả muốn nói. Và hơn hết, nó ném vào quãng không vô tận một tiếng hót của con chim sơn ca về một tác giả, tác phẩm, đánh dấu sự tồn sinh văn chương.

Nhà thơ Trần Ngọc Tuấn đã in “Cuộc lãng du tâm hồn” (tập tiểu luận phê bình, Nxb HNV 2007) và nhiều bài tùy bút văn chương [1]. Đây là những trang tuyệt bút. Trần Ngọc Tuấn đọc rất sâu thơ của các nhà thơ: Bích Khê, Tế Hanh, Vũ Hoàng Chương, Hàn Mạc Tử, Yến Lan, Đinh Hùng, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Bùi Giáng, Nguyên Sa, Vũ Hữu Định, Xuân Sách, Vũ Trọng Quang…Ở mỗi thi sĩ, Trần Ngọc Tuấn tìm một đặc điểm văn chương-tư tưởng làm“tứ thơ” để triển khai những cảm thức của mình. Trần Ngọc Tuấn gọi các nhà thơ là “Thi sĩ”, ông hiểu sâu sắc cuộc đời và thơ ca của họ, nhựng ông chỉ chiêm nghiệm cốt cách thi sĩ ở họ. Trong cách viết, Trần Ngọc Tuấn dùng chính thơ của thi sĩ làm thành mạch văn, cấu tứ, lập ý bài viết của mình. Trần Ngọc Tuấn có khả năng tổng hợp tư liệu, khám phá và tái hiện chân dung, cũng như cá tính sáng tạo và đặc điểm cuộc đời của thi sĩ. Văn chương tài hoa rất mực. Tấm lòng yêu quý vô hạn của Trần Ngọc Tuấn đối với các thi sĩ trở thành châu ngọc trong tùy bút văn chương của ông. Trần Ngọc Tuấn bỏ qua những thị phi mà các thi sĩ phải chịu trong cuộc trần ai này để chắt lọc lấy những “tinh anh” (chữ của Nguyễn Du) của thơ và nhân cách thi sĩ. Tuy nhiên, Trần Ngọc Tuấn không nhận dạng thi sĩ bằng thi pháp hay đặc trưng nghệ thuật.

Xin đọc:

“Hữu Loan – Hiện hữu một màu hoa sim tím

Giữa tinh khiết hoa sen, vàng thu hoa cúc, trắng trinh hoa huệ, sương khói hoa lau…trong vườn thơ Việt thi sĩ hiện hữu như một màu tím hoa sim.

            Màu tím là hiện thân của tình yêu chung thủy: ngày xưa nàng yêu hoa sim tím – áo nàng màu tím hoa sim…Khi chiếc bình hoa ngày cưới,thành bình hươngtàn lạnh vây quanh… thì màu tím trở thành màu ly biệt: Em ơi giây phút cuối – không được nghe nhau nói – không được trông nhau một lần… Thi sĩ vọng về đâu trong chiều hoang tím chỉ có chiều hoang biết ?

            Dẫu ẩn cư nơi thôn dã nhưng chỉ cần một màu tím hoa sim cũng đủ làm sáng danh thi sĩ… Trong cuộc hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím phía bên kia đèo Cả, hành trang thi sĩ mang theo đâu chỉ có một màu tím hoa sim, tím chiều hoang biền biệt…” (Ghi chú: chữ in nghiêng là thơ Hữu Loan) [[1]].

***

Xin đọc bài phê bình của các nhà thơ nhà văn Đồng Nai viết về văn chương Đồng Nai:

Nhà văn Trần Thúc Hà viết “Dòng chảy văn xuôi Đồng Nai” [[2]]. Ông giới thiệu các tên tuổi: Nguyễn Thái Hải, Nguyễn Một, Nguyễn Trí, Lê Đăng Kháng, Huỳnh Văn Tới – Phan Đình Dũng, Nguyễn Đình Hoàng. Ông viết riêng về Trần Thu Hằng với tiểu thuyết lịch sử Đàn dáy. Ông khái quát: “Mỗi nhà văn là một con suối, dù có con suối quanh co khi lên thác xuống ghềnh nhưng tất cả đều đổ về một con sông lớn. Con sông ấy chứa đựng hồn đất hồn người Đồng Nai…Ngắm dòng sông ấy ta thấy mồn một gương mặt con người Đồng Nai trong chiến tranh bất khuất, không ngại hy sinh cho nền độc lập của tổ quốc, trong thời bình đem hết sức mình cho sáng tạo, lao động xây dựng ấm no và hàn gắn những nỗi đau chất độc da cam làm con người biến dạng; của các bà mẹ mất con, mất chồng, cả bên này lẫn bên kia; tình làng nghĩa xóm luôn đậm tình thương, chia sẻ ngọt bùi trong gian khó, buồn vui”.

Nhà thơ Đàm Chu Văn viết về 40 năm thơ Đồng Nai, về thơ Trần Ngọc Tuấn [[3]], về thơ tình đặc sắc của Nguyễn Đức Phước (VNĐN số 61/2019. Tr.27); Về hai tập truyện thiếu nhi của nhà văn Nguyễn Thái Hải: Lớp học làng rừng; Mèo con đã lớn như thế nào (VNĐN so 61/ 2016. Tr.45); Chiến khu Đ qua một số tác phẩm văn chương, nghệ thuật (VNĐN số 22 – tháng 11 & 12 năm 2017).

Sau khi giới thiệu lực lượng sáng tác, nội dung thơ Đồng Nai, Đàm Chu Văn nhận xét: “Thơ Đồng Nai tương đối đa thanh đa sắc, cùng với thời gian có sự trưởng thành về nghệ thuật biểu hiện. Phần nhiều các cây bút vẫn sáng tác theo nghệ thuật thơ truyền thống. Một số cây bút đã có những tìm tòi đổi mới trong ngôn ngữ, cấu tứ, thi liệu, tự làm mới mình và đã có những thành công nhất định. Thơ Đồng Nai có một vị trí nhất định, đáng kể trong nền thơ ca cả nước hiện nay”.

Nhà thơ Đỗ Minh Dương viết Vài cảm nghĩ về thơ Đồng Nai với đề tài chiến Tranh cách mạng từ sau 1975 đến nay[[4]], về tập truyện Đằng giang cổ tự của Trần Thúc Hà (VNĐN số 44) [4].

Sau khi giới thiệu lực lượng sáng tác, giới thiệu thơ viết về đề tài chiến tranh cách mạng, về chiến khu Đ, Đỗ Minh Dương nhận xét: “Mở rộng ra để xin phép so sánh một chút với thơ ca cách mạng của cả nước, thơ ca ở Đồng Nai trong 45 năm qua, chưa thấy có bài nào tạo được dấu ấn, dù chỉ là “đàn em” của Việt Bắc, Máu và hoa, Mẹ Suốt…của Tố Hữu; Tiếng hát con tàu, Sao chiến thắng... của Chế Lan Viên; Ta chào Việt Bắc về xuôi, Con chim và xác tàu bay Mỹ…của Xuân Diệu; Đất nước, Lá đỏ… của Nguyễn Đình Thi; Giá từng thước đất, Ngọn đèn đứng gác... của Chính Hữu; Tây Tiến của Quang Dũng, Lính râu ria của Chính Hữu.v.v… 

      So sánh như trên, có người sẽ cho rằng: đặt ra yêu cầu này là quá cao, quá chênh lệch và rất khó đối với những người làm thơ ở Đồng Nai. Nhưng nếu không có được những bài thơ tạo dấu ấn mới trong dòng văn học sử của một thời, của một vùng, thì coi chừng tất cả rồi cũng sẽ chìm vào quên lãng…”[4].

Nhà văn Hoàng Ngọc Điệp có nhiều bài giới thiệu tác giả, tác phẩm: Trần Thúc Hà, Dương Đức Khánh, NS Trần Viết Bính [[5]]; giới thiệu tập truyện Bến hồng nhan của Đào Sỹ Quang [[6]]; tập truyện Cua kềnh vượt vũ môn của Phạm Thanh Quang [6]; giới thiệu “Chạy về phái mặt trời” tuyển tập văn trẻ Đồng Nai [6].

Hoàng Ngọc Điệp luôn tìm được điểm nhấn khi giới thiệu một tác giả hay một tác phẩm. Đó là chỗ tinh tế của một ngòi bút phê bình và cũng là một tấm lòng. Nhận xét về tập truyện “Bông hồng đen” Hoàng Ngọc Điệp viết: “Văn của Dương Thu Hường giản dị, có cảm giác như nghĩ gì viết nấy, không trau chuốt. Nhưng vẫn có những đoạn, những trang viết nên thơ, trữ tình: “Nhưng tiếng gió đuổi nhau trên vòm lá, ông ve vãn mùa xuân, búp lá cong mình trong nắng” (Đồi hoa cỏ may- tr. 67).

Dương Thu Hường đặt tên cho tập truyện ngắn là “Bông hồng đen”, một cái tựa đẹp và gợi. Có lẽ khi đặt tựa sách, chị không nghĩ rằng chính tác giả cũng là một “bông hồng đen” quý giá.” 

Hoàng Ngọc Điệp viết về nhà văn Trần Thúc Hà (1937-2023): “Ở tuổi ngoài bát tuần, nhà văn Trần Thúc Hà vẫn miệt mài sáng tác và dường như ông càng viết càng hay. Mới đây, Trần Thúc Hà cho biết, ông sẽ xuất bản tập truyện ngắn về đề tài lịch sử, đây gần như là lối rẽ khá bất ngờ trong phong cách sáng tác của ông… Dù viết chuyện xưa hay chuyện nay, bạn đọc đều thấy ở ông ý thức trách nhiệm của một nhà văn nỗ lực dùng ngòi bút của mình làm cho cuộc đời tốt đẹp, nhân văn hơn”.[[7]]

Nhà thơ Lê Đăng Kháng giới thiệu thơ Lê Huy Mậu và thơ Bế Kiến Quốc: Buổi sáng đọc lại thơ bạn: đọc tập thơ Bốn giọt nước của Lê Huy Mậu và tập Mãi mãi ngày đầu tiên của Bế Kiến Quốc (VNĐN số 27/2019, tr.24).

Tác giả Phan Nam Sinh viết nhiều bài về thân phụ là nhà thơ Phan Khôi. Ông không quan tâm đến văn học Đồng Nai. Có lẽ mục đích của tác giả là muốn phục hồi uy tín văn chương cho người cha mình sau vụ án Nhân Văn giai phẩm (?). Xin đọc: “Kỷ niệm nhỏ về thầy tôi-Nhà văn Phan Khôi” [[8]]; Có bao nhiêu sự thật trong bài thơ Tình già của Phan Khôi [8]; Ảnh thầy tôi nhìn từ những kỷ niệm [8]. Cha tôi-Ông Phan Khôi [8]…

Nhà văn Trần Thu Hằng (bút danh Mai Sơn, Gia Cát) viết rất sâu sắc về tác phẩm của Hoàng Văn Bổn, Lê Đăng Kháng, Đỗ Minh Dương, Đào Sỹ Quang, Mai Hân Hạnh, Nguyễn Quang Tấn, Hoàng Văn Thống, về Phạm Quốc Ca (VNĐN số 20 – tháng 07 & 08 năm 2017); về tiểu thuyết Đồng Nai, và viết tổng kết văn học Đồng Nai hàng năm… [[9]]. Ngòi bút Trần Thu Hằng hướng đến lý luận phê bình chuyên nghiệp.

Xin đọc: Sau khi khẳng định “Tiểu thuyết Đồng Nai gắn liền với vùng đất Đồng Nai” và “Tiểu thuyết Đồng Nai có vị trí riêng trong văn học cả nước”, Trần Thu Hằng nhận định: “…chất huyền thoại và chất sử thi luôn hiện lên trên những trang tiểu thuyết của các nhà văn Đồng Nai, tạo nên một nét riêng không thể trộn lẫn”.

Trần Thu Hằng giới thiệu nhà thơ Lê Thanh Xuân: “Xuất thân là nhà báo, ông đã đi rất nhiều nơi. Những vùng địa đầu Tổ quốc và những miệt núi rừng xa hút của Đồng Nai đi vào thơ ông bằng một sức hút mãnh liệt (Trăng sông Đà, Mai Châu, Dốc Cun, Viết từ rừng đước, Trên thảo nguyên, Cánh rừng cổ đại, Núi Tiên…). Đó là những nơi đã đánh thức tâm hồn cô đơn hoang dã của nhà thơ, nuôi dưỡng và làm cho tâm hồn ấy lớn mạnh lên, không ngừng đắp bồi khoáng chất. Hầu như đi đến đâu, trải nghiệm cảnh giới nào, nhà thơ đều nhớ đến nguồn dưỡng chất vô tận của thiên nhiên, lấy đó để hóa giải cuộc đời. Bài thơ Người S’tiêng vào thành phố tiêu biểu cho nỗi nhớ mang tính bản thể này”[[10]].

Có thể nhận ra văn phê bình của Trần Thu Hằng rất giàu chất thẩm mỹ.

Nhà văn Nguyễn Trí có bài viết về “Truyện ngắn Đồng Nai-hôm qua và hôm nay”; bài giới thiệu Nguyễn Quang Tấn, bài giới thiệu Cù lao yêu dấuBin mũi hếch của nhà văn Hoàng Ngọc Điệp [[11]].

Nguyễn Trí nhận xét về truyện ngắn Đồng Nai: “Văn học Đồng Nai nói chung, văn xuôi nói riêng và riêng tư nữa là thể loại truyện ngắn – theo tôi – đang chững lại. Già đang già đi. Trung niên cả văn và thi sĩ đang khề khà bên chén rượu mà ngâm câu văn chương hạ giới rẻ như bèo. Trẻ đang bâng khuâng bởi chung quanh họ những loại hình nghệ thuật nghe nhìn phát triển hơn nghe đọc cả vạn lần… Viết đã khó. Được in đã khó. In xong bán chả ai mua…”

Tác giả Đặng Minh HânVăn Thơ Đồng Nai, Đôi Điều Cảm Nhận (tiểu luận)

Tập tiểu luận gồm những bài viết về: Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn, Khôi Vũ, Nguyễn Đức Thọ, Anh Hoàng, Nguyễn Một, Minh Chung, Lê Đăng Kháng, Kiều Văn Phẩm.

Đặng Minh Hân thể hiện một tấm lòng yêu mến trân trọng với văn chương, đặc biệt là với văn thơ Đồng Nai. Đặng Minh Hân tự nhận mình là người: “Vốn là người yêu thơ, say thơ và nghiên cứu khá công phu về thơ cuả các nhà thơ viết về Biên Hoà…” và có quan hệ gần gũi, thân thiết với nhà văn Đồng Nai, vì thế ông có lợi thế khi viết về tác giả Đồng Nai, trang viết cuả ông có giá trị chân thực đáng quý.

Đặng Minh Hân đứng vững trên những nguyên tắc văn nghệ cuả Đảng để nhận xét, đánh giá văn chương. Theo Đặng Minh Hân, giá trị cuả văn chương là ở chỗ văn chương có phản ánh được những kỳ tích anh hùng cuả nhân dân, chính nghiã và sức mạnh cách mạng, văn chương có góp phần giáo dục những đạo lý, tình nghiã cách mạng hay không. Vì thế Đặng Minh Hân cự lực phản đối những hiện tượng văn chương vô luân, sex cuả các tác giả trẻ. Ông biểu đồng tình mạnh mẽ với Vũ Hạnh trong việc phê phán công ty văn hoá Phương Nam in lại những tác phẩm cuả nhà văn Sàigòn trước 1975.

Nhà văn Khôi Vũ-Nguyễn Thái Hải không viết phê bình văn học nhưng ông in cuốn Dấu ấn đời văn (Nxb Đồng Nai, 6/ 2020) để ghi lại quá trình sáng tác của mình. Cuốn sách là tuyển tập: tác phẩm đầu tay, tác phẩm đoạt giải thưởng; và tổng hợp những tác phẩm ông đã xuất bản. “Đằng sau mỗi tác phẩm đều có những bài tự sự ngắn về bối cảnh ra đời, nội dung, những giải thưởng, những câu chuyện… xung quanh tác phẩm. Các bài tự sự này là một trong những điểm mới của cuốn sách, hấp dẫn bạn đọc tìm hiểu về văn chương và hành trình sáng tác của nhà văn”[[12]]. Hạ Nguyên nhận xét: “nhà văn Khôi Vũ đã lồng vào những trích đoạn tiểu thuyết hoặc truyện ngắn những lời “Tự sự” để cho độc giả hiểu hơn về tác phẩm, về tác giả qua mỗi giai đoạn sáng tác. Chính những lời tự sự này đã gây thích thú cho người đọc, để người đọc được hình dung một cách trọn vẹn cuốn sách mà tác giả tâm huyết viết nên[[13]].

Những lời tự sự”[[14]] chính là “nguyên liệu” của lý luận phê bình, là những tư liệu để các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu quá trình sáng tác, từ đó lý giải tác phẩm. Ý thức sáng tạo của Khôi Vũ còn được viết trong chuyên luận “Con ếch ngắm trăng” đã được ông công bố trên trang FB cá nhân.

Đây là một đoạn trích trong Con ếch ngắm trăng. Khi đã 50 tuổi, Khôi Vũ định tập trung viết một bộ “trường thiên tiểu thuyết”. Nội dung tiểu thuyết kể “về cuộc đời một cô gái mười lăm tuổi từ năm 1954 đến khi trở thành một phụ nữ trên sáu mươi tuổi vào năm 2000, mà sự đau khổ đã khiến toàn bộ mái tóc của bà sớm bạc trắng. Chuyện về cuộc đời của nhân vật này được lồng trong bối cảnh lịch sử của miền Nam đất nước ta: thời đệ nhất Cộng Hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm, thời của các tướng lĩnh làm chính trị và thời sau tháng 4/1975. Tôi đặt nhan đề chung cho bộ truyện là “Tóc trắng” và viết theo kiểu chương hồi, trước mỗi chương là một đoạn lời kể của người phụ nữ tóc trắng, tiếp đó mới là phần kể hoặc tả của tác giả theo thứ tự thời gianTrong suy nghĩ của tôi,”Tóc trắng” phải dài ít nhất 3 cuốn, mỗi cuốn khoảng trên dưới 300 trang in, thì việc in ấn không phải dễ. Vì vậy, trước hết phải viết cho xong đã rồi tính gì thì tính…Ba tháng, tôi viết được 100 trang vi tính, hết phần 1. Tiếc là số phận không chiều lòng tôi. Bộ “Tóc trắng”(2007) đến tận năm nay, tức mười mấy năm sau, vẫn còn dừng ở ba chữ ‘Hết phần 1’.

***

Những bài phê bình giới thiệu tác giả, tác phẩm thường được viết theo một “mẫu” chung (giáo khoa thư). Trước hết người viết điểm qua “tiểu sử sáng tác” của tác giả, rồi giới thiệu sơ lược nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, từ đó đưa ra một vài lời khen, vài lời chia sẻ. Khung hướng chung là ca ngợi và chỉ nêu những gì tốt đẹp, và nếu có “điểm” những hạn chế, ngòi bút phê bình cũng sẽ rất nhẹ (đó là chiêu PR). Bài viết hướng thông tin đến đông đảo công chúng, và do giới hạn số chữ của trang báo nên thường ngắn gọn (khoảng 1200 chữ).

Phê bình của nhà văn viết về nhà văn là tấm lòng đến với những tấm lòng có thiện cảm với văn chương (thực ra, ngày nay, người yêu văn chương, tìm đọc báo chí văn chương là rất ít). Các tác giả không chuyên sâu một phương pháp phê bình hay lý thuyết văn chương nào. Năng lực viết phê bình dựa trên trải nghiệm của chính mình. Lập trường tư tưởng để viết phê bình là quan điểm văn học nghệ thuật của Đảng. Điều được quan tâm là xem xét mối quan hệ giữa văn học và hiện thực, và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của văn học.

Những bài phê bình văn học-kiểu phê bình báo chí- tuy ít phẩm chất lý luận song cũng đạt được những chân giá trị chân lý và có sức thuyết phục ở tâm huyết của người viết. Điều hạn chế của bài viết là do góc quan sát và sự chủ quan, cảm tính của người viết.

Viết về truyện ngắn Đồng Nai, Nguyễn Trí phải rào đón: Văn học Đồng Nai nói chung, văn xuôi nói riêng và riêng tư nữa là thể loại truyện ngắn – theo tôi – đang chững lại. Già đang già đi…”.

Viết về tiểu thuyết Đồng Nai, Trần Thu Hằng tự đánh giá: “Người viết xin tạm khép lại bài viết dù chưa thể đưa ra được sự khẳng định mang tính kết luận về tiểu thuyết Đồng Nai; vì khả năng còn rất hạn chế, những điều cảm nhận và viết ra cũng chỉ mang tính liệt kê, còn chủ quan và cạn hẹp. Rất mong đây là những trang viết dành cho tiểu thuyết Đồng Nai sự trân trọng, yêu quý cùng những mơ ước lớn lao được tiếp cận, học hỏi và đồng hành./”[8-đã dẫn]

Đàm Chu Văn nói về bài “Bốn mươi năm thơ Đồng Nai…” của mình như sau: “Bài viết này xin giới hạn tìm hiểu, thống kê lực lượng thơ Đồng Nai từ khi Hội Văn học Nghệ thuật Đồng Nai được thành lập (22-12-1979), tức là 40 năm qua. Chắc chắn sẽ còn nhiều sơ lược, thiếu sót, mong được bạn đọc lượng thứ”[3-đd].

Công bằng mà nói, những đóng góp về phê bình văn học của các nhà thơ nhà văn Đồng Nai đã đem đến nhiều giá trị cho đời sống văn học. Trước hết là nhìn lại sự phát triển văn học, nhận ra những thành tựu và hạn chế về đội ngũ, về chất lượng sáng tác để tiếp tục con đường phía trước. Thứ hai là, những bài phê bình chính là tiếng nói tri âm tri kỷ, có sức động viên rất lớn đối với việc sáng tác. Người viết phê bình hiểu rất rõ “tài năng” văn học của đồng nghiệp, vì thế, khi viết họ có sự tế nhị nhất định. Những chia sẻ, thấu hiểu, khích lệ của người viết sẽ mang đến cho các tác giả được giới thiệu một sự tự tin để vững bước.

Và, dù ít, dù nhiều, mỗi bài phê bình đều có những đóng góp nhất định vào một nhiệm vụ quan trọng là: “Phát huy vai trò thẩm định tác phẩm, hướng dẫn dư luận xã hội phê bình văn học, nghệ thuật. Bảo đảm tự do sáng tác đi đôi với nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của văn nghệ sĩ, các nhà văn hoá. Nâng cao chất lượng, phát huy tác dụng của nghiên cứu, lý luận./ Tiếp tục đấu tranh chống các khuynh hướng trái với đường lối văn nghệ của Đảng(Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, ngày 16/7/1998).

Nhờ thế, văn học Đồng Nai không có những “hiện tượng lêch chuẩn” như nhận định của Đảng: “Trong một số trường hợp, có biểu hiện cực đoan, chỉ tập trung tô đậm mặt đen tối, tiêu cực của cuộc sống hiện tại, thậm chí xuyên tạc, bóp méo lịch sử hoặc bị các thế lực thù địch lôi kéo, đã sáng tác và truyền bá các tác phẩm độc hại, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân và đất nước…” (NQ TW 5-đã dẫn)

***

NGHIÊN CỨU, LÝ LUẬN & PHÊ BÌNH CHUYÊN NGHIỆP

Viết “lý luận phê bình chuyên nghiệp” ở Đồng Nai có nhà văn Bùi Quang Tú

(1948-2023), nhà nghiên cứu văn học Bùi Quang Huy và tôi.

Các “công trình” nghiên cứu chuyên sâu có tính học thuật là rất ít. Nội dung học thuật chỉ gói trong văn học Đồng Nai. Lý luận phê bình văn học Đồng Nai chưa vươn đến những vấn đề lý luận học thuật và chưa tham gia giải quyết những vấn đề lý luận của văn học Việt Nam đương đại.

Sự “yếu kém” của lý luận phê bình văn học ở Đồng Nai có thể có nguyên nhân do thiếu quan tâm của người có trách nhiệm:

Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, phát triển lý luận văn học, nghệ thuật. Kiên quyết khắc phục những yếu kém kéo dài của hoạt động phê bình văn học, nghệ thuật, nâng cao tính khoa học, tính thuyết phục, góp phần hướng dẫn, điều chỉnh sáng tác, phê bình văn nghệ” (NQ 23/ BCT).

***

NHÀ VĂN BÙI QUANG TÚ (1948-2023).

Ông đã in: Viên phấn và cây bút (chân dung văn học, 2013); Hãy trở về với văn hóa đọc (tiểu luận, nghiên cứu.). Lời Cám ơn Hà Nội (tạp văn-Nxb Đồng Nai. 2014)…

Lời mở đầu Hãy trở về với văn hóa đọc, Bùi Quang Tú viết: “Tôi chỉ là người sáng tác, không phải nhà phê bình. Cuốn sách nêu một vài suy nghĩ về vấn đề dạy và học văn… đồng thởi gửi gắm vài tâm sự về nghề viết. Chiếm phần lớn trong cuốn sách là các bài viết về biển đảo và về một số tác giả, tác phẩm Đồng Nai. Tôi không viết phê bình mà chỉ làm công việc cảm thụ (tôi tạm dùng từ nghiên cứu) nhằm mục đích thông cảm, chia sẻ giữa tôi và các tác phẩm, tác giả. Qua đó cũng muốn giới thiệu với bạn đọc đôi nét về văn học Đồng Nai…”

Hãy trở về với văn hóa đọc giới thiệu được một vài cây bút Đồng Nai như: Đào Sỹ

 Quang, Nguyễn Tế Nhị, Hoàng Văn Bổn, Lê Bá Ước, Võ Thế Đại, Mai Sông Bé, Đỗ Trung Tiến, Hải Ba, Xuân Tùng, Nguyễn Chí Định… Các bài viết thuộc dạng đăng báo nên ngắn gọn, cô đọng.

            Cuốn sách Viên phấn và cây bút của Bùi Quang Tú viết về “Nhà văn tài hoa Lý Văn Sâm”, “Hà Nội với Huỳnh Văn Nghệ”, “Nhà văn Hoàng Văn Bổn-Người lực điền trên cánh đồng chữ nghĩa”, “Nhà thơ Thu Bồn và chất Tây Nguyên”, “Nhà văn Nguyên Hồng với nghề văn”, “Nhà thơ Huy Cận và cái nôi văn hóa Nghệ Tĩnh”, Duyên già của Xuân Diệu, Nhà văn Nguyễn Tuân: hai bức thư, hai nửa cuộc đời. Nhà thơ Nguyễn Duy: “Là ta ta hát những lời của TA”; “Thầy dắt tôi vào vùng đất 300 tuổi” viết về thầy Lê trí Viễn; …

Bùi Quang Tú có vốn tư liệu quý về nhiều tác giả văn học, tuy nhiên, trong cách viết, anh chưa khai thác được những góc cạnh có thể giúp ích cho việc nghiên cứu theo phương pháp tiểu sử (Saint Beuve). Nhiều nhận định của anh trong tập sách hầu như lặp lại ý kiến của người đi trước. Ngày nay, những tư liệu loại này có rất ít giá trị phục vụ nghiên cứu văn học. Nếu anh viết chuyên sâu về tác giả, tôi nghĩ anh sẽ gặt hái được nhiều thành công hơn” [[15]].

            Lời cám ơn Hà Nội (tạp văn) của Bùi Quang Tú có thể coi là tiểu sử biên niên của tác giả (hồi ký). Tác giả kể lại quê quán, tuổi thơ, lên Hà Nội, sơ tán, học Đại học Sư phạm rồi vào Nam, công tác ở Biên Hòa, dạy ở trường Cao Đẳng Đồng Nai…và nhiều lần trở lại Hà Nội.

Ở trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam, Bùi Quang Tú gặp Nguyễn Đình Thi, ông cũng đã sống cùng với nhà văn Nguyên Hồng ở nhà xuất bản Văn Học. Ngôi nhà 96 phố Huế, khu tập thể văn nghệ sĩ có Nguyễn Đình Thi, Bùi Huy Phồn, Lưu Quang Thuận, nhạc sĩ Văn Ký, Nguyễn Văn Tý, Phan Huỳnh Điểu, nhà thơ Xuân QuỳnhLưu Quang Vũ.

Lời cám Ơn với Hà Nội ghi chép về các nhà văn miền Nam tập kết ra Bắc 1954, học tập và trưởng thành lên từ Hà Nội. Đó là: Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Đoàn Giỏi, Nguyên Ngọc, Thu Bồn, Hoàng Văn Bổn, Hoài Vũ, Phạm Hổ, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Diệp Minh Tuyền; Họa sĩ Nguyễn Sáng; Các nhạc sĩ từng sống và làm việc ở Hà Nội khá đông đảo: Lưu Hữu Phước, Hoàng Việt, Hoàng Hiệp, Trần Kiết Tường, Phan Nhân, Huỳnh Thơ, Thuận yến, Trương Quang Lục…Bùi Quang Tú nhận định: ”Từ cái nôi văn hóa Hà Nội họ trở vào chiến trường miền Nam và đã có những đóng góp cho văn học miền Nam như chúng ta đã biết “(tr. 53).

            Có lẽ nhờ quan hệ rộng rãi của nhà văn Bùi Hiển (thân phụ) ở Hội Nhà văn mà Bùi Quang Tú (lúc còn bé) có cơ hội gặp được nhiều nhà thơ nhà văn nổi tiếng. Ông nhớ và ghi lại những sinh hoạt của họ. Những ghi nhận của ông là “tư liệu” có giá trị cho thầy cô dạy Văn khi họ sử dụng phương pháp tiểu sử. Bùi Quang Tú không có “công trình” lý luận-phê bình văn học chuyên biệt nào về văn học Đồng Nai. Ở cả thể loại văn xuôi và thơ, ông cũng không có tác phẩm nào nổi trội đóng góp vào sự phát triển của văn học Đồng Nai. Có chăng ông “muốn giới thiệu với bạn đọc đôi nét về văn học Đồng Nai…” (đd).

***

NHÀ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC BÙI QUANG HUY

Ông sinh năm 1962, là người con xứ Quảng. Ông đã chọn đất Đồng Nai làm quê hương thứ hai của mình.

Nghiên cứu về Lý Văn Sâm, ông đã dành 15 năm sưu tầm, chú thích và giới thiệu Tuyển tập Lý Văn Sâm (gồm ba tập với hơn 2.000 trang), sau này có thêm Gió bãi trăng ngàn (gồm 23 truyện ngắn, truyện vừa và kịch) và Trang sách hồng mở giữa đời hoa (một ấn phẩm tổng quan về cuộc đời làm cách mạng và sự nghiệp văn chương của nhà văn Lý Văn Sâm – NXB Đồng Nai). Bùi Quang Huy cho biết: “Từ hồ sơ hoàn tất tôi làm cho chú, chú đã được xét trao Giải thưởng Nhà nước năm 2006” [[16]].

            Nếu Tuyển tập Lý Văn Sâm là công trình sưu tập thì “Văn học Đồng Nai-Lịch sử và diện mạo (Bùi Quang Huy. Nxb Đồng Nai, 2011) là một công tình biên khảo văn học sử rất có giá trị đối với những ai muốn tìm hiểu về văn học Đồng Nai.

            Mở đầu “Văn học Đồng Nai-Lịch sử và diện mạo”, tác giả minh định:

“Cuốn sách này tuyển chọn một số bài viết của tôi thời gian tôi ở Biên Hòa…Hầu hết đều được in trong các cuốn sách hoặn in trên tờ báo, tạo chí…đây không phài là một “công trình văn học sử quan phương, nó chỉ là cái nhìn của một cá nhân” (tr. 5).

            Phần “Lịch sử”Trên hành trình 310 năm” của văn học Đồng Nai, Bùi Quang Huy trình bày những nội dung sau:

            1.Văn học viết Đồng Nai từ buổi đầu đến 1861: Tác giả trình bày 5 tiền đề: chính trị, quân sự, xã hội, văn hóa. Xác định các loại hình tác giả, những khuynh hướng đan xen và sự bứt phá về thi pháp. Để đưa ra những nhận định, Bùi Quang Huy phân tích thơ các tác giả: Trịnh Hoài Đức, Bùi Hữu Nghĩa, Lâm Tấn (tr.27), Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh (tr.31). Đây là một nhận định: “Cảm quan hiện thực và tinh thần nhân đạo đã khiến các tác giả nêu lên bức tranh hiện thực nhiều lúc không mấy tươi sáng”(tr.41).

            2. Văn học Đồng Nai từ 1861 đến 1930: trình bày những nội dung sau:

a. Văn Học trong bối cảnh mới của Lịch sử

b. Sự trỗi dậy của ý thức dân tộc và tinh thần yêu nước. Tác giả chính được phân tích là Nguyễn Đình Chiểu  

c. Buổi đầu Văn Học Quốc Ngữ:  giới thiệu Huỳnh Tịnh CủaNguyễn Trọng Quản. Phần này còn sơ sài. Tác giả không rút ra được kết luận chung nào về văn học Đồng Nai giai đoạn này.

3.Văn học viết Đồng Nai từ 1930 đến nay. Phần này chia thành các giai đoạn:

a. Giai đoạn 1930-1945 giới thiệu Huỳnh Văn Nghệ, Lý Văn Sâm, Trần Bạch Đằng

b. Từ Mùa Thu Rồi, Ngày hăm ba (giai đoạn Kháng chiến chống Pháp) giới thiệu tập trung Huỳnh Văn Nghệ, Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn, Bình Nguyên Lộc (tác phẩm đầu tay- tr.111).

c.Lớn lên trong máu lửa (giai đoạn từ 1954 đến 1975) giới thiệu Hoàng Văn Bổn, Huỳnh Văn Nghệ, Lý Văn Sâm, Giang Nam, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Thái Hải (truyện cho thiếu nhi), Nguyễn Tất Nhiên, và sơ lược về Hồ Triều (tr.132).

d. Vòng Tay Hòa Bình gồm các nội dung: 1. Sự tổ chức đội ngũ; 2. Đề tài và nội dung chủ yếu: chiến tranh Cách mạng và cuộc sống đương đại. Giới thiệu sơ sài vài khuôn mặt cũ.

Bùi Quang Huy kết luận phần lịch sử văn học Đồng Nai như sau: “Nhìn một cách bao quát trên từng bước đi của lịch sử, văn học viết Đồng Nai, khi đậm khi nhạt, đều bắt rễ từ cuộc sống chiến đấu và lao động đầy máu lửa, gian khó và vinh quang của nhân dân và không có biến thiên to lớn nào mà văn học bỏ qua. Vùng đất ấy đã làm nên lịch sử và ươm mầm cho những tài năng văn học vẫn đang hứa hẹn một tương lai tươi sáng” (tr.142)

Thực ra, ở phần “lịch sử” văn học Đồng Nai, có thể có đôi điều cần được nghiên cứu sâu hơn.

 Lịch sử văn học còn là sự vận động bên trong của ý thức sáng tạo, của lý tưởng thẩm mỹthi pháp. Văn học Đồng Nai đã vận động thế nào ở mỗi giai đọan?

Lịch sử phát triển luôn có sự kế thừa. Mỗi giai đoạn của văn học Đồng Nai đã kế thừa và phát triển giai đọan trước thế nào. Chẳng hạn, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản kế thừa và phát huy những gì từ giai đoạn Nguyễn Đình Chiểu? Hoặc Nguyễn Thái Hải, Nguyễn Tất Nhiên có quan hệ “sáng tạo nghệ thuật” thế nào với Hoàng Văn Bổn, Huỳnh Văn Nghệ, Lý Văn Sâm, Giang Nam, Bình Nguyên Lộc?

Việc đặt Nguyễn Đình Chiểu với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc vào lịch sử văn học Đồng Nai có đúng với thực tế lịch sử không? Khi Pháp chiếm Gia Định (1859), Nguyễn Đình Chiểu đang ở Gia Định đã dời về quê cùng vợ tại làng Thanh Ba, Cần Giuộc. Đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu (16/12/1861), nghĩa quân đồng loạt tấn công vào các đồn giặc ở Cần Giuộc, Gò Công và Tân An. Có 15 nghĩa quân hy sinh. Nguyễn Đình Chiểu viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trong thời gian này. Nghĩa là Nguyễn Đình Chiểu không còn ở Gia Định.

4. Văn hóa dân gian miền Đông Nam Bộ nhìn từ… văn học viết (tr.144-164) [[17]]

Bài viết khởi đi từ tham luận Sơ đồ giao lưu văn hóa kinh tế giữa miền đông nam bộ với các miền khác của GS Trần Quốc Vượng (tr.144). Từ đó Bùi Quang Huy triển khai các nội dung: Ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa dân gian thể hiện rõ nét ở tác phẩm của Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Huỳnh Tịnh Của, Bình Nguyên Lộc. Các tác giả này viết về quê hương Biên Hòa, hé mở nỗi thống khổ của dân (tr.153). Về nghệ thuật, tác phẩm của các tác giả này có sự lệch chuẩn so với văn học trung đại Việt Nam (tr.156); sử dụng lời ăn tiếng nói nhân dân (tr.159). Sự kế thừa văn học dân gian khá đa dạng ở từng tác giả: Lương Văn Lựu ghi chép chân thật giá trị văn học dân gian; Huỳnh Văn Nghệ viết lại những giai thoại, truyện tích; Lý Văn Sâm mô phỏng giai thoại dân gian.

Có lẽ văn hóa dân gian Đồng Nai cần được trình bày thêm để làm cơ sở phân tích, so sánh, lý giải. Vấn đề là văn hóa dân gian Đồng Nai ảnh hưởng thế nào đến văn học viết, thay vì tìm hiểu văn hóa dân gian “nhìn từ văn học viết”.

***

Phần “Diện mạo”, Bùi Quang Huy giới thiệu các khuôn mặt văn chương Đồng Nai sau đây: (Chữ in nghiêng là tên bài viết, hoặc trích dẫn).

Gia Định Tam Gia, niềm tự hào của một vùng đất (tr.166- 182).

Người Hoa ở Đồng Nai qua một nhân vật lịch sử tiêu biểu (tr.183), giới thiệu Trịnh Hoài Đức, tiểu sử và công nghiệp.

Bình Nguyên Lộc-Một chuyến đò quê nặng nghĩa tình (tr.198).

Thi tướng chiến khu xanh (tr.211-282): Một tùy bút hay, giới thiệu Huỳnh Văn Nghệ là nhà Thơ Mới, nhà thơ kháng chiến, nhà văn. Tác giả đặt vấn đề: Huỳnh Văn Nghệphải xứng đáng hơn trên bảng lược đồ văn học Việt Nam” (tr.273).

Lý Văn Sâm-Trang sách hồng mở giữa đời hoa (chuyên luận dài 255tr. Từ tr.284-539). Một bài nghiên cứu khá đầy đặn về Lý Văn Sâm. Bùi Quang Huy khẳng định chuyện đường rừng là mảng riêng của Lý Văn Sâm. Ông kết luận:

“Cuộc đời Lý Văn Sâm trải qua bao thăng trầm. Ông sống gần trọn thế kỷ XX.. Trong 80 năm ấy, Lý Văn Sâm như một người từ cõi nào đó, đến rồi đi. Ngay những lúc bình yên nhất, nhà văn vẫn tìm cách bứt ra khỏi sự phẳng lặng. Và, đến lúc không làm người giang hồ được nữa, ông ngồi nhớ da diết tháng ngày…Văn chương, đối với nhà văn, là một thứ cần phải viết, như có lúc ông đã viết báo, sáng tác cải lương, soạn tấu hài. Nó không thật cao siêu, huyền hoặc, nhưng sang trọng và tao nhã. Nó không là thứ để ‘lập thân’, nhưng cần thiết với mình và vì thế hữu ích cho đời. Bởi vậy, chưa một lần Lý Văn Sâm phát biểu theo kiểu ‘tuyên ngôn’về sáng tác. Nhưng bản thân cuộc đời ông đã là một tác phẩm đẹp; đẹp theo cách vừa gần gũi, gắn bó với con người, vừa luôn muốn thoát vòng tục lụy, bay đi bao khát vọng. Cánh chim bằng ấy giờ đã bay đi, bay xa về chân trời thẳm” (tr.539)

Bài Người gieo hạt trên miền đất ven sông, Nhà văn Hoàng Văn Bổn, những điều ngẫm nghĩ, gồm 3 bài tùy bút viết về nhà văn Hoàng Văn Bổn. Tác giả không phân tích, đánh giá giá trị văn chương Hoàng Văn Bổn, mà chỉ đưa ra nhận định: Hoàng Văn Bổn-người hiền; Hoàng Văn Bổn- nhà văn Đồng Nai; Nghĩ vể Hoàng Văn Bổn- khi giả sử không có Hoàng Văn Bổn:

Xin đọc: “Giả sử không có ông, Ngoài những cuốn lịch sử Đảng khô khan (tuy rất quý giá) và những nhân chứng, rồi đến một ngày sẽ không còn, ta biết gì về Đồng Nai những năm tháng ấy? Mà những cái ta cần biết không chỉ là những con số, những sự kiện. Ta cần biết, ta cần hiểu, đó chính là tâm hồn, là số phận của nhân dân một thời-những thứ sẽ vĩnh viễn mất đi trước sự lạnh lùng và thản nhiên của thời gian. Hoàng Văn Bổn đã làm được điều ấy, tuy chưa phải là tất cả”(tr.550).

Nỗi đời trăn trở (tr.553) giới thiệu Nguyễn Thị Tư.

Đây, Một vườn thô xanh sắc quê, giới thiệu Ba Thợ Tiện (tr.574).

Các bài: Về trong đáy cốc rượu mềm môi (tr.584) – Cười với…Ong mật (tr.591); Ngyễn Tất Nhiên – Nhà thơ tình học trò (tr.595), giới thiệu các nhà thơ Nhất Huy, Ong Mật, Nguyễn Tất Nhiên; và một vài tác giả khác như Nguyễn Đức Thọ, Hoài Tố Hạnh.

Nhìn chung, phần “Diện mạo” là những bài Tùy bút về tác giả Đồng Nai, với giọng kể tâm tình và cách viết rất có duyên. Nội dung giới thiệu được một cách công phu về các tác giả chính của văn học Đồng Nai. Các tác giả khác mới chỉ là những lời giới thiệu, chưa đánh giá được “sự nghiệp” văn chương của họ.

Quan điểm chính của Bùi Quang Huy là quan điểm văn học phản ánh hiện thực (Phản ánh luận của Lênin-phương pháp Hiện thực Xã hội chủ nghĩa) kết hợp với phương pháp phê bình tiểu sử (Saint Beuve) khi tìm hiểu các tác giả.

            Đọc Văn học Đồng Nai-Lịch sử và diện mạo” của nhà nghiên cứu văn học Bùi Quang Huy, tôi trân trọng tài năng, công sức và tâm huyết của tác giả trong tập sách này. Tôi trân quý những tư liệu mà Bùi Quang Huy đã sưu tập được, tôi cũng thích văn phong có duyên, tài hoa trong những bài phê bình của Bùi Quang Huy. Nhiều nhận định của Bùi Quang Huy là có giá trị khoa học, có ích cho những người nghiên cứu văn học Đồng Nai đi sau. Bùi Quang Huy đã đóng góp cho văn học Đồng Nai một công trình giá trị. Ước mong những dịp tái bản, tập sách này sẽ được hiệu đính và bổ sung thêm phần văn học Đồng Nai đương đại [[18]].

***

TÔI VIẾT PHÊ BÌNH VĂN HỌC

Tôi trình làng với chuyên luận Phong cách nghệ thuật của Nam Cao in trên Tạp chí Văn Học số 2, 1997 của Hội Nhà Văn.

Đã xuất bản:

  1. Hạnh, tập truyện ngắn, Nxb Hội Nhà Văn 2005.
  2. Chút tình tri âm, LLPB, Nxb HNV 2009.
  3. Những tìm tòi nghệ thuật của Anh Đức, LLPB, Nxb Đồng Nai 2009.
  4. Những dòng sông vẫn chảy, LLPB, Nxb HNV 2011. Cuốn này đạt giải của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam 2011.
  5. Hoa đỏ bên sông, LLPB, Nxb HNV 2014.
  6. Văn chương Việt Nam-Những gì còn với mai sau. LLPB, Nxb HNV 2016.
  7. Nhà văn Đồng Nai. Nxb Đồng Nai 2018. Cuốn này đạt giải hạng A, Giải Trịnh Hoài Đức (Đồng Nai) lần thứ V (2015-2020).
  8. Tiếp cận thế giới nghệ thuật của Song Nguyễn. Nxb HNV 2014.
  9. Những mùa vàng văn học Công giáo Việt Nam. Nghiên cứu-Phê bình. Nxb HNV.2020
  10. Văn học Công giáo Việt Nam đương đại. Nghiên cứu-phê bình. Nxb HNV 2022.

Chưa in

  1. Diện mạo của một thời. LLPB.2017
  2.  45 năm văn chương Việt Nam. LLPB. 2020

Đối tượng phê bình của tôi là tác phẩm văn học, và qua tác phẩm, tôi tìm cốt cách văn chương và những đóng góp tư tưởng-nghệ thuật của tác giả vào nền văn học Việt Nam đương đại.

Tôi sử dụng phối hợp nhiều cách đọc và phương pháp phê bình: Phê bình Marxist, phương pháp tiểu sử, Thi pháp học, Phê Bình Mới Anh Mỹ-Phương pháp đọc gần (close reading), Cấu trúc luận, Giải Cấu trúc, Ký hiệu học, Phân Tâm học, Lý thuyết người đọc (Reader Theory) và cả Lý thuyết trò chơi (Game Theory). Đôi khi kết hợp với các lý thuyết văn hóa. Tất nhiên, đọc thơ Thiền thì không thể dùng phương pháp phê bình Marxist, bởi thơ Thiền được viết với kiểu ngôn ngữ “Vô ngôn”; đọc tác phẩm Hậu Hiện đại thì không thể dùng các phương pháp truyền thống (vì các trụ cột của cấu trúc tác phẩm truyền thống đã bị phá vỡ), mà phải dùng phê bình Hậu Hiện đại. Đọc bài ca dao Thằng Bờm thì không thể dùng phương pháp tiểu sử (vì ca dao không có tác giả). Hoài Thanh say sưa với thơ Lãng mạn nhưng ông hoàn toàn bất lực trước thơ Siêu thực (Bích Khê, Xuân Thu Nhã tập).

Tôi nhận thức rằng phê bình văn học cũng là khám phá sáng tạo, vì thế nhà phê bình và nhà văn là tri âm tri kỷ.

Không một phương pháp phê bình nào có khả năng bao quát mọi vấn đề vì tác phẩn văn học có liên quan đến tác giả, người đọc, bối cảnh xã hội, và đặc điểm thời đại. Khi viết phê bình, tôi quan tâm đến đầy đủ các yếu tố ấy. Để hiểu một tác phẩm văn học, người viết phê bình phải kết hợp việc đọc tác phẩm với nghiên cứu lịch sử, văn hóa và sự giao lưu văn hóa của thời đại. Một bài phê bình có nghiên cứu sẽ lý giải được nhiều điều.

Ở Việt Nam, phương pháp phê bình Marxist và phương pháp tiểu sử là hai phương pháp chính. Sử dụng hai phương pháp này, người viết phê bình phong trào chỉ quan tâm đến giá trị phản ánh hiện thực của tác phẩm mà không khám phá cốt cách văn chương, lý tưởng thẩm mỹ và những sáng tạo riêng của tác giả trong tác phẩm.

Từ 1975 đến nay đã có những nỗ lực rất lớn cách tân văn học. Các nhà thơ, nhà văn Việt Nam nỗ lực đổi mới, tìm tòi những cách thể hiện mới. Người viết phê bình nếu không tự học hỏi Cái Mới, tự trang bị những phương pháp và khả năng mới, sẽ không tiếp cận được tác phẩm văn học hôm nay (nhiều tác giả chịu ảnh hưởng của trào lưu Hậu Hiện đại). Thơ Trẻ đầu thế kỷ XXI là một thí dụ.

Ở Đồng Nai, Khôi Vũ, Nguyễn Một, Trần Thu Hằng, Đàm Chu Văn, Nguyễn Đức Phước, Trần Ngọc Tuấn là những nhà văn, nhà thơ có những đóng góp tích cực vào việc cách tân thơ văn Việt đương đại, vì thế, tác phẩm của họ đạt được những thành công có ý nghĩa mở đường. Thí dụ cấu trúc song song trong Lời nguyền hai trăm năm của Khôi Vũ; kiểu “Tiểu thuyết rời rạc” của Nguyễn Một (trong Đất trời vần vũ, Ngược mặt trờiTừ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín); kiểu truyện tư tưởng của Trần Thu Hằng, tư duy Thơ Trẻ của Nguyễn Đức Phước, thơ Thiền của Trần Ngọc Tuấn.

Phê bình văn học là công việc rất khó nhọc, không kém gì sự khó nhọc của người sáng tác. Độc giả của phê bình văn học lại ít ỏi. Lý luận phê bình không được quan tâm, thành ra phê bình văn học chuyên nghiệp ở Việt Nam luôn yếu kém là vậy.

***

            Tổng quan bài viết của tôi

  1. Các chuyên đề nghiên cứu:
  2. Bốn mươi năm văn học Việt Nam (đã in thành sách)
  3. Ba mươi năm văn xuôi, thơ Đồng Nai
  4. Đề cương văn hóa và 45 năm phát triển của văn học Đồng nai
  5. Chuyên luận về Nam Cao, đã in trên Tạp chí Văn Học số 2, 1997 (Hội Nhà Văn).
  6. Những tìm tòi nghệ thuật của Anh Đức (đã in thành sách)
  7. Chuyên luận về Hoàng Văn Bổn, Lý Văn Sâm, Khôi Vũ.
  8. Văn học Công giáo Việt Nam đương đại (đã in thành sách)
  9. Chuyên luận Diện mạo của một thời (2017), chưa in- viết về phê bình văn học

Việt Nam đương đại với các kiểu nhà phê bình: Nhà phê bình chính trị, Nhà phê bình lý thuyết, Nhà phê bình phong trào, Nhà phê bình Hải ngoại, cùng với các khuôn mặt tiêu biểu như: Trần Đình Sử, Đỗ Lai Thúy, Chu Văn Sơn, Đặng Tiến, Thụy Khuê, Nguyễn Vy Khanh, Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Vĩnh Phúc…

9.Những nghiên cứu (nhỏ) về Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng, thơ Thiền, thơ Lục bát

B.Bài viết về các nhà thơ, nhà văn Việt Nam:

 Nguyễn Du, Phan Khôi, Nam Cao, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy, Nguyễn Quang Thiều, Trần Quang Quý, Lê Thành Nghị, Lê Quang Trang, Trần Vạn Giã, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Xuân Khánh, Trần Hoàng Vy, Nguyễn Hoa, Đỗ Tiến Thụy, Phong Điệp, Uông Triều, Nguyễn Thế Quang, Bích Ngân, Trầm Hương, Nguyễn Ngọc Tư, các nhà thơ trẻ đầu thế kỷ XXI như Ly Hoàng Ly, Văn Cầm Hải, Nguyễn Vĩnh Tiến, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Nguyễn Thúy Hằng… Tác giả hải ngoại: Đỗ Quyên, Lưu Diệu Vân, Trần Mộng Tú và Các nhà phê bình hải ngoại.…Thời sự văn chương hàng năm.

C.Đọc và viết về tác phẩm văn học Đồng Nai

Những bài viết về văn học Đồng Nai của tôi tập trung trong 2 cuốn đã in là Hoa đỏ bên sôngNhà văn Đồng Nai. Trong những cuốn đã in trước đó có đăng một ít bài. Những bài mới viết từ năm 2018 đến nay sẽ chọn in trong cuốn sách này. Chuyên luận Văn trẻ Đồng Nai (2023) viết về 15 tác giả trẻ của văn nghệ Đồng Nai.

Thồng kê bài viết về tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ Đồng Nai:

  1. Lý Văn Sâm: Hành trình tìm kiếm nhân vật lý tưởng, bài viết về các tác phẩm: Kòntrô, Vợ tôi người dân tộc, Nắng bên kia làng, Cỏ nội hoa hèn, Gió bãi trăng ngàn, Sau dãy Trường Sơn, Mười năm hận sử, Người đi không về. Sương gió biên thùy.  
  2. Hoàng Văn Bổn: “Nhà văn-dấu ấn-tình đời”. Các tác phẩm: Trên mảnh đất này, Miền đất ven sông, Lũ chúng tôi, Bầu trời mặt đất, Sóng bạc đầu, Mùa mưa, Thuở hồng hoang, Người điên kể chuyện người điên, Tình đời đen bạc.
  3. Huỳnh Văn Nghệ: thơ Huỳnh Văn Nghệ
  4. Lê Bá Ước: Một thời rừng Sác
  5. Đặng Minh Hân: Thêm một góc nhìn, Chất anh hùng của người Đồng Nai; Văn Thơ Đồng Nai, Đôi Điều Cảm Nhận
  6. Khôi Vũ: Truyện ngắn Khôi Vũ, Tiểu thuyết Khôi Vũ, Truyện Tuổi hoa Nguyễn Thái Hải. Bài viết về các tác phẩm:  Đàn ống tre bên kia sông, Lời nguyền hai trăm năm, Tri thiên mệnh, Phù phiếm bên biển, Phía sau một khách sạn, Bến đời mơ thực, Khu vười hạnh phúc, Sông Luộc ở phương Nam…
  7. Nguyễn Một: Đất trời vần vũ, Ngược mặt trời, Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, Dòng sông độ lượng
  8. Nguyễn Trí: Bụi đời và thục nữ, Ăn bay.
  9. Nguyễn Đức Thọ: Hồi ức làng Che; Ốc mượn hồn, Dấu chân tiên.
  10. Đào Sỹ Quang: Sự đời, Bến hồng nhan.
  11. Dương Đức Khánh: Nông nổi cù lao, Người chợ Kệ.
  12. Hoàng Ngọc Điệp: Món Quà Giáng Sinh-Cún Con Làm Lành, Chú Cún đeo lục lạc, Cù lao yêu dấu, Ngày biển ấm, Ngày hè của chuột con
  13. Lê Đăng Kháng: Người lính hát đơn ca, Sương Sớm, Quả ngọt
  14. Phạm Thanh Quang: “Một tấm lòng người lính”, Cỏ tình
  15. Bùi Quang Tú: Viên phấn và cây bút; Lời cám ơn Hà Nội
  16. Trần Thúc Hà: Nẻo khuất; Một tiếng chim rừng. Trên dòng sông Phố.
  17. Tấn Hoài: Muối đỏ, Viên gạch lạ; Hoa quý lan
  18. Trần Thu Hằng: Rừng thiêng vẫy gọi, Trăng khuyết, Người đàn bà lưu vong; Chuyện tình ở hầm Hinh; Vườn đá; Chà gạc xanh; Thần đồng và cuộc chiến bảo vệ thủy tháp; Đặc sắc truyện ngắn Trần Thu Hằng;
  19. Phạm Văn Đảng: Trăng xưa
  20. Bùi Quang Huy: Văn học Đồng Nai-Lịch sử và diện mạo; Huỳnh Văn Nghệ tác giả và tác phẩm (2008).
  21. Xuân Bảo: Tôi đi nhặt bụi vàng.
  22. Hải Ba: Người thơ dở dang.
  23. Tiêu Thanh Giang: Đan đan giọt nắng (2010).
  24.  Lê Thanh Xuân: Nỗi Buồn biết gửi vào đâu, Tiếng ru đêm; Đồng Hành; Hồn đá; Thơ Lê Thanh Xuân.
  25. Trần Ngọc Tuấn: Người thơ tài hoa, Suối reo, Hiện Hữu, Chân Thân, Cuộc lãng du của tâm hồn.
  26. Nguyễn Đức Phước: Đêm khát.  
  27. Đoàn Trọng Thử: Em bán sầu riêng, Sợ, Trốn
  28. Nguyễn Hoài Nhơn: Hồi quang.
  29. Đàm Chu Văn: Hai phía thời gian, Giấc rừng, Xao thu.  
  30. Minh Hạ: Lục bát cánh cò.
  31. Hoàng Đình Nguyễn: Tự tình.
  32. Đỗ Minh Dương: Đồng dao cho mình, Đợi chờ bình minh em, Với miền đất đỏ; 
  33. Hạnh Vân: Ru miền cổ tích. 
  34. Trâm Oanh: Quỷ Sứ Không Nhiều Chuyện.
  35. Dương Thu Hường: Đòn gió.
  36. Xuân Tùng:  Hồn Quê (Nxb, Hội Nhà Văn 2013)
  37. Hồng Phương- Mênh mông (2007)
  38. Trương Thanh Phận: Tình Như Trong MơKý Ức.
  39. Hoàng Văn Thống: thơ Hoàng Văn Thống.
  40. Nguyễn Duy Đồng: Trái tim hồng (tập thơ); Ma chữ (tập truyện ngắn)
  41. Minh Đức: thơ.
  42. Tuyển tập Thơ Đồng Nai 30 năm (1975-2005) [Nxb Tổng  Hợp Đồng Nai 2005] gồm thơ của 46 tác giả (theo xếp theo Alphabet): Xuân Bảo, Văn Bé, Thanh Dạ, Đinh Quang Dữa, Đỗ Minh Dương, Lương Định, Tiêu Thanh Giang, Lê Giáo, Thạch Hà, Đặng Minh Hân, Vũ Đức Hậu, Nguyễn Hiếu, Phan Quang Hợp, Vũ Xuân Hương, Dương Đức Khánh, Ngọc Khánh, Trần Thị Hương Lan, Lê Liên, Lê Cẩm Lynh, Phạm Bình Minh, Hoàng Đình Nguyễn, Nguyễn Hoài Nhơn, Kiều Văn Phẩm, Hoàng Vĩnh Phú, Bùi Ngọc Phúc, Nguyễn Đức Phước, Hồng Phương, La Hồng Sơn, Cao Xuân Sơn, Nguyễn Thanh Tâm, Dương Cao Tần, Lê Thuấn, Thân Nghệ Thuật, Nguyễn Thị Thu Thủy, Hà Thu Thủy, Đào Trọng Thử, Nhật Tú, Trần Ngọc Tuấn, Phan Huyền Tùng, Đàm Chu Văn, Trần Ngọc Vinh, Lê Thanh Xuân, Ngọc Thùy Giang, Trương Nam Hương, Khương Hà.

***

Tổng quan về nghiên cứu, lý luận phê bình ở Đồng Nai

  1. Lực lượng viết phê bình văn học ở Đồng Nai khá hùng hậu và có nội lực.
  2. Nghiên cứu, lý luận phê bình ở Đồng Nai bao quát được sự phát triển của văn học Đồng Nai, đánh giá được những giá trị văn học và góp phần tích cực thúc đẩy sáng tác văn học.
  3. Cả sáng tác và phê bình ở Đồng Nai không có hiện tượng “lệch chuẩn”, như đã có một thời “loạn chuẩn” trong sáng tác và phê bình cả nước.
  4. Việc nghiên cứu văn học, nghiên cứu lịch sử văn học Đồng Nai còn hạn chế. Cho đến nay chưa có một công trình Lịch sử văn học Đồng Nai tương xứng với sự phát triển của văn học.
  5. Việc đầu tư cho những cây bút trẻ cũng như việc đào tạo các nhà nghiên cứu và phê bình chuyên nghiệp ở Đồng Nai là một việc rất cần thiết

***

Tháng 11/2023


[1] Trần Ngọc Tuấn: https://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacgia&action=detail&id=1215

Mời đọc bài Bùi Công Thuấn viết về “Cuộc lãng du tâm hồn” của Trần Ngọc Tuấn:

http://buicongthuan.vn102.space/?title=vh_n_tr_n_ng_c_tu_n_cu_c_lang_du_tam_h_n&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[2] Trần Thúc Hà-Dòng chảy văn xuôi Đồng Naihttps://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2494&CatId=104

[3] Đàm Chu Văn-Bốn mươi năm thơ Đồng Nai, Đôi nét về sự hình thành và phát triển

Đàm Chu Văn: –Chân thân, Những điều chiêm nghiệm

https://baodongnai.com.vn/vanhoa/201912/chan-than-nhung-dieu-chiem-nghiem-2979615/

[4] Đỗ Minh Dương: http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2398&CatId=83

http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2620&CatId=83

[5] Hoàng Ngọc Điệp-Dương Đức Khánh và hành trình văn chương

http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/202102/duong-duc-khanh-va-hanh-trinh-van-chuong-3044602/index.htm

Hoàng Ngọc Điệp. Ông già hiếm của âm nhạc Đồng Nai

http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/print.aspx?NewsId=1550

[6] Hoàng Ngọc Điệp: Bến hồng nhan, vẻ đẹp sâu đằm của người phụ nữ

https://duyendangvietnam.net.vn/ben-hong-nhan—ve-dep-sau-dam-cua-nguoi-phu-nu.html

Hoàng Ngọc Điệp: Cua kềnh vượt vũ môn

https://baodongnai.com.vn/vanhoa/201907/cua-kenh-vuot-vu-mon-2954755/

Hoàng Ngọc Điệp: Tiếp bước và song hành

[7] Hoàng Ngọc Điệp: Có một ‘ngọn lửa nhỏ’ mang tên Trần Thúc Hà

http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/202002/co-mot-ngon-lua-nho-mang-ten-tran-thuc-ha-2989276/index.htm

[8] Phan Nam Sinh: Kỷ niệm nhỏ về thầy tôi-Nhà văn Phan Khôi

https://vannghethainguyen.vn/nhung-ky-niem-nho-ve-thay-toi-p6357.html

Phan Nam Sinh: Có bao nhiêu sự thật trong bài thơ Tình già của Phan Khôihttps://vannghethainguyen.vn/co-bao-nhieu-su-that-trong-bai-tho-tinh-gia-cua-phan-khoi-p4260.html

Phan Nam Sinh: Ảnh thầy tôi nhìn từ những kỷ niệm

https://thanhnien.vn/anh-thay-toi-nhin-tu-nhung-ky-niem-185284896.htm

Phan Nam Sinh: Cha tôi-Ông Phan Khôi

https://tuoitre.vn/cha-toi—ong-phan-khoi-538416.htm

[9] Thu Hằng-Quả ngọt, tập thơ mang lửa tình yêu

http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=1598&CatId=87

Mai Sơn-Một trái tim thức đợi mùa

https://baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202103/mot-trai-tim-tho-thuc-doi-mua-3046315/index.htm

Mai Sơn: Mai Hân Hạnh Hồn thơ ngụ trong tiếng sáo

http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201907/mai-han-hanh-hon-tho-ngu-trong-tieng-sao-2954752/index.htm

Mai Sơn: Những vần thơ trầm tích

http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201703/nhung-van-tho-tram-tich-2794070/

Gia Cát- Nhớ mãi-Tập thơ mới của Hoàng Văn Thống http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2089&CatId=87

Trần Thu Hằng-Tiểu thuyết Đồng Nai – Mơ ước và đam mê từ góc độ người viết

Mai Sơn: Nhà văn Đào Sỹ Quang: Biến trăn trở thành niềm vui sống

http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201910/nha-van-dao-sy-quang-bien-tran-tro-thanh-niem-vui-song-2971032/

Trần Thu Hằng-Bộ ba hồi ký và tiểu thuyết “Nước mắt giã biệt” của Hoàng Văn Bổn

-https://vanvn.vn/bo-ba-hoi-ky-va-tieu-thuyet-nuoc-mat-gia-biet-cua-hoang-van-bon/

[10] Trần Thu Hằng-Nhà thơ Lê Thanh Xuân-Chỉ có đêm, lửa mới nhận ra mình

https://baodongnai.com.vn/dong-nai-cuoi-tuan/202201/nha-tho-le-thanh-xuan-chi-co-dem-lua-moi-nhan-ra-minh-3097875/

[11] Nguyễn Trí-Truyện ngắn Đồng Nai, hộm qua và hôm nay

http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2397&CatId=83

Nguyễn Trí giới thiệu: Cù lao yêu dấu và Bin mũi hếch:

https://baodongnai.com.vn/vanhoa/201810/hoang-ngoc-diep-voi-cu-lao-yeu-dau-va-bin-mui-hech-2914140/index.htm

[12] Ly Na-Nhà văn Nguyễn Thái Hải và Dấu ấn đời văn

http://baodongnai.com.vn/vanhoa/202008/nha-van-nguyen-thai-hai-va-dau-an-doi-van-3017605/index.htm

[13] Hạ Nguyên: Dấu ấn đời văn của nhà văn Khôi Vũ Nguyễn Thái Hải

   VNĐN số 39 – tháng 09 & 10 năm 2020

[14] Ghi chú: “Những lời tự sự” cần được hiểu là những lời tâm sự, chia sẻ của Khôi Vũ, “tự sự” trong cụm từ “những lời tự sự” không phải là một thể loại văn chương hay phương thức thể hiện: tự sự, trữ tình

[15] Bùi Công Thuấn: Bùi Quang Tú-Viên phân và cây bút

http://buicongthuan.vn102.space/2022/10/31/nha_v_n_bui_quang_tu_vien_ph_n_va_cay_vi

[16] Thu Trân: Bùi Quang Huy và nghĩa cử của kẻ hậu sinh

https://tuoitre.vn/bui-quang-huy-va-nghia-cu-cua-ke-hau-sinh-188163.htm

[17] Bùi Quang Huy-Văn hóa dân gian Nam bộ…nhìn từ văn học viết

[18] Bùi Công Thuấn- Văn học Đồng Nai, Lịch sử và diện mạo

Nguồn: Bùi Công Thuấn-Hoa đỏ bên sông. Nxb HNV. 2014

http://buicongthuan.vn102.space/2021/07/27/v_n_h_c_ng_nai_l_ch_s_va_di_n_m_o

45 NĂM TRUYỆN NGẮN ĐỒNG NAI

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK:  buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

45 NĂM TRUYỆN NGẮN ĐỒNG NAI

(Tổng quan)

Bùi Công Thuấn

***

                 Truyện ngắn là thế mạnh của văn học Đồng Nai. Tuy vậy, viết truyện ngắn không dễ, bởi đã có nhiều nhà văn lớn chiếm ngự văn đàn về thể loại này. Thạch Lam kể những truyện lãng mạn không có cốt truyện. Nguyễn Tuân độc đáo với Vang bóng một thời. Nam Cao đặc biệt về những bi kịch của người trí thức “sống mòn” và người nông dân tha hóa. Nguyễn Công Hoan đứng một mình với truyện hài. Lý Văn Sâm ghi tên mình trên văn đàn là một nhà văn viết truyện đường rừng. Nguyễn Quang Sáng, Anh Đức, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, mỗi người một phong cách độc đáo, một cách kiến tạo tác phẩm riêng, một thế giới nghệ thuật riêng. Họ là những đỉnh cao bất hủ của truyện ngắn Việt Nam.

MỘT VÀI ĐƯỜNG NÉT

                 Ở Đồng Nai cũng đã có những tập truyện ngắc đặc sắc của Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn, Nguyễn Đức Thọ, Khôi Vũ, …

       45 năm qua, các tác giả Đồng Nai đã để lại những trang văn qúy giá về hiện thực đất nước. Văn học hoan ca đất nước hòa bình thống nhất sau 1975. Văn học trăn trở về những khó khăn của thập niên 1980. Văn học đón vận hội mới khi đất nước mở cửa, hội nhập với thế giới. Bước vào thế kỷ XXI, đất nước phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam vươn ra biển lớn, văn học cũng hướng đến những chân trời mới.

       45 năm qua, truyện ngắn Đồng Nai vẫn nằm trong thi pháp chung của Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Cảm thức anh hùng ca, tình yêu quê hương đất nước, tình cảm công dân là những nét đặc trưng. Xin đọc Chuyện Ầy Đã Qua Rồi (1979) và Chuyện Người Thổi Sáo Ở Bến Xuân (1991) của Lý Văn Sâm, Muối đỏViên gạch lạ của Tấn Hoài, Hồi ức làng Che (1999) của Nguyễn Đức Thọ, Một thời rừng Sác của Đại tá AHLLVTND Lê Bá Ước, Đàn ống tre bên kia sông  của Khôi Vũ, Mẹ Nghiệp của Đào Sỹ Quang, Người chợ Kệ của Dương Đức Khánh, Một thời khói lửa của Phạm Văn Đảng…

                 Trong tiến trình phát triển, truyện ngắn Đồng Nai có sự vận động về bút pháp.

                 Từ khói lửa chiến trường bước ra, các nhà văn Đồng Nai giữ nguyên cách viết của văn học kháng chiến là Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội chủ nghĩa[[1]]: ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lý tưởng hóa nhân vật, văn học trực tiếp phục vụ nhiệm vụ chính trị.                 

                 Đất nước “đổi mới”(1986), Nghị quyết Trung ương 5 (1998) xác định nhiệm vụ: Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng sâu sắc xây dựng con người./ Khuyến khích tìm tòi, thể nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác vì mục đích đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng. Bài trừ các khuynh hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính”. Truyện ngắn Đồng Nai chuyển dần từ bút pháp Hiện thực xã hội chủ nghĩa sang Hiện thực Nhân văn Dân chủ (chữ của NQ TW 5), tập trung vào việc “xây dựng con người Việt Nam” với tinh thần “nhân văn dân chủ”.

                 Nét đặc trưng của những tác phẩm văn chương Nhân văn Dân chủ là sự lên tiếng trước những cái tiêu cực của cuộc sống, nhà văn bày tỏ trách nhiệm công dân, thức tỉnh mọi người về những hiểm họa của toàn xã hội, để mọi người cùng giữ gìn lấy cái tốt, cái đẹp trong đạo đức, lối sống, quan hệ của dân tộc. Đồng thời ngòi bút bày tỏ lòng tin vào lẽ thiện, vào cái đẹp, tiếp nhận những điều mới mẻ tiến bộ khi hội nhập toàn cầu hóa.

                 Xin đọc: Người điên kể chuyện người điên của Hoàng Văn Bổn, Hồi ức làng Che của Nguyễn Đức Thọ, Tri thiên mệnh của Khôi Vũ…

                 Tuy vậy, cũng có nhà văn lúng túng trong cách thể hiện phần “hiện thực không cách mạng”. Xin đọc Nhật ký Cô Cô của Dương Thu Hường (VNĐN số 34 – tháng 11 & 12 năm 2019), Lênh đênh qua cửa Thần Phù của Nguyễn Trí (VNĐN số Xuân Tân Sửu 2021)…

                 Khi Đảng khuyến khích tìm tòi sáng tạo: Tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước nhà”.Văn học Việt Nam đã có những thử nghiệm cách tân mạnh mẽ đầu thế kỷ XXI như phong trào Thơ Trẻ, tiểu thuyết Hiện Sinh, tiểu thuyết Hậu Hiện đại…Nhà văn Đồng Nai cũng đã có những nỗ lực cách tân: Khôi Vũ, Nguyễn Một, Trần Thu Hằng…

                 Nhìn chung, nhà văn Đồng Nai vẫn giữ cách viết “truyền thống”, tuân thủ những quan điểm, nguyên tắc của Đảng trong sáng tạo nghệ thuật và nỗ lực “đổi mới” ngòi bút của mình. Và vì thế văn chương Đồng Nai tránh được những va vấp trong lúc giao thời [[2]].

Về nội dung, truyện ngắn Đồng Nai có nhiều mảng đề tài và đa dạng về những kiểu truyện kể. Điều này là do nhà văn Đồng Nai đến từ nhiều nguồn: từ quê hương chôn nhau cắt rốn, đến chiến trường sinh tử trở về mà trên ba lô còn đầy lửa đạn, cùng muôn vàn khó khăn buổi giao thời (1975-1990), rồi  thị trường “bung ra” làm đảo lộn mọi giá trị. Hiện thực ấy đầy ắp trong truyện ngắn Đồng Nai.

Xin đọc tập truyện ngắn Hồi ức làng Che (1999) của Nguyễn Đức Thọ: “Nguyễn Đức Thọ đã dẫn người đọc đi từ những ngày khởi nghĩa Yên Bái của Nguyễn Thái Học (tr.117) qua Cách Mạng Tháng Tám, Kháng chiến chống Pháp, Điện Biên Phủ (tr.113), cải cách ruộng đất (tr.156), những ngày vào ra vào hợp tác xã (tr.183) rồi 21 năm ngày Bắc đêm Nam (tr.18) kháng chiến chống Mỹ, những ngày giúp bạn bên Cambuchia  và những ngày ta đang sống đây khi đất nước bắt đầu mở cửa (tr.278), cái thời của mỗi người phải “đóng một vai kịch cho hợp lệ với màn kịch “(tr.92)[[3]].

                 Riêng những tập truyện ngắn viết về đất nước, con người Đồng Nai, là không có nhiều (Lý Văn Sâm, Khôi Vũ).

                 Thay vào đó là những miền quê hương khác: nhà văn Bùi Quang Tú (1948-2023) viết về Hà Nội (Lời cám ơn Hà Nội), Tấn Hòai viết về Huế (Muối đỏ, Hoa Quý Lan), Dương Đức Khánh viết về Người Chợ Kệ (làng nằm trên một nhánh sông Hương, Huế), Nguyễn Một viết về Quảng Nam (Truyện ngắn Nguyễn Một, 2021),

                 Truyện ngắn đi dần vào những  sinh hoạt đời thường, đi sâu vào những số phận bất thường mà cái đời thường che lấp, từ ngợi ca-anh hùng ca, chuyển sang “tinh thần nhân văn dân chủ” hướng đến việc “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”(Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014).  

                 Xin đọc Ngày biển ấm của Hoàng Ngọc Địệp, Sương sớm của Lê Đăng Kháng, Bến hồng nhan của Đào Sỹ Quang, Người trầm lặng (các truyện: Chuyện nhà tôi, Hai anh em, Nén Nhang Ngoài Khuôn Viên, Tôi kể chuyện tôi, Người trầm lặng…)của Trần Thúc Hà…

                 Nguyễn Trí viết về chuyện hàng ngày của những người “dưới đáy” ở khắp nơi: giang hồ gặp tứ chiếng”, chuyện của những đứa “bụi đời”, “rượi chè, trai gái, hút sách” cờ bạc; chuyện đâm chém, ngồi tù, bán thân; chuyện lấy chồng ngoại lên đời. Đó là một thế giới xô bồ, nhếch nhác, và “vô chính phủ”(xin đọc: Lênh đênh qua cửa Thần Phù, Trong trường gà, Về đâu hỡi người, Cạn chén đời, Bể khổ…)

                 Có thể nói, truyện ngắn Đồng Nai là những chắt lọc, những chưng cất, những nâng niu giữ gìn của nhà văn về những giá trị cách mạng và bản sắc dân tộc trong đời sống nhân dân suốt mất chục năm qua.

NHỮNG KHUÔN MẶT TIÊU BIỂU

 Những ghi nhận dưới đây về các tập truyện ngắn Đồng Nai là chưa đầy đủ, và vì thế chưa thể bao quát được “sự nghiệp” truyện ngắn của mỗi tác giả, chưa thể vẽ chân dung nhà văn, càng chưa thể xác lập được những đặc điểm phong cách nghệ thuật của từng cây bút. Có chăng là, bước đầu nhận dạng khuôn mặt truyện ngắn của những nhà văn quá cố, vì sự nghiệp cầm bút của họ đã kết thúc.

   Lý Văn Sâm với những “truyện đường rừng”, những “huyền thoại”, ghi lại được hình đất nước Đồng Nai đẹp và thể hiện khát vọng độc lập tự do. Các tập truyện: Kòn Trô (1949), Rồng bay trên núi Gia Nhang (1949), Nắng bên kia làng (1949), Sương gió biên thuỳ (1950), Bến xuân (in chung, 1980)…

Hoàng Văn Bổn chủ yếu viết tiểu thuyết. Ông có ít tập truyện ngắn: Người điên kể chuyện người điên (truyện ngắn, 1992), Con nai vàng (truyện ngắn, 1996). Trong tập Người điên kể chuyện người điên, tình yêu đất nước, con người Đồng Nai, cụ thể hơn là cái làng Bình Long của tác giả, cháy bỏng nồng nàn. Ông ghi lại hình ảnh những con người, những sự tích anh hùng, những mất mát hy sinh của Đồng Nai với tất cả sự nâng niu, trân trọng từ tấm lòng của một người trong cuộc. Trang văn của Hòang Văn Bổn ướt đẫm mồ hôi, thấm từng giọt máu, từng nỗi nhục nhằn của quá khứ để lưu truyền đời đời cho con cháu một chân lý: mất nước là mất tất cả[[4]].

            Nguyễn Đức Thọ (1955-2001) đặc sắc ở những “bi kịch khốc liệt” của một thời, được viết bằng tấm lòng nhân ái. Các tập truyện: Đêm Dưới Núi Đá Chồng (1985), Ốc mượn hồn (1992),Dấu Chân Tiên (1993), Hồi ức làng Che (1999).

  Khôi Vũ có phong cách riêng về truyện ngắn [[5]]. Truyện của ông là “truyện thời sự-thế sự”. Các tập truyện ngắn chính là Già lửa (1986), Tri thiên mệnh (2001), Phù phiếm bên biển (2010). Tập truyện Đàn ống tre bên kia sông (2015) đặc biệt viết về con người Đồng Nai [[6]].

Lê Đăng Kháng có các tập: Kẻ đánh thuế đời mình (1997); Vùng sáng trước mặt (2002), Sương sớm (2014),… “Có thể nói triết lý người hiền là cốt lõi tư tưởng của tất cả các truyện trong tập Sương Sớm của Lê Đăng Kháng. Nhà văn quan tâm đến những vấn đề nhân sinh có tầm  bao quát hiện thực rất rộng. Đó là những vấn đề từ thời Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa (Sương Sớm), vấn đề anh em ở hai chiến tuyến trong Di Cư 1954, trong kháng chiến chống Mỹ trước 1975, rồi cải tạo, rồi chuyện người di tản H.O (Những Điều Chưa Hóa Giải); đến những vấn đề của đời sống đương đại”[[7]].

Phạm Thanh Quang có các tập truyện: Tình yêu thuở ấy (1993), Địa linh (2001), Tìm lại mỹ nhân (2004),..Nhiều truyện của Phạm Thanh Quang nói về người lính hôm nay: “Bây giờ, thời mở cửa, mọi chuyện đã thay đổi. Người lính phải đối đầu với một cuộc sống phức tạp, bị vây quanh bởi bao thứ tiêu cực. Một cuộc chiến đấu khác, cũng quyết liệt như xưa, cuộc chiến bảo vệ nhân cách, bảo vệ cái đẹp đẽ hào hùng của một thời”[[8]].

Nguyễn Một có các tập truyện: Tha Hương (1996), Vũ điệu trên đỉnh Kung Pô (2001), Như là cổ tích (2005), Truyện ngắn Nguyễn Một (2020), và các tập truyện ngắn thiếu nhi. Ông viết nhiều về quê hương Quảng Nam. Lê Trâm nhận xét ông là người “mắc nợ ký ức”: Quê nhà Nguyễn Một thời chiến tranh là vùng đất “xôi đậu”, nơi ngày nào cũng xảy ra chiến sự, các bên giành nhau từng mét đất. Cha bị bắn chết khi ông còn trong bụng mẹ. Chưa được bốn tuổi, mẹ bị viên đạn lạc bắn ra từ một lô cốt của lính Mỹ, trút hơi thở cuối cùng khi đang ôm con ngủ… Những ám ảnh ấy chừng như khiến anh trở thành người mắc nợ ký ức, được bày biện với chính mình trong tập “Truyện ngắn Nguyễn Một” (2020) [[9]].

Bùi Quang Tú (1948-2023) có tập Truyện kể của thầy hiệu trưởng (2017) gồm 10 truyện viết về cuộc sống thường ngày mà tác giả chứng kiến, ghi lại. Đó cũng là những câu chuyện cuộc sống mang tính giáo dục cao, những bài học cuộc sống đắt giá [[10]]. Xin đọc: Hơi thở mùa xuân (VNĐN số 57/tháng 11/ 2022). Cốt truyện rất đơn giản. Tác giả kể lại chuyện Phụng đến thăm Hoàng. Hai người là đồng nghiệp cũ thời 1982. Họ nhắc lại những việc của ngày xưa, thời bao cấp khó khăn, xin lỗi vì những sai lầm đối với nhau, rồi Phụng chào ra về. Vì nghiêng về Ký, truyện của Bùi Quang Tú ít tính truyện và hạn chế về chất văn chương.

            Dương Đức Khánh có các tập Người Chợ Kệ (2018), Nghệ sĩ vườn (2018), Nửa ngày chiến tranh (2019). Anh kể những “sự tích” trong dân gian, bằng ngôn ngữ dân gian, vì thế truyện của Dương Đức khánh có giọng rất riêng [[11]]. Chất giọng này chỉ phù hợp với những truyện trong Người Chợ Kệ khi anh kể những sự tích anh hùng. Ở những tập truyện khác (Nghệ sĩ vườn) truyện của anh không thành công. Dường như anh chỉ viết lại những gì đã trải nghiệm. Anh không có những truyện sáng tạo (fiction), con đường văn chương của anh ít có cách tân nghệ thuật.

Hoàng Ngọc Điệp có các tập Ngày biển ấm (2019),Xóm sông (2020). “Miêu tả

những cuộc tình và hôn nhân đổ vỡ, dưới góc nhìn của người phụ nữ về tình yêu và hôn nhân, nhà văn đã thâm nhập rất sâu vào nhiều tình cảnh gia đình, chia sẻ những đau thương bất hạnh và nói lên khát vọng tình yêu hạnh phúc của người đàn bà, bởi vì: “Chúng tôi là đàn bà, tạo vật mong manh và bất ổn”[[12]]. Truyện của Hoàng Ngọc Điệp là những truyện “hiền lành”, nhà văn nói vậy, vì không kể những sự việc dữ dội, không kể cxhuye65n ác. Truyện có khi phức tạp, xô bồ, vượt ra ngoài ranh giới của đạo đức, nhưng không miêu tả những cảnh “nóng” trần trụi, những tình tiết “nhạy cảm”…để câu view, mà hướng đến mục đích chân-thiện. Và, dù có khi nhiều lời, song truyện kết thúc “có hậu”. Thực ra đó là chất hồn hậu trong văn chương Hoàng Ngọc Điệp xuất phát từ tấm lòng nhân ái đối với cuộc đời (xin đọc Hai người đàn bà, Vợ chồng Ka Líu, Chung cư…).

Trần Thu Hằng có các truyện ngắn: Áo dài của mẹ, Cánh đồng bình yên, Cánh đồng tuổi thơ, Cầu ván ghép, Còn mãi tình anh, Con trai người mê bóng đá, Cựa gà thuốc, Đôi mắt bạc, Gió xuân, Hóa thân, Huyết yến, Nhịp song lan giãn cách, Phiện tòa, Trăng khuyết, Trăng ngự bến xuân…Đặc sắc truyện ngắn Trần Thu Hằng là những truyện lịch sử và truyện tư tưởng (fiction) [[13]]. Ở hai loại truyện này, năng lực sáng tạo của Trần Thu Hằng có tính vượt trội. Hứa hẹn một ngòi bút truyện ngắn đặc sắc của văn chương Việt Nam, bởi kiểu truyện tư tưởng còn rất mỏng trên văn đàn đương đại. Trước 1975 ở Sài Gòn có các tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu (Xin đọc Cũng đành). Sau 1975, Nguyễn Huy Thiệp có thử bút loại truyện này nhưng không thành công (xin đọc: Muối của rừng, Sang sông…).

Nguyễn Trí viết về những người “dưới đáy” xã hội. Ông chia sẻ: “Tôi tìm thấy được lòng nhân ái, nét nhân văn trong những người ở đáy xã hội. Tôi yêu họ và viết, dù chưa hay lắm nhưng cố gắng đem tình yêu, tình thương, niềm đau và sự cô đơn của họ vào trang viết của mình.”[[14]]. Ông đã in: Bãi vàng, đá quý, trầm hương (2012), Đồ Tể (2014), Bay cao thì mặc bay cao (2016), Ảo và sợ (2016). Mặt cưa, rượu trắng, đường vàng (2018), Bên kia của ánh sáng (2019), Ma bùn, lưu manh và những câu chuyện khác (2020)…Nguyễn Trí kể chuyện “một cách tự nhiên chủ nghĩa”[[15]]. Truyện của ông chỉ có một giọng kể (là khẩu ngữ của người bình dân), một kiểu nhân vật (những người sống dưới đáy xã hội), một motip là kiểu “truyện giang hồ”. Có rất ít những yếu tố sáng tạo.  Ông viết bằng vốn trải nghiệm. Ông ít quan tâm đến chất thẩm mỹ của văn chương.

Đào Sỹ Quang đã in: Sự đời (2013); Viên đạn cuối cùng (2016), Mùa tôm sú (2017), Điều như không thể (2018), Trời đang vào thu (2019), Đối mặt (2019), Bến hồng nhan (2022). “Truyện của nhà văn Đào Sỹ Quang gửi gắm rất nhiều tâm huyết. Những năm tháng ông dầm mình trong mưa bom bão đạn ở mặt trận Quảng Trị để lại sức nóng trên từng trang văn. Cùng với sức nóng của một trái tim yêu thương con người sâu nặng, văn của ông có thể chạm đến trái tim người đọc”[[16]].

Trần Thúc Hà kể nhiều truyện thế sự [[17]]. Ông cũng tâm huyết với truyện lịch sử. Ông đã in: Trăng sáng như băng (1992), Mỹ nhân cổ (1998), Bức ảnh (2003), Nẻo khuất (2009), Người trầm lặng (2011), Ánh mắt (2015), Một tiếng chim rừng (2020). Đằng giang tự cổ (2021). Năm 2018, truyện ngắn Người cận vệ của vua Hàm Nghi của Trần Thúc Hà được chọn trong 10 truyện ngắn hay của báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam. Ông có nhiều cốt truyện hay, song cách kể mộc mạc (cách cấu trúc truyện, lời văn chưa mới…), ít cách tân nghệ thuật, chất văn chương trong truyện của ông chưa phát huy được; trái lại, trang văn của ông đọng lại một tấm lòng với đời.

Phạm Văn Đảng viết rất hấp dẫn về người lính hôm nay trong công tác dân vận: Các truyện:

Chuyên gia bất đắc dĩ, Nấm mồ không tên, Hương ngọc lan, Hữu duyên thiên lý, Một quyết định khó khăn, Một thời khói lửa, Phải sống, Thiên lương, Trung đội phó đặc biệt…[[18]]. Truyện của Phạm Văn Đảng phản ánh được sự khốc liệt của cuộc chiến bộ đội Việt Nam làm nghĩa vụ quốc tế ở Cambuchia, ghi được tình hữu nghị thắm thiết giữa hai dân tộc. Phạm Văn Đảng cũng có những truyện hay về người lính hôm nay trong công tác dân vận. Anh khéo lồng vào nhiệm vụ của người lính một câu chuyện tình yêu khá bất ngờ, éo le nhưng kết thúc rất đẹp. Truyện của anh tràn đầy không khí trẻ trung, vui tươi. Phạm Văn Đảng là tác giả trẻ, một ngòi bút văn chương quân đội đầy hứa hẹn.

      Dương Thu Hường mới xuất bản Bông hồng đen (tập truyện ngắn đầu tiên) gồm 18 truyện, do Nhà Xuất bản Thanh niên ấn hành. Hầu hết các truyện viết về hoạt động sản xuất công nghiệp và đời sống công nhân tại các khu nhà trọ. Nhà văn Hoàng Ngọc Điệp nhận xét: “Đây là sách “hiếm” về đề tài công nhân, và nó chân thực đến mức có cảm giác như truyện nào Dương Thu Hường cũng kể về… chính mìnhCó vẻ  như tác giả không để ý đến kỹ thuật viết truyện ngắn, thậm chí dấu chấm câu nhiều chỗ chưa chuẩn, nhưng Bông hồng đen lôi cuốn người đọc bởi hiện thực đời sống hết sức phong phú và cái nhìn vừa độc đáo, vừa nhân văn của tác giả [[19]].

Dương Thu Hường cho rằng viết về người công nhân trong các tông ty FDI theo khuôn mẫu “ta nhất định thắng” là rất khó. Tôi hiểu là viết theo phương pháp Hiện thực xã hội chủ nghĩa: xây dựng hình tượng người công nhân tiên tiến, đi đầu trong lao động sản xuất, dũng cảm kiên cường trong đấu tranh chống thống trị bóc lột; và có tư tưởng, tình cảm của giai cấp vô sản trong quan hệ.

Người công nhân hôm nay đã hoàn toàn khác với người công nhân thời của K.Marx. Nhà văn tâm sự: Viết về công nhân, công nghiệp trong đầu tư trực tiếp nước ngoài theo mô -tip trên không ổn. Với tôi, không thể viết. Cuộc sống công nhân đã trả rất nhiều giá đắng chát, ngậm ngùi bên tiền lương, đôi khi được cho là đắt với loại lao động phổ thông. Nhưng đích cuối cùng của công nhân khi được hỏi chỉ là về quê, vì không sống nổi ở thành phố”[[20]].

Truyện Chiếc hộp bí mật, nhà văn lên tiếng về thái độ đối với công nhân: “Chăm lo người lao động thì phải nhớ là họ đang tự do, sáng tạo chứ không phải loại gì đó với bữa ăn như có ma vầy trước, mặc dù mồng hai nào cũng cúng cô hồn long trọng như tết”[[21]].

      Trong truyện Những “kẻ cắp” thời gian, Dương Thu Hường đặt ra nhiều vấn đề về người công nhân, song tiếng nói của nhà văn không có phản hồi: “…nhà thầu muốn loại bỏ những chiến binh lâu năm, lương cao, sức khỏe giảm dần. Một loạt mâu thuẫn lớn. Nhưng chẳng lẽ cần thiết phải làm như thế sao? Người ta đã chôn vùi cả thanh xuân trong nhà máy không lẽ chỉ vì xót lợi nhuận mà đẩy họ ra đường?”; Trong xưởng có những người làm suốt ngày chỉ khoe sơn phết móng, đi dép cao gót ngất ngưởng, đeo vòng vàng trĩu tay, lông mi dán dài như mi bò”…thời gian đâu tập trung làm công việc.[21].

    Trâm Oanh viết những “Câu chuyện cuộc sống” đăng trên Tuổi Trẻ cuối tuần online. Đó là cuộc sống có nhiều nhếch nhác, mọi nề nếp truyền thống trở nên chệch choạc.  Con người quay quắt trong một xã hội đảo lộn. Văn của Trâm Oanh có chất hài của Nam Cao, có cách đánh vỗ mặt vào những thoái hóa đạo đức của Vũ Trọng Phụng, nhưng cũng có một tấm lòng rất giàu tình nhân ái. Năm 2023, Trâm Oanh đạt giải Nhì Cuộc thi sáng tác văn học về đề tài Công nhân – Công đoàn với truyện ngắn “Hệ sinh thái và cánh diều của cha“. Xin đọc: Rổ ra thì phải cạp, à thương, Xương sườn thứ bảy, Lỗi của tờ tiền Polimer, Hoài không chết cho, Mẹ biết không, nơi lạnh nhất là nơi không có tình thương, Lâu lâu ngoảnh lại, Một chuyện có thật (mùa Covid)

            Hạnh Vân đạt giải thưởng Trịnh Hoài Đức với tập truyện Quán ven sông (2014). Tác giả khai thác những bi kịch và những đổ vỡ gia đình. Truyện Tổ ấm là tình cảnh người chồng đi nhậu, bị Vợ bỏ. Chồng hối hận. Anh đã đánh mất nàng từ lúc nào! Giờ không biết phải bắt đầu từ đâu cho cuộc hành trình tìm lại những gì đã mất.TruyệnTrọn nghĩa vẹn tình một tình cảnh khó xử. Hai chị em cùng yêu một người, và em nhường chị.Tình An nhiên là một chuyện tình tay ba: An, Nhiên là hai chị em, cùng dạy một trường. Cả hai cùng yêu Thành, nhưng Thành chỉ yên An. Còn An đã thành vô cảm vì chứng kiến thảm cảnh gia đình khiến mẹ phải uống thuốc rầy tự tử. Hạnh vân có những truyện viết khéo (Quán ven sông, Trọn nghĩa vẹn tình).

            Nguyễn Duy Đồng in Ma chữ, tập truyện ngắn đầu tay năm 2023. Ma chữ có những truyện ngắn viết về hiện tượng tiêu cực trong giáo dục. Một số truyện phong trào, ca ngợi người tốt việc tốt [[22]] của ông đạt giải các cuộc thi: Miệt vườn quyến rũ kể chuyện những người làm kinh tế vườn ở Đồng Nai. Đời hoang kể chuyện “vua trồng bưởi”. Truyện Vương hương màu áo ca ngợi nữ công an xinh đẹp, dũng cảm cứu người mà hy sinh. Chậu mai tết ca ngợi trung úy Hoàng, phòng cháy chữa cháy, nhiểu lần cứu nạn mà bị thương.Tập truyện Ma Chữ đạt giải Văn học nghệ thuật 2023 của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam

NHÌN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN

          1.Nỗ lực và hiệu quả sáng tác ở từng nhà văn Đồng Nai là không đồng đều. Có người bút lực dồi dào, in nhiều tập truyện, nhưng cũng có tác giả in rất ít tác phẩm. Tính chất “truyện phong trào” lấn át tính nghệ thuật chuyên nghiệp. Có người có khả năng đổi mới cách viết nhưng cũng có tác giả giậm chân tại chỗ một cách viết đơn điệu.

            2. Truyện ngắn Đồng Nai ngày càng khai thác những đề tài đời thường, nhỏ nhặt, những chuyện trong gia đình, trong khu xóm. Đề tài Cách mạng và kháng chiến vơi dần, rất ít tác phẩm chạm tới những vấn đề lớn, vấn đề “nóng” của hiện thực.

            3. Lực lượng viết truyện ngắn nồng cốt của Đồng Nai là Chi Hội Nhà văn Đồng Nai cùng những tác giả kỳ cựu. “Thế hệ phong trào” chưa có đóng góp gì nhiều. “Văn Trẻ đồng Nai” có nhiều hứa hẹn ở tương lai. Xin đọc: Lã Hoài Mai, Đào Nguyên Thảo, Tống Thanh Tâm, Lý Thăng Long…

            4. Giá trị đặc sắc của truyện ngắn Đồng Nai là những đổi mới đóng góp vào sự phát triển chung của truyện ngắn Việt đương đại. Những “truyện đường rừng” giàu huyền thoai của Lý Văn Sâm là một “khuôn mẫu” không dễ có người kế tục. Nguyễn Đức Thọ viết những bi kịch khốc liệt của một thời, đó là những truyện bi kịch nằm trong số những truyện ngắn hay nhất của văn chương Việt đương đại. Kiểu truyện “thời sự-thế sự” của Khôi Vũ là một cách khai thác chất liệu hiện thực, cho nhà văn một khả năng vô hạn của sự sáng tạo. Kiểu chuyện tình lãng mạn đầy bi kịch của Nguyễn Một đem đến sự mới mẻ cho kiểu truyện tình “truyền thống” Việt Nam (Tự Lực Văn Đoàn, những chuyện tình kháng chiến…). Kiểu truyện tư tưởng của Trần Thu Hằng là một hướng phát triển góp phần lấp đầy khoảng trống tư tưởng (chữ của Nguyễn Huy Thiệp [[1]]) trong văn học Việt…

Những đổi mới thi pháp truyện ngắn này vừa khẳng định tài năng khám phá sáng tạo của nhà văn, vừa làm nên một diện mạo riêng cho truyện ngắn Đồng Nai.

Tháng 7/2023


[1] Nguyễn Huy Thiệp-Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn

    http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c369/n25390/Khoang-trong-ai-lap-duoc-trong-tu-tuong-nha-van.html

***


[1] Trường Chinh-Về Văn hóa nghệ thuật-Tập 1-Nxb Văn học 1985. Tr.115  (Báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam.1948)

[2] Những yếu kém: “Đời sống văn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc và thành quả đổi mới. Trong sáng tác và lý luận, phê bình, có lúc đã nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu văn học cách mạng và kháng chiến, đối lập văn nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một vài tác phẩm viết về kháng chiến đã không phân biệt chiến tranh chính nghĩa vói chiến tranh phi nghĩa. Xu hướng “thương mại hoá”, chiều theo những thị hiếu thấp kém, làm cho chức năng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của văn học, nghệ thuật bị suy giảm.” (Nghị quyết Trung ương 5.)

[3] Bùi Công Thuấn-Hồi ức làng Che: sự thăng hoa của những nỗi đau bi kịch

https://buicongthuan.wordpress.com/2023/07/26/nguyen-duc-tho-hoi-uc-lang-che/__

http://buicongthuan.vn102.space/?p=6332121&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[4] Nguồn: Bùi Công Thuấn-Nhà văn Đồng Nai. Nxb HNV. 2018

 http://buicongthuan.blogtiengviet.net/2021/07/30/nha_v_n_hoang_v_n_b_n_ng_i_ien_k_chuy_n_

[5] Truyện ngắn Khôi Vũ. Nguồn: Bùi Công Thuấn-Nhà Đồng Nai-Nxb HNV 2018

http://buicongthuan.vn102.space/?title=nha_v_n_khoi_v_truy_n_ng_n&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[6] Bùi Công Thuấn-Đàn ống tre bên kia sông của Khôi Vũ    https://buicongthuan.wordpress.com/?s=%C4%90%C3%A0n+%E1%BB%91ng+tre+b%C3%AAn+kia+s%C3%B4ng

[7] Bùi Công Thuấn-Triết lý người hiền (Đọc Sương sớm của Lê Đăng Kháng)

    Nguồn: Hoa đỏ bên sông-Nxb HNv 2014:

    http://nvledangkhang.blogspot.com/2012/12/bui-cong-thuan-oc-suong-som-cua-le-ang.html

[8] Bùi Công Thuấn-“Phạm Thanh Quang-Một tấm lòng người lính”:

    http://buicongthuan.vn102.space/?title=vh_n_ph_m_thanh_quang_m_t_t_m_long_ng_i_&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[9] Lê Trâm-Nhà văn Nguyễn Một, người mắc nợ ký ức

https://baoquangnam.vn/tac-gia-tac-pham/nha-van-nguyen-mot-nguoi-mac-no-ky-uc-109773.html

[10] Chuyện kể của thầy hiệu trưởng

    http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/print.aspx?NewsId=1654

[11] Bùi Công Thuấn: Người Chợ Kệ và Cá tình sáng tạo:

    http://hvhnt.dongnai.gov.vn/pages/newsdetail.aspx?NewsId=1914&CatId=83

[12] Bùi Công Thuấn-Ngày biển ấm, tình yêu và khát vọng.

https://baodongnai.com.vn/vanhoa/201912/ngay-bien-am-tinh-yeu-va-khat-vong-2981260/

[13] Bùi Công thuấn-Đặc sắc truyện ngắn Trần Thu Hằng:

https://vanchuongthanhphohochiminh.vn/dac-sac-truyen-ngan-tran-thu-han

https://vanvn.vn/dac-sac-truyen-ngan-tran-thu-hang/

[14] Nguyễn Trí-Ngoi lên từ đáy: https://www.khaitam.com/van-hoc/van-hoc-viet-nam/ngoi-len-tu-day

[15] Chủ nghĩa tự nhiên-lytuong.net: https://lytuong.net/chu-nghia-tu-nhien/ : “chủ nghĩa tự nhiên lạm dụng các chi tiết đời sống, coi chi tiết là mục đích của nghệ thuật. Chính Zola cũng đã từng thừa nhận rằng “bức tranh mà tôi miêu tả, đơn giản chỉ là phân tích một mẩu hiện thực như vốn nó đã tồn tại. Tôi chỉ việc xác nhận”. Chủ nghĩa tự nhiên quan niệm rằng, không cần phải chọn lọc các chi tiết của đời sống, các chi tiết bản thân nó đã là bản chất, người viết chỉ cần lắp ghép các chi tiết đó một cách trần trụi tự nhiên như nó vốn có đã là nghệ thuật rồi”(Phạm Phú Phong-Giáo trình tiến trình văn học)

[16] Bùi Công Thuấn-Đào Sỹ Quang một cốt cách văn chương.

[17] Bùi Công Thuấn-Nhà văn Trần Thúc Hà-“Một tiếng chim rừng”

    http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2437&CatId=87

[18] Bùi Công Thuấn-Nhà văn Phạm Văn Đảng và người lính hôm nay:

    http://buicongthuan.vn102.space/?title=vh_n_ph_m_v_n_ng_va_ng_i_linh_hom_nay&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[19] Hoàng Ngọc Điệp-Dương Thu Hường, Bông hồng đen đáng trọng

    http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2137&CatId=87

[20] Dương Thu Hường- “Công nhân viết văn và văn học viết về công nhân

    http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2400&CatId=83

[21] Tuyển tập Đồng Nai hành trình ra biển lớn. Nxb Đồng Nai. 2018.tr.194; tr.201).

[22] Bùi Công Thuấn-Nguyễn Duy Đồng-Ma chữ

    http://buicongthuan.vn102.space/?title=vh_n_nguy_n_duy_ng_ma_ch&more=1&c=1&tb=1&pb=1

CHI HỘI-HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM-ĐỒNG NAI

BẠN CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI VIẾT CHÍNH CỦA BÙI CÔNG THUẤN THEO LINK: 

buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

***

HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM – CHI HỘI  ĐỒNG NAI

MỘT MIỀN VĂN CHƯƠNG TRÙ PHÚ

Bùi Công Thuấn

(Ảnh chụp Chi Hội-HNV-Đồng Nai ra mắt 25/10/2022

Năm 1698, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đã đưa vùng đất Đồng Nai vào lãnh thổ cai quản của Chúa Nguyễn. Đồng Nai trở thành một miền quê hương trù phú (Sông Phố-Biên Hòa), một vùng dân cư đa sắc màu văn hóa, một nơi hội tụ nhiều danh nhân, và cũng là “miền đông gian lao mà anh dũng” trong kháng chiến. Nơi đây có “Gia Định tam gia”, đặc biệt là Trịnh Hoài Đức (1765-1825); có Huỳnh Văn Nghệ (1914-1977),  một chỉ huy quân sự nổi tiếng về thi ca được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng võ trang nhân dân, và Giải thưởng Nhà nước về nghệ thuật. Đồng Nai cũng sản sinh ra nhiều nhà văn nổi tiếng như Bình Nguyên Lộc (1914-1987), Hoàng Văn Bổn (1930-2006), Lý Văn Sâm (1921-2000)…

Các nhà văn là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam – Chi Hội Đồng Nai thuộc thế hệ trưởng thành từ “Đổi mới” (1986), sống và viết trong bối cảnh đất nước hòa bình và hội nhập toàn cầu hóa. Họ kế thừa những hào quang lịch sử và truyền thống văn học Đồng Nai.

MỘT MIỀN QUÊ HƯƠNG ĐA HƯƠNG SẮC

1.Chi Hội HNV Đồng Nai quy tụ các nhà văn trên khắp miền quê hương đất nước. Tình yêu quê hương (tình yêu lứa đôi, tình gia đình, cuộc sống làng quê) trong sáng tác của họ trở thành một phần nội dung quan trọng làm nên một miền quê hương văn chương “đa hương sắc”. Xin đọc sáng tác của các nhà văn: Phạm Thanh Quang (Hà Nội); các nhà văn Khôi Vũ, Đàm Chu Văn, Bùi Biên Linh, Bùi Công Thuấn (Thái Bình). Minh Hạ (Hải Dương); Lê Đăng Kháng, Trần Thu Hằng (Hà Nam); Lê Thanh Xuân, Đỗ Minh Dương, Hoàng Ngọc Điệp (Thanh Hóa); Bùi Quang Tú (Hà Tĩnh); Nguyễn Trí (Quảng Bình), Nguyễn Đức Phước (Quảng Trị); Dương Đức Khánh (Thừa Thiên-Huế); Nguyễn Một (Quảng Nam), Trần Ngọc Tuấn (Quảng Ngãi); Cát Du (Bình Dương); Trần Nhã My (Tây Ninh).

Đồng Nai là quê hương thứ hai, nơi nhà văn sinh sống, chỉ là “cõi tạm”, khác với nơi “chôn nhau cắt rún”, quê hương của những nỗi nhớ thương dằng dặc, Một phần cuộc đời có lẽ nào quên được!”(thơ Biên Linh); quê hương ruột thịt ấy đã làm nên văn chương của mỗi người [[1]]. Riêng những nhà văn sinh trưởng ở Đồng Nai, hoặc đã sống lâu với Đồng Nai như Trần Thu Hằng (hơn 40 năm sống ở Đồng Nai-Tiểu thuyết: Truyện tình ở Hầm Hinh [[2]]), Hoàng Ngọc Điệp (sống 40 năm ở Đồng Nai-tác phẩm Cù lao yêu dấu[[3]]), Khôi Vũ (gần 70 năm- tiểu thuyết Sông Luộc ở Phương Nam [[4]]; Đàn ống tre bên kia sông [[5]]) mới viết về Đồng Nai như quê hương máu thịt của mình.

Cũng từ những vùng miền khác nhau, các nhà văn Chi Hội Đồng Nai đã góp “giọng” rất đặc trưng của mình làm nên trang văn  Đồng Nai. Dương Đức Khánh có giọng kể “rặt” vùng Thừa Thiên – Huế (xin đọc Người Chợ Kệ [[6]]); Giọng “Bắc”, và chất liệu văn hóa Bắc chiếm đa phần trong trang văn, thơ của Khôi Vũ, Phạm Thanh Quang, Bùi Quang Tú, Lê Đăng Kháng; Hoàng Ngọc Điệp, Lê Thanh Xuân, Đỗ Minh Dương, Đàm Chu Văn; Bùi Biện Linh. Và Đậm đặc giọng “hiện đại”, trẻ trung, nhưng sâu lắng trong thơ Nguyễn Đức Phước[[7]], Cát Du, Trần Nhã My.

2. Nối tiếp truyền thống và bước tiếp vào tương lai là bước đi của nhà văn Chi Hội Đồng Nai. Các nhà thơ nhà văn Lê Đăng Kháng [[8]], Đàm Chu Văn, Bùi Quang Tú, Đỗ Minh Dương là những người từ trong khói lửa chiến trường chống Mỹ bước ra, tiếp tục viết về những tháng ngày gian khổ, hy sinh và hào hùng của người lính. Nguồn cảm hứng máu thịt này đã trở thành cốt cách văn chương của họ. Tác phẩm của họ vẫn viết theo cảm hứng của Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội Chủ nghĩa trong kháng chiến, tuy giờ đây, trong đời thường, những nhà văn cầm súng có viết sâu sắc hơn về hy sinh, gian khổ và vẻ đẹp riêng của người lính. Xin đọc: tập thơ Quả ngọt của Lê Đăng Kháng [8], các bài thơ: “Nằm võng giữa rừng chiến khu”; “Hồi ức ánh trăng rừng” của Đỗ Minh Dương; bài: Tìm cậu ; Vô danh của Đàm Chu Văn…

Hiện thực cuộc sống từ “đổi mới”(1986) đến nay (phần Hiện thực không Xã hội Chủ nghĩa) là đối tượng phản ánh, khám phá của nhiều nhà văn Đồng Nai. Hội nhập toàn cầu hóa cùng với xâm lăng văn hóa từ bên ngoài làm đảo lộn mọi giá trị văn hóa của cha ông. Cảm hứng thế sự trở thành chủ đạo. Miêu tả cuộc đấu tranh để bảo vệ các giá trị nhân văn, các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống là nỗi trăn trở khôn nguôi của những nhà văn mà trái tim cùng một nhịp đập với nhân dân. Sáng tác của Khôi Vũ -Nguyễn Thái Hải có thể là tiêu biểu [[9]]. Đến nay (2022), Khôi Vũ đã in 72 tác phẩm tiểu thuyết, tập truyện ngắn và truyện thiếu nhi. Truyện Khôi Vũ có tính thời sự, từ đó đặt những vấn đề thế sự, vấn đề tư tưởng [[10]]. Hiện thực “dưới đáy” trong sáng tác của Nguyễn Trí là một hiện thực phức tạp, xô bồ, ở đó chỉ có lương tri con người mới cứu rỗi được những số phận bi đát [[11]]. Tiểu thuyết của Nguyễn Một: Đất trời vần vũ [[12]] nói về sự tha hóa của một lớp cán bộ địa phương khi trong tay nắm quyền lực (nhân vật Tư Ngồng). Trong Ngược mặt trời, Nguyễn Một bày tỏ quan điểm của mình về cuộc chiến tranh trong quá khứ, về những vấn đề của lịch sử: lịch sử đạo Công Giáo bị bách hại và lịch sử thực dân Pháp xâm lược nước ta…Tiểu thuyết của Trần Thu Hằng lại mở rộng biên độ hiện thực về những chiều kích khác: chiều kích lịch sử-cách mạng (tiểu thuyết Chuyện tình ở hầm hinh), chiều kích hiện sinh (tiểu thuyết Người đàn bà lưu vong [[13]])…

ĐỊNH VỊ NHỮNG “KHUÔN MẶT THƠ CA

Nói “những khuôn mặt thơ ca” là để nhận diện phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn. Thuật ngữ “phong cách nghệ thuật” bao hàm ý nghĩa khá rộng. Tuy vậy, để “nhận dạng” một tài năng nghệ thuật, có khi ta chỉ cần chú ý đến một đặc điểm nổi trội, bền vững trong thi pháp của nhà văn. Bởi vì, trừ những tài năng đặc biệt ngay khi xuất hiện đã khẳng định phong cách (Hồ Xuân Hương, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nguyễn Bính…), còn lại, rất nhiều người cầm bút không có phong cách nghệ thuật, song họ có đặc điểm riêng về thi pháp giúp ta nhận dạng (Nam Cao, Nguyễn Huy Thiệp… chẳng hạn).

Trần Ngọc Tuấn là người thơ đứng “riêng một góc trời” với những tập thơ Thiền [[14]]. Anh kế tục dòng thơ Thiền bàng bạc trong văn chương Việt Nam từ thơ Thiền Lý-Trần, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều… đến hiện đại (Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư). Thơ Trần Ngọc Tuấn chủ yếu là Tứ tuyệt thất ngôn và Tứ tuyệt-Lục bát.

Nhiều nhà thơ Chi Hội Đồng Nai tiếp tục các thể thơ truyền thống, đặc biệt là lục bát và thơ 7, 8 chữ Lãng mạn. Lê Thanh Xuân rất giàu có những tứ thơ phóng khoáng, mới mẻ; Đỗ Minh Dương miệt mài với lục bát đậm chất ca dao, Lê Đăng Kháng ghi dấu ấn ở những tứ thơ mộc, chân chất nhưng hồn thơ giàu nặng nghĩa tình. Hồn thơ Minh Hạ trong veo.

Thơ của Nguyễn Đức Phước, Cát Du, Trần Nhã My nằm trong dòng “Thơ Trẻ” cách tân đầu thế kỷ XXI với những cảm thức và thấp thoáng bóng dáng nghệ thuật Hậu Hiện đại. Nguyễn Đức Phước khám phá được những hình tượng tư tưởng mới [[15]]. Thơ Cát Du thơ tự tình, tự tra vấn, tự bứt phá. Hoàng Thụy Anh cho rằng phong cách thơ Cát Du là: phong cách viết vừa đằm thắm vừa ngẫu hứng, táo bạo”[[16]]. Thực ra, điều mà Hoàng Thụy Anh gọi là “ngẫu hứng, táo bạo” (cả khi Cát Du viết về sex), trong thơ Cát Du xuất phát từ cảm thức và cách viết Hậu Hiện đại (Giải Cấu trúc các đại tự sự). Nhưng thơ Cát Du chưa phải là thơ được viết bằng  tư tưởng và thủ pháp Hậu Hiện đại (như thơ Hậu hiện đại của Lê Thị Thấm Vân, hoặc Văn Cầm Hải). Vanvn nhận xét về thơ Trần Nhã My: “Mỗi bài thơ của Trần Nhã My thường là câu chuyện được chắt lọc từ những lát cắt đời sống, mang tính ẩn dụ, tinh tế và sâu lắng, đằm thắm và gợi mở thông điệp”[[17]]. Đó là nhận xét về nội dung. Về hình thức thể hiện và kiểu tư duy thơ, Thơ Trần Nhã My là thơ tự tình, được viết bằng kiểu ngôn ngữ “Thơ Trẻ” đầu thế kỷ XXI, một dòng thơ có ý thức cách tân trong trào lưu thơ Việt đương đại [[18]].

Đàm Chu Văn có nhiều bài thơ sâu nặng ân tình về người lính, thơ của anh cũng nằm trong dòng thơ truyền thống, nhưng tôi đặc biệt quan tâm đến những nỗ lực cách tân thơ của anh: xin đọc bài: “Đàm Chu Văn và con đường đổi mới thơ ca” [[19]]. Nỗ lực đổi mới thơ ca Việt đương đại là một nỗ lực liên tục của nhiều thế hệ nhà thơ suốt từ những năm 1930 đến nay (từ bài Tình già của Phan Khôi năm 1932). Thơ Việt đã vượt lên, từ thơ Lãng Mạn đến thơ Siêu thực, thơ Kháng chiến, thơ Hiện thực xã hội chủ nghĩa, thơ “dòng ý thức”, thơ Tân Hình thức, thơ Hậu hiện đại…Cũng đã có những cực đoan, kiểu “thơ không thơ”, nhưng đến nay, thơ Việt đã dung nạp được hầu như tất xả các xu hướng thơ hiện đại để cách tân, trên nền của thi ca truyền thống. Mỗi thế hệ nhà thơ đóng góp phần của riêng mình mà “Thơ Trè” đầu thế kỷ XXI là một khoảnh khắc rất lạ của ánh sáng thơ Việt. Đàm Chu Văn âm thầm 15 năm tìm tòi con đường cách tân thơ mình, và tôi thấy, con đường của anh có những đóng góp vào nỗ lực chung.

NHỮNG TÌM TÒI ĐỔI MỚI CỦA VĂN XUÔI

Lê Đăng Kháng và Phạm Thanh Quang là những người lính viết văn, họ từ chiến trường Chống Mỹ đi ra và đem vào trang văn nguyên vẹn tâm hồn và đời sống của người lính. Truyện của Lê Đăng Kháng giàu tình yêu thương con người [[20]]. Phạm Thanh Quang trăn trở nhiều về những vấn đề xã hội khi người lính trở về đời thường sống trong giai đoạn trước và sau “đổi mới” [[21]]

Nhà văn Khôi Vũ-Nguyễn Thái Hải là “Nhà văn Đồng Nai” tiếp bước các nhà văn tiền bối Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn. Nhưng Khôi Vũ tiếp bước ở giai đọan đất nước “Đổi mới”. Đến nay ông đã in 72 tác phẩm và 2 lần đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn: năm 1990 với tiểu thuyết Lời nguyền hai trăm năm và năm 2000 với tiểu thuyết Sông Luộc ở phương Nam. Hiện thực trong văn chương Khôi Vũ rất rộng, nhưng bối cảnh, con người, vùng đất làm nên văn chương của ông là Đồng Nai. Ông là nhà văn thời sự, thế sự. Ngòi bút của ông hướng đến kiểu tác phẩm tư tưởng. Nếu gọi đúng tên, Khôi Vũ-Nguyễn Thái Hải là nhà văn đa diện. Ông vừa thực hiện vụ nhiệm vụ chính trị của người cầm bút, vừa viết những tác phẩm tư tưởng, lại vừa hướng đến công chúng thị trường. Tôi cũng đặc biệt quan tâm đến những nỗ lực cách tân tiểu thuyết của ông. Lời nguyền hai trăm năm là một đóng góp rất mới có ý nghĩa cách tân lúc bấy giờ. Từ tiểu thuyết Lời nguyền hai trăm năm đến tiểu thuyết Vỡ dần trong mắt và tiểu thuyết Sông Luộc ở phương Nam là nỗ lực tìm tòi liên tục để cách tân tiểu thuyết của Khôi Vũ [[22]]. Những người viết trẻ đi sau Khôi Vũ ở Đồng Nai có thể học được ở ông nhiều điều công việc viết văn. Chẳng hạn về cách tìm vốn sống, và làm cách nào chỉ một tình huống thời sự có thể kể thành một truyện ngắn thế sự; nghệ thuật viết truyện thiếu nhi.

Chi Hội-HNV Đồng Nai có nhiều nhà văn, nhà thơ viết cho thiếu nhi khá đặc sắc: Nguyễn Thái Hải, Hoàng Ngọc Điệp, Trần Thu Hằng, Phạm Thanh Quang. Tính đến năm 2022 Nguyễn Thái Hải (Khôi Vũ) đã in 40 tập truyện cho thiếu nhi (truyện ngắn và truyện dài). Nhà thơ Đàm Chu Văn có thơ được chọn trong sách giáo khoa Tiếng Việt 3, bộ Chân trời sáng tạo (NXB Giáo dục Việt Nam, 2022): bài Thả diều bên dòng sông quê hương.

Hai nhà văn từng là những “nhà văn trẻ” tài năng, đầy nội lực của Chi Hội HNV Đồng Nai là Nguyễn Một và Trần Thu Hằng. Nguyễn Một nổi tiếng với tiểu thuyết Đất trời vần vũ (2009Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010) và tiểu thuyết Ngược mặt trời (2012)[[23]]. Anh gây được ấn tượng trên văn đàn nhờ ở những đóng góp cách tân tiểu thuyết đương đại Việt Nam. Anh gọi Ngược Mặt trời là kiểu “tiểu thuyết rời rạc”. Ở tác phẩm này, anh đưa vào trang văn nhiều kỹ thuật của tiểu thuyết hiện đại, anh cũng không ngại đề cập đến vấn để “nóng” của hiện thực đương thời. Trang văn của anh chứa đựng một năng lượng sáng tạo dồi dào.

Tôi thích văn của Trần Thu Hằng ở sự sang trọng lịch lãm. Nói thực, văn chương Việt Nam có không nhiều những nhà văn viết được những trang văn giàu phẩm chất trí thức (có lẽ vì quen viết cho “Công, Nông, Binh” nên nhà văn Việt Nam sử dụng ngôn ngữ bình dân chăng?). Trái lại, tiểu thuyết Người đàn bà lưu vong (2008) và tiểu thuyết Chuyện tình ở hầm Hinh [2015] của Trần Thuy Hằng [[24]], ngoàisức hấp dẫn của nghệ thuật kể chuyện, ở cấu trúc tác phẩm, ở xây dựng nhân vật, tình huống, thì chất văn chương trí thức vẫn là đặc điểm nổi trội. Trần Thu Hằng có thiên hướng viết truyện lịch sử (tiểu thuyết Đàn Đáy, tiểu thuyết Chuyện tình ở Hầm Hinh) và tôi hy vọng Trần Thu Hằng sẽ tiếp bước nhà văn Hoàng Văn Bổn viết những bộ tiểu thuyết sử thi về lịch sử, đất nước và con người Đồng Nai.

LÝ LUẬN PHÊ BÌNH VÀ YÊU CẦU CỦA TÍNH CHUYÊN NGHIỆP

Mặt mạnh của nhà văn Bùi Quang Tú là viết chân dung các nhà văn (xin đọc: Viên phấn và cây bút [[25]]. Thân phụ ông là nhà văn Bùi Hiển, sinh thời, giao tiếp với nhiều nhà văn, nên Bùi Quang Tú có dịp tiếp xúc rộng rãi trong giới văn chương. Những bài viết về chân dung các nhà văn của ông có nhiều tư liệu quý cho thầy cô dạy văn.

Các nhà văn nhà thơ Nguyễn Đức Phước, Hoàng Ngọc Điệp, Trần Thu Hằng cũng có tài viết phê bình văn học. Những bài đọc tác phẩm, giới thiệu nhà văn của các cây bút phê bình trên tạo được không khí sôi nổi trong đời sống văn chương tại Đồng Nai. Riêng ngòi bút phê bình văn học của Trần Thu Hằng có nhiều khám phá đặc sắc về cốt cách của các nhà văn. Xin đọc bài: “Bộ ba hồi ký và tiểu thuyết “Nước mắt giã biệt” của Hoàng Văn Bổn”[[26]]. Đây là bài tiêu biểu cho cách viết phê bình văn học của Trần Thu Hằng, một cách đọc sâu sắc, một cách trình bày khoa học và một tấm lòng với văn chương (Xin đọc thêm các bài Trần Thu Hằng viết về thơ Lê Thanh Xuân, Nguyễn Đức Phước, Phan Hoàng… [[27]]).

Tác giả bài viết này cũng là một người viết lý luận phê bình văn học trong Chi Hội HNV Đồng Nai. Tôi đã viết về văn chương Đồng Nai trong hai cuốn: Hoa đỏ bên sông (Nxb HNV 2014) và Nhà văn Đồng Nai (Nxb HNV 2018). Trong khi chờ một bộ lịch sử văn học Việt Nam, tôi viết cuốn Văn chương Việt Nam-Những gì còn với mai sau (Nxb HNV 2016) nhận định văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay theo 3 dòng văn học: Văn học Cách mạng và kháng chiến, Văn học Dân chủ và Nhân vănVăn chương thị trường. Trong các cuốn sách khác, tôi đã viết về các nhà thơ Nguyễn Du, Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng, Nguyễn Quang Thiều, Lê Thành Nghị, Trần Quang Quý, Lê Quang Trang, 10 khuôn mặt Thơ Trẻ đầu thề kỷ XXI, Đỗ Quyên, Lưu Diệu Vân…; các nhà văn Hoàng Văn Bổn, Lý Văn Sâm, Bích Ngân, Trầm Hương, Đỗ Tiến Thụy, Nguyễn Ngọc Tư, Dương Thụy…; các nhà phê bình Đặng Tiến, Đỗ Lai Thúy, Chu Văn Sơn, Trần Đình Sử và các nhà phê bình hải ngoại: Nguyễn Vy Khanh, Bùi Vĩnh Phúc, Thụy Khuê, Nguyễn Hưng Quốc…Tôi sử dụng phương pháp phê bình Cấu trúc luậnGiải Cấu trúc, kết hợp với Phê bình mới (Anh Mỹ) và dùng phương pháp đọc gần (Close reading) để thẩm thấu tác phẩm. Đôi khi sử dụng phê bình Phân Tâm học, phê bình Ký hiệu học, Thi pháp học và cả các lý thuyết văn hóa trên nền tảng phê bình Marxist để soi chiếu tác phẩm. Gần đây tôi đã dùng Lý thuyết trò chơi (Game Theory)[[28]] để đọc Chuyện Ngõ nghèoMiền hoang tưởng của Nguyễn Xuân Khánh. Ở Việt Nam có các kiểu nhà phê bình văn học: Nhà phê bình chính trị, Nhà phê bình lý thuyết, Nhà phê bình phong trào, nhà phê bình chuyên nghiệp. Tôi viết phê bình chuyên nghiệp nhưng tham gia vào sinh hoạt văn chương đương đại Việt Nam (đặc biệt là các trào lưu, thí dụ: trào lưu Thơ Trẻ, trào lưu tiểu thuyết lịch sử, trào lưu văn học Hậu hiện đại, trào lưu cách tân thơ…).[[29]]

THỬ ĐỊNH VỊ

Những trình bày sơ lược trên đủ giúp bạn đọc hình dung một miền quê văn chương trù phú, đa dạng về thể loại và phong cách; nội dung trải rất rộng khắp các miền hiện thực và đặc biệt văn chương của các nhà văn Chi Hội HNV-Đồng Nai góp phần tích cực vào cách tân văn chương Việt Nam đương đại: Cách tân về tiểu thuyết (Khôi Vũ, Nguyễn Một, Trần Thu Hằng), cách tân thơ (Trần Ngọc Tuấn, Nguyễn Đức Phước, Cát Du, Trần Nhã My) và đóng góp đổi mới phương pháp phê bình văn học (Bùi Công Thuấn). Chi Hội HNV-Đồng Nai có nhiều khuôn mặt sáng giá trên văn đàn, tài năng được khẳng định qua nhiều giải thưởng của HNV, chẳng hạn: Khôi Vũ, Nguyễn Một, Nguyễn Trí…

Con đường tương lai của Chi Hội HNV-Đồng Nai còn mở rộng…

Tháng 11/ 2022


[1] Xin đọc:Bùi Công Thuấn-Thơ Lê Thanh Xuân: (đã đăng trên tạp chí Thơ, số 4 năm 2016)

[2] Bùi Công Thuấn: Chuyện tình ở Hầm Hinh: http://buicongthuan.vn102.space/2021/07/30/nha_v_n_tr_n_thu_h_ng_chuy_n_tinh_h_m_hi

[3]Bùi Công Thuấn-Cù lao yêu dấu-Bài tình ca quê hương dào dạt: http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=1927&CatId=83

[4] Bùi Công Thuấn-Sông Luộc ở phương Nam: https://vanvn.vn/song-luoc-o-phuong-nam-va-nhung-ma-nghe-thuat/

[5]Bùi Công Thuấn: Đàn ống tre của Khôi Vũ:    https://buicongthuan.wordpress.com/?s=%C4%90%C3%A0n+%E1%BB%91ng+tre+b%C3%AAn+kia+s%C3%B4ng

[6]Bùi Công Thuấn: Người Chợ Kệ và Cá tình sáng tạo:

   http://hvhnt.dongnai.gov.vn/pages/newsdetail.aspx?NewsId=1914&CatId=83

[7] Bùi Công Thuấn-Trái tim biết khóc-thơ Nguyễn Đức Phước: văn nghệ trẻ số 32 ngày 10/8/08

[8] Bùi Công Thuấn-Thơ Lê Đăng Kháng: Quả ngọtKhúc tráng ca của lửa:

http://buicongthuan.vn102.space/?title=th_le_ng_khang_qu_ng_t&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[9] Bùi Công Thuấn-Khôi Vũ-Nguyễn Thái Hải, nhà văn dấn thân vì văn chương:

   http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2701&CatId=83

[10] Bùi Công Thuấn-Khôi Vũ, nhà văn thế sự: https://vanchuongphuongnam.vn/khoi-vu-nha-van-the-su.html

[11]Bùi Công Thuấn-Bụi đời và thục nữ-Nguyễn Trí: https://buicongthuan.wordpress.com/2018/03/05/bui-doi-va-thuc-nu/

   Bùi Công Thuấn-Tiểu thuyết Ăn Bay của Nguyễn Trí- Báo Văn nghệ số 48 (01.12.2018)

[12]Bùi Công Thuấn-Câu chuyện kẻ chơi dao (đọc Đất trời vần vũ của Nguyễn Một):

   Bùi Công Thuấn-Nghĩ rời rạc về tiểu thuyết Ngược mặt trời của Nguyễn Một:    http://buicongthuan.vn102.space/2013/12/27/nghau_rar_i_raonc_var_tiar_u_thuyaoft_ng

[13]Bùi Công Thuấn-Người đàn bà lưu vongtiểu thuyết của Trần Thu Hằng https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=10028

[14]Bùi Công Thuấn đọc tập Suối reo của Trần Ngọc Tuấn: http://buicongthuan.vn102.space/2021/08/04/th_thi_n_tr_n_ng_c_tu_n_su_i_reo

   Bùi Công Thuấn-đọc tập thơ Chân Thân của Trần Ngọc Tuấn:   http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2728&CatId=83

Bùi Công Thuấn-Đọc tập thơ Hiện hữu của Trần Ngọc Tuấn: https://vanvn.vn/tho-thien-cua-tran-ngoc-tuan/

[15]Bùi Công Thuấn-Đêm khát của Nguyễn Đức Phước: https://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=8499

[16]Hoàng Thụy Anh-“Nàng”-Người đàn bà tự thú trong thơ Cá Du:

https://vnexpress.net/nang-nguoi-dan-ba-tu-thu-trong-tho-cat-du-1971279.html

[17] Vanvn-Chùm thơ Trần Nhã My: https://vanvn.vn/chum-tho-tran-nha-my-cho-em-no-nguoc-va-tra-mai-kiep-sau/

[18] Bùi Công Thuấn-Nhìn lại “Thơ Trẻ” đầu thế kỷ XXI:

   http://trannhuong.top/tin-tuc-54656/nhin-lai-%E2%80%9Ctho-tre%E2%80%9D-dau-the-ky-xxi.vhtm

[19] Bùi Công Thuấn-“Đàm Chu Văn và con đường đổi mới thơ ca”:

[20] Bùi Công Thuấn-Triết lý người hiền (Đọc Sương sớm của Lê Đăng Kháng)

   Nguồn: Hoa đỏ bên sông-Nxb HNv 2014:

   http://nvledangkhang.blogspot.com/2012/12/bui-cong-thuan-oc-suong-som-cua-le-ang.html

[21]Bùi Công Thuấn-“Phạm Thanh Quang-Một tấm lòng người lính”:

http://buicongthuan.vn102.space/?title=vh_n_ph_m_thanh_quang_m_t_t_m_long_ng_i_&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[22]Mời đọc bài viết của Bùi Công Thuấn về nhà văn Khôi Vũ:

          –Khôi vũ-Nguyễn Thái Hải và sự dấn thân của văn chương:

           http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=2701&CatId=83

          –Khôi Vũ-Nhà văn thế sự: https://vanchuongphuongnam.vn/khoi-vu-nha-van-the-su.html

          –Sông Luộc ở phương Nam và những mã nghệ thuật: https://vanvn.vn/song-luoc-o-phuong-nam-va-nhung-ma-nghe-thuat/

          –Truyện ngắn Khôi Vũ. Nguồn: Bùi Công Thuấn-Nhà Đồng Nai-Nxb HNV 2018

          –Tiểu thuyết Khôi Vũ. Nguồn: Bùi Công Thuấn-Nhà văn Đồng Nai. Nxb HNV 2018

[23] Bùi Công Thuấn-Đọc Đất trời vần vũ của Nguyễn Một:

   Bùi Công Thuấn-Nghĩ rời rạc về tiểu thuyết Ngược mặt trời của Nguyễn Một:

   http://buicongthuan.vn102.space/2013/12/27/nghau_rar_i_raonc_var_tiar_u_thuyaoft_ng

[24] Bùi Công Thuấn-Thân phận lưu vong:

    Bùi Công Thuấn-Chuyện tình ở Hầm Hinh:

    http://buicongthuan.vn102.space/2021/07/30/nha_v_n_tr_n_thu_h_ng_chuy_n_tinh_h_m_hi

[25] Bùi Công Thuấn-Viên phấn và cây bút: http://buicongthuan.vn102.space/?title=nha_v_n_bui_quang_tu_vien_ph_n_va_cay_vi&more=1&c=1&tb=1&pb=1

[26] Trần Thu Hằng-Bộ ba hồi ký và tiểu thuyết Nước mắt giã biệt của Hoàng Văn Bổn”:

[27] Trần Thu Hằng viết về thơ Trần Đức Phước: Nhà thơ trong trận tuyến mới

          -Trần Thu Hằng viết về thơ Lê Thanh Xuân:  Chỉ có đêm, lửa mới nhận ra mình:

          -Trần Thu Hằng: Nhà thơ Phan Hoàng, từ Chất vấn thói quen đến Bước gió truyền kỳ:

[28] Bùi Công Thuấn-Miền hoang tưởng& Những thử nghiệm:

   Bùi Công Thuấn-Chuyện Ngõ nghèo và Lý thuyết trò chơi: http://trannhuong.top/tin-tuc-55705/doc-chuyen-ngo-ngheo–  mot-thu-nghiem-%E2%80%9Cly-thuyet-tro-choi%E2%80%9D—.vhtm

Mời bạn đọc TUYỂN TẬP NHÀ VĂN ĐƯƠNG ĐẠI của Bùi Công Thuấn (Download theo link:)https://www.mediafire.com/file/7zhaz56357w018z/TUYỂN+TẬP-NHÀ+VĂN+ĐƯƠNG+ĐẠI-full.rar/file

BÀI VIẾT CỦA BÙI CÔNG THUẤN

Trên trang: buicongthuan.blogtiengviet.net

***

NHỮNG BÀI VIẾT CHÍNH

CA KHÚC, TRUYỆN NGẮN VÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC

Gồm 35 ca khúc, 7 truyện ngắn và 138 bài viết

Bạn bấm vào đường link để đọc

http://buicongthuan.blogtiengviet.net/disp/abc

VỚI 40 NĂM VĂN NGHỆ ĐỒNG NAI

40 NĂM VỚI VĂN NGHỆ ĐỒNG NAI

Bùi Công Thuấn

 

2 hoang-van-bon

(Cố nhà văn Hoàng Văn Bổn)

Tôi được kết nạp vào Hội VHNT Đồng Nai năm 1988, đến nay đã là hội viên thuộc diện “cổ lai hy” của Hội (*). Nhưng trong tôi vẫn dào dạt những cảm xúc ngày đầu của một hội viên tuổi “thanh xuân”. Nhìn lại hành trình của mình, từ Hội VHNT Đồng Nai, tôi đã trở thành Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, đã in được 8 cuốn sách trong đó có 2 cuốn viết riêng về nhà văn Đồng Nai là Hoa đỏ bên sông (2014) và Nhà văn Đồng Nai (2018). Tôi cũng đã được giải thưởng Trịnh Hoài Đức 4 lần, hai lần giải âm nhạc, 2 lần giải văn chương. Nói vậy để các hội viên trẻ hôm nay có thể nhận ra rằng Hội VHNT Đồng Nai là cái nôi rất thân thương, từ đó mỗi hội viên đều có cơ hội thăng tiến tài năng của mình đóng góp vào đời sống văn hóa của Đồng Nai.

5 Các lão nghệ sĩ

Các lão nghệ sĩ: nhà văn-anh hùng Nguyễn Bá Ước, Họa sĩ Nguyễn Nam Ngữ, nhà văn Huyền Tùng…)

NGÔI NHÀ ẤM ÁP NGHĨA TÌNH

Tôi gọi Hội VHNT Đồng Nai là ngôi nhà ấm áp nghĩa tình, bởi ngôi nhà ấy mở rộng vòng tay đón vào lòng mình mọi cây bút có ý thức và nhiệt tình sáng tạo nghệ thuật để làm giàu đẹp Đồng Nai.

Nơi đây quy tụ nhiều thế hệ nhà thơ nhà văn từ nhiều miền đất nước. Những nhà văn lão thành như Xuân Bảo (1935), Phan Huyền Tùng (1936), Trần Thúc Hà (1937), các nhà văn trẻ như Trần Thu Hằng (1975), Phạm Thị Thanh Vân (1980), Nguyễn Huyền Quy (1986)…Nhiều nhà văn bước ra từ khỏi lửa cuộc kháng chiến chống Mỹ tiếp tục cảm hứng sáng tác về văn học cách mạng và kháng chiến. Nhiều nhà văn trăn trở vật lộn với thời bao cấp và sự xuống cấp đạo đức giao thời kinh tế thị trường (Nhà văn Hoàng Văn Bổn viết tập truyện ngắn Người điên kể chuyện người điên và tiểu thuyết Tình đời đen bạc…). Nhưng những ngòi bút chủ lực của văn nghệ Đồng Nai lại khai phá những chân trời mới của văn chương (Khôi Vũ, Nguyễn Một, Trần Thu Hằng, Nguyễn Trí…). Những nhà văn trẻ hôm nay có ưu thế của thời 4G và họ không vướng mắc gì với những vấn đề mà nhà văn thế hệ trước gặp phải. Mỗi thế hệ đều có ưu thế riêng, có bầu trời sáng tạo riêng.

Những lần hội họp, những lần hội thảo, những trại sáng tác luôn là dịp để hội viên cọ sát ngòi bút và hâm nóng cảm hứng sáng tác. Ban chấp hành các khóa đều làm việc cật lực và phải đối mặt với sóng gió và không ít gai góc (Chuyện lùm xùm về bài thơ Lời cây dầu cổ thụ ở trụ sở Ủy ban nhân dân  của Đàm Chu Văn (2012) và trang web Văn Biên Hòa dùng những lời lẽ vô văn hóa mạt sát tất cả hội viên hội VHNT Đồng Nai).  Dù vậy, các hoạt động của hội luôn sôi nổi, văn chương Đồng Nai sum suê giải thưởng. Việc tổ chức thường xuyên các trại sáng tác là một nỗ lực mang đến nhiều giá trị cho hội viên.

Tôi đã đi trại sáng tác Chiến khu Đ và ở lại đêm sinh hoạt với anh chị em địa phương, lúc ấy tôi gặp được cố nhạc sĩ Nguyễn Bính, một người nhiệt tình và rất thương người trẻ. Tôi đã dự trại sáng tác Đà Lạt, viết liền mạch 4 ca khúc. Dịp này tôi được nghe nhạc sĩ Nguyễn Thọ kể rất nhiều chuyện cười lên cơn ghiền. Tôi lấy làm tiếc sao nhạc sĩ Nguyễn Thọ không viết văn, vì ông kể chuyện rất hấp dẫn và có duyên. Trại sáng tác Phú Yên tôi có nhiều kỷ niệm của một lần đi xa. Trại sáng tác Vũng Tàu, tôi viết được một bài tâm huyết về nhà văn Hoàng Văn Bổn, thấy nhẹ lòng vì lời đã hứa với ông. Chỉ tiếc là tôi không tham dự được nhiều trại sáng tác của Hội, đơn giản ở mảng lý luận phê bình văn chương, khó viết ở trại sáng tác…Nhưng nhờ được đọc nhiều bài ở các trại sáng tác, tôi gần gũi với đồng nghiệp hơn, hiểu văn chương Đồng Nai hơn.

Tôi gọi Hội VHNT Đồng Nai là ngôi nhà ấm áp nghĩa tình, bởi ngôi nhà ấy ươm mầm những giấc mơ văn chương.

Có lẽ cái khát vọng mãnh liệt của hội viên viết văn địa phương là trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Nhiều người phải  hàng chục năm “rèn luyện” ngòi bút chờ đợi. Bởi mỗi năm Hội Nhà văn Việt Nam chỉ kết nạp khoảng  trên dưới 20 người, mà trong cả nước có tới mấy trăm hồ sơ xếp hàng, trừ khi tác phẩm của mình gây được ấn tượng với công luận. Bản thân tôi được nhiều nhà văn Đồng Nai hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đi trước quan tâm động viên, được Chi hội Hội Nhà văn miền Đông đồng thuận giới thiệu, được nhà thơ Lê Thanh Xuân giúp làm hồ sơ và được nhà thơ Lê Quang Trang (Sài Gòn) và nhà văn-TS Phạm Quang Trung (Đại học Đà Lạt) bảo trợ. Đơn tôi gửi từ 2009 và đến 2015 mới được Hội Nhà văn VN kết nạp. Đấy là khoảng thời gian tôi phải chứng tỏ được năng lực viết của mình có đạt chuẩn một người viết chuyên nghiệp không. Thực ra trứớc hay sau khi trở thành Hội viên Hội Nhà văn, tôi vẫn viết như mình đã từng say mê viết, và điều quan trọng là được Văn nghệ Đồng Nai cưu mang nên có thêm động lực để “chờ”. Và cũng nhờ thế tôi đã viết được hai cuốn sách về văn chương Đồng Nai.

Văn chương Đồng Nai hôm nay có nhiều nhà văn nhà thơ viết hay và chuyên nghiệp Đó là các nhà văn nhà thơ  Hoàng Ngọc Điệp, Đào Sỹ Quang, Dương Đức Khánh, Hạnh Vân…và tôi nghĩ rằng, các bạn cần khẳng định mình bằng tác phẩm trước công luận, điều đó mới quan trọng.

12 ĐH 5

KHUÔN MẶT VĂN CHƯƠNG ĐỒNG NAI

Trong 40 năm qua, nhiều nhà văn nhà thơ của Văn nghệ Đồng Nai để lại trong tôi những cảm tình sâu sắc và ảnh hưởng nhiều đến suy nghĩ và sáng tác của tôi.

Sinh thời, có lần nhà văn Hoàng Văn Bổn nói với tôi, lúc nào cần tư liệu để viết, Thuấn cứ đến nhà tôi, tôi có thể giúp. Lúc ấy tôi đã hứa với ông là sẽ viết về sự nghiệp văn chương của ông. Lời hứa ấy làm tôi nặng lòng mãi, đến nay vẫn chưa thực hiện được trọn vẹn. Nét trầm tư trên khuôn mặt ông theo tôi mãi. Nhà văn Hoàng Văn Bổn cho tôi bài học về sự cần cù sáng tạo, bài học về mối quan hệ với nhân dân, với đất nước và con người quê hương, và đặc biệt là bài học về mục đích viết văn. Ở Đồng Nai chưa có nhà văn trẻ nào theo được bước chân sáng tạo của Hoàng Văn Bổn.

Tôi đã đọc được nhiều tác phẩm của nhà văn Lý Văn Sâm và định viết một công trình về văn chương của ông, nhưng đến nay công trình ấy vẫn chưa thực hiện được, thành ra những ấp ủ vẫn canh cánh bên lòng. Lý Văn Sâm là nhà văn tài hoa với đúng nghĩa của từ này, dù ông là chiến sĩ cách mạng hoạt động trong lằn tên mũi đạn của kẻ thù. Tôi cũng chưa gặp được chất tài hoa Lý Văn Sâm ở những cây bút trẻ văn chương Đồng Nai hiện nay.

Nhà văn Khôi Vũ năm nay đã bước vào tuổi 70, vào Hội VHNT Đồng Nai 1983. Ông đã in hơn 60 cuốn và vẫn đang nỗ lực viết những tác phẩm tâm huyết của đời mình (*). Đàn Ống Tre Bên Kia Sông (2013) và Khí Phách Biên Hùng (2019) của Khôi Vũ là những cuốn sách đặc sắc viết về con người Đồng Nai. Thực ra, bối cảnh, nhân vật và chất liệu văn chương của Khôi Vũ là đất nước, con người Đồng Nai đương đại. Khôi Vũ là nhà văn thời sự, và thế sự, ông bám sát hiện thực đời sống sau 1975. Khôi Vũ cũng hoạt động văn học sôi nổi. Ông từng thực hiện tập san Dưới mái trường, tự mình đến từng trường học giới thiệu, và có lúc in đến 10 ngàn bản mỗi số. Ông cũng gắn bó với các Trại sáng tác Thơ Văn Tuổi học trò do Nhà Thiếu nhi Đồng Nai tổ chức. Ông tỏ ra rất hạnh phúc trước mỗi nụ hoa văn thơ tuổi học trò chớm nở, niềm hạnh phúc ấy tiếp thêm lửa cho ông, và tôi có cảm giác ông vẫn đang viết rất sung sức.

Nhà thơ Lê Thanh Xuân cũng đã vào tuổi 72. Ông vào Hội VHNT Đồng Nai năm 1982 và đã in nhiều tập thơ. Thơ của ông đặc sắc ở tứ thơ mới lạ, phóng khoáng và giàu sáng tạo, dù rằng ông vẫn làm thơ “truyền thống”. Ông bộc trực, thẳng thắn và sống nghĩa tình (nhưng không tránh được những va chạm, có khi gay gắt). Ông có một tập thơ riêng viết về người thân và bạn bè, nhiều bài có những tứ thơ rất đẹp và rất sâu sắc. Nói chuyện với Lê Thanh Xuân, tôi kinh ngạc về sự tinh tế trong cách đọc văn chương của ông và vốn hiểu biết rất sâu rộng về đời sống văn chương Việt đương đại. Nói về một tác giả nào đó, dù chỉ nói ngắn gọn, nhưng ông nắm được cái hồn cốt và thực lực ngòi bút của người ấy. Có lúc tôi lấy làm tiếc sao ông không viết cái “vốn sống” văn chương của ông để làm tư liệu cho đời sau?

Những nhà văn lão thành khác như Trần Thúc Hà, Huyền Tùng, Trương Thanh Phận…đều để lại trong tôi nhiều thiện cảm văn chương bởi sự say mê và nỗ lực không ngừng trong hoạt động sáng tạo âm thầm. Năm 2018, truyện ngắn Người cận vệ của vua Hàm Nghi của Trần Thúc Hà được chọn trong 10 truyện ngắn hay của báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam. Điều ấy là một điểm son của văn chương Đồng Nai. Văn chương Đồng Nai đã có nhiều điểm son như thế, đó là những tác phẩm đạt giải của Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, đạt giải của Hội Nhà Văn Việt Nam.

Một điểm son khác là trong những năm gần đây, nhà văn Đồng Nai in tác phẩm liên tục. Văn chương Đồng Nai vẫn đang hồi sung sức. Sôi nổi ra sách là các nhà văn Khôi Vũ, Nguyễn Trí, Hoàng Ngọc Điệp, Phạm Thanh Quang, Bùi Quang Tú, Dương Đức Khánh, Đào sỹ Quang, Hoàng Đình Nguyễn, Dương Thị Thu Hường, Trâm Oanh, các nhà thơ Lê Thanh Xuân, Đàm Chu Văn, Nguyễn Đức Phước, Đỗ Minh Dương, Đào Trọng Thử, Minh Hạ, …

Giải Trịnh Hoài Đức III

NHỮNG NỖI LO VẪN CÒN ĐÓ

Nỗi lo lớn nhất của văn chương Đồng Nai vẫn là thiếu một đội ngũ kế thừa vừa tâm huyết, vừa tài năng. Những khuôn mặt trẻ đã xuất hiện song họ chưa tự định vị được một cá tính sáng tạo giàu chất thẩm mỹ trước công chúng văn chương.  Ngòi bút của họ chưa vượt qua được sân chơi của văn chương phong trào. Và như thế, còn lâu nữa văn chương Đồng Nai mới lại có một mùa hoa trái như những mùa vàng đã qua.

Và có lẽ điều nặng lòng với mỗi nhà văn là làm sao viết được tác phẩm đỉnh cao về tư tưởng và nghệ thuật. Sau những tác phẩm sử thi đồ sộ của cố nhà văn Hoàng Văn Bổn, chưa tác giả đồng Nai nào dồn hết tâm sức mình cho những tác phẩm lớn như thế (như thể M. Sôlôkhốp viết Sông Đông êm đềm). Điều này là nỗi thao thức chung của cả nền văn học. Và người ta thường tự an ủi rằng, trong lãnh vực sáng tạo, tài năng là của hiếm. Rằng còn cần phải kiên nhẫn chờ. Vì rằng, đã qua thời của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, cũng đã qua thời của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường…Những cây bút trẻ nay đã không còn trẻ nữa (Nguyễn Ngọc Tư, Phong Điệp, Dương Thụy, Nguyễn Một, Trần Thu Hằng…). Cũng đã qua thời quyết liệt cách tân thơ Việt đầu thế kỳ XXI (Thanh Thảo, Nguyễn Quang Thiều, Vũ Trọng Quang, Trần Quang Quý, Văn Cầm Hải, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Hữu Hồng Minh…). Tìm ra được con đường mới cho văn chương, khám phá ra được một kiểu tư duy nghệ thuật mới để cách tân văn chương là điều không dễ dàng. Có lẽ có một quy luật này, chỉ trong những hoàn cảnh khốc liệt của cuộc sống, tài năng mới được khẳng định (?).

Hội VHNT đã có rất nhiều nỗ lực chăm lo thế hệ trẻ, đã tạo nhiều điều kiện (trong khả năng) để nhà văn Đồng Nai phát huy tài năng, và Ủy ban Nhân dân Tỉnh Đồng Nai đã trao giải Trịnh Hoài Đức để vinh danh văn nghệ sĩ Đồng Nai,…điều còn lại là nỗ lực sáng tạo của người cầm bút. Tương lai của văn chương Đồng Nai thế nào? Câu hỏi ấy do chính nhà văn Đồng Nai tự trả lời. Khi nhiệt tình và tâm huyết với văn chương vẫn sung sức như nhà văn Đồng Nai hôm nay, chúng ta có quyền hy vọng.

Tháng 11. 2019

____________________

(*) Ghi chú:

Nhà văn Khôi Vũ-Nguyễn Thái Hải cho biết: Ngoài tập Đàn ống tre bên kia sông, tôi đã in Bên kia dãy điệp vàng gồm các truyện về công nhân ĐN, Nhớ Biên Hòa là hồi ức vế BH. Gần đây là Theo dòng chảy Đồng Nai hơn 400 trang, Bầy nai tung tăng trên đồng cỏ (Thiếu nhi 4 tập), Khí phách Biên Hùng (vừa xong). Hiện nay tôi còn bộ Sông Luộc ở phương Nam 900 trang đang chờ in, một tập truyện về công nhân cũng đang chờ in. Tôi đã viết được nửa quyển TT về nhà văn Lý Văn Sâm. Nửa quyển tiểu thuyết về người Chơ Ro

 

NHÀ VĂN ĐỒNG NAI

 

 

 

NHÀ VĂN ĐỒNG NAI – MỘT THẾ HỆ MỚI

Bùi Công Thuấn

 

Nhà Văn Đồng Nai 3

 

Ban Văn học – Hội VHNT Đồng Nai có 75 tác giả (năm 2017), trong đó có 14 Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Trong chuyên luận này, tôi tập chú vào các nhà văn hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ở Đồng Nai. Những tác giả khác tôi cũng đã viết về họ trong cuốn Hoa đỏ bên sông (Nxb HNV. 2014). Tôi thực hiện cuốn sách này như một đóng góp nhỏ hướng đến kỷ niệm 40 năm thành lập Hội VHNT Đồng Nai (1979-2019)

HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐỒNG NAI

Hội Văn học – nghệ thuật Đồng Nai được thành lập ngày 22-12-1979 tại Biên Hòa. Chủ tịch Hội đầu tiên là nhà văn Lý Văn Sâm. Năm 1980, nhà văn Hoàng Văn Bổn từ Xưởng phim Quân đội nhân dân chuyển về làm Phó chủ tịch Hội kiêm Tổng biên tập báo Văn nghệ Đồng Nai. Từ đó đến nay đã gần 40 năm, Hội đã đạt được nhiều thành tựu về các hoạt động văn học nghệ thuật.

Hoạt động chính của Hội VHNT địa phương là hoạt động phong trào. Hội quy tụ những người cầm bút để sáng tác, thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Phẩm chất chính trị là tiêu chí hàng đầu của hoạt động Văn nghệ phong trào.

Đây là hoạt động của Ban văn học Hội VHNT Đồng Nai năm 2017: “Theo thống kê, năm 2017, hội viên Ban Văn học đã tham gia 4 trại sáng tác và nhiều sự kiện, hội thảo do Hội VHNT Đồng Nai tổ chức; với hàng trăm sáng tác và góp mặt trong một số tuyển tác phẩm in ấn, xuất bản năm 2017. Có 11 tập sách cá nhân được xuất bản, và trên 40 tác phẩm được in ấn trên các báo, tạp chí chuyên ngành Trung ương; cùng nhiều giải thưởng Trung ương và địa phương. Năm 2017, Ban Văn học kết nạp 03 hội viên mới, và có 01 hội viên được kết nạp Hội Nhà văn Việt Nam (nhà thơ Nguyễn Đức Phước)…”[1].

Văn kiện Đại hội lần thứ V-Hội VHNT Đồng Nai đánh giá về hoạt động Văn học: “…trong 5 năm qua, Ban Văn học đã thể hiện rõ khả năng và trách nhiệm của một ban chủ lực, luôn chủ động công việc…xúc tiến tổ chức các trại sáng tác,, các buổi hội thảo, tọa đàm, giao lưu tác phẩm, mở lớp bồi dưỡng kỹ năng sáng tác…Đã có 118 giải thưởng trong các cuộc thi văn học nghệ thuật trung ương và địa phương được trao cho các tác giả hội viên Ban Văn học. Số đầu sách xuất bản trong nhiệm kỳ là 52 cuốn. Đã có 217 tác phẩm hội viên Ban Văn học được giới thiệu trên các báo và tạp chí trung ương, địa phương trong 5 năm qua

Phương hướng, nhiệm vụ năm 2018 của Hội VHNT Đồng Nai tập trung vào các nhiệm vụ sau: “Tập trung thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao trong năm 2018, nâng cao chất lượng hoạt động và sáng tác nhằm phục vụ cho đời sống tinh thần của người dân trong tỉnh, tập trung các đề tài: Cuộc vận động sáng tác “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, 320 năm Biên Hòa-Đồng Nai hình thành và phát triển; các đề tài công nghiệp và công nhân lao độngh, bảo vệ chủ quyền-biển đảo,hướng đến những ngày lễ lớn của đất nước và tỉnh Đồng Nai trong năm 2018”

[Báo cáo số 25/BC-VHNT, ngày 15 tháng 12 năm 2017 của NS Nguyễn Khánh Hòa, Chủ tịch Hội VHNT Đồng Nai, gửi Thường trực Tỉnh ủy, UBND Tỉnh Đồng Nai và các Sở, Ban, Ngành có liên quan cùng các hội viên]

Nhà văn phong trào bộc lộ tâm tình: “Hội VHNT đặc biệt là Ban Văn học đóng vai trò kêu gọi, thúc giục tạo nên chất men sáng tạo cho anh chị em trong Ban văn. Mỗi lần cần có chương trình sáng tác, thực hiện sách để phục vụ nhiệm vụ chính trị hoặc tổ chức các trại sáng tác, tổ chức đi thực tế, văn phòng Hội và Ban văn học đã cố gắng rất nhiều. Bản thân tôi mới được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam, rất hào hứng phấn khởi và luôn phải tự vượt lên chính mình để hoàn thành yêu cầu của tổ chức. Có những đề tài không phải sở trường như viết về công nghiệp, nông nghiệp nhưng nhờ bản thân cố gắng và sự động viên của Ban tổ chức, của bạn bè tôi đã thực hiện được.

Thông qua các hoạt động anh chị em chúng tôi đã có sự thông cảm, chia sẻ, gắn kết dần dần nâng chất lượng sáng tác lên. Là một người viết từ những năm tháng tuổi trẻ, nay ở tuổi xế chiều vẫn sôi nổi tham gia các phong trào đối với tôi là một điều hạnh phúc.”

[Nhà văn Bùi Quang Tú: http://hvhnt.dongnai.gov.vn/Pages/newsdetail.aspx?NewsId=946&CatId=79]

Theo lời của nhà văn Bùi Quang Tú, nhà văn phong trào viết để “hoàn thành yêu cầu của tổ chức” là chính, tức là thực hiện nhiệm vụ chính trị, không bận tâm đến chất lượng nghệ thuật: “Có những đề tài không phải sở trường như viết về công nghiệp, nông nghiệp nhưng nhờ bản thân cố gắng và sự động viên của Ban tổ chức, của bạn bè tôi đã thực hiện được.”

Nhà văn chuyên nghiệp thì khác. Ngoài phẩm chất chính trị (như Điều lệ Hội Nhà Văn Việt Nam quy định), họ còn phải sáng tác những tác phẩm đạt đỉnh cao về tư tưởng và nghệ thuật, góp phần xây dựng một “nền văn học, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân” (Nghị quyết 23-NQ/TW).

Sự phát triển của một nền văn học, ngoài việc xem xét các phong trào, tôi quan tâm đến sự vận động nội tại của văn chương, đó là sự vận động của tư tưởng và nghệ thuật, là sự xuất hiện gây dấu ấn của các phong cách nghệ thuật. Nhà văn E. Hemingway đạt giải Nobel với cuốn Ông già và biển cả, một cuốn tiểu thuyết rất mỏng, có cốt truyện đơn gian, nhân vật chính là ông già đánh cá. Điều gì làm nên giá trị của tác phẩm? Chính là tư tưởng và nghệ thuật, không phải ở nội dung phản ánh hiện thực. Khôi Vũ tự đánh giá văn chương của mình: “Nhiều năm sau đọc lại, tôi nhìn ra chất “kể” nhiều hơn chất “tả” trong sách, phần “truyện” nổi rõ hơn phần “tư tưởng”. Mà như thế, gọi là “tiểu thuyết” có lẽ đã thậm xưng!”(Con ếch ngắm trăng). Trong 40 năm phát triển của văn chương Đồng Nai, Nhà văn nào có đóng góp về tư tưởng và nghệ thuật vào sự phát triển của văn học Việt Nam đương đại?

MỘT THẾ HỆ MỚI

 Tôi gọi thế hệ cầm bút sau thế hệ nhà văn kháng chiến như Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn là một thế hệ mới. Chẳng hạn, nhà văn Khôi Vũ-Nguyễn Thái Hải, tuy thành danh từ trước 1975 với 7 đầu sách Tuổi Hoa đã in, nhưng sau 1975 việc sáng tác của anh bị ngưng lại. Mãi tới 1981 anh mới in được truyện “Trạm xá ngoại thành” trên Văn nghệ Tp HCM. Năm 1982 Khôi Vũ đi học lớp bồi dưỡng viết văn trẻ cùng với Phạm Thanh Quang (bộ đội), Đàm Chu Văn (bộ đội) là những nhà văn rường cột của Hội VHNT Đồng Nai hôm nay.

Nhà văn hội viên Hội Nhà văn Việt Nam sinh họat ở Hội VHNT Đồng Nai hiện nay (2018) gồm có: Khôi Vũ-Nguyễn Thái Hải (vào HNV 1990), Đàm Chu Văn (1999), Trần Ngọc Tuấn (2001), Phạm Thanh Quang (2002), Lê Đăng Kháng (2002), Lê Thanh Xuân (2003), Nguyễn Một (2006), Trần Thu Hằng (2011), Bùi Công Thuấn (2015). Bùi Quang Tú (2015), Nguyễn Trí (2016), Đỗ Minh Dương (2017), Nguyễn Đức Phước (2018). Nhà văn Nguyễn Đức Ánh (2001) mới chuyển đến.

Các nhà văn Đồng Nai được kết nạp Hội Nhà văn Việt Nam từ sau đổi mới 1986. Họ khác biệt với thế hệ nhà văn kháng chiến như Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn. Họ xuất thân từ nhiều nguồn, không thuần nhất kiểu Nhà văn-chiến sĩ như văn nghệ kháng chiến. Nội dung tác phẩm không còn là hiện thực kháng chiến chống Mỹ được miêu tả trực tiếp, mà là hiện thực đời thường, bề bộn, tốt xấu lẫn lộn. Họ rời bỏ Chủ nghĩa Hiện thực Xã hội chủ nghĩa, không còn viết anh hùng ca với những nhân vật lý tưởng. Thời họ sống là thời của Kinh tế thị trường (khác với thời bao cấp). Quan điểm văn chương nghệ thuật của Đảng đã đổi mới (Nghị quyết 23-NQ/TW năm 2008 của Bộ Chính trị), cho phép họ thỏa sứ khám phá sáng tạo. Nhưng đồng thời văn chương của họ đã chịu sự chi phối của thị trường. Nhiều nhà văn đã đi hẳn vào văn chương trị trường. Các nhà văn Khôi Vũ, Nguyễn Trí, Nguyễn Một… rất năng động với thị trường…Nhà thơ Trần Ngọc Tuấn in thơ Thiền (Loại thơ này nằm ngoài kế hoạch sáng tác của Hội VHNT Đồng Nai)…

GIẢI THƯỞNG TRỊNH HOÀI ĐỨC

Giải thưởng Trịnh Hoài Đức (Đồng Nai) được tổ chứ 5 năm một lần nhằm biểu dương các tác giả có tác phẩm viết về đất nước, con người Đồng Nai. Mặc dù tiêu chí giải và việc thẩm định tác phẩm của các giám khảo (được mời ở ngoài tỉnh) còn nhiều vấn đề, song kết quả giải thưởng, trong một góc độ nào đó, có thể là “thước đo” thành tựu văn chương Đồng Nai. Rất tiếc Giải thưởng Trịnh Hoài Đức lần thứ IV không có tên nhà văn Khôi Vũ- Nguyễn Thái Hải, một cây bút đã in hơn 50 tác phẩm, không có mặt nhà thơ Lê Thanh Xuân, từng là Trưởng Ban Văn học Hội VHNT Đồng Nai… Nhìn vào danh sách các tác giả Ban Văn học đạt giải trong 4 lần trao giải vừa qua (20 năm), ta có thể thấy được sức viết và sự đóng góp của nhà văn Đồng Nai.

 

Lần I

(2000)

Lần II

(2001-2005)

Lần III

(2006-2010)

Lần IV

(2011-2015)

Hoàng văn Bổn

Lê Bá Ước

Phạm Thanh Quang

Nguyễn Thu Trân

Đàm Chu Văn

Trần Ngọc Tuấn

Đỗ Minh Dương

 

Hoàng Văn Bổn

Khôi Vũ

Trần Thu Hằng

Nguyễn Một

Lê Thanh Xuân

Đàm Chu Văn

Thu Trân

Trần Ngọc Tuấn

H. Đình Nguyễn

Lê Đăng Kháng

Minh Chung

Nguyễn Đức Phước

Nguyên Hùng

 

Trần Thúc Hà

Khôi Vũ

Tấn Hoài

Hoàng Ngọc Điệp

Đàm Chu Văn

Lê Thanh Xuân

Đỗ Minh Dương

Tiêu Thanh Giang Kiều Văn Phẩm

Bùi Quang Huy

Bùi Công Thuấn

 

Trần Thu Hằng Nguyễn Một

Nguyễn Trí

Đào Sỹ Quang

Đỗ Trung Tiến Phương Rong

Hạnh Vân

Đỗ Minh Dương

Trần Ngọc Tuấn

Lê Đăng Kháng

Phan Quang Hợp

H. Đình Nguyễn

Huỳnh Ngọc Ẩn Vũ Đức Hậu

Ng. Xuân Từng

Bùi Công Thuấn

Bùi Quang Huy

 

Các nhà văn đạt giải nhiều lần gồm có: Khôi Vũ (2), Trần Thu Hằng (2), Nguyễn Một (2), Lê Thanh Xuân (2), Đàm Chu Văn (3), Trần Ngọc Tuấn (3), Đỗ Minh Dương (3), Lê Đăng Kháng (2), Bùi Công Thuấn (2), Bùi Quang Huy (2), Thu Trân (2). Rõ ràng đây là đội ngũ nòng cốt, sung sức và có những đóng góp nhất định làm nên bộ mặt văn chương Đồng Nai trong gần 30 năm qua. Nhà văn Nguyễn Trí được kết nạp Hội Nhà văn Việt Nam 2016 là một sự xuất hiện có tính đột phá.

Trong Ban Văn học thuộc Hội VHNT Đồng Nai còn nhiều tác giả có quá trình sáng tác dày dặn như: Hoàng Ngọc Điệp, Nguyễn Hoài Nhơn, Đào Trọng Thử, Trần Thúc Hà, Trương Thanh Phận, và những tác giả trẻ triển vọng như Đào Sỹ Quang, Dương Đức Khánh, Hạnh Vân, Phương Rong… Tác phẩm của họ ít nhiều đã ghi được dấu ấn trên văn đàn, tuy nhiên, họ cần có được những tác phẩm đột phá về nghệ thuật và nội dung để khẳng định tài năng văn chương của mình.

NHÀ VĂN ĐỒNG NAI VIẾT NHỮNG GÌ?

Xin quan sát tác phẩm của những nhà văn tiêu biểu (ghi nhận chưa đầy đủ)

KHÔI VŨ

Sách viết với bút danh Khôi Vũ:

  1.  Già lửa (Tập truyện ngắn–1986), 2. Chuyện ở dãy phố năm căn (Truyện vừa– 1987), 3. Người có một thời (Tiểu thuyết–1988), 4. Giữa dòng đời (Tiểu thuyế –1989), 5. Lời nguyền hai trăm năm (Tiểu thuyết–1989), 6. Dòng sữa cây nước mắt (Tiểu thuyết–1990), 7. Mặt trời của riêng ai? (Tiểu thuyết–1990), 8. Triệu phú (Tiểu thuyết -1992), 9. Ngọn lửa âm thầm (Tiểu thuyết–1993), 10. Tri thiên mệnh (Tập truyện ngắn – 2001), 11. Bên kia dãy điệp vàng (Tập truyện ngắn–2003), 12. Bay với đôi tay trần (Tiểu thuyết–2004), 13. Cái bóng (Tiểu thuyết–2005, 14. Những người nuôi lửa (Tiểu thuyết -2005), 15. Nhớ Biên Hòa (Hồi ức & Truyện ký-2005), 16. Phía sau một khách sạn (Truyện vừa-2006), 17. Vỡ dần trong mắt (Tiểu thuyết-2009), 18.  Ám ảnh đất Bazan (Tiểu thuyết-2009), 19. Phù phiếm bên biển (Tập truyện ngắn-2010), 20. Đàn ống tre bên kia sông (Tập truyện ngắn–2012), 21. Bến đời mơ thực (Tiểu thuyết 2016)…

Sách thiếu nhi viết với bút danh Nguyễn Thái Hải:

  1. Hoa tầm gởi (Truyện vừa-1970), 2. Chiếc lá thuộc bài(Truyện vừa-1971), 3. Ngoài cửa sổ (Truyện vừa-1971), 4. Mùa sương mù (Truyện vừa-1971), 5. Tiếng hát vành khuyên (Truyện vừa-1972), 6. Xóm nhỏ (Truyện vừa-1972), 7. Nhóm lửa (Truyện vừa-1973), 8. Con dốc cổng trường (Truyện vừa-1975), 9. Bên bóng Thái sơn (Truyện vừa–1989), 10. Thằng đầu bò (Tập truyện ngắn–1989), 11. Ba chàng thám tử (Truyện vừa–1992), 12. Cha con ông Mắt Mèo (Truyện vừa–1993), 13. Những trái sao xoay (Truyện vừa–1993, 14. Những ông tướng nhà trời (Truyện vừa–2002), 15. Chú bé phiêu lưu (Tập truyện ngắn–2002), 16. Thằng heo sữa (Truyện vừa–2003), 17. Cánh chuồn kim biếc (Truyện dài 3 tập–2004), 18. Cây trứng cá gãy ngọn (Truyện vừa- 2006), 19. Sao chim không hót (Tập truyện-2011), 20. Mơ làm thủ lĩnh (Truyện vừa – 2011), 21. Một ngày hè ở biển (Tập truyện-2012)…

NGUYỄN MỘT

Tác phẩm cho thiếu nhi – bút danh Dạ Thảo Linh:

Hoa dủ dẻ (Tập truyện – 1997), Năm đứa trẻ xóm đồi (Truyện dài – 1999), Ngũ

 hổ tướng (Truyện dài – 2000), Màu hoa trắng (Truyện ký –2001), Long lanh giọt nắng (Truyện dài–2003), Mùa trái chín (Truyện vừa –2004)…

Bút danh Nguyễn Một

Tha Hương (Tập truyện ngắn –1996), Vũ Điệu trên đỉnh Kung Pô (Tập truyện

ngắn –2001), Quà của đất (Tập bút ký –2002), Như là cổ tích (Tập truyện ngắn – 2005), Giữa đời thường (Tập bút ký –2005), Dòng sông độ lượng (Tập bút ký – 2008), Đất trời vần vũ (Tiểu thuyết – 2009), Ngược mặt trời (Tiểu thuyết -2012), Câu chuyện bên một dòng sông – Phim tài liệu VTC9 2009 (kich bản, lời bình và đạo diễn)

Hành trình ước mơ (kịch bản phim tài liệu), Người Việt tử tế (Bút ký-viết chung với Lê Thanh Phong-2017)…

LÊ ĐĂNG KHÁNG

Các tác phẩm đã in: Sương sớm (tập truyện ngắn), Đến hẹn (thơ-2004), Tiếng chim mắc nợ (thơ-1992), Hoa cúc ổi (tiểu thuyết-2006), Quả ngọt (thơ và trường ca -2014), Kẻ đánh thuế đời mình (tập truyện-1997), Vầng trăng nơi thiên đường (tiểu thuyết-1991), Vùng sáng trước mặt (tập truyện- 2002), Thiếu phụ cùng băng ghế (tập truyện-2016)…

PHẠM THANH QUANG

Đã in: Tình yêu thuở ấy (Tập truyện ngắn-1993), Trước dòng xoáy cuộc đời (tiểu thuyết-1995), Sương khói quê nhà (Tập thơ-1999), Địa linh (Tập truyện ngắn -2001), Khoảng lặng không gian (Tập thơ-2002), Lạc giữa hành tinh (truyện thiếu nhi- 2003), Tìm lại mỹ nhân (tập truyện-2004), Tình yêu màu lính (2017)…

NGUYỄN TRÍ

Đã in: Bãi vàng. Đá quý. Trầm hương (Tập truyện-2013), Đồ tể (tập truyện-2014), Thiên đường ảo vọng (Tiểu thuyết-2015), Ảo và sợ (Tập truyện-2016), Tuổi thơ không cánh diều (2016), Ngoi lên từ đáy (2016), Bay cao thì mặc bay cao (2016), Ngụy (Tập truyện-2017), Bụi đời và thục nữ (Tiểu thuyết-2017), Trí Khùng tự truyện (Hồi ký-2017), Khùng (Tập truyện-2017)…

TRẦN THU HẰNG: Chuyến tàu ước mơ (tập truyện thiếu nhi-2004), Đàn đáy (tiểu thuyết, 2005), Cơn lũ, ốc sên và hoa hồng (Truyện vừa, 2005), Chàng thợ gốm (tập truyện thiếu nhi-2005), Rừng thiêng vẫy gọi (Tiểu thuyết, 2006), Trăng khuyết (Tập truyện ngắn, 2006), Người đàn bà lưu vong (Tiểu thuyết, 2008), Thần đồng và cuộc chiến bảo vệ Thủy Tháp (Truyện khoa học viễn tưởng, 2010), Chuyện tình ở Hầm Hinh (Tiểu thuyết, 2015)…

ĐỖ MINH DƯƠNG

Các tập thơ đã in: Thư tình để ngỏ (thơ-1990), Chạnh lòng (thơ-1997), Tình yêu và định mệnh (thơ-2001), Hành trình lục bát (thơ-2003), Với miền đất đỏ (thơ-2007), Đợi chờ bình minh em (tập thơ-2009), Đồng dao cho mình (thơ-2013), Lục bát dọc đường (tập thơ-2014)…

LÊ THANH XUÂN

Các tập thơ đã in: Niềm vui tặng mẹ (thơ thiếu nhi in chung- 1978), Trăng qua nhà (1989), Tiếng ru đêm (2000), Đồng Hành (2001), Âm điệu quê hương (2003), Trong vườn (tập thơ thiếu nhi – 2003), Khoảng cách thời gian (2006), Hồn đá (2006), Thơ Lê Thanh Xuân (tuyển tâp- 2015), Tặng và nhớ (2018)…

TRẦN NGỌC TUẤN: Các tập thơ đã in: Giác quan biển (1994), Giữa cỏ (1996), Chân chim hóa thạch (1998), Con mắt dã quỳ (2000), Gửi dòng sông Đồng Nai (2004), Suối reo (2006), Hiện hữu (2013)…

ĐÀM CHU VĂN:

Tác phẩm đã in: Dòng sông ngại chảy (Tập thơ-1998). Tiếng Mùa (Tập thơ-2003), Ký ức tháng tư (tập ký-2003), Trong màu lá cây rừng (tập truyện ký-2004), Cào cào giã gạo (tập thơ thiếu nhi-2005), Hai Phía thời gian (tập thơ- 2009), Giấc rừng (Tập thơ-2014)…

NGUYỄN ĐỨC PHƯỚC

Sông Thiêng (Tập thơ-2000), Đêm khát (tập thơ-2008)…

Với trên 53 cuốn sách đã in (tính đến 2017) trong đó có nhiều tiểu thuyết, nhiều bộ truyện cho thiếu nhi, nhà văn Khôi Vũ-Nguyễn Thái Hải đã có một sự nghiệp văn chương đồ sộ. Anh vẫn đang nỗ lực hoàn thành những bộ sử thi khi anh bước vào tuổi 70 (2020). Ở thể loại nào anh cũng có những thành tựu. Tiểu thuyết Lời nguyền hai trăm năm với cấu trúc hai tuyến song song có bóng dáng sử thi, đến nay vẫn được đánh giá cao về nghệ thuật tiểu thuyết so với tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Nguyễn Thái Hải đặc biệt thành công ở truyện viết cho thiếu nhi. Truyện thiếu nhi của anh hấp dẫn và giàu giá trị giáo dục. Anh có nhiều truyện trinh thám thiếu nhi mà người lớn đọc vẫn thích thú. Truyện ngắn Khôi Vũ mang hơi thở thời sự nhưng vẫn vươn lên tính tư tưởng. Khôi Vũ viết rất nhanh, có một “tứ” là anh có thể viết thành một truyện thú vị. Chuyến đi Singapore ngắn ngủi nhưng anh đã viết được 9 truyện ngắn, tiền nhuận bút dư đủ cho cả chuyến đi. Già Lửa, Chuyện ở dãy phố năm cănĐàn ống tre bên kia sông là những tập truyện viết trực tiếp về con người, đất nước Đồng Nai, nhưng những tác phẩm khác của Khôi Vũ cũng phản ánh rất rộng không gian, thời gian, đất nước con người Đồng Nai. Nhân vật của Khôi Vũ mang khí chất Đồng Nai, mạnh mẽ, giàu nghĩa tình. Trang văn của anh đẹp và giàu tình người.

Hai nhà văn Lê Đăng Kháng và Phạm Thanh Quang từng là người lính thời kháng chiến chống Mỹ. Văn của các anh đậm chất lính. Phạm Thanh Quang từng bị “tai nạn nghề nghiệp” vì một truyện trong tập truyện Địa linh (2001). Cả hai đều in các tập thơ. Tập thơ Quả ngọt của Lê Đăng Kháng được giải Trịnh Hoài Đức lần thứ IV (2011-2015).

Nhà văn Nguyễn Trí xuất hiện và tự khẳng định bằng giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2013 và rất nhanh sau đó, anh được kết nạp Hội Nhà văn Việt Nam 2016. Tiểu sử của anh gây sửng sốt văn đàn. Năm 1975, Nguyễn Trí mới học lớp 10. Gia đình phân tán, anh vào Đồng Nai mưu sinh khi mới 17 tuổi. Anh đã lăn qua đủ thứ nghề: Nghề nấu rượu, nghề nhảy tàu, nghề đi tìm vàng, khai thác đá quí, trầm hương, nghề chặt củi, đốt than, xe ôm… Ấn tượng sâu đậm nhất với anh là nghề đồ tể và nghề dạy Anh văn (chính xác là dạy tiếng Anh “bồi”). Tác phẩm của anh được viết từ chất liệu của chính cuộc đời anh. Hiện đang là “thời” của anh, mỗi nhà văn đều có “thời” của mình. Anh liên tục in tác phẩm. Năm 2017 anh đã in 4 cuốn.

Tôi chú ý đến hai “nhà văn trẻ” mà tác phẩm của họ có nhiều yếu tố cách tân của tiểu thuyết Việt. Đó là Nguyễn Một và Trần Thu Hằng. Nhà văn Nguyễn Một khẳng định tài năng viết tiểu thuyết với tác phẩm Đất trời vần vũ. Đến tiểu thuyết Ngược mặt trời, Nguyễn Một thực sự cách tân cách viết. Anh gọi tiểu thuyết của anh là “tiểu thuyết rời rạc”. Anh phối hợp nhiều kiểu bút pháp của tiểu thuyết đương đại, phối hợp thể loại. Có cả một vở kịch trong tác phẩm. Nguyễn Một thực sự thử thách bản lĩnh ngòi bút khi viết về những vấn đề nóng của lịch sử và thời đại như vấn đề đạo Công giáo ở Việt Nam, về chiến tranh. Dù vậy anh vẫn có những trang văn lãng mạn rất đẹp.

Trần Thu Hằng khẳng định tài năng văn chương ở tiểu thuyết lịch sử và cách mạng (Chuyện tình ở Hầm Hinh). So với Khôi Vũ và Nguyễn Một, Trần Thu Hằng đã mở rộng biên độ thời gian và không gian hơn, đề cập trực tiếp những vấn đề lịch sử và cách mạng ở Đồng Nai hơn. Trần Thu Hằng đặc biệt xây dựng được nhân vật người phụ nữ bản lĩnh trong những hoàn cảnh khốc kiệt của đời sống. Tiểu thuyết của Trần Thu Hằng hấp dẫn từ trang đầu đến trang cuối. Ngôn ngữ văn chương của Trần Thu Hằng giàu phẩm chất trí thức và chất văn chương.

Về các nhà thơ, Tôi chú ý thơ Thiền của Trần Ngọc Tuấn. Trần Ngọc Tuấn chọn loại thơ này quả là một thách đố tư tưởng và tài năng, hơn thế bằng cả đời hành Thiền của mình. Nhà thơ không thể viết thơ Thiền khi không thông hiểu kinh Phật. Phật giáo có hàng trăm bộ kinh, bộ nào cũng khó đọc: kinh Chuyển pháp luân, kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa, kinh Kim Cang, kinh Pháp hoa, kinh Lăng nghiêm, kinh Tạp A Hàm, Trung A Hàm, Trường A Hàm, kinh Pháp cú…Nhưng là một nhà thơ, Trần Ngọc Tuấn phải chuyển hóa tư tưởng Phật thành tứ thơ, và tứ thơ ấy chỉ nở hoa bằng trải nghiệm Thiền và giác ngộ Thiền của chính tác giả. Tư tưởng Thiền đã trở thành tư tưởng thẩm mỹ từ thơ Thiền Lý-Trần. Tư tưởng ấy cũng sâu đậm trong thơ Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều. Thơ Thiền đương đại chỉ có Phạm Thiên Thư và Trần Ngọc Tuấn. Trong khi các nhà thơ trẻ hăm hở thể nghiệm thơ Hậu hiện đại thì Trần Ngọc Tuấn lại trở về nguồn và có những đóng góp mới. Đó chính là tài năng và bản lĩnh sáng tạo.

Các nhà thơ Đàm Chu Văn, Lê Đăng Kháng, Đỗ Minh Dương, Lê Thanh Xuân vẫn viết bằng bút pháp “truyền thống”. Đàm Chu Văn có thế mạnh ở những bài thơ viết về đồng đội trong chiến tranh. Đỗ Minh Dương có những bài đồng dao hay. Trường ca của Lê Đăng Kháng có rất nhiều lửa nghệ thuật. Thơ Lê Thanh Xuân có nhiều tứ hay và mới lạ. Tôi đọc tuyển tập 150 bài thơ của Lê Thanh Xuân và nhận ra phẩm chất “thi sĩ” của anh vượt trội ở sự sáng tạo nhiều tứ thơ tài hoa và phóng khoáng. Những nơi anh qua, những nơi anh đã sống đều hiện lên rất đẹp, rất đặc sắc và rất thơ theo góc nhìn riêng của anh. Lê Thanh Xuân cũng có những bài đi một lối khác với thơ truyền thống, đó là loại thơ truyền thống-hiện đại, tuy anh không nói đến cách tân. Dòng chảy “truyền thống-hiện đại” là dòng chảy chính của thơ Việt sau những nỗ lực của nhiều nhà thơ muốn cách tân thơ từ sau đổi mới (1986).

Thơ của Nguyễn Đức Phước, Hạnh Vân (tác giả đạt giải Trịnh Hoài Đức lần thứ IV cả thơ và văn, chưa là hội viên Hội Nhà văn) nằm trong trường “thơ trẻ” đầu thế kỷ XXI với kiểu tư duy, kiểu ngôn ngữ mới. Tuy nhiên, hai tác giả này đi sau Nguyễn Quang Thiều, Thanh Thảo, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lê Vĩnh Tài, Ly Hoàng Ly, Vy Thùy Linh…nên không gây được sự chú ý trên văn đàn.

MAI SAU…

40 năm qua, Hội VHNT Đồng Nai đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Các hoạt động VHNT sôi nổi, số hội viên được kết nạp thêm nhiều. Các văn nghệ sĩ Đồng Nai đạt nhiều giải thưởng của trung ương và của nước ngoài (xin đọc các văn bản tổng kết của Hội). Văn học nghệ thuật Đồng Nai phản ánh được đất nước con người Đồng Nai trong các chặng đường lịch sử và cách mạng, đồng thời tiếp bước các thế hệ cha anh làm giàu thêm văn hóa Đồng Nai. Đó là một thành tựu quan trọng.

Về văn học, thế hệ nhà văn bước ra từ kháng chiến đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nhà văn-chiến sĩ. Đó là cố nhà văn Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn, Nguyễn Đức Thọ và các nhà văn Lê Đăng Kháng, Phạm Thanh Quang, các nhà thơ Lê Thanh Xuân, Đỗ Minh Dương, Đàm Chu Văn…Tác phẩm văn học viết về đề tài cách mạng và kháng chiến là dòng chảy chính và có những thành tự lớn (tác phẩm của Hoàng Văn Bổn, Lý Văn Sâm). Những nhà văn mặc áo lính cũng bày tỏ những trăn trở về những vấn đề đạo đức, lối sống khi đất nước chuyển sang kinh tế thị trường. Thế hệ này giữ nguyên bút pháp của Chủ nghĩa Hiện thực xã hội chủ nghĩa và thi pháp của văn chương kháng chiến. Nhà văn trẻ Trần Thu Hằng đang tiếp bước dòng chảy này, bước đầu đã có những thành tựu có giá trị khẳng định tài năng. Nhưng cũng thật khó, vì Trần Thu Hằng không có trải nghiệm đời sống kháng chiến phong phú như các nhà văn đi trước. Chuyện tình ở Hầm Hinh của Trần Thu Hằng là một thành công của một cây bút trẻ dồi dào sức sáng tạo.

Văn chương Đồng Nai cũng đã xuất hiện thế hệ nhà văn hướng về thị trường, tác phẩm của họ hòa vào văn chương thị trường. Điều này là tất yếu khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường hội nhập toàn cầu hóa. Đó là các nhà văn Khôi Vũ-Nguyễn Thái Hải, Nguyễn Một, Nguyễn Trí… Các nhà văn này đều có tác phẩm đứng được trong thị trường và có những đóng góp vào sự đổi mới chung của văn chương Việt Nam, như sự thể nghiệm nhiều kiểu bút pháp khác với văn chương “truyền thống”(Họ đã được giải thưởng của Hội Nhà Văn). Tuy nhiên, nếu chỉ hướng vào văn chương thị trường thì văn chương Đồng Nai sẽ khó vượt lên. Trước 1945, nhà văn Lê Văn Trương đã viết 247 cuốn. Vũ Ngọc Phan, trong Nhà văn hiện đại, đã kinh ngạc: “Viết sách mà mỗi tháng cho ra vài quyển, có lẽ từ xưa đến nay ở nước ta mới có Lê Văn Trương là một”. Thế nhưng đến nay, có mấy người nhắc đến ông, bởi ông viết văn chương thị trường, sự tồn tại tác phẩm của ông do thị trường quyết định.

Những nhà văn trẻ như Đào Sỹ Quang, Dương Đức Khánh, Hạnh Vân, Phương Rong…cũng đã khẳng định được tên tuổi trên văn đàn. Họ sẽ là mùa xuân của văn chương Đồng Nai… Người Đồng Nai có quyền chờ đợi và hy vọng.

Trách nhiệm bồi dưỡng thế hệ nhà văn trẻ của Hội VHNT Đồng Nai thật nặng nề…

Tháng 3. 2018

_______________________________

TIỂU THUYẾT KHÔI VŨ

 

 

 

 

TIỂU THUYẾT KHÔI VŨ

Bùi Công Thuấn

 

 KHÔI VŨ-52 tác phẩm

 (52 tác phẩm của nhà văn Khôi Vũ)

 

Bến đời mơ thực (2016) là cuốn sách thứ 53 của nhà văn Khôi Vũ-Nguyễn Thái Hải. Trước đó Khôi Vũ đã in nhiều tiểu thuyết như: Người có một thời (1988), Giữa dòng đời (1989), Lời nguyền hai trăm năm (1989), Dòng sữa cây nước mắt (1990), Mặt trời của riêng ai? (1990), Triệu phú (1992), Ngọn lửa âm thầm (1993), Bay với đôi tay trần (2004), Cái bóng (2005), Những người nuôi lửa (2005), Phía sau một khách sạn (2006), Vỡ dần trong mắt (2009). Và sau 9 năm với 12 lần được bổ sung (15/5/2017), anh đã hoàn thành bản thảo tiểu thuyết Nguồn mạch. Cuốn sách lên đến 133.000 chữ, khoảng 500 trang in. Khôi Vũ cho biết: “Chưa biết có “Nhà” nào chịu in cho, cũng chưa biết hay dở thế nào, nhưng tự thấy hài lòng và hạnh phúc vì đã viết được một cuốn sách… “hết cốt”

  1. TỪ LỜI NGUYỂN HAI TRĂM NĂM ĐẾN BẾN ĐỜI MƠ THỰC.

         Tôi chưa có điều kiện đọc tất cả tiểu thuyết của nhà văn Khôi Vũ nên không thể có một cái nhìn bao quát. Tuy vậy, mỗi cuốn sách hé lộ một khía cạnh nào đó của bút pháp, phong cách và năng lực sáng tạo của tác giả. Tôi chọn Lời Nguyền Hai Trăm năm(1989), Vỡ dần trong mắt (2009) và Bến đời mơ thực (2016) để lần tìm những manh mối.

Trong cuốn Con ếch ngắm trăng (chưa xuất bản nhưng đã công bố một phần), Khôi Vũ cho biết: Trước Tết âm lịch năm 1989, vì ham vui, anh theo chân một phóng viên đài PTTH Đồng Nai đến Bà Rịa Vũng Tàu. Ở Long Hải, Khôi Vũ gặp Hai Sửu, tập đoàn trưởng tập đoàn đánh cá. Hai Sửu có biệt tài lặn xuống biển thăm dò luồng cá, nên được người ta gọi là Vua Biển. Khôi Vũ không ngờ rằng chuyến đi ấy cũng đã “tặng” anh một nguyên mẫu cho nhân vật chính của cuốn Lời nguyền hai trăm năm với hai chi tiết “đắt”: danh xưng Vua Biển và tài lặn xuống biển nghe luồng cá.  Sau Tết âm lịch năm ấy Khôi Vũ được anh Chí Thiện, một phóng viên của báo Tiền Phong (TP HCM) “đặt hàng” qua sự giới thiệu của nhà thơ Cao Xuân Sơn.

Khi viết Lời nguyện hai trăm năm, Khôi Vũ kể: “Tôi chọn Hai Sửu là nguyên mẫu nhân vật chính cuốn sách của mình nhưng đổi tên thành Hai Thìn cho phù hợp với tài lặn biển (như rồng). Tôi chọn bối cảnh là rừng và biển Bình Châu (huyện Xuyên Mộc) vì nơi ấy tôi từng đi thực tế, từng vào rừng nghe bà già người Châu Ro trăm tuổi hát để ghi son-phe mấy bài hát của dân tộc ít người này, có thể đưa bà thành một nhân vật. Vì thế tôi “chuyển” Hai Thìn từ biển Long Hải qua biển Bình Châu và tôi đổi tên nơi đây thành “làng biển Cát”. Ở đây, về phía không gian rừng, tôi tự tin với nhân vật Tòng Út cùng chiếc đàn goong-kala mà tôi gọi là đàn ống tre. Tôi đã từng được tặng một chiếc đàn ống tre và biết sử dụng nó khá thành thạo, thậm chí còn sáng tác được một bài hát mang âm hưởng dân ca từ nó… Cứ thế, ngày qua ngày trong vòng gần ba tháng, tôi viết. Viết với sự hào hứng. “

Lời nguyện hai trăm năm ca ngợi người lao động làm giàu vào cái thời người kinh doanh còn bị gọi là con buôn với tất cả sự đố kỵ. Chủ đề tư tưởng, theo Khôi Vũ, là viết về tính thiện.

Làng biển Cát có ông tổ họ Lê theo Gia Long. Ông phò dưới trướng Lê Văn Duyệt. Khi Gia Long chiến thắng và tiến hành trả thù khắp nơi, họ Lê cũng nguyền trả thù cho gia huynh mình. Họ Lê đã bắt được và giết chết một cách dã man cha con họ Vũ, một viên tướng Tây Sơn. Trước khi bị chém làm hai mảnh, họ Vũ nguyền rằng, dòng họ Lê, “chỉ đến khi tuyệt tự mới hết kẻ ác tâm”. Sau đó hồn họ Vũ đầu thai vào nhà họ Lê để trả thù riêng. Lời nguyền ấy đã ứng nghiệm. Mỗi đời họ Lê muốn có con trai nối dòng đều phải làm một việc ác…Đến đời Hai Xung Phong, sau khi làm ác, y hối hận, từ bỏ gia đình đi tu, đổi tên là Thích Huệ Mẫn. Ông có một con trai, đặt tên là Lê Trung Hiếu.

Hiếu chính là Vua Biển Hai Thìn. Anh sống ở làng biển Cát. Sau giải phóng, anh bị cán bộ điạ phương ép đi kinh tế mới. Nhà cửa của anh bị chiếm đoạt. Một năm sau đó anh xin hồi cư. Lý do anh là dân biển. Anh bị cán bộ điạ phương là Năm Mộc, Sáu Thế, Năm Hường o ép đủ điều. Sau cùng nhờ người dân trung kiên như ông Bảy, bà Cả Mọi và ông Ba Tê, một đảng viên hưu trí đấu tranh mạnh mẽ, Hai Thìn được nhập lại hộ khẩu, làm ăn, trở nên giàu có, được cử làm đại biểu Hội đồng Nhân dân. Anh không có con trai, nhưng anh từ chối làm điều ác theo đề nghị của cha và sự sắp đặt của vợ. Hai Thìn đã yêu vợ nồng nàn trong đêm trước khi anh đi biển. Chuyến đi ấy thuyền Hai Thìn bị sóng thần đánh vỡ. 15 người đi biển chỉ còn Năm Mộc sống sót, 9 người mất tích. Trong đêm yêu đương sau cùng, Hai Thìn đã để laị trong bụng vợ một đưá con. Chị đã sinh một cháu trai, ước mơ tuyệt vời của vua biển.

Trong bản thảo gửi Chí Thiện, Khôi Vũ cho biết, lúc đầu tất cả các nhân vật đều chết. Anh Thiện nói với tôi: ‘Ông cố gắng cho một ai đó sống sót có được không?’. Tôi trả lời để tôi suy nghĩ. Cuối cùng, tôi cho nhân vật Năm Mộc, kẻ đầy tính xấu được sống. Hai Thìn, nhân vật tôi yêu quý, tôi vẫn để cho chết vì anh ta đã có đứa con trai nối dõi. ‘Cái mầm thiện đã có, còn lo gì!’”

Có một khoảng cách rất xa từ chuyến đi Bà Rịa-Vũng Tàu của Khôi Vũ đến việc viết Lời nguyền hai trăm năm. Chỉ có thể giải thích bằng tài năng sáng tạo văn chương. Độc đáo nghệ thuật của Lời nguyền hai trăm năm là cấu trúc hai tuyến truyện song song ngược chiều. Đây là điều mới mẻ so với tiểu thuyết đương thời những năm sau 1975. Tài năng sáng tạo, hư cấu, kết nối mạch truyện từ thời Gia Long qua thời chống Pháp đến những ngày trước đổi mới (1986) chứng tỏ Khôi Vũ là một cây bút có khả năng viết tiểu thuyết sử thi, và là một nhà văn tự khẳng định bản lĩnh trong việc phản ánh hiện thực còn nhiều phức tạp sau 1975. Khôi Vũ cho biết, anh viết với sự hào hứng, nhưng cũng “viết với một… nỗi lo… rằng mình ca ngợi người lao động làm giàu liệu có được chấp nhận không?”.

Rất tiếc, Khôi Vũ còn có hai cuốn tiểu thuyết sử thi bị “đứt mạch” chưa thể viết tiếp. Anh kể: “Mặt trời của riêng ai? (1990) tiểu thuyết sử thi với những nhân vật chính là thanh niên trí thức miền Nam, bắt đầu từ những năm sáu mươi và dừng lại ở tháng 4/1975. Trong ý định thì tôi sẽ viết tiếp số phận của các nhân vật trí thức miền Nam này sau giải phóng. Tập 2 là khoảng thời gian từ sau tháng 4/1975 đến năm 1990, khi Việt Nam đã bước vào đổi mới một thời gian. Tập 3 là thời gian sau 1991. Ý tưởng thì “lớn” như vậy nhưng đáng tiếc cho đến nay tôi vẫn chưa thể “nối mạch” được”.

Khi đã 50 tuổi, Khôi Vũ định tập trung viết một bộ “trường thiên tiểu thuyết”. Truyện kể “về cuộc đời một cô gái mười lăm tuổi từ năm 1954 đến khi trở thành một phụ nữ trên sáu mươi tuổi vào năm 2000, mà sự đau khổ đã khiến toàn bộ mái tóc của bà sớm bạc trắng. Chuyện về cuộc đời của nhân vật này được lồng trong bối cảnh lịch sử của miền Nam đất nước ta: thời đệ nhất Cộng Hòa của tổng thống Ngô Đình Diệm, thời của các tướng lĩnh làm chính trị và thời sau tháng 4/1975. Tôi đặt nhan đề chung cho bộ truyện là “Tóc trắng” và viết theo kiểu chương hồi, trước mỗi chương là một đoạn lời kể của người phụ nữ tóc trắng, tiếp đó mới là phần kể hoặc tả của tác giả theo thứ tự thời gianTrong suy nghĩ của tôi,”Tóc trắng” phải dài ít nhất 3 cuốn, mỗi cuốn khoảng trên dưới 300 trang in, thì việc in ấn không phải dễ. Vì vậy, trước hết phải viết cho xong đã rồi tính gì thì tính…Ba tháng, tôi viết được 100 trang vi tính, hết phần 1. Tiếc là số phận không chiều lòng tôi. Bộ “Tóc trắng” đến tận năm nay, tức mười mấy năm sau, vẫn còn dừng ở ba chữ ‘Hết phần 1’.”(Con ếch ngắm trăng-đd).

Như vậy có thể coi Lời nguyền hai trăm năm là một tiểu thuyết sử thi tiêu biểu của Khôi Vũ. Tác phẩm này tiếp tục dòng chảy sử thi trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975, nhưng với những nguồn mạch mới. Lời nguyền hai trăm năm chảy liền một mạch 200 năm từ thời Gia Long đến trước thời kỳ đổi mới (1986)

Hai mươi năm sau, Khôi Vũ ghi một cột mốc tiểu thuyết khác là tiểu thuyết“Vỡ dần trong mắt. Khôi Vũ “kể chuyện ‘vỡ mộng’ của một anh nhạc sĩ với thủ trưởng của mình, vốn là thần tượng của anh trước đó. Cuốn sách này tôi khai thác hầu như triệt để vốn ‘mổ mắt’ của mình, đặc biệt là ‘cuộc đời’ của cái bọt bóng khí trong mắt từ lúc nó xuất hiện đến khi tan biến. Cái bọt bóng khí trong mắt sau mổ này, tôi tin là chỉ có người nào mổ võng mạc mới có, mới biết chứ khó mà tưởng tượng ra.”(Con ếch ngắm trăng-đd).

Vỡ dần trong mắt cũng có một cấu trúc song song tạo nên tính tư tưởng cuả

truyện. Đó là câu chuyện về sự tan dần cuả bọt bong bóng trong mắt nhân vật Tôi, và mức độ trầm trọng ngày càng tăng lên đối với số phận anh Trần. Hai cấu trúc này gặp nhau ở cuối truyện. Khi bọt bóng tan, Tôi hết ảo tưởng về anh Trần. Trong Vỡ dần trong mắt, Khôi Vũ miêu tả nhiều giấc mơ (5 lần) của nhân vật Tôi. Tôi mơ thấy Lam. Và Lam chỉ xuất hiện trong giấc mơ cuả Tôi. Lam là nhân vật có nhiều bộ mặt: trẻ em nghèo nhặt cá, trẻ em trong chiến tranh nghịch ngợm súng đạn, một hướng dẫn viên du lịch trong những công ty lưà, một tay cơ hội giỏi tâng bốc trong những trò quảng cáo và sau cùng hoá thân trong vị bác sĩ từ nghèo khó phấn đấu thành tài. Nhân vật Tôi không lý giải được sự hiện diện cuả Lam. Có thể coi Lam là một kiểu nhân vật “lạ” của Khôi Vũ với nhiều ẩn nghĩa tư tưởng và nghệ thuật.

Kết nối mạch sáng tác của Khôi Vũ từ Lời nguyền hai trăm năm qua Vỡ dần trong mắt đến Bến đời mơ thực (hành trình 27 năm sáng tạo), người đọc có thể nhận ra một vài đặc điểm nghệ thuật của Khôi Vũ.

Khôi Vũ có nhiều nỗ lực cách tân nghệ thuật tiểu thuyết, rõ nhất là ở cấu trúc truyện song song ngược chiều trong Lời Nguyền hai trăm năm. Cho đến nay, kiểu cấu trúc này vẫn giữ nguyên giá trị. TS Hà Thanh Vân (Khoa Ngữ văn, Đại học Thủ Dầu Một) nhận xét: “Lời nguyền hai trăm năm là tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà văn Khôi Vũ trong mấy chục năm cầm bút.”[1]

Lời nguyền hai trăm năm được trao giải Hội Nhà Văn còn vì là một tác phẩm viết thành công về dân tộc ít người với những số phận và màu sắc văn hóa gây được ấn tượng.

Ngày nay có nhiều nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử và Khôi Vũ là một nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử khá sớm. (truyện ngắn Kiếm Sắc –Nguyễn Huy Thiệp [1988], tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh [1999], tiểu thuyết Bão táp triều Trần của  Hoàng Quốc Hải [2003], tiểu thuyết Sương mù tháng giêng của Uông Triều [2015]…).

Tiểu thuyết Khôi Vũ viết về hiện thực xã hội miền Nam, nhiều cuốn lấy bối cảnh Đồng Nai. Nếu tổng hợp truyện ngắn và tiểu thuyết Khôi Vũ, người đọc sẽ thấy bức tranh xã hội miền Nam thật rộng lớn (trong truyện ngắn, Khôi Vũ viết áp sát những vấn đề thời sự). Góc nhìn của Khôi Vũ là góc nhìn của nhân dân, nên truyện của anh gần gũi với bạn đọc. Tạng của anh không phải là cây bút viết những truyện “gây hấn”, nên dù có đề cập đến những vấn đề xã hội bức xúc, ngòi bút Khôi Vũ vẫn hiền lành. Anh đã rút được nhiều kinh nghiệm, chẳng hạn chuyện bị gây khó từ cuốn Chuyện ở dãy phố năm căn. Gần đây anh viết truyện ngắn Xót xa sông lên tiếng về việc người ta đổ đất lấp sông Biên Hòa gây nên bao bức xúc trong dân. Với tư cách là nhà văn, một người con của Biên Hòa, Khôi Vũ không thể im lặng, nhưng anh viết rất “khôn ngoan”.

Khôi Vũ hướng về đối tượng độc giả thị trường, và giữ được sự mến mộ của độc giả mấy thập kỷ qua. Đó là một thành công mà không nhiều nhà văn đạt được. Có thể nói việc “ra dân”(xin thôi việc ở cơ quan Nhà nước) của anh chính là để lăn mình vào văn chương thị trường. Sức viết của Khôi Vũ thật dồi dào, gần như anh in sách liên tục trong nhiều năm ở cả ba thể loại truyện ngắn, truyện dài và truyện thiếu nhi. Anh còn viết sách đặt hàng cho Đồng Nai, viết về du lịch…

Khôi Vũ viết văn chương thị trường, song vẫn giữ ngòi bút của người làm văn chương đích thực, tức là sự sáng tạo cái đẹp, giữ gìn văn hóa và góp phần làm cuộc sống tốt đẹp hơn lên…

Cũng nhìn trong mạch tiểu thuyết từ Lời nguyền hai trăm năm đến Bến đời mơ thực, có những vấn đề tôi chưa thể lý giải được.

Đó là sự giảm dần dung lượng hiện thực trong nội dung tác phẩm. Vỡ dần trong mắt không còn chất “sử thi”đậm đặc, như Lời nguyên hai trăm năm. Dù vậy tác phẩm vẫn còn gắn với nội dung về đấu tranh chống cái tiêu cực của cuộc sống. Trái lại Bến đời mơ thực thu gọn lại chỉ là chuyện của ba nhân vật ở khu nhà trọ Lão Sao. Tuyệt nhiên không còn bóng dáng sử thi hay bóng dáng hiện thực những đấu tranh xã hội. Sự nổi trội của tác phẩm là miêu tả “cái bi kịch” cá nhân trong bối cảnh đời thường. Mạch truyện chậm, không có một cốt truyện chặt nên giảm hẳn sức hấp dẫn. Các nhân vật trôi đi trong thời gian với những việc hàng ngày: gặp gỡ, ăn uống trao đổi về những vấn đề của nhau trong sự quan tâm hàng xóm. Hình như họ xa lạ với dòng đời đang ào ạt hội nhập toàn cầu hóa ngoài kia. Truyện không đặt ra được bất cứ vấn đề xã hội cấp thiết nào, chỉ có vài chi tiết về cá nhiễm độc chết và cát tặc gây ra dòng xoáy dòng làm lở bờ sông.

Vỡ dần trong mắt kế thừa cấu trúc song song của Lời nguyền hai trăm năm và mở ra cách viết nhiều giấc mơ trong Bến đời mơ thực. Tuy nhiên cốt truyện của Vỡ dần trong mắt không hấp dẫn bằng Lời nguyên hai trăm năm, và những giấc mơ trong Bến đời mơ thực “rối” hơn, thần thoại hơn sơ với những giấc mơ không thể phân tâm trong Vỡ dần trong mắt. (Xin đọc bài BCT viết về Bến đời mơ thực). Ở một góc nhìn khác, tính “tư tưởng” của tác phẩm cũng giảm dần giữa ba tác phẩm này.

Tôi không rõ đây là sự chuyển đổi bút pháp hay là sự “xuống tay” của Khôi Vũ, dẫu biết rằng không nhà văn nào vượt được chính mình trong suốt chặng đường sáng tạo.

  1. NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA SÁNG TẠO

Đã có lúc Khôi Vũ tự đặt vấn đề với chính mình: Đi 3 nước châu Âu trong 2 tuần lễ về đã hơn tháng, trong mình đầy ắp những câu chuyện, hình ảnh… Nhưng vẫn chưa viết gì. Kể cả khi bạn bảo “Viết cái gì đi, tôi in báo cho”, mình cũng lần lữa hẹn. Nghỉ ngơi sau chuyến đi dài thì đã đủ rồi. Nhưng mình vẫn còn đang nghĩ… “Khôi Vũ nghĩ gì? “Kể chuyện thì dễ thôi. Khó là kể những gì, kể để làm gì? Có khi nghĩ mãi không ra cũng nên…”.(FB Nguyễn Thái Hải 12.06.2017)

Trước kia anh viết ào ạt, viết đầy cảm hứng, sách in liên tục. Lý do cụ thể là, anh kể: Năm 1991, tỉnh Đồng Nai triển khai thực hiện Chỉ thị 01 của ông phó thủ tướng Nguyễn Khánh. Chỉ thị này quy định các Hội phải tự lực tài chính để hoạt động. Tôi mới qua tuổi bốn mươi. Phải tìm một việc gì đó để làm. Rất có thể một lúc nào đó tôi sẽ trở lại với nghề Dược, nhưng trước mắt phải viết đề kiếm… nhuận bút mà sống cái đã.”; Vâng, viết văn cũng là một nghề, và sống được bằng nhuận bút không phải nhà văn Việt Nam nào cũng đạt được.

Trước kia, khi “thời” của anh đến, anh gặp nhiều may mắn, nhờ thế, có động lực, tài năng được phát huy. Viết xong anh gửi ngay cho nhà in, có cuốn cùng lúc được cả hai nhà xuất bản in, có năm in hai, ba cuốn. Làm gì cũng phải có thời. Người viết văn cần có tài, có thời và có dũng khí, Khôi Vũ đã “tri thiên mệnh” về sự chọn lựa con đường của mình. Và đây là “thời” của anh: Thật bất ngờ, vào dịp cuối năm 1986, tôi nhận được thông báo từ nhà xuất bản Tác Phẩm Mới rằng “Người có một thời” sẽ được in ở đó vào năm 1987. Thế là chỉ một năm 1987, tôi có đến hai cuốn sách được in ở hai nhà xuất bản, một trong Nam, một ngoài Bắc. Với tôi ngày ấy, quả không còn gì vui hơn! Chưa hết, nhà xuất bản Văn Nghệ ở TP Hồ Chí Minh còn hỏi tôi có cuốn “dài” nào khác thì đưa họ in cho. Trời ạ! Tôi đang định viết một cuốn về “đời thường”. Tổ đãi tôi rồi!

Trước kia, khi còn trẻ, Khôi Vũ lăn vào cuộc đời kể trải nghiệm, để có vốn sống, anh có cơ hội tiếp cận được với nhiều loại người, và nhiều trong số họ trở thành nguyên mẫu cho nhân vật của anh. Vốn sống dồi dào nên Khôi Vũ viết thật dễ dàng. Khôi Vũ kể về việc tìm và sử dụng vốn sống trong sáng tác của anh như sau:

Thời kỳ anh trở thành REP (Trình dược viên) của CIBA. “dường như thời gian ba năm đã vừa đủ cho tôi tích lũy được một vốn sống về người trí thức đi làm việc cho Công ty nước ngoài ở Việt Nam. Ngoài ra, tôi cũng ngẫu nhiên có được một vốn sống về hoạt động của các khách sạn cả bề ngoài lẫn thực sự bên trong. Sau này, năm 2006, tôi in cuốn truyện vừa “Phía sau một khách sạn” được viết với vốn sống “được tặng thêm”…

Tôi đã chấm dứt thời gian đi tìm vốn sống ở một công ty nước ngoài từ đó. Ít ai biết tôi lại đang âm thầm tìm vốn sống mới tại báo Lao Động Đồng Nai, nơi tôi sẽ có điều kiện tiếp xúc nhiều với giới công nhân và các công ty, xí nghiệp sản xuất trong tỉnh Đồng Nai

Vốn sống thời gian làm báo Lao Động Đồng Nai bây giờ mới được tôi huy động để viết. Tập truyện ngắn “Bên kia dãy điệp vàng” gồm toàn bộ truyện viết về công nghiệp, công nhân. Tiểu thuyết “Cái bóng” thì viết về chuyện nhân sự trong một nhà máy.(Con ếch ngắm trăng-đd).

Cả một cuốn “Dòng sữa cây nước mắt” đầy ắp vốn sống và đời người mà tôi ghi nhận được sau những lần đi viết và ở lại nhiều ngày trong vùng cao su Long Khánh

Viết “Đất sóng”, tôi dựa vào cuộc đời của gia đình một người bạn sau tháng 4/1975. Anh bạn, tôi không lấy làm nguyên mẫu mà chọn cô em gái của anh để xây dựng nhân vật chính. Một số sự việc trong truyện là có thực và tôi từng tham gia. Không gian là vùng đất gần nhà tôi nên tôi rất thông thuộc. Lần đầu tiên tôi đưa vào truyện những câu ca của người dân tộc đã được “cải biên” lại cho phù hợp nhưng vẫn giữ đúng ý tứ nội dung. (Thủ thuật này, tôi còn sử dụng trong một số sáng tác sau này, trong đó có tiểu thuyết “Lời nguyền hai trăm năm”). Về nhan đề của truyện, tôi đã được “trời cho” từ một chuyến đi thực tế. Chuyến đi ấy chỉ có hai người là tôi và Đàm Chu Văn khi cả hai đang là phóng viên báo Văn Nghệ Đồng Nai. Lần ấy chúng tôi đạp xe đạp đi tìm tổ hợp trồng sả của một người quen nằm trong khu đất đồi giáp vùng Hố Nai. Là đất đồi nên đường đi khi lên dốc, lúc xuống dốc, đạp xe bở hơi tai. Cái hình ảnh đất nhấp nhô như sóng hiện ra trong tôi cho đến khi viết truyện dự thi năm 1985, nó đã hiện ra như một hình ảnh “đắt” cho cuộc đời đầy sóng gió của nhân vật chính.
Vùng đất sóng đầy ấn tượng trong tôi ấy sau này còn là không gian chính của tiểu thuyết “Những người nuôi lửa” (Giải thưởng văn học nghệ thuật Trịnh Hoài Đức tỉnh Đồng Nai lần thứ 2 – Loại A văn xuôi).


           “Ngọn lửa âm thầm” viết về ngành giáo dục với nhân vật chính là một cô giáo dạy học ở một vùng xa. Câu chuyện được ghép với một chuyện tiêu cực về rừng và chuyện làm báo. Đúng là việc tiếp cận với thời sự hàng ngày đã ảnh hưởng đến tôi khi viết cuốn sách này. Thứ nhất, tôi đang làm báo. Thứ nhì, chuyện phá rừng đang là thời sự nóng lúc ấy. Thứ ba, ngành giáo dục là ngành mà báo Lao Động Đồng Nai nơi tôi làm việc có mối quan hệ khá thân thiết. Trong nội dung sách, tôi khai thác khá kỹ vốn sống của mình về vùng đất trồng mía và các khu đất đồi của huyện Vĩnh Cửu. Tôi cũng đưa vào những câu chuyện tạm gọi là “cổ tích” giải thích sự hình thành của vùng đất, thông qua những “câu chuyện dưới cờ” của cô giáo nhân vật chính.”
            Sống sôi nổi, viết ào ạt và thành công nối tiếp thành công, tại sao bây giờ Khôi Vũ lại đặt câu hỏi về bản thể của sự viết?

Kể chuyện thì dễ thôi. Khó là kể những gì, kể để làm gì? Có khi nghĩ mãi không ra cũng nên…”.

            Có lẽ sau bao nhiêu cuốn sách anh đã viết, thời gian qua đi, anh không biết cuốn nào sẽ sống với đời, góp phần vào bộ mặt văn hóa thời đại, góp phần vào sự phát triển văn chương Việt Nam đương đại? Cho nên anh tự hỏi “Kể để làm gì?”. Nhà văn nào không có khát vọng để lại tác phẩm cho đời? Nghĩa là nếu định vị chỗ đứng của anh trong dòng chảy văn học của thời đại, Khôi Vũ có vị trí nào, khuôn mặt văn chương của Khôi Vũ (phong cách) có những nét riêng độc đáo nào, và ngòi bút Khôi Vũ đã mở ra cách viết mới nào cho những người đi sau? Hình như cho đến nay chưa có công trình văn học sử nào nghiên cứu đầy đủ về văn chương Khôi Vũ (?) ngoài một số luận văn của nghiên cứu sinh. Trên văn đàn mấy chục năm qua, Khôi Vũ không gây được ấn tượng góp phần thúc đẩy sự phát triển của văn học như nhiều nhà văn khác. Anh là nhà văn “hiền lành”, cần cù viết, không gây ồn ào. Và nếu anh cứ kể truyện như thế, đã kể mấy chục cuốn rồi, thì  “Kể để làm gì?”

Ngòi bút Khôi Vũ hướng về thị trường, anh hiểu và nắm bắt thị trường. Chẳng hạn, sau khi in Chuyện ở dãy phố năm cănNgười có một thời [1987], Khôi Vũ nhận định thị trường: “Từ đây, tôi bắt đầu có suy nghĩ thêm về việc cần chọn lựa nhân vật để viết “dài”. Hai cuốn “dài” được in của tôi đều có nhân vật sinh sống ở miền Nam. Đây là những mẫu người mà tôi quen thuộc, có thể kể, tả, thoải mái và đầy tự tin. Mặt khác, “họ” lại “xa lạ” với một bộ phận bạn đọc phía Bắc, trong đó gồm cả các nhà văn có trách nhiệm xuất bản! Vừa khai thác được thế mạnh của mình, vừa đáp ứng được nhu cầu của người đọc, há chẳng “một công đôi việc” sao! “. Nhưng sang thế kỷ XXI, độc giả thị trường đã là một thế hệ khác, với những vấn đề khác, tâm lý đọc sách cũng khác. Viết như Bến đời mơ thực không thể đáp ứng đối tượng độc giả thế hệ truyền thông đa phương tiện, với smartphone và Internet này. Bến đời mơ thực dành cho người già, đã thoát khỏi lối sống ồng ào, sống chậm, đọc chậm, nhẹ nhàng vui vẻ và có hậu. Cái khó của Khôi Vũ, theo tôi, là anh đã có một khoảng cách đối với công chúng trẻ của văn chương thị trường hôm nay, và anh muốn vượt lên những gì đã đạt được.

Cái khó còn xuất phát từ bút pháp. Khôi Vũ đã bám quá chặt vào việc đi tìm và khai thác vốn sống để huy động vào viết văn. Bây giờ (2017) anh đã 67 tuổi,  tuổi tác không còn cho phép anh thâm nhập vào những vùng hiện thực gai góc, tôi không hiểu anh sẽ đi tìm “vốn” thế nào để tiếp tục hành trình anh đã chọn? Đọc những truyện ngắn gần đây Khôi Vũ lấy chính mình và gia đình làm nguyên mẫu như: Đời thường (Tuổi Trẻ cuối tuần 10.01.2016), Lạc giữa vùng quá khứ (Tuổi trẻ cuối tuần ngày 03.12.2017)… tôi băn khoăn. Những truyện quá đơn giản như thế chỉ có thể đăng báo mà không để lại dấu vết gì của sự thăng tiến nghệ thuật văn chương.

Và đây mới là nguyên nhân chính, Khôi Vũ tự đánh giá văn chương của anh: “Nhiều năm sau đọc lại, tôi nhìn ra chất “kể” nhiều hơn chất “tả” trong sách, phần “truyện” nổi rõ hơn phần “tư tưởng”. Mà như thế, gọi là “tiểu thuyết” có lẽ đã thậm xưng!” Vâng, tôi đồng ý với Khôi Vũ, thiếu một hệ tư tưởng triết học làm bệ đỡ thì những điều miêu tả chỉ là hiện tượng, mọi hiện tượng đời sống sẽ trôi qua rất nhanh. Bây giờ đọc lại những truyện anh viết trước kia về hiện thực của một vùng nào đó, chẳng hạn những truyện trong cuốn Già lửa, người đọc sẽ không còn thấy hấp dẫn, bởi truyện chỉ được viết để ”phản ánh hiện thực” với thái độ ngợi ca, và hiện thực ấy nay đã thành cổ tích.

3.KỂ ĐỂ LÀM GÌ?”

Câu hỏi này anh đã tự trả lời rồi.

Viết, trước tiên là thỏa mãn nỗi đam mê của mình. Việc anh bỏ làm Công ty dược, bỏ các công việc hành chính ở Hội VHNT Đồng Nai để chuyên tâm viết, đó chính là nỗi đam mê làm nên nhiều tác phẩm của Khôi Vũ. Khi hoàn thành bản thảo tiểu thuyết Nguồn mạch, Khôi Vũ cho biết: “Chưa biết có “Nhà” nào chịu in cho, cũng chưa biết hay dở thế nào, nhưng tự thấy hài lòng và hạnh phúc vì đã viết được một cuốn sách… “hết cốt”. Đây là tâm trạng Khôi Vũ những năm sau 1975: điều canh cánh trong lòng tôi vẫn là việc sáng tác! Tính từ năm 1975 đến 1981 là 6 năm tôi không có sáng tác nào in ấn trên báo. Tôi cũng không viết gì dù chỉ viết rồi để đó. Tôi đọc báo, chờ một văn bản gì đó về các tác giả trước 1975 nhưng chẳng thấy gì. Một hai cuốn sách được in dạo đó nói về làng văn Sài Gòn cũ thì toàn là lên án, bêu xấu các tác giả. Tên tôi không thấy ai nêu ra có lẽ vì tôi chỉ viết cho thiếu nhi.”

Kể để làm gì? Ít ra có lúc những truyện anh kể đã đem lại nhuận bút, góp thêm vào thu nhập đời sống của anh. Ấy là lúc: “Trở lại với cuộc sống bình thường cùng gia đình từ đầu năm 1978 và sau 5 tháng cùng cha già đi làm rẫy mì ở cách nhà hơn chục cây số, rồi nuôi heo thịt sau nhà, tôi được nhận vào làm việc tại Công ty Dược phẩm cấp II tỉnh Đồng Nai từ tháng 6.1978…”.

Kể để làm gì? Ở Đồng Nai, viết về con người và đất nước Đồng Nai, chỉ có 3 người: Nhà văn Lý Văn Sâm, nhà văn Hoàng Văn Bổn và Khôi Vũ. Anh đang nung nấu hoàn thành bộ sách về Đồng Nai để tự mừng tuổi 70 (vào năm 2020)
– Tập ký “Theo dòng chảy Đồng Nai” đã in đầu năm 2016
, cũng phải kể đến tập truyện ngắn Đàn ống tre bên kia sông. 2012). Nhà thơ Lê Huy Mậu nhận xét: hàng loạt cuốn tiểu thuyết sau đó viết về đề tài công nghiệp, về giáo dục, về văn hóa, về ẩm thực… cho thấy Khôi Vũ phong phú và thạo thuộc con người và đời sống vùng đất Trấn Biên – Biên Hòa – Đồng Nai cỡ nào.”[2] Người ta phải công nhận rằng những tác phẩm của Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn và Khôi Vũ đã góp phần vào đời sống văn hóa, sinh hoạt tinh thần của Đồng Nai. Nhà văn trẻ Đồng Nai ai sẽ là người tiếp bước? Có một khoảng cách khá xa và những khoảng trống không thể lấp đầy.

Kể để làm gì? Viết văn cũng là quyền lên tiếng nói. Quyền lên tiếng nói là một quyền thiêng liêng. Lên tiếng nói để bảo vệ và khẳng định cái thiện (Lời nguyền hai tram năm). Lên tiếng nói để cổ vũ cái đúng, cái tốt (Những người nuôi lửa) cái nhân văn. Khôi Vũ đã từng khẳng định: “Khi viết, tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng mình viết văn, dựa vào những nguyên mẫu ngoài đời mà viết, tô vẽ cho họ số phận ngày một tốt đẹp hơn”. Lên tiếng nói trước mọi hiện tượng đời sống để bảo vệ quyền sống của con người (Thí dụ, quyền sống của Gió và Mây trong Bến đời mơ thực)…

Nhà văn là người lên tiếng nói thay cho mọi người. Người nông dân dưới ruộng sâu, người công nhân trong công trường, nhà máy, những con người dưới đáy xã hội nữa, họ không thể sáng tác văn chương, nhà văn phải nói thay cho họ, bởi nếu không, đám “dân đen” ấy mãi mãi sống trong câm lặng, tăm tối. Và bởi chính họ mới làm nên cuộc sống, làm nên văn chương. Điều này thì tác phẩm của Nam Cao, của Anh Đức, của Nguyễn Ngọc Tư là những câu trả lời thuyết phục.

Kể để làm gì? Trẻ con Việt Nam lớn lên bằng ca dao, cổ tích. Những tác phẩm dân gian ấy làm nên một phần tính cách và bản sắc Việt nam. Nhà văn là người kể tiếp những chuyện dân gian ấy. Tôi nghĩ, những tập truyện ngắn, truyền dài cho thiếu nhi của Khôi Vũ là một tài sản giá trị cho cộng đồng.

Kể để làm gì? Nhà văn là người thư ký trung thành của của thời đại. Balzac đã viết văn chương với quan điểm ấy, và giá trị tác phẩm của Balzac cũng đặt trên nền tảng ấy. Khôi Vũ cũng ghi lại cái thời mình đã sống: Người có một thời” kể lại chuyện đời của một người lao động bình thường ở Sài Gòn, trôi dạt về Biên Hòa đi làm thuê rồi trở thành một nhà thầu rác Mỹ. Cuộc đời tiếp tục đưa anh ta đến với cuộc sống của giới thượng lưu, rồi tình cờ có mối quan hệ với một phu nhân quan chức. Sau tết Mậu Thân 1968, số phận phũ phàng quăng anh ta trở lại kiếp nhọc nhằn, tệ hơn, thành một người không còn tỉnh trí! Viết “Người có một thời”, tôi huy động được nhiều vốn sống vào trang sách. Đó là chuyện làm đại lý bia, nước ngọt của gia đình tôi, là nguyên mẫu một nhà thầu rác Mỹ từng là người giúp việc trong gia đình tôi, là mấy câu chuyện kể về nếp sống Mỹ của một người bạn học từng có một năm học trung học và sống trong một gia đình người Mỹ,…

Điều này Khôi Vũ ý thức rõ. Các tác phẩm văn học miền Bắc không có được phần hiện thực của miền Nam thời đất nước còn chia cắt, và như thế Khôi Vũ đã góp phần làm đầy đặn hơn những đường nét khuôn mặt thời đại của một dân tộc trong một thời khốc liệt của lịch sử. Điều ấy không quý sao?

Tôi xin mượn lời nhà văn Trần Đức Tiến chia sẻ với Khôi Vũ để tạm kết cho bài viết này: [3]

“Qua tuổi năm mươi, Khôi Vũ và tôi đã có thể nhẹ nhõm nói ra với nhau bằng cái giọng có đến 80% tinh thần đầu hàng: cứ cố làm hết sức, còn được chừng nào là do Trời.

Trên đời có lẽ chẳng có cái nghề nào như nghề viết văn, phụ thuộc vào Trời nhiều đến thế. Nhưng cũng phải. Cái còn lại của văn chương không nhìn thấy, không sờ thấy, không ngửi thấy như cái còn lại của nhiều nghề khác.

Văn chương do con người làm ra, lại vuột khỏi tầm kiểm soát của con người. Nói trời cho mới có văn hay, hồn văn thoát ra xác chữ để sống lâu với đời, là ở cái nghĩa đó.”

 

Tháng 12.2017

 

___________________________

 

[1] Ts Hà Thanh Vân: Diện mạo của văn học Đông Nam Bộ từ 1975 đến nay

http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-vi%E1%BB%87t-nam/6286-di%E1%BB%87n-m%E1%BA%A1o-c%E1%BB%A7a-v%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-%C4%91%C3%B4ng-nam-b%E1%BB%99-t%E1%BB%AB-1975-%C4%91%E1%BA%BFn-nay.html

[2]Lê Huy Mậu: Khôi Vũ-Như con thuyền chăn song

      http://vannghebrvt.com/post/khoi-vu-nhu-con-thuyen-chan-song

[3] Trần Đức Tiến: Khôi Vũ-Vỡ dần trong mắt

https://www.tienphong.vn/van-nghe/khoi-vu-vo-dan-trong-mat-121080.tpo